Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Luận văn đấu giá tài sản trong hoạt động thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.07 KB, 41 trang )

Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

1. Lý do chọn đề tài
Qua gần ba mươi năm đổi mới, Việt Nam đã và đang từng bước phát triển kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước,
định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong điều kiện đời sống kinh tế - xã hội ngày càng phát
triển, cá nhân và tổ chức có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật, có
quyền tự chủ, hợp tác và cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh. Sự phát triển của nền
kinh tế thị trường, với sự đa dạng các thành phần kinh tế, đa dạng hình thức sở hữu và
loại hình doanh nghiệp đã thúc đẩy các giao dịch dân sự, thương mại trở nên phong phú,
đa dạng trong đó có hình thức đấu giá hàng hóa. Đấu giá hàng hóa được hiểu là một
phương thức đặc biệt trong hoạt động kinh tế, thương mại, được tổ chức công khai tại
một nơi nhất định. Tại đó, khi mua bán hàng hóa, người mua tự do cạnh tranh trả giá và
cuối cùng hàng sẽ được bán cho người nào trả giá cao nhất. Bản chất của hoạt động đấu
giá đó là một quan hệ mua bán mà trong đó người bán chỉ có một mà người mua lại rất
nhiều. Mọi người mua đều mong muốn có được hàng hóa đó, do vậy họ cạnh tranh giá
với nhau và làm cho giá của hàng hóa đó tăng lên. Cuối cùng người trả giá cao nhất
người đó sẽ mua được hàng.
Tuy nhiên, đấu giá hàng hóa ở Việt Nam là một hoạt động mới mẻ và ngày càng
phát triển không ngừng cả về loại hình và phương thức thực hiện. Trong những năm gần
đây xuất hiện nhiều loại hình đấu giá mới với các loại hàng hóa đặc thù như: Đấu giá
biển số xe, đấu giá thuê bao di động, đấu giá giấy tờ có giá như cổ phiếu ... đặc biệt là
đấu giá quyền sử dụng đất. Cùng với đó cũng xuất hiện nhiều hình thức đấu giá khác biệt:
đấu giá qua mạng, qua điện thoại... Bên cạnh đó thực tiễn cho thấy mặc dù có nhiều tiến
bộ song các quy định của pháp luật về đấu giá hàng hóa còn thiếu đồng bộ dẫn đến việc
hiểu và áp dụng không thống nhất ví dụ như: việc xác định quyền và nghĩa vụ, vấn đề
giải quyết tranh chấp, quản lý rủi ro trong đấu giá là rất phức tạp. Do đó chưa đáp ứng
được đòi hỏi của thực tiễn đời sống kinh tế.
Vì vậy để hiểu rõ hoạt động đấu giá người viết đã chọn đề tài “Đấu giá hàng hóa
trong hoạt động thương mại - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp của mình.


2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là tìm hiểu những quy định của pháp luật
về đấu giá hàng hóa, trình tự, thủ tục tiến hành đấu giá hàng hóa để làm rõ thực trạng đấu
giá hàng hóa trong thời gian qua. Trên cơ sở đó phát hiện những tồn tại, hạn chế cũng
như các yếu tố khác làm ảnh hưởng đến việc đấu giá hàng hóa. Từ đó, đề tài cũng đưa ra
những kiến nghị nhằm tháo gỡ vướng mắc, làm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc điều

1


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

chỉnh pháp luật về đấu giá hàng hóa trong quan hệ thương mại ở Việt Nam để nhằm hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Người viết tập trung phân tích các trình tự, thủ tục tiến hành đấu giá hàng hóa theo
quy định của Luật thương mại 2005. Bên cạnh đó, những quy định về trình tự, thủ tục
đầu giá tài sản theo Nghị định 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ về bán đấu
giá tài sản cũng được tìm hiểu để so sánh, đối chiếu với các quy định của đấu giá hàng
hóa trong Luật thương mại 2005.
4. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài người viết chủ yếu sử dụng các phương pháp sau: Sưu tầm và
phân tích tài liệu; tổng hợp so sánh trình tự, thủ tục tiến hành đấu giá hàng hóa trong
quan hệ thương mại với đấu giá tài sản trong quan hệ dân sự.
5. Bố cục đề tài
Luận văn “Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn” có bố cục như sau:
Lời nói đầu;
- Chương 1. Những vấn đề lý luận của pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương
mại ở Việt Nam;

- Chương 2. Những quy định của pháp luật về đấu giá hàng hóa trong hoạt động
thương mại ở Việt Nam;
- Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật thương mại về đấu
giá hàng hóa ở Việt Nam;
Kết luận;
Tài liệu tham khảo.

2


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA
TRONG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm và các nguyên tắc của đấu giá hàng hóa trong thương
mại
1.1.1 Khái niệm đấu giá hàng hóa
Theo quy định tại khoản 1 Điều 185 Luật thương mại 2005 thì “Đấu giá hàng hoá
là hoạt động thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu
giá thực hiện việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất”.
Như vậy, ta có thể hiểu đấu giá hàng hoá là một phương thức bán hàng đặc biệt,
trong đó, người bán tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hoá
công khai tại một địa điểm và thời gian đã thông báo trước để những người muốn mua
đến trả giá. Quyền mua hàng hoá sẽ thuộc về người trả giá cao nhất.
Những quy định liên quan đến đấu giá hàng hóa trong Luật thương mại năm 2005
nhằm phát triển hoạt động kinh doanh dịch vụ đấu giá hàng hóa, nâng cao hiệu quả và
hiệu lực pháp lý của hoạt động thương mại này. Song trên thực tế, hoạt động bán đấu giá
hàng hoá trong thương mại chưa thực sự phát triển mà chủ yếu là người bán hàng tự mình
thực hiện việc bán hàng hóa qua thỏa thuận.

1.1.2 Đặc điểm của đấu giá hàng hóa
Đấu giá hàng hóa là một hoạt động thương mại nhưng nó cũng có những đặc điểm
riêng biệt sau:
Thứ nhất, là một hoạt động bán hàng đặc biệt. Có đối tượng là hàng hóa nhất định
có tính đặc thù về giá trị và giá trị sử dụng. Mang tính cạnh tranh, công khai và lành
mạnh. Hoạt động bán hàng này thường được thông qua trung gian bởi thương nhân kinh
doanh dịch vụ đấu giá. Vì là một hoạt động thương mại nên việc điều chỉnh của pháp luật
cũng khác so với đấu giá trong dân sự.
Thứ hai, đối tượng là hàng hóa được phép lưu thông trên thị trường. Nhưng thông
thường người ta chỉ tổ chức đấu giá hàng hóa có đặc thù về giá trị cũng như giá trị sử
dụng. Người mua có thể trả giá cao hơn hay thấp hơn giá khởi điểm tùy thuộc vào
phương thức đấu giá trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh.
Thứ ba, Chủ thể tham gia vào hoạt động đấu giá hàng hóa bao gồm: người bán hàng
hóa, người tham gia đấu giá hàng hóa, có thể có sự tham gia của thương nhân kinh doanh
dịch vụ bán đấu giá với vai trò là người tổ chức bán đấu giá hàng hóa và người điều hành
đấu giá.1 Tùy thuộc việc tổ chức bán đấu giá là người bán trực tiếp thực hiện hay thông
1

Giáo trình Luật thương mại tập II, trường Đại học Luật Hà Nội, trang 183-189.

3


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

qua bên thứ ba kinh doanh dịch vụ đấu giá mà sự tham gia của chủ thể rất đa dạng với
mức độ và mục đích khác nhau. Chủ thể trong quan hệ bán đấu giá gồm một người bán
và nhiều người mua.
Thứ tư, hình thức đấu giá là hợp đồng dịch vụ đấu giá – hợp đồng ủy quyền được
xác lập giữa người bán với người kinh doanh dịch vụ đấu giá có ghi nhận quyền nghĩa vụ

và trách nhiệm của các bên. Bên cạnh đó còn có văn bản đấu giá hàng hóa – hợp đồng
mua bán hàng hóa, đây là cơ sở phát sinh quyền, nghĩa vụ của các bên liên quan bao gồm
bên bán, bên mua và cả bên kinh doanh đấu giá.
So với các phuơng thức bán hàng khác, thì bán đấu giá hàng hoá đem lại sự hài
lòng về lợi ích cho cả bên bán và bên mua. Ngoài ra, với phương thức bán hàng như thế
này đã tạo ra cơ hội bình đẳng cho tất cả những người muốn mua hàng cùng tham gia trả
giá một cách tự do theo khả năng của mình. Đồng thời, qua đó xác định được một mức
giá cạnh tranh có lợi nhất cho cả người bán lẫn người mua hàng.
Nhờ việc tổ chức bán đấu giá mà hàng hoá đem bán sẽ đến tay những người mua có
tiềm năng và hiểu đúng giá trị của chúng nhất. Bán đấu giá còn tập trung được cung và
cầu về các loại hàng hoá vào một thời gian và thời điểm nhất định, giúp cho việc xác lập
quan hệ mua bán diễn ra nhanh chóng. Nếu hình thành được những thị trường bán đấu
giá chuyên nghiệp thì sẽ là động lực rất tốt để thúc đẩy quan hệ trao đổi thương mại phát
triển, nhất là với các quốc gia có những mặt hàng thế mạnh của mình. 2
Tóm lại, đấu giá hàng hoá là một quy trình phức tạp, có những đặc điểm chung của
một hoạt động thương mại nhưng cũng tồn tại những điểm riêng về bản chất pháp lý.
1.1.3 Các phương thức đấu giá hàng hóa
Đấu giá hàng hóa là một quy trình khá phức tạp, quy trình này có thể tiến hành theo
nhiều hình thức khác nhau và tùy thuộc vào đối tượng hàng hóa, mục đích và điều kiện tổ
chức cuộc bán đấu giá. Căn cứ vào hình thức đấu giá có các phương thức sau
- Căn cứ vào phương thức xác định giá có: Đấu giá theo phương pháp nâng giá;
Đấu giá theo phương pháp hạ giá.
- Căn cứ vào hính thức biểu đạt trong cuộc bán đấu giá có: Đấu giá dùng lời nói;
Đấu giá không dùng lời nói.3
Theo Khoản 2 Điều 185 Luật Thương mại 2015 thì việc đấu giá hàng hóa thực hiện
theo một trong hai phương thức sau đây:
- Đấu giá theo phương thức trả giá lên: là phương thức bán đấu giá, theo đó người
trả giá cao nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.

2

3

Giáo trình Luật thương mại tập II, trường Đại học Luật Hà Nội, trang 180.
Giáo trình Luật thương mại tập II, trường Đại học Luật Hà Nội, trang 181-183.

4


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Từ giá khởi điểm, người tham gia đấu giá sẽ đưa ra các mức giá nâng dần khác
nhau. Người trả giá cao nhất sẽ trở thành người trúng giá. Đấu giá theo phương thức trả
giá lên là một phương thức đấu giá mang tính phổ biến và nó đảm bảo sự cạnh tranh giữa
những người tham gia đấu giá và giá của hàng hóa. Người mua hàng sẽ chủ động đưa ra
các mức giá cạnh tranh phù hợp với nhu cầu và khả năng của họ, trong khi đó người bán
hàng hóa sẽ chọn được người mua hàng trả giá cao nhất so với giá khởi điểm đối với
hàng hóa.
Hình thức này được áp dụng phổ biến nhất trong các cuộc đấu giá vì nó có lợi cho
cả bên mua và bên bán. Bên mua được chủ động đề xướng giá đặt mua nên quan hệ mua
bán mang tính tự nguyện rất cao. Còn bên bán thường được lợi về giá cả vì luôn có sự trả
giá cao hơn giá khởi điểm mà mình đặt ra. Tuy nhiên, phương thức đấu giá này cũng bộc
lộ những hạn chế nhất định. Người tham gia đấu giá thường biết rõ mức giá mà đối thủ
đưa ra. Vì vậy, người mua hàng sẽ đưa ra các mức giá có sự chênh lệch thấp đối với hàng
hóa.
- Đấu giá theo phương thức đặt giá xuống: Là phương thức đấu giá, theo đó người
đầu tiên chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn giá khởi
điểm là người có quyền mua hàng.
Tại phiên đấu giá, người điều hành nêu giá khởi điểm cao nhất đối với hàng hóa sau
đó hạ dần xuống từng mức giá để người tham gia đấu giá sẽ đặt giá. Nếu mức giá được
nêu ra không có ai trả giá thì người điều hành tiếp tục đặt giá xuống. Hàng hóa đấu giá sẽ

được bán cho người mua chấp nhận ngay giá khởi điểm hoặc ở một mức giá nhất định
thấp hơn giá khởi điểm của hàng hóa.
Đấu giá theo phương thức đặt giá xuống bắt nguồn từ Hà Lan, người ta còn gọi đấu
giá theo phương thức Hà Lan. Ưu điểm của phương thức này chỉ đấu giá đối với loại
hàng hóa nhất định, thường là hàng hóa giống nhau, có số lượng lớn và mau hỏng. Do
tính chất của hàng hóa đấu giá mà phương thức đặt giá xuống thường do các nhà tổ chức
đấu giá lớn và chuyên nghiệp thực hiện.
Cuộc đấu giá được tổ chức công khai, hàng hóa được trưng bày tạo điều kiện cho
người tham gia xem xét, đánh giá hàng hóa. Mức độ cạnh tranh trong mua bán hàng hóa
của phương thức đặt giá xuống phụ thuộc vào mức đặt giá giảm của người mua. Tuy
nhiên, phương thức này có nhiều hạn chế vì nó khó tổ chức và chỉ được đảm bảo diễn ra
trong một thời gian ngắn. Vì vậy, số lượng người tham gia thường ít và khó xác định
được giá trị thực của hàng hóa đấu giá.
Hình thức này chỉ áp dụng đối với một số loại hàng hóa và thực sự nó không hấp
dẫn với cả người mua lẫn người bán hàng. Người mua do tâm lí luôn lo sợ để tuột mất cơ
hội mua hàng vào tay người khác nên vội vàng chấp nhận mức giá mà chưa chắc đã hợp
5


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

lý. Còn người bán thì cũng không được cảm thấy thỏa mãn về giá cả vì rất ít khi có người
mua nào chấp nhận ngay mức giá khởi điểm.
1.1.4 Các nguyên tắc của đấu giá hàng hóa
Theo quy định tại điều 188 Luật htương mại 2005 thì “Việc đấu giá hàng hoá trong
thương mại phải được thực hiện theo nguyên tắc công khai, trung thực, bảo đảm quyền,
lợi ích hợp pháp của các bên tham gia”.
Trong đấu giá hàng hóa cần tuân thủ các nguyên tắc cơ bản đó là:
1.1.4.1 Nguyên tắc công khai
Đấu giá là hình thức công khai lựa chọn người mua hàng hóa nên mọi vấn đề có

liên quan đến cuộc đấu giá và những thông tin về hàng hóa bán đấu giá phải được công
khai cho tất cả những ai muốn mua biết dưới các hình thức như niêm yết, thông báo,
trưng bày, giới thiệu về tài sản…
Những nội dung bắt buộc phải công khai là: thời gian, địa điểm tiến hành bán đấu
giá; tên loại hàng hóa bán đấu giá; số lượng, chất lượng, giá khởi điểm của hàng hóa; địa
điểm trưng bày giới thiệu hàng hóa, các hồ sơ tài liệu có liên quan đến hàng hóa; công
khai họ tên người bán hàng, tên tổ chức bán đấu giá và những người đăng kí mua hàng
hóa (nếu theo quy định của pháp luật, người mua hàng phải đăng kí trước)… Tại phiên
bán đấu giá, người điều hành bán đấu giá phải công khai các mức giá được trả và họ tên
người mua trả giá cao nhất của mỗi lần trả giá…
1.1.4.2 Nguyên tắc trung thực
Các thông báo về cuộc bán đấu giá và thông tin về hàng hóa, các giấy tờ có liên
quan đến hàng hóa bán đấu giá, những đặc điểm khuyết tật không nhìn thấy của hàng hóa
(nhất là khi hàng hóa là những tài sản có giá trị về mặt lịch sử, nghệ thuật), các giấy tờ
xác định tư cách người tham gia đấu giá phải thật rõ ràng, chính xác và đầy đủ để không
tạo ra sự nhầm lẫn hay lừa dối đối với các bên mà sự nhầm lẫn hay lừa dối đó sẽ làm cho
cuộc đấu giá bị vô hiệu. Người bán cần phải trung thực khi xác định giá khởi điểm của
hàng hóa. Không nên đưa ra mức giá khởi điểm quá cao so với giá trị thực tế của hàng
hóa sẽ làm cho người mua bị thiệt. Người mua có quyền trả lại hàng hóa cho tổ chức bán
đấu giá và yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu chất lượng hàng hóa không đúng như thông
báo. Tổ chức bán đấu giá không phải chịu trách nhiệm về giá trị, chất lượng hàng hóa bán
đấu giá trừ trường hợp không thông tin đầy đủ cho người mua. Yêu cầu về tính trung thực
còn thể hiện ở việc pháp luật quy định những người có mâu thuẫn pháp lí hay hoàn cảnh
đặc biệt mà sự tham dự của họ có ảnh hưởng đến sự trung thực của cuộc bán đấu giá thì
không được tham gia trả giá.

6


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn


1.1.4.3 Nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia
Quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên trong quan hệ đấu giá hàng hóa đều
phải được coi trọng và bảo đảm đầy đủ. Người bán hàng có quyền xác định giá khởi điểm
của hàng hóa, có quyền yêu cầu tổ chức bán đấu giá thanh toán đầy đủ tiền bán hàng hóa
ngay sau khi cuộc đấu giá kết thúc, được bồi thường thiệt hại nếu tổ chức bán đấu giá
hoặc bên mua có hành vi xâm hại đến lợi ích của mình.
Người mua hàng có quyền xem hàng hóa, yêu cầu cung cấp đầy đủ thông tin về
hàng hóa, được tự đặt giá, được xác lập quyền sở hữu đối với hàng hóa sau khi hoàn
thành văn bản đấu giá và họ đã thực hiện xong nghĩa vụ thanh toán.
Tổ chức bán đấu giá được thu của người bán hàng thù lao dịch vụ và các khoản chi
phí cần thiết khác cho việc tổ chức bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
1.2 Phân biệt đấu giá hàng hóa với đấu thầu hàng hóa, dịch vụ
Đấu giá hàng hóa hay đấu thầu hàng hóa, dịch vụ về mặt cơ bản đều là một hoạt
động thương mại và có những điểm tương đối giống nhau là cùng mục đích cạnh tranh
lành mạnh giữa các chủ thể với nhau để đạt được lợi ích nhất định nào đó như là cạnh
tranh công khai về giá cả, quyền và lợi ích của các chủ thể....Đồng thời, hai khái niệm về
đấu giá và đấu thầu hoàn toàn trái ngược nhau, một bên với vai trò là người bán, bên với
vai trò là người mua, đối tượng tham gia vào hoạt động là người đi mua hay là người đi
bán và về giá cả của hàng hóa đem ra bán, mua...
Tại khoản 1 Điều 185 của Luật thương mại 2005 “Đấu giá hàng hoá là hoạt động
thương mại, theo đó người bán hàng tự mình hoặc thuê người tổ chức đấu giá thực hiện
việc bán hàng hoá công khai để chọn người mua trả giá cao nhất”. Còn đấu thầu hàng
hóa, dịch vụ được định nghĩa theo Luật Thương mại 2005 tại khoản 1 Điều 214 “Đấu
thầu hàng hoá, dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên mua hàng hoá, dịch vụ
thông qua mời thầu (gọi là bên mời thầu) nhằm lựa chọn trong số các thương nhân tham
gia đấu thầu (gọi là bên dự thầu) thương nhân đáp ứng tốt nhất các yêu cầu do bên mời
thầu đặt ra và được lựa chọn để ký kết và thực hiện hợp đồng (gọi là bên trúng thầu)”.
Qua hai khai niệm trên ta có thể hiểu về hoạt động đấu giá hàng hóa là hoạt động
lựa chọn được người mua với giá cao nhất, còn đấu thầu hàng hóa, dịch vụ là việc lựa

chọn người bán đáp ứng được các yêu cầu kỹ thuật tốt nhất theo yêu cầu và giá cả phù
hợp nhất.
- Về bản chất
Hoạt động đấu giá hàng hóa: Là phương thức bán hàng đặc biệt, để bên bán xác
định người mua hàng. Quan hệ giữa một người bán và nhiều người mua. Người mua
được chọn là người mua trả giá cao nhất.

7


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Hoạt động đấu thầu: Là phương thức mua hàng đặc biệt, để bên mua lựa chọn
người cung cấp dịch vụ, hàng hóa phù hợp. Quan hệ giữa một người mua và nhiều người
bán. Người bán được lựa chọn là người đáp ứng tốt nhất yêu cầu mà người mua đặt ra.
- Về Đối tượng
Đấu giá: đối tượng là hàng hóa. Và hàng hóa ở đây phải là hàng hóa được phép
lưu thông. Thông thường chỉ những hàng hóa có đặc thù về giá trị và mục đích sử dụng
mới được cân nhắc bán theo phương thức đấu giá. Những hàng hóa được đấu giá thường
khó xác định giá trị thực của nó như các loại hàng hóa khác.
Đấu thầu: đối tượng là hàng hóa, dịch vụ.
- Về mục địch
Đấu giá nhằm tìm ra được người mua trả giá cao nhất. Mối quan tâm được những
người tham gia hướng đến là giá cả, giá càng cao thì càng có cơ hội được chọn.
Đấu thầu tìm ra được người bán đáp ứng tốt nhất yêu cầu của người mua. Mối
quan tâm mà những người tham gia hướng đến là giá cả, chất lượng, trình độ kỹ thuật,
sáng tạo. Giá càng thấp và đáp ứng tốt nhất về chất lượng, trình độ kỹ thuật, sáng tạo thì
được chọn.
- Về chủ thể
Chủ thể của hoạt động đầu giá gồm:4

- Người tổ chức đấu giá: phải là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu
giá hay người bán hàng của mình tự tổ chức đấu giá (người tổ chức đấu giá có thể là
thương nhân hoặc không).
- Người bán hàng là chủ sở hữu hàng hóa, người được chủ sở hữu hành hóa ủy
quyền bán hoặc người có quyền bán hàng hóa của người khác theo quy định của pháp
luật.
- Người tham gia đấu giá là tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia cuộc đấu giá.
- Người điều hành đấu giá là người tổ chức đấu giá hoặc người được tổ chức đấu
giá ủy quyền điều hành bán đấu giá.
Trừ trường hợp sau không được tham gia đấu giá:5
- Người không có năng lực hành vi dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo Bộ luật dân sự hoặc người tại thời điểm
đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình
- Những người làm việc trong tổ chức bán đấu giá hàng hoá; cha, mẹ, vợ, chồng,
con của những người đó.
4
5

Luật thương mại 2005, Điều 186,187.
Luật thương mại 2005, Điều 198.

8


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

- Người đã trực tiếp thực hiện việc giám định hàng hoá bán đấu giá; cha, mẹ, vợ,
chồng, con của người đó.
- Những người không có quyền mua hàng hoá đấu giá theo quy định pháp luật.
Qua trên ta có thể thấy sẽ có sự xuất hiện của tổ chức trung gian, chính là người tổ

chức đấu giá.
Chủ thể của hoạt động đầu thầu gồm:6
- Bên mời thầu (còn gọi là bên mua).
- Bên dự thầu (còn gọi là bên bán) phải là thương nhân.
Ở dây ta thấy không có sự xuất hiện của tổ chức trung gian, chỉ có giữa bên mời
thầu và bên dự thầu
- Về Hồ sơ cần thiết
Đối với hoạt động đấu giá thì hồ sơ cần thiết gồm có:
- Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá giữa người bán hàng với người tổ chức đấu
giá.
- Văn bản bán đấu giá giữa người bán hàng, người mua hàng và người tổ chức đấu
giá.
Hoạt động đấu thầu hồ sơ gồm:
- Hồ sơ dự thầu:7 là toàn bộ tài liệu do nhà thầu, nhà đầu tư lập và nộp cho bên
mời thầu theo yêu cầu của hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu.
- Hồ sơ mời thầu:8 là toàn bộ tài liệu sử dụng cho hình thức đấu thầu rộng rãi, đấu
thầu hạn chế, bao gồm các yêu cầu cho một dự án, gói thầu, làm căn cứ để nhà thầu, nhà
đầu tư chuẩn bị hồ sơ dự thầu và để bên mời thầu tổ chức đánh giá hồ sơ dự thầu nhằm
lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư.
- Về Phương thức
Đấu giá hàng hóa có hai phương thức:9
- Phương thức trả giá lên là phương thức bán đấu giá, theo đó người trả giá cao
nhất so với giá khởi điểm là người có quyền mua hàng.
- Phương thức đặt giá xuống là phương thức bán đấu giá, theo đó người đầu tiên
chấp nhận ngay mức giá khởi điểm hoặc mức giá được hạ thấp hơn mức giá khởi điểm là
người có quyền mua hàng.
Đấu thầu phải căn cứ vào hình thức và phương thức đấu thầu:
6

Luật thương mại 2005, Điều 214.

Luật thương mại 2005, Điều 217.
8
Luật thương mại 2005, Điều 218.
9
Luật thương mại 2005, Điều 185, khoản 2.
7

9


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

- Căn cứ vào hình thức đấu thầu, gồm có:10
+ Đấu thầu rộng rãi là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu không hạn chế
số lượng các bên dự thầu.
+ Đấu thầu hạn chế là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu chỉ mời một số
nhà thầu nhất định dự thầu.
- Căn cứ vào phương thức đấu thầu, gồm có:11
+ Đấu thầu một túi hồ sơ. Trong trường hợp này thì bên dự thầu phải nộp
nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về kỹ thuật, đề xuất về tài chính trong một túi hồ sơ theo
yêu cầu của hồ sơ mời thầu và việc mở thầu được tiến hành một lần.
+ Đấu thầu hai túi hồ sơ thì bên dự thầu nộp hồ sơ dự thầu gồm đề xuất về
kỹ thuật, đề xuất về tài chính trong từng túi hồ sơ riêng biệt được nộp trong cùng một
thời điểm và việc mở thầu được tiến hành hai lần. Hồ sơ đề xuất về kỹ thuật sẽ được mở
trước.
- Về Ý nghĩa
Ý nghĩa của đấu giá là
- Tạo ra sự bình đẳng và môi trường cạnh tranh công bằng khi tất cả người tham
gia trả giá đều có cơ hội ngang nhau.
- Giúp hàng hóa được đưa đến người mua tiềm năng và hiểu đúng giá trị, mục đích

sử dụng.
- Người bán thu được lợi ích nhất định, có khi còn lớn hơn nhiều so với giá trị
thực của hàng hóa đó.
- Giúp quan hệ mua bán diển ra nhanh chóng, với thời gian và địa điểm xác định,
thúc đẩy trao đổi thương mại phát triển.
Ý nghĩa của đấu thầu:
- Bên mua có thể lựa chọn được người cung ứng hàng hóa, dịch vụ thỏa mãn tốt
nhất yêu cầu mình đặt ta.
- Giảm chi phí đầu tư và tăng lợi ích cho mua sắm hàng hóa, tìm kiếm người cung
ứng dịch vụ.
- Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh về giá cả, năng lực, chất lượng của hàng
hóa, dịch vụ đó.
- Tạo động lực cho các thương nhân không ngừng tìm tòi sáng tạo để cải tiến quy
trình, công nghệ sản xuất, cắt giảm chi phí và tăng cường năng lực cạnh tranh trong đấu
thầu.
10
11

Luật thương mại 2005, Điều 215, khoản 1.
Luật thương mại 2005, Điều 216.

10


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

- Các bên trong quan hệ đấu thầu nâng cao uy tín và mở rộng quan hệ của mình.
1.3 So sánh đấu giá hàng hóa trong Luật thương mại 2005 với đấu giá tài sản
trong Bộ luật dân sự 2005
1.3.1 Điểm giống nhau

Thứ nhất, Về bản chất pháp lý: cả đấu giá tài sản và đấu giá hàng hóa đều là hoạt
động mua bán thông qua trung gian. Trong quan hệ đấu giá, trừ trường hợp người bán
đấu giá (người có tài sản, hàng hóa) tự mình tổ chức đấu giá, các trường hợp khác, ngoài
bên bán, bên mua còn có sự tham gia của trung gian là người làm dịch vụ bán đấu giá.
Thứ hai, Về cách thức: Đấu giá hàng hóa và bán đấu giá tài sản đều được tổ chức
bán công khai, có nhiều người tham gia trả giá để cho những người có nhu cầu có thể
tham gia đấu giá mua hàng hóa hoặc tài sản.
Thứ ba, Về mục đích: Người bán đấu giá hàng hóa và bán đấu giá tài sản đều mong
muốn hàng hóa, tài sản của mình được bán với giá cao nhất.
Thứ tư, Về hình thức đấu giá: Đấu giá hàng hóa và bán đấu giá tài đều được thể
hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi (cử chỉ).
Thứ năm, Về hình thức của hợp đồng bán đấu giá: Hình thức pháp lý của đấu giá là
văn bản bán đấu giá. Văn bản bán đấu giá thực chất là hợp đồng mua bán được xác lập
giữa các bên liên quan.
1.3.2 Điểm khác nhau
TIÊU CHÍ
Luật điều
chỉnh

ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA

ĐẤU GIÁ TÀI SẢN
Bộ luật dân sự 2005;

Luật Thương mại 2005

Nghị
định
17/2010/NĐ-CP
04/3/2010 của Chính phủ


Đối tượng bán Hàng hóa gồm “các loại
đấu giá
động sản, kể cả động sản
hình thành trong tương
lai; Những vật gắn liền
với đất đai”

ngày

Khoản 2 Điều 1 Nghị định 17/2010/NĐCP ngày 04/3/2010 quy định:
- Tài sản để thi hành án theo quy định của
pháp luật về thi hành án;
- Tài sản là tang vật, phương tiện vi phạm
hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước
theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính;
- Tài sản bảo đảm trong trường hợp pháp
luật về giao dịch bảo đảm quy định phải
xử lý bằng bán đấu giá;
- Tài sản nhà nước được xử lý bằng bán

11


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

đấu giá theo quy định của pháp luật về
quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản
là quyền sử dụng đất trong trường hợp

Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất
hoặc cho thuê đất được bán đấu giá theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền;
- Các tài sản khác phải bán đấu giá theo
quy định của pháp luật.
Người tổ chức bán đấu giá gồm:12

Người tổ chức đấu giá là:

Chủ thể tham
gia đấu giá

- Thương nhân có đăng ký - Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản;
kinh doanh dịch vụ đấu - Doanh nghiệp bán đấu giá tài sản, doanh
giá;
nghiệp hoạt động đa ngành nghề có kinh
- Hoặc là người bán hàng doanh dịch vụ bán đấu giá tài sản
của mình trong trường
hợp người bán hàng tự tổ
chức đấu giá.
Theo hai phương thức:

Không quy định rõ, tuy nhiên căn cứ vào
nội dung cũng như trình tự, thủ tục bán
đấu giá thì có thể nhận thấy rằng bán đấu
giá tài sản chỉ áp dụng một phương thức
duy nhất là trả giá lên. Và người trả giá
cao nhất, cao hơn hoặc ngang bằng với giá
khởi điểm là người được mua tài sản đấu

giá là phương thức duy nhất được quy
định về mặt pháp lý.

- Trả giá lên;
- Đặt giá xuống.
Phương thức
đấu giá

Người tổ chức đấu giá có
thể yêu cầu người tham
gia đấu giá nộp một khoản
Khoản tiền đặt
tiền đặt trước, nhưng
trước
không quá 2% giá khởi
điểm của hàng hoá được
đấu giá.13

Khoản tiền đặt trước do tổ chức bán đấu
giá tài sản và người có tài sản bán đấu
giá thỏa thuận quy định nhưng tối thiểu
là 1% và tối đa không quá 15% giá khởi
điểm của tài sản bán đấu giá. Khoản tiền
đặt trước được nộp cho tổ chức bán đấu
giá tài sản. 14

12

Nghị định 17/2010/NĐ-CP, Điều 14.
Luật thương mại 2005, Điều 199, khoản 2.

14
Nghị định 17/2010/NĐ-CP, Điều 29, Khoản 1.
13

12


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

- Theo phương thức trả
giá lên: nếu người trả giá
cao nhất rút ngay lại giá
đã trả thì cuộc đấu giá vẫn
được tiếp tục từ giá của
người trả giá liền kề trước
đó.

Tại cuộc bán đấu giá tài sản, người đã
trả giá cao nhất mà rút lại giá đã trả
trước khi đấu giá viên điều hành cuộc
bán đấu giá công bố người mua được tài
sản thì cuộc bán đấu giá vẫn tiếp tục và
bắt đầu từ giá của người trả giá liền kề
trước đó. Trong trường hợp không có
Rút lại giá đã
trả khi đấu giá - Trường hợp theo phương người trả giá tiếp thì cuộc bán đấu giá
thức đặt giá xuống, nếu coi như không thành.
người đầu tiên chấp nhận
mức giá rút ngay lại giá đã
chấp nhận thì cuộc đấu giá

vẫn được tiếp tục từ giá đã
đặt liền kề trước đó.
Từ chối mua

Trừ trường hợp có thoả
thuận khác, sau khi tuyên
bố kết thúc cuộc đấu giá,
người mua hàng bị ràng
buộc trách nhiệm; nếu sau
đó người mua hàng từ
chối mua hàng thì phải
được người bán hàng chấp
thuận, nhưng phải chịu
mọi chi phí liên quan đến
việc tổ chức bán đấu giá.

Tại cuộc bán đấu giá, khi đấu giá viên
điều hành cuộc bán đấu giá tài sản đã công
bố người mua được tài sản bán đấu giá mà
người này từ chối mua thì tài sản được bán
cho người trả giá liền kề nếu giá liền kề đó
cộng với khoản tiền đặt trước ít nhất bằng
giá đã trả của người từ chối mua.
Đối với cuộc đấu giá bằng hình thức bỏ
phiếu, trong trường hợp từ chối mua nêu
trên mà có từ hai người trở lên cùng trả giá
liền kề, nếu giá liền kề đó cộng với khoản
tiền đặt trước ít nhất bằng giá đã trả của
người từ chối mua thì tài sản được bán cho
một trong hai người trả giá liền kề đó, sau

khi đấu giá viên tổ chức bốc thăm để chọn
ra người mua được tài sản bán đấu giá.

- Trong trường hợp người
mua được hàng hoá đấu
giá đã nộp một khoản tiền
đặt trước mà từ chối mua
thì không được hoàn trả
khoản tiền đặt trước đó. Trong trường hợp giá liền kề cộng với
Khoản tiền đặt trước đó khoản tiền đặt trước nhỏ hơn giá đã trả của
thuộc về người bán hàng. người từ chối mua thì cuộc bán đấu giá coi
như không thành.
Trong trường hợp người trả giá liền kề
không đồng ý mua thì cuộc bán đấu giá
13


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

coi như không thành.15
Người mua hàng hóa bán
đấu giá được toàn quyền
sử dụng, định đoạt tài sản
Tài sản đã bán
khi thực hiện hết các
nghĩa vụ phiên đấu giá
hàng hóa.

Người có tài sản bán đấu giá chỉ được mua
lại tài sản bán đấu giá nếu người mua

được tài sản bản đấu giá đồng ý.
Việc mua lại tài sản bán đấu giá được thực
hiện theo quy định của Bộ luật Dân sự về
hợp đồng mua bán tài sản

1.4 Vai trò của pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại
Pháp luật về đấu giá hàng hóa là hệ thống những quy phạm pháp luật do cơ quan
nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực đấu giá hàng
hóa bao gồm những quy định về nguyên tắc, trình tự, thủ tục đấu giá hàng hóa, người bán
hàng hóa và sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đấu giá hàng hóa.
Pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại với tính chất là một lĩnh vực pháp
luật điều chỉnh hình thức mua bán hàng hóa có một số vai trò sau:
- Pháp luật về đấu giá hàng hóa thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng về cải
cách hành chính, cải cách tư pháp và hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến lĩnh
vực đấu giá hàng hóa.
- Pháp luật về đấu giá hàng hóa cụ thể hóa một hình thức mua bán hàng hóa trong
pháp luật dân sự, thương mại xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động cạnh tranh công
bằng, lành mạnh trong mua bán hàng hóa.
- Cũng giống như đối với đấu thầu hàng hóa, dịch vụ, các hoạt động đấu giá tài sản
thuộc lĩnh vực thương mại được điều chỉnh thống nhất bằng Luật thương mại 2005 (từ
Điều 185 đến 213). Pháp luật về đấu giá hàng hóa là phương tiện bảo vệ lợi ích tốt nhất
cho các bên tham gia đấu giá hàng hóa.
- Pháp luật về đấu giá hàng hóa điều chỉnh một lĩnh vực kinh doanh của doanh
nghiệp, hình thành khuôn khổ pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của các tổ chức đấu
giá hàng hóa.
- Pháp luật về đấu giá hàng hóa phản ánh đầy đủ các hệ tiêu chí trong việc xây dựng
hoàn chỉnh, đồng bộ có tính khả thi và ổn định cao của hệ thống quy phạm pháp luật về
đấu giá hàng hóa.
- Pháp luật về đấu giá hàng hóa tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước
thống nhất về đấu giá hàng hóa; quy định thống nhất về phương thức đấu giá các loại

hàng hóa. Đấu giá đã có mặt ở Việt Nam từ rất lâu nhưng chỉ tồn tại tản mạn, rời rạc ở
các văn bản dưới luật nên hình thức hoạt động còn khá yếu ớt. Các quy định về đấu giá
trong các lĩnh vực chuyên ngành tương đối đa dạng nhưng vẫn đậm tính chồng chéo, rời
15

Nghị định 17/2010/NĐ-CP, Điều 39.

14


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

rạc hoặc trùng lắp.Vì vậy, việc xây dựng Luật đấu giá tài sản với những quy định mang
tính đột phá, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật, phù hợp với tình
hình mới nhằm đáp ứng yêu cầu về xã hội hóa hoạt động bán đấu giá tài sản, phát triển
dịch vụ bán đấu giá tài sản chuyên nghiệp trong hệ thống các ngành dịch vụ ở nước ta,
góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát
triển kinh tế, xã hội của đất nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức cá nhân
là yêu cầu khách quan thực sự cần thiết.
1.5 Pháp luật Việt Nam về đấu giá hàng hóa qua các thời kỳ phát triển
1.5.1 Giai đoạn từ 1975 đến tháng 6/2005
Pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thời kỳ này chỉ tập trung chủ yếu vào việc xử
lý hàng hóa thi hành án và các hàng hóa xử lý theo quyết định hành chính của cơ quan
nhà nước có thẩm quyền mà không có một khuôn khổ pháp lý chung cho hoạt động đấu
giá hàng hóa. Vì không có khuôn khổ pháp lý chung cho hoạt động đấu giá hàng hóa nên
cũng không hình thành các tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp. Ngoài cơ quan thi hành
án việc tổ chức đấu giá thường do cơ quan hành chính thực hiện theo cơ chế hội đồng
liên ngành. Tổ chức đấu giá hàng hóa trong lĩnh vực dân sự, thương mại thông thường
hầu như không được pháp luật quan tâm đến. Cụ thể:
- Pháp lệnh thi hành án dân sự ngày 28 tháng 8 năm 1989 (Pháp lệnh năm

1989), quy định về bán đấu giá tài sản để thi hành án. Khoản 1, Điều 28 của Pháp lệnh
năm 1989 quy định về bán đấu giá tài sản đã kê biên.
- Để thực hiện Pháp lệnh năm 1989, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân Tối cao và Bộ Tư pháp có Thông tư liên ngành số 06-89/TTLN ngày 07/12/1989
hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh 1989.
- Năm 1994, Pháp lệnh Thi hành án dân sự được ban hành mới thay thế cho Pháp
lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 (Pháp lệnh năm 1994).
- Năm 1995, Bộ luật Dân sự đầu tiên ở nước ta được Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ
8 thông qua. Đây là một văn bản pháp luật quan trọng, điều chỉnh các quan hệ dân sự
trong đó có quan hệ về bán đấu giá tài sản.
- Ngày 19/12/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 86/1996/CP về việc ban
hành quy chế bán đấu giá tài sản.
- Ngày 07 tháng 04 năm 1997 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 399/PLDSKT
hướng dẫn một số quy định về bán đấu giá tài sản.
1.5.2 Giai đoạn từ tháng 6/2005 đến nay
Bán đấu giá đã có mặt tại Việt Nam từ khá lậu nhưng bán đấu giá hàng hóa với tính
chất là hành vi thương mại của thương nhân thì mới được ghi nhận trong pháp luật những
năm gần đây. Vì vậy, hoạt động bán đấu giá hàng hóa còn khá yếu ớt và các quy định
15


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

điều chỉnh hoạt động này cũng còn sơ lược. Nắm bắt được những khó khăn từ thực tiễn
của việc đấu giá hàng hóa nêu trên nên ngày 14/6/2005 Quốc hội đã ban hành Bộ luật dân
sự 2005 sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự 1995 và Luật thương mại 2005 sửa đổi, bổ sung
Luật thương mại 1997. Hai văn bản mới này điều chỉnh các hoạt động, hành vi dân sự,
thương mại trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO trong đó chú trọng đến phát triển
các hoạt động dân sự, thương mại với nhiều hình thức đấu giá.
Kể từ khi Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 được ban hành, pháp luật

về đấu giá ở nước ta bắt đầu hình thành một cách có hệ thống và từng bước được điều
chỉnh.
Các văn bản quy phạm pháp luật về đấu giá đã được xây dựng thống nhất, cụ thể,
tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động đấu giá được phát triển, đáp ứng được yêu cầu của sự
nghiệp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cụ thể:
- Luật quản lý và sử dụng tài sản nhà nước năm 2008;
- Luật kinh doanh bất động sản năm 2006; Luật kinh doanh bất động sản năm
2014;
- Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi bổ sung
một số điều của Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Luật xử lý vi phạm
hành chính 2012;
- Quyết định số 216/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về bán đấu giá quyền
sử dụng đất để giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho thuê đất;
- Ngày 18/01/2005, Nghị định số 05/2005/NĐ-CP của Chính phủ về bán đấu giá tài
sản được ban hành thay thế Nghị định số 86/1996/CP.
- Nghị định số 159/2007/NĐ-CP ngày 30 tháng 10 năm 2007 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản;
- Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành luật đất
đai; Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 05 năm 2007 quy định bổ sung về việc
cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại
về đất đai;
- Thông tư liên tịch số 38/2004/TTLT/BTNMT-BNV ngày 31/12/2004 hướng dẫn
về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất
và Tổ chức phát triển quỹ đất.
- Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 quy định về bán đấu giá tài sản.

16



Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 2
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA TRONG
HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
2.1 Chủ thể tham gia vào quan hệ đấu giá hàng hóa
2.1.1 Người tổ chức đấu giá
Người tổ chức đấu giá là thương nhân có đăng ký kinh doanh dịch vụ đấu giá hoặc
là người bán hàng của mình trong trường hợp người bán hàng tự tổ chức đấu giá. 16
Như vậy, thuật ngữ người tổ chức đấu giá hàng hóa được đặt ra đối với cả trường
hợp người bán hàng hóa tự mình tổ chức bán đấu giá hàng hóa và cả trong trường hợp
người tổ chức bán đấu giá là một thương nhân lấy hoạt động dịch vụ tổ chức bán đấu giá
hàng hóa làm nghề nghiệp của mình. Có thể nói, xét về bản chất, người tổ chức bán đấu
giá là người tiến hành các công việc cụ thể của một cuộc bán đấu giá hàng hóa. Trong
trường hợp người bán hàng không tự mình tổ chức bán đấu giá hàng hóa mà thuê một
16

Luật thương mại 2005, Điều 186, Khoản 1.

17


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

người tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp tiến hành bán đấu giá thì giữa hai người này
phải hình thành một hợp động dịch vụ tổ chức bán đấu giá trước khi các công việc liên
quan đến bán đấu giá hàng hóa được tiến hành.
Ngoài ra, trong trường hợp giữa người bán hàng hóa và người tổ chức bán đấu giá
hàng hóa không có thỏa thuận về chi phí liên quan đến cuộc đấu giá thì người tổ chức đấu
giá phải chịu chi phí bảo quản hàng hóa được giao, chi phí niêm yết, thông báo, tổ chức

bán đấu giá và các chi phí khác.17
Quyền và nghĩa vụ của người tổ chức đấu giá đã được xác định cụ thể trong Luật
thương mại 2005
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, người tổ chức đấu giá có các quyền sau đây:18
- Yêu cầu người bán hàng cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin cần
thiết liên quan đến hàng hoá đấu giá, tạo điều kiện cho người tổ chức đấu giá hoặc người
tham gia đấu giá kiểm tra hàng hoá đấu giá và giao hàng hoá được bán đấu giá cho người
mua hàng trong trường hợp người tổ chức đấu giá không phải là người bán hàng đấu giá;
- Xác định giá khởi điểm trong trường hợp người tổ chức đấu giá là người bán hàng
đấu giá hoặc được người bán hàng uỷ quyền;
- Tổ chức cuộc đấu giá;
- Yêu cầu người mua hàng thực hiện việc thanh toán;
- Nhận thù lao dịch vụ đấu giá do người bán hàng trả theo quy định tại Điều 211 của
Luật thương mại 2005.
Về mức thù lao dịch vụ đấu giá hàng hóa là do thoả thuận. Tuy nhiên ta có thể tham
khỏa thêm Thông tư số 03/2012/TT-BTC ngày 05 tháng 01 năm 2012 của Bộ Tài chính
về hướng dẫn mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí đấu giá, phí tham gia đấu
giá và lệ phí cấp Chứng chỉ hành nghề đấu giá tài sản tại Điều 2 khoản 1 mà cụ thể là tại
Điều 4 Quyết định số 22/2012/QĐ-UBND ngày 17 tháng 9 năm 2012 của Ủy ban nhân
dân tỉnh Tiền Giang về ban hành quy định về mức thu, quản lý, sử dụng phí đấu giá, phí
tham gia đấu giá trên địa bàn tỉnh Tiền Giang chi tiết như sau:
TT

17
18

Giá trị tài sản bán được của
một cuộc bán đấu giá

Mức thu


1

Dưới 50 triệu đồng

5% giá trị tài sản bán được

2

Từ 50 triệu đến 1 tỷ đồng

2,5 triệu + 1,5% giá trị tài sản bán được quá
50 triệu

Luật thương mại 2005, Điều 212, Khoản 2.
Luật thương mại 2005, Điều 189.

18


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

3

Từ trên 1 tỷ đến 10 tỷ đồng

16,75 triệu + 0,2% giá trị tài sản bán được
vượt 1 tỷ

4


Từ trên 10 tỷ đến 20 tỷ đồng

34,75 triệu + 0,15% giá trị tài sản bán được
vượt 10 tỷ

Từ trên 20 tỷ đồng

49,75 triệu + 0,1% giá trị tài sản bán được
vượt 20 tỷ. Tổng số phí không quá 300
triệu/cuộc đấu giá

5

Trường hợp bán đấu giá tài sản không thành thì trong thời hạn 7 ngày kể từ ngày
kết thúc phiên đấu giá, người có tài sản bán đấu giá, cơ quan thi hành án, cơ quan tài
chính thanh toán cho tổ chức bán đấu giá tài sản, Hội đồng bán đấu giá tài sản các chi phí
thực tế, hợp lý quy định tại Điều 43 Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010, (trừ
trường hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định khác), cụ thể gồm các chi
phí sau:
- Chi phí niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá;
- Chi phí tổ chức đăng ký mua tài sản bán đấu giá;
- Chi phí trưng bày, cho xem tài sản;
- Chi phí tổ chức phiên đấu giá;
- Những chi phí thực tế hợp lý khác.
Ở đây ta có thể thấy được pháp luật luôn tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên nhằm
bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp và nếu không có được sự thỏa thuận thì lúc này mới
áp dụng theo quy định của pháp luật (thực thi pháp luật).
Song song với các quyền lợi có được thì người tổ chức đấu giá còn phải thực hiện
các nghĩa vụ sau:19

- Tổ chức đấu giá hàng hoá theo đúng nguyên tắc, thủ tục do pháp luật quy định và
theo phương thức đấu giá thoả thuận với người bán hàng.
- Thông báo, niêm yết công khai, đầy đủ, chính xác các thông tin cần thiết có liên
quan đến hàng hoá đấu giá.
- Bảo quản hàng hoá đấu giá khi được người bán hàng giao giữ.
- Trưng bày hàng hoá, mẫu hàng hóa hoặc tài liệu giới thiệu về hàng hóa cho người
tham gia đấu giá xem xét.
- Lập văn bản bán đấu giá hàng hoá và gửi đến người bán hàng, người mua hàng và
các bên có liên quan.20

19
20

Luật thương mại 2005, Điều 190.
Luật thương mai 2005, Điều 203.

19


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

- Giao hàng hóa đấu giá cho người mua phù hợp với hợp đồng tổ chức dịch vụ đấu
giá hàng hoá.
- Làm thủ tục chuyển quyền sở hữu đối với hàng hoá bán đấu giá phải đăng ký
quyền sở hữu theo quy định của pháp luật, trừ trường hợp có thỏa thuận khác với người
bán hàng.
- Thanh toán cho người bán hàng tiền hàng đã bán, kể cả khoản tiền chênh lệch thu
được từ người rút lại giá đã trả hoặc trả lại hàng hoá không bán được cho người bán hàng
theo thoả thuận. Trường hợp không có thoả thuận thì phải thanh toán tiền cho người bán
hàng chậm nhất là ba ngày làm việc sau khi nhận được tiền của người mua hàng hoặc

phải trả lại ngay hàng hoá trong thời hạn hợp lý sau cuộc đấu giá.
2.1.2 Người bán hàng
Theo khoản 2 Điều 186 Luật thương mại 2005 quy định: “Người bán hàng là chủ
sở hữu hàng hoá, người được chủ sở hữu hàng hoá uỷ quyền bán hoặc người có quyền
bán hàng hoá của người khác theo quy định của pháp luật”.
Người bán hàng chính là chủ sở hữu hàng hóa, đứng ra ký hợp đồng dịch vụ tổ
chức bán đấu giá hàng hóa với người tổ chức bán đấu giá hàng hóa hoặc người bán hàng
có thể là trung gian, làm công việc cầu nối giữ người có hàng hóa và người tổ chức bán
đấu giá hàng hóa. Trong trường hợp là một bên trung gian, người bán hàng hóa có thể
đóng vai trò thay mặt người có hàng hóa thiết lập các quan hệ với người tổ chức đấu giá
hàng hóa, vì quyền lợi của người có hàng, theo sự ủy quyền của người có hàng. Mặt
khác, người bán hàng hóa cũng có thể là những người không có quan hệ trực tiếp, không
nhận được sự đồng thuận của người có hàng hóa nhưng lại có quyền bán hàng hóa.
Quyền này có thể phát sinh từ những quan hệ pháp lý, những thỏa thuận trước đó giữa
người có quyền bán hàng hóa và chủ sở hữu hàng hóa hoặc có thể phát sinh theo quy
định của pháp luật.
Quyền của người bán hàng không phải là người tổ chức đấu giá:21
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, người bán hàng có các quyền sau đây:
- Nhận tiền hàng đã bán đấu giá và khoản chênh lệch thu được trong trường hợp giá
bán hàng hoá thấp hơn giá mà người rút lại giá đã trả đối với phương thức trả giá lên
hoặc giá mà người rút lại việc chấp nhận đối với phương thức đặt giá xuống thì người đó
phải trả khoản tiền chênh lệch cho người tổ chức đấu giá, nếu hàng hoá bán được giá cao
hơn thì người rút lại không được hưởng khoản tiền chênh lệch đó hoặc nhận lại hàng hoá
trong trường hợp đấu giá không thành;
- Giám sát việc tổ chức bán đấu giá hàng hoá.

21

Luật thương mại 2005, Điều 191.


20


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Nghĩa vụ của người bán hàng không phải là người tổ chức đấu giá:22
Trừ trường hợp có thoả thuận khác, người bán hàng có các nghĩa vụ sau đây:
- Giao hàng hoá cho người tổ chức đấu giá, tạo điều kiện để người tổ chức đấu giá,
người tham gia đấu giá xem xét hàng hoá và cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các
thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá đấu giá;
- Trả thù lao dịch vụ tổ chức đấu giá.
2.1.3 Người tham gia đấu giá
Theo khoản 1 điều 187 Luật thương mại 2005 quy định “Người tham gia đấu giá
hàng hoá là tổ chức, cá nhân đăng ký tham gia cuộc đấu giá” hay còn gọi là người mua
hàng hóa.
Về đối tượng đăng ký mua hàng hóa, trên nguyên tắc nhà nước khuyến khích sự
cạnh tranh rộng rãi trong hoạt động bán đấu giá. Tuy nhiên để đảm bảo tính trung thực và
hợp pháp của các cuộc bán đấu giá, pháp luật cấm một số đối tượng không được tham gia
đấu giá được quy định tại Điều 198 Luật thương mại 2005 gồm:
- Người không có năng lực hành vi dân sự, 23 người mất năng lực hành vi dân sự, 24
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự 25 hoặc người
tại thời điểm đấu giá không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình.
- Những người làm việc trong tổ chức bán đấu giá hàng hoá; cha, mẹ, vợ, chồng,
con của những người đó.
- Người đã trực tiếp thực hiện việc giám định hàng hoá bán đấu giá; cha, mẹ, vợ,
chồng, con của người đó.
- Những người không có quyền mua hàng hoá đấu giá theo quy định của pháp luật.
* Tuy pháp luật không quy định người mua hàng có các quyền và nghĩa vụ trong
một điều luật cụ thể nhưng qua thực tế có thể thấy họ có các quyền và nghĩa vụ sau:
+ Quyền: tham gia trả giá; được quyền mua hàng hóa nếu đạt điều kiện trong cuộc

bán đấu giá; được quyền nhận lại tiền đặt trước trong trường hợp không mua được hàng
hóa; được quyền trả lại hàng hóa trong trường hợp hàng hóa không đúng với niêm yết,
thông báo; được quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đối với những sai sót thông tin về
hàng hóa của tổ chức bán đấu giá.
+ Nghĩa vụ: Đặt trước để đăng ký mua hàng theo yêu cầu của người tổ chức bán đấu
giá; tham gia trả giá; chịu mọi chi phí liên quan đến cuộc bán đấu giá nếu đã được chọn
là người mua hàng mà lại từ chối mua hàng dẫn đến cuộc bán đấu giá không thành.
22

Luật thương mại 2005, Điều 192.
Luật dân sự 2005, Điều 21.
24
Luật dân sự 2005, Điều 22.
25
Luật dân sự 2005, Điều 23.
23

21


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

2.1.4 Người điều hành đấu giá
Theo khoản 2, Điều 187 Luật thương mại 2005 quy định “Người điều hành đấu giá
là người tổ chức đấu giá hoặc người được ngươi tổ chức đấu giá ủy quyền điều hành bán
đấu giá”.
Người điều hành đấu giá chính là người xuất hiện chủ yếu và điều khiển các phiên
bán đấu giá theo một trình tự được pháp luật quy định với những điều kiện bán hàng do
người bán hàng đưa ra. Họ có quyền, nghĩa vụ theo quy định của người tổ chức bán đấu
giá hàng hóa trong trường hợp người điều hành là người của tổ chức bán đấu giá, hoặc là

theo thỏa thuận giữa người điều hành và người tổ chức bán đấu giá hàng hóa trong các
trường hợp khác.
Theo Nghị định số 17/2010/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/03/2010 về bán đấu giá
tài sản quy định rõ người điều hành đấu giá phải là đấu giá viên. Quyền và nghĩa vụ của
Đấu giá viên được quy định chi tiết như sau:26
- Làm việc thường xuyên tại một tổ chức bán đấu giá chuyên nghiệp.
- Trực tiếp điều hành cuộc bán đấu giá tài sản, chịu trách nhiệm trước pháp luật và
tổ chức bán đấu giá tài sản về việc thực hiện bán đấu giá tài sản.
- Tuân thủ nguyên tắc bán đấu giá tài sản quy định tại Điều 3 Nghị định này.
- Truất quyền tham gia đấu giá của người có hành vi vi phạm nội quy bán đấu giá
tài sản.
- Khách quan, vô tư trong việc thực hiện bán đấu giá tài sản.
- Bồi hoàn thiệt hại do lỗi của mình gây ra cho tổ chức bán đấu giá tài sản theo quy
định của pháp luật.
- Các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
2.2 Đối tượng đấu giá hàng hóa
Theo pháp luật dân sự, thì tài sản bán đấu giá là động sản, bất động sản, giấy tờ có
giá và các quyền tài sản được phép giao dịch theo quy định của pháp luật, cụ thể như sau:
Tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật về thi hành án; Tài sản là tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ nhà nước theo quy định của pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính; Tài sản bảo đảm trong trường hợp pháp luật về giao
dịch bảo đảm quy định phải xử lý bằng bán đấu giá; Tài sản nhà nước được xử lý bằng
bán đấu giá theo quy định của pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước; tài sản là
quyền sử dụng đất trong trường hợp Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất hoặc cho
thuê đất được bán đấu giá theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Các tài
sản khác phải bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
26

Nghị định 17/2010/NĐ-CP, Điều 12.


22


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Còn trong Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 quy định về bán đấu giá
tài sản tại khoản 2 điều 1 thì các loại tài sản được đưa ra bán đấu giá cũng bao gồm cả
động sản và bất động sản như trong pháp luật thương mại, nhưng đa dạng hơn về loại
hình tài sản và chỉ là những tài sản hiện hữu, tồn tại có thực ngay tại thời điểm tổ chức
đấu giá, không bao gồm các loại tài sản hình thành trong tương lai.
Theo quy định tại khoản 2 điều 3 Luật Thương mại 2005 thì hàng hóa là đối tượng
đấu giá gồm: Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; Những
vật gắn liền với đất đai. Mặc dù, hàng hóa được đưa ra đấu giá trong pháp luật thương
mại chỉ nhấn mạnh đến động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; tuy nhiên,
với cách quy định trong cụm từ: “những vật gắn liền với đất đai” đã hàm ý cả hàng hóa là
bất động sản.
Lưu ý: hàng hóa này phải là hàng hóa được phép lưu thông. Thông thường, chỉ
những hàng hóa có đặc thù về giá trị và mục đích sử dụng mới được cân nhắc bán theo
phương thức đấu giá. Những hàng hóa được đấu giá thường khó xác định giá trị thực của
nó như các loại hàng hóa khác.
2.3 Thủ tục, trình tự đấu giá hàng hóa
2.3.1 Lập hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hóa
Cách thức tiến hành đấu giá có vai trò quan trọng, quyết định đến sự thành công hay
thất bại của cuộc đấu giá. Chủ sở hữu có thể tự mình hoặc thông qua người bán hàng thực
hiện cuộc đấu giá. Ngoài ra chủ sở hữu cũng có thể lựa chọn phương thức bán hàng qua
trung gian được thực hiện bởi các nhà tổ chức đấu giá chuyên nghiệp. Cơ sở pháp lý của
phương thức đấu giá này được xác lập bởi hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá giữa các
bên. Hợp đồng dịch vụ đấu giá ghi nhận và đảm bảo tính hiệu lực trên nhiều phương diện
như chủ thể, hình thức, nội dung xác lập quyền - nghĩa vụ và trách nhiệm của các bên
trong đấu giá theo sự thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Điều 193 Luật thương mại 2005 thì:
- Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá phải được lập thành văn bản hoặc
bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương.
- Trường hợp hàng hoá được đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì hợp đồng
dịch vụ tổ chức đấu giá phải được sự đồng ý của bên nhận cầm cố, thế chấp và bên bán
phải thông báo cho các bên tham gia đấu giá về hàng hóa đang bị cầm cố, thế chấp.
- Trường hợp trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thoả thuận về việc bán đấu giá mà
người cầm cố, thế chấp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp
đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá thì hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá được giao
kết giữa người nhận cầm cố, thế chấp với người tổ chức đấu giá.

23


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

2.3.2 Xác định giá khởi điểm
Việc xác định giá khởi điểm của hàng hóa có ý nghĩa trong việc tác động đến tâm lý
và hiệu quả của cuộc đấu giá. Về nguyên tắc, giá khởi điểm cần phản ánh đúng giá trị
thực tế của hàng hóa tại thời điểm đấu giá, không cao quá hoặc không quá thấp so với giá
trị thực tế của nó. Giá khởi điểm của hàng hóa có thể do người bán hàng xác định hoặc
do người bán đấu giá (nếu được ủy quyền của người bán). Trong trường hợp đấu giá hàng
hóa thế chấp, cầm cố, bảo lãnh thì việc xác định giá khởi điểm được xác định bởi người
nhận thế chấp, người nhận cầm cố, người nhận bảo lãnh cùng người thế chấp, người cầm
cố, người bảo lãnh với sự tham gia của tổ chức đấu giá hàng hóa.
Theo quy định tại Điều 194 Luật thương mại 2005 thì:
- Người bán hàng phải xác định giá khởi điểm. Trong trường hợp người tổ chức đấu
giá được uỷ quyền xác định giá khởi điểm thì phải thông báo cho người bán hàng trước
khi niêm yết việc bán đấu giá.
- Trường hợp hàng hoá đấu giá là đối tượng cầm cố, thế chấp thì người nhận cầm

cố, thế chấp phải thoả thuận với người cầm cố, thế chấp xác định giá khởi điểm.
- Trường hợp trong hợp đồng cầm cố, thế chấp có thoả thuận về việc bán đấu giá mà
người cầm cố, thế chấp vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc từ chối giao kết hợp
đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá thì giá khởi điểm do người nhận cầm cố, thế chấp
xác định.
2.4.3 Chuẩn bị đấu giá hàng hóa
Trường hợp bán đấu giá không qua trung gian thì việc chuẩn bị bán đấu giá hàng
hóa do người bán hàng hóa thực hiện hoặc trường hợp bán đấu giá hàng hóa thông qua
trung gia thì do người tổ chức đấu giá thực hiện sau khi hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá
hàng hóa đã được ký kết và giá khởi điểm đã được các bên xác lập. Công tác chuẩn bị sẽ
được tiến hành theo trình tự sau:
Thứ nhất: Niêm yết, thông báo công khai việc bán đấu giá.
Trường hợp hàng hoá là đối tượng cầm cố, thế chấp, thì đồng thời với việc niêm yết
đấu giá hàng hoá, người tổ chức đấu giá phải thông báo cho những người có quyền lợi và
nghĩa vụ liên quan trong thời hạn chậm nhất là bảy ngày làm việc trước khi tiến hành bán
đấu giá hàng hóa đó theo quy định tại Điều 197 của Luật này.
Chậm nhất là bảy ngày làm việc trước khi tiến hành bán đấu giá hàng hoá, người tổ
chức đấu giá phải niêm yết việc bán đấu giá tại nơi tổ chức đấu giá, nơi trưng bày hàng
hoá và nơi đặt trụ sở của người tổ chức đấu giá.
Trường hợp người tổ chức đấu giá hàng hóa là người bán hàng thì thời hạn niêm
yết đấu giá hàng hóa do người bán hàng tự quyết định.
24


Đề tài: Đấu giá hàng hóa trong hoạt động thương mại- Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Nội dung của thông báo và niêm yết đấu giá hàng hóa phải có đầy đủ các nội dung
sau đây:
- Thời gian, địa điểm đấu giá;
- Tên, địa chỉ của người tổ chức đấu giá;

- Tên, địa chỉ của người bán hàng;
- Danh mục hàng hoá, số lượng, chất lượng hàng hóa;
- Giá khởi điểm;
- Thông tin cần thiết liên quan đến hàng hoá;
- Địa điểm, thời gian trưng bày hàng hoá;
- Địa điểm, thời gian tham khảo hồ sơ hàng hoá;
- Địa điểm, thời gian đăng ký mua hàng hoá.
Ví dụ: đây là thông báo bán đấu giá của Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tài sản tỉnh
Tiền Giang đăng trên trang thông tin điện tử của Sở Tư pháp tỉnh Tiền Giang http://
có nội dung như sau:

THÔNG BÁO
Về việc bán đấu giá tài sản
Căn cứ Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính Phủ về bán đấu
giá tài sản;
Căn cứ hợp đồng bán đấu giá tài sản số 137/HĐ-BĐG ngày 30 tháng 10 năm 2015
giữa Công an huyện Gò Công Tây và Trung tâm dịch vụ bán đấu giá thuộc Sở Tư pháp
tỉnh Tiền Giang.
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá thông báo bán đấu giá tài sản như sau:
- Tài sản tịch thu sung công quỹ nhà nước gồm 401 xe mô tô 02 bánh (trong đó có
119 xe bán phế liệu).
- Giá khởi điểm của tài sản: 472.515.000 đồng (Bốn trăm bảy mươi hai triệu năm
trăm mười lăm ngàn đồng).
- Khoản tiền đặt trước: 50.000.000 đồng.
- Phí tham gia đấu giá: 200.000 đồng/hồ sơ.
- Xem tài sản: ngày 09/11/2015 trong giờ làm việc.
+ Khi xem tài sản khách hàng phải có giấy giới thiệu của Trung tâm Dịch vụ bán
đấu giá.
25



×