Tải bản đầy đủ (.doc) (125 trang)

Nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của lưu quang vũ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (979.05 KB, 125 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

CAO THỊ LỆ THỦY

NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC TRUYỆN
DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM


Thái Nguyên – 2018

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

CAO THỊ LỆ THỦY

NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC TRUYỆN
DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 8220121

LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC VIỆT NAM

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LƯU KHÁNH THƠ



Thái Nguyên – 2018


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn đều có nguồn gốc rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn
đều trung thực và chưa từng được công bố ở bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn

CAO THỊ LỆ THỦY


ii

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn thạc sĩ này, tác giả xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học, Khoa Báo chí – Truyền thông và Văn
học, Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên và các Thầy, Cô giáo đã
trực tếp giảng dạy, giúp đỡ trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới giảng viên
hướng dẫn PGS. TS.Lưu Khánh Thơ đã luôn tận tình hướng dẫn, chỉ bảo trong
suốt thời gian tác giả nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân, bạn bè và đã
giúp đỡ, động viên, tạo điều kiện để tác giả hoàn thành luận văn.
Thái Nguyên, tháng 4 năm 2018
Tác giả luận văn


CAO THỊ LỆ THỦY


iii

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………..1
2. Lịch sử vấn đề…………………………… ………………………………..3
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu…………………………………………9
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu………………………………….....9
5. Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………….....10
6. Đóng góp của luận văn…………………………………………………....10
7. Kết cấu luận văn……………………………………………………........10
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA THỂ LOẠI KỊCH VÀ HIỆN TƯỢNG
LƯU QUANG VŨ ĐỐI VỚI SÂN KHẤU KỊCH VIỆT NAM..11
1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch và sự xuất hiện, phát triển của thể
loại kịch ở Việt Nam……………………………………………………………..11
1.2. Nhà viết kịch Lưu Quang Vũ – Hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt
Nam…………………………………………………………………….19
1.3. Đóng góp nổi bật từ mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ……………………………………………………………………24
Tiểu kết chương 1:…………………………………………………………..27
CHƯƠNG 2: LOẠI HÌNH NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG KỊCH KHAI THÁC
TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG VŨ………..28
2.1. Nhân vật nữ với những éo le, trắc trở trong tình yêu………………….29
2.2. Nhân vật nữ đứng trước những biến cố lớn trong cuộc đời……………33
2.3. Nhân vật nữ với những phẩm chất tâm hồn cao đẹp…………………..39
2.3.1. Tâm hồn trong sáng, lương thiện, trung thực…………………………...40

2.3.2. Sự chung thủy và đức hi sinh cao cả trong tình yêu……………………48
2.3.3. Sự đấu tranh để vươn tới những giá trị đích thực của tình yêu,
cuộc sống…………………………………………………………………………………....55


iv

Tiểu kết chương 2:………………………………………………………… .61
CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT NỮ TRONG MẢNG
KỊCH KHAI THÁC TRUYỆN DÂN GIAN CỦA LƯU QUANG
VŨ………………………………………………………………...62
3.1. Khắc họa nhân vật thông qua xung đột kịch ………………………… 63
3.2. Khắc họa nhân vật thông qua hành động kịch………………………... 69
3.3. Khắc họa nhân vật thông qua ngôn ngữ……………………………… 73
Tiểu kết chương 3:…………………………………………………………..86
PHẦN KẾT LUẬN………………………………………………………...87
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 90


v

DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GS

: Giáo sư PGS

: Phó giáo sư TS

:


Tiến sỹ
TW

: Trung ương THCS

: Trung học cơ sở THPT
Trung học phổ thông VHDG
Văn học dân gian

:
:


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Lưu Quang Vũ là một tác giả lớn của nền văn học hiện đại Việt Nam
nửa cuối thế kỉ XX. Thuộc thế hệ nhà văn trưởng thành trong kháng chiến
chống Mỹ, Lưu Quang Vũ là con người hội tụ tài năng về nhiều mặt, và hầu
như ở lĩnh vực nào trong hoạt động nghệ thuật ông cũng đạt được những
thành tựu rất đáng ghi nhận. Ông là một nhà văn, nhà thơ và trên hết là một
nhà viết kịch tài năng. Trong lịch sử của nền sân khấu kịch nói Việt Nam, nhà
viết kịch Lưu Quang Vũ được biết đến như một hiện tượng hiếm có. Sau Lưu
Quang Vũ, sân khấu kịch dường như vẫn là khoảng trống chưa thể lấp đầy.
Tác giả Christian Hoche người Pháp đã từng nhận định: “Moliere ở Việt Nam
tên là Lưu Quang Vũ”[23,tr.162]. Mặc dù cuộc đời ngắn ngủi (1948-1988) và
thời gian dành cho sân khấu không nhiều, chỉ khoảng chưa đầy 10 năm
nhưng ông đã để lại một khối lượng tác phẩm trên 50 vở kịch, hầu hết được

viết rất công phu và đã được dựng, nhiều vở đạt huy chương. Những vở kịch
của Lưu Quang Vũ khi được trình diễn đã đem đến cho đời sống tinh thần
văn hóa của nhân dân cả nước thời điểm đó một bầu không khí tươi mới,
phấn chấn, tin tưởng,
cởi mở, dân chủ. Cho đến nay, những tác phẩm của Lưu Quang Vũ vẫn tràn
đầy sức sống và nguyên giá trị trên sân khấu kịch và trong lòng người xem bởi
nó mang tính thời đại khi thể hiện những tâm tư, trăn trở về cuộc sống nhân
sinh. Năm 2000, ông đã được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về
Văn học Nghệ thuật. Đây là một sự đánh giá cao của Đảng và Nhà nước đối
với sự nghiệp văn học và nghệ thuật của ông. Chính vì vậy, việc tm hiểu về
những sáng tác của Lưu Quang Vũ nói chung và kịch Lưu Quang Vũ nói riêng
là điều vô cùng cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn.
1.2. Là một nghệ sỹ với năng khiếu bẩm sinh và khả năng cảm thụ nghệ
thuật, bên cạnh những vở kịch lấy đề tài từ lịch sử hay hiện đại thì sự xuất
hiện của những vở kịch lấy đề tài từ tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ


cũng là biểu

2


3

hiện của một tài năng lớn trong nghệ thuật. Tìm hiểu về mảng kịch này,
chúng tôi được hiểu hơn về tầm vóc, suy nghĩ của một kịch tài năng biết trân
trọng, làm mới cái cũ, đem đến cho sân khấu kịch những giá trị sâu sắc hấp
dẫn mới mẻ, đúng như nhà phê bình nghiên cứu Lưu Khánh Thơ đã nhận xét:
“Tài năng của nhà viết kịch lại một lần nữa được khẳng định trong việc biến
cổ tích, huyền thoại thành chuyện của thời hiện đại, nêu lên cái muôn đời

trong những cái bình thường” [23,tr.169].
1.3. Sức lan tỏa từ những vở kịch và vị trí xuất sắc của Lưu Quang Vũ
trong nền văn học Việt Nam đã trở thành lí do xứng đáng để các nhà nghiên
cứu và các nhà giáo dục lựa chọn đưa tác phẩm của ông vào trong
chương trình giảng dạy THCS và THPT từ nhiều năm nay. Với trích đoạn của
hai vở kịch Tôi và chúng ta và Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Lưu Quang Vũ đã
được giới thiệu là nhà văn tiêu biểu cho thể loại kịch nói hiện đại Việt Nam.
Đặc biệt trích đoạn vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt là vở kịch được khai
thác từ cốt truyện dân gian - một trong những tác phẩm làm nên tên tuổi
của Lưu Quang Vũ đã đưa vào giảng dạy chính thức ở THPT. Điều này chính là
sự khẳng định cho những giá trị nghệ thuật của kịch Lưu Quang Vũ nói chung
và mảng kịch khai thác truyện dân gian nói riêng. Tuy nhiên đến nay, nhìn
chung kịch vẫn chưa được tm hiểu nhiều và sâu trong trường học, chưa có vị
trí tương xứng với giá trị đích thực của nó.
Xuất phát từ các lí do khách quan trên, cùng với lòng yêu mến, ngưỡng
mộ tài năng Lưu Quang Vũ, chúng tôi lựa chọn đề tài nghiên cứu:“Nhân vật
nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ”.Qua nghiên
cứu đề tài, chúng tôi rất mong muốn góp phần tìm hiểu sâu hơn về thể loại
được coi là siêu đẳng trong văn học, tìm hiểu sâu sắc hơn về mảng kịch khai
thác truyện dân gian, từ đó lí giải thấu đáo đầy đủ đặc trưng và giá trị ý nghĩa
những đoạn trích các vở kịch của tác giả trong sách giáo khoa, phục vụ cho
công tác nghiên cứu cũng như giảng dạy trong nhà trường. Đồng thời qua đây
góp phần


4

đánh giá vị trí và đóng góp lớn lao của tác giả Lưu Quang Vũ đối với thể loại
kịch nói riêng và nền văn học Việt Nam hiện đại nói chung. Bởi Lưu Quang Vũ
là một tác giả lớn có tầm ảnh hưởng rộng lớn đối với diện mạo văn học và

đối với công chúng không chỉ hôm nay mà chắc chắn cả mai sau, tầm đón đợi
các vở kịch của Lưu Quang Vũ sẽ còn sức lan tỏa mạnh mẽ và mãnh liệt qua
chiều kích của thời gian.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những công trình nghiên cứu, đánh giá chung về các tác phẩm của
Lưu Quang Vũ
Lưu Quang Vũ được biết đến là một tài năng đa dạng, ông khởi đầu sự
nghiệp với thơ và cuối cùng khẳng định tên tuổi sáng chói ở thể loại kịch.
Những năm tám mươi của thế kỉ XX, cùng với những tác phẩm của mình, Lưu
Quang Vũ đã gây sự chú ý lớn trong diễn đàn văn học. Sau sự ra đời của các
tập thơ, truyện ngắn và kịch (đặc biệt là sau ngày Lưu Quang Vũ mất đi) đã có
rất nhiều ý kiến đánh giá, nhiều bài viết, bài bình, nhiều công trình nghiên
cứu về các tác phẩm của Lưu Quang Vũ.
Ở giai đoạn đầu, nhiều các bài báo, các nhà phê bình viết về các tác
phẩm thơ của Lưu Quang Vũ của các nhà nghiên cứu như: Hoài Thanh với
“Một cây bút trẻ nhiều triển vọng”; Vũ Quần Phương với “Đọc thơ Lưu
Quang Vũ”; Vương Trí Nhàn với “ Những bài thơ viển vông cay đắng u buồn
viết trong những năm tháng chiến tranh”; Phạm Xuân Nguyên với “Tâm hồn
trở gió”; Lưu Khánh Thơ với “Tình yêu- đau xót và hi vọng”; Nguyễn Thị Minh
Thái với “Thơ tình Lưu Quang Vũ”; Vũ Quang Vinh với “Đọc Mây trắng của
đời tôi nhớ Lưu Quang Vũ”; Bích Thu với “Những bài thơ sống với thời
gian”…
Nhìn chung về thơ, qua các bài viết các nhà nghiên cứu phê bình đều
thống nhất cho rằng Lưu Quang Vũ là một hồn thơ nhiều cảm xúc, mang
một


5

tình yêu trong trẻo với quê hương đất nước, một cái tôi đam mê đắm đuối

nhiều khao khát mà cũng thật chân thành, độ lượng trong tình yêu.
Hai tập truyện ngắn của Lưu Quang Vũ là “Người kép đóng hổ” và
“Mùa hè đang đến” cũng thu hút nhiều nhà phê bình nghiên cứu. Tiêu biểu
đó là các bài viết: “Văn xuôi Lưu Quang Vũ- cầu nối giữa thơ và kịch” của
Phong Lê; “Truyện ngắn Lưu Quang Vũ” của Lê Minh Khuê; “Lưu Quang Vũ
qua hai tập truyện ngắn Người kép đóng hổ và Mùa hè đang đến” của Lê Dục
Tú… Ở các bài viết này các tác giả đã chỉ ra chất thơ cũng như hơi hướng kịch
trong truyện ngắn của Lưu Quang Vũ. Các bài viết đã cho thấy truyện ngắn
của ông “thấm đẫm những hồi ức, những xao động của một đời người.
Truyện ngắn Vũ có những nhân vật nhân hậu như chính tác giả của
nó”[23,tr.137] và “…có nhiều chuyện đã làm cho người đọc cảm động thực
sự là thấy mình dường như phải sống tốt hơn, có trách nhiệm hơn với con
người và cuộc sống” [23,tr.140]
Đến thể loại kịch, với một số lượng tác phẩm lớn chỉ trong vòng gần
mười năm sáng tác, Lưu Quang Vũ đã tạo nên tiếng vang lớn cho sân khấu
kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX. Sau hàng loạt các vở diễn gây tiếng
vang như Nàng Sita, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Tôi và chúng ta, Lời thề
thứ 9, Nguồn sáng trong đời,... cũng đã tạo được sự chú ý cho công chúng
và giới nghiên cứu phê bình. Phải kể đến các bài viết như: Con đường sáng
tạo của một tài năng của Ngô Thảo; Kịch pháp Lưu Quang Vũ của G.S Phan
Ngọc; Phép ứng xử với cái chết trong kịch Lưu Quang Vũ (Phan Trọng
Thưởng); Sự khai thác mô-típ dân gian trong kịch Lưu Quang Vũ (Lưu Khánh
Thơ);Kịch Lưu Quang Vũ và những vấn đề của đời sống (Cao Minh)… Những ý
kiến đánh giá về kịch Lưu Quang Vũ đều có chung nhận xét: tác giả Lưu
Quang Vũ là một tài năng lao động nghệ thuật thực thụ, sức sáng tạo đặc
biệt của “một Moliere ở Việt Nam”, đề tài kịch của Lưu Quang Vũ rất đa dạng
đặc biệt bắt nhịp với cuộc sống mới, chất lượng kịch của Lưu Quang Vũ hấp
dẫn lôi cuốn ở cách tổ chức xung đột kịch, ở ngôn ngữ và nghệ thuật xây



dựng nhân vật.

6


7

Lưu Quang Vũ đến với sân khấu đúng vào lúc sân khấu Việt Nam đang có
những đòi hỏi khẩn thiết. Đó là nhiệm vụ phản ánh những vấn đề nóng bỏng,
cấp thiết, nổi cộm lên trong đời sống xã hội và bối cảnh đổi mới của đất
nước sau chiến tranh. Giá trị lâu dài của tác phẩm của Lưu Quang Vũ chính là
tính nhân đạo cao cả và tnh triết lý sâu sắc. Chính vì vậy, trên sân khấu cũng
như trong cuộc sống xã hội hiện nay, những nội dung mà kịch bản của tác giả
Lưu Quang Vũ đề cập đến vẫn vẹn nguyên giá trị. Khái quát về đời văn của
Lưu Quang Vũ, tác giả Lưu Khánh Thơ và Lý Hoài Thu với cuốn “Lưu Quang
Vũ về tác giả và tác phẩm” đã có một công trình mang tnh tổng lược và
hoàn chỉnh về đường nghệ thuật của Lưu Quang Vũ từ một nhà thơ, nhà
văn, nhà phê bình đến khi trở thành một tác giả hàng đầu của sân khấu Việt
Nam. Bài viết đã chỉ rõ:“Lưu Quang Vũ có hai mươi năm vui buồn cùng thơ và
mười năm cuối đời song hành cùng kịch, nhưng trong mười năm ấy tài năng
của Lưu Quang Vũ đã tỏa sáng và tạo cho mình một phong cách một kịch
pháp và trở thành một hiện tượng nổi bật nhất của sân khấu Việt Nam thời
kì đổi mới”
Những cuốn sách tổng hợp các công trình nghiên cứu về Lưu Quang Vũ
đã được xuất bản như cuốn Lưu Quang Vũ thơ và đời; Lưu Quang Vũ tài
năng và lao động nghệ thuật (Lưu Khánh Thơ); Lưu Quang Vũ về tác giả và
tác phẩm (Lưu Khánh Thơ – Lý Hoài Thu); Tác phẩm đạt giải thưởng Hồ Chí
Minh (do Lưu Khánh Thơ biên soạn các vở kịch của Lưu Quang Vũ)…
Ngoài ra còn có nhiều luận văn, luận án tến sĩ, các bài nghiên cứu của
sinh viên chuyên ngành về các tác phẩm của Lưu Quang Vũ như: Lê Hương

Giang (2010) với Giá trị tư tưởng và nghệ thuật trong kịch Lưu Quang Vũ,
Nguyễn Hồng Yến (2014) với Liên văn bản trong kịch Lưu Quang Vũ, Tô Thị
Kim Thoa (2011) với Mảng kịch dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang
Vũ, Lê Hoa (2010) với Thế giới nghệ thuật kịch của Lưu Quang Vũ, Phan Trọng
Thành (2008) với Những giá trị nội dung xã hội và nghệ thuật trong kịch Lưu
Quang Vũ….


8

Qua các công trình nghiên cứu kể trên có thể thấy các công trình nghiên
cứu về Lưu Quang Vũ khá phong phú về số lượng và hướng tiếp cận. Điều
này cho thấy sức thu hút cũng như sức sống mạnh mẽ của những tác phẩm
Lưu Quag Vũ nói chung và kịch nói riêng, đồng thời cũng gợi mở cho chúng
tôi hướng tiếp cận nghiên cứu mới mẻ của mình về mảng kịch khai thác
truyện dân gian của Lưu Quang Vũ.
2.2. Những công trình nghiên cứu về mảng kịch khai thác truyện dân gian
của Lưu Quang Vũ
Các nhà nghiên cứu tập trung vào hai đề tài chính trong kịch của Lưu
Quang Vũ là đề tài khai thác mô tp truyện cổ dân gian và đề tài hiện đại viết
về cuộc sống mới để đưa ra những nhận xét đánh giá về tài năng nghệ thuật,
cội nguồn sáng tạo nghệ thuật của Lưu Quang Vũ. Dù là ở đề tài nào, các tác
giả nghiên cứu đều có những đánh giá xác đáng, làm rõ thành công và đặc
trưng của mỗi vở. Trong giới hạn của đề tài này, chúng tôi chỉ đi tìm hiểu
những bài nghiên cứu về các vở kịch thuộc đề tài khai thác truyện dân gian
để thấy được sự cách tân của Lưu Quang Vũ khi tiếp thu văn học truyền
thống. Có thể thấy các nhà nghiên cứu đã dành nhiều sự quan tâm cho mảng
kịch có số lượng ít mà đầy thú vị này. Có những bài viết mang ý nghĩa đánh
giá khái quát về mảng kịch này và cả những bài biết về từng tác phẩm cụ thể.
Trong số đó các bài viết về tác phẩm kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt nhận

được nhiều sự quan tâm hơn cả.
Với Lưu Quang Vũ - một tài năng, một đời người (tác giả Vũ Hà - Ngô
Thảo), trong phần viết Con đường sáng tạo của một tài năng của Ngô Thảo,
tác giả đã chia kịch của Lưu Quang Vũ làm ba loại, bên cạnh mảng kịch dựa
cốt truyện văn học và do sáng tác thì mảng kịch dựa tích truyện dân gian tuy
số lượng ít nhưng lại chiếm vị trí nhất định trong thành công và sự nghiệp của
tác giả. "Riêng tôi cứ tn là rồi cái vở kịch mượn tích xưa nay (có nhiều thay
đổi - tất nhiên) rồi sẽ còn trên sân khấu một thời gian dài hơn” [26,tr.65] - đó
là suy


9

ngẫm của Ngô Thảo về vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Dù sao điều có
ý nghĩa nhất là tác giả đã phân loại kịch của Lưu Quang Vũ, tạo nên tnh khoa
học, hệ thống trong quá trình nghiên cứu.
Tác giả Phan Trọng Thưởng khi tìm hiểu về mảng kịch này đã chỉ ra
Phép ứng xử với cái chết trong kịch Lưu Quang Vũ, đặc biệt là đến vở Hồn
Trương Ba, da hàng thịt, tác giả chỉ ra vấn đề sống - chết còn được Lưu
Quang Vũ nâng lên bình diện triết học - dựa trên nền cốt truyện mang đạo lý
dân gian.
Tác giả Cao Minh trong Kịch Lưu Quang Vũ và những vấn đề của đời
sống đã nêu "Từ một truyện cổ dân gian mang tính triết lý cao, Lưu Quang Vũ
sáng tác vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch đi thẳng vào người xem
với vấn đề muôn thuở của con người, cũng là vấn đề cấp bách của cuộc sống
hiện tại” [23,tr174-175]
Tác giả Phạm Thị Thành: "Anh cũng hay dùng các câu chuyện huyền
thoại, cổ tích để viết lên những tâm sự của con người hôm nay” [26,tr.251252]. Phạm Vĩnh Cư gọi Hồn Trương Ba, da hàng thịt là bi hùng kịch, Lưu
Quang Vũ đã "đổ rượu mới vào bình cũ kể lại chuyện hài cổ như một bi kịch
triết lý thời nay với hai chiều kích đan thoa: chiều kích nhân sinh - xã hội và

chiều kích bản thể siêu hình”.
Các bài viết hầu hết tập trung làm rõ một số đặc điểm và giá trị của vở
kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt và một số vở kịch khác trong mảng kịch
khai thác truyện dân gian tuy nhiên còn mang tính chất rời rạc lẻ tẻ. Duy nhất
cho đến nay, PGS.TS Lưu Khánh Thơ trong bài viết Sự khai thác mô típ dân
gian trong kịch Lưu Quang Vũ đã có sự quan tâm đúng mức đến mảng kịch
dựa trên tch truyện dân gian của Lưu Quang Vũ với những luận điểm rõ
ràng, cụ thể: “Việc khai thác các mô tp dân gian, dựa vào đó để viết kịch bản
mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình đã tạo cho kịch Lưu
Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo cho kịch của anh sự phong phú về
đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện, lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật. Trong


số kịch bản của Lưu

10


11

Quang Vũ, khối lượng những vở khai thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian
không nhiều lắm, nhưng hầu hết những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ
thuật tương đối cao. Tiêu biểu nhất là vở “Hồn Trương Ba da hàng thịt”
[8,166]. “Lời nói dối cuối cùng cũng là một vở kịch khai thác vốn cổ dân gian
mà vẫn giầu ý nghĩa hiện đại của Lưu Quang Vũ” [8,tr.168]. Vở kịch Ông vua
hoá hổ cũng được phân tích theo hệ thống của những tác phẩm thuộc mảng
kịch dựa trên tích truyện dân gian. Cuối cùng, PGS.TS Lưu Khánh Thơ kết
luận: "Tài năng của nhà viết kịch một lần nữa được khẳng định trong việc
biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện của thời hiện đại, nêu lên cái muôn
đời trong những cái bình thường”[8,tr.169]. Trong Tác phẩm được giải

thưởng Hồ Chí Minh, tác giả Lưu Khánh Thơ cũng đã có những nhận xét về
đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền văn học kịch Việt Nam và những lưu
ý tới mảng kịch dựa trên tch truyện dân gian, cụ thể là vở Hồn Trương Ba,
da hàng thịt.
Cho đến gần đây đã có thêm một số luận văn, các bài nghiên cứu của
sinh viên chuyên ngành về mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ, tuy nhiên mới dừng lại ở mức độ khái quát, đi vào tm hiểu những
vấn đề chung nhất của mảng kịch. Đó là của tác giả Mai Thị Tâm với Mảng
kịch dựa trên tích truyện dân gian của Lưu Quang Vũ (2007); tác giả Tô Thị
Kim Thoa với Mảng kịch dựa trên tch truyện dân gian của Lưu Quang Vũ
(2011).
Nhìn chung đối với mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang
Vũ thì còn rất nhiều vấn đề hầu như còn chưa được đi sâu tìm hiểu, còn rất
nhiều khía cạnh mang ý nghĩa giá trị sâu sắc chưa được khai phá nghiên cứu.
Đặc biệt qua khảo sát chúng tôi nhận thấy chưa có bài viết và công trình
nghiên cứu nào đi sâu tm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch này. Vì vậy
với đề tài “Nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu
Quang Vũ” chúng tôi hi vọng sẽ khơi mở được những vấn đề còn mới mẻ hay
đang dang dở, qua đó góp phần đánh giá chiều sâu giá trị của kịch Lưu Quang


12

Vũ. Song phải khẳng định rằng, những đánh giá, nhận định ban đầu của các
tác giả, các


13

nhà nghiên cứu đã tạo tiền đề, gợi ý quý báu cho người viết luận văn này;

qua đó góp phần tạo nên cái nhìn sâu sắc, toàn diện hơn về kịch Lưu Quang
Vũ cũng như hiểu được sự cách tân sáng tạo của tác giả khi tiếp thu văn học
dân gian.
3. Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là nhân vật nữ trong mảng
kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang Vũ qua 4 kịch bản: Lời nói dối
cuối cùng, Ông vua hóa hổ, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Linh hồn của đá.
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục têu làm rõ hình tượng nhân vật nữ được tác
giả xây dựng trong mảng kịch khai thác truyện dân gian. Sự tm hiểu về hình
tượng nhân vật nữ có thể đem lại cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc về quan
niệm nhân sinh của Lưu Quang Vũ về con người, về cuộc sống.
4. Nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Làm rõ những vấn đề của thể loại kịch và sự đóng góp của Lưu Quang
Vũ đối với sân khấu kịch Việt Nam. Làm rõ đặc điểm nhận vật nữ và nghệ
thuật xây dựng nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của Lưu Quang
Vũ.
4.2. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây: Phương pháp
thống kê, phân loại, Phương pháp so sánh đối chiếu, Phương pháp hệ
thống,
Phương pháp phân tch tổng hợp, Phương pháp nghiên cứu liên
ngành.
5. Phạm vi nghiên cứu


14


Tìm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân gian của
Lưu Quang Vũ, chúng tôi nghiên cứu 4 kịch bản: Lời nói dối cuối cùng, Ông
vua hóa hổ, Hồn Trương Ba da hàng thịt, Linh hồn của đá.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn đi sâu vào tìm hiểu về nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác
truyện dân gian của Lưu Quang Vũ, qua đó góp phần tạo nên cái nhìn sâu
sắc, toàn diện hơn về kịch Lưu Quang Vũ cũng như hiểu được sự cách tân
sáng tạo của tác giả khi tiếp thu VHDG. Đó là cơ sở lí luận để cảm hiểu sâu
sắc, giảng dạy hiệu quả các tác phẩm kịch được đưa vào giảng dạy trong nhà
trường như vở Hồn Trương Ba da hàng thịt.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn của chúng tôi được triển khai thành 3 phần: Phần mở đầu,
phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề của thể loại kịch và hiện tượng Lưu Quang Vũ
đối với sân khấu kịch thời kì đổi mới
Chương 2: Loại hình nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác truyện dân
gian của Lưu Quang Vũ
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ trong mảng kịch khai thác
truyện dân gian của Lưu Quang Vũ

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1


15

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỦA THỂ LOẠI KỊCH VÀ HIỆN TƯỢNG LƯU QUANG VŨ
ĐỐI VỚI SÂN KHẤU KỊCH VIỆT NAM
1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch và sự xuất hiện, phát triển của kịch

ở Việt Nam
1.1.1. Một số giới thuyết về thể loại kịch
1.1.1.1 Khái niệm về thể loại
Theo Từ điển thuật ngữ văn học ở cấp độ loại hình thì kịch là một trong
ba phương thức tồn tại cơ bản của văn học (kịch, tự sự, trữ tnh). Kịch vừa
thuộc sân khấu vừa thuộc văn học. Nó vừa để diễn là chủ yếu lại vừa để đọc
vì kịch bản chính là phương diện văn học của kịch.
Kịch được xây dựng trên cơ sở những mâu thuẫn lịch sử, xã hội hoặc
những xung đột mang tính nhân loại. Những xung đột ấy được thể hiện cụ
thể qua hành động kịch và ngôn ngữ kịch trong một cốt truyện chặt chẽ giàu
kịch tính trong những tình huống độc đáo.
Căn cứ vào nội dung kịch, có thể chia thành các thể loại: hài kịch, bi
kịch, bi hài kịch, chính kịch... Cũng có thể căn cứ vào nội dung của các đề tài
mà chia kịch thành: kịch cổ điển, kịch dân gian, kịch thần thoại, kịch hiện
đại... Cũng có cách phân chia khác dựa theo chính thời gian biểu diễn chia
thành: kịch ngắn, kịch dài.
Không nên đồng nhất kịch và kịch bản văn học. Nói đến kịch là nói đến
một loại hình của nghệ thuật sân khấu mang tính chất tổng hợp bao gồm
nhiều hoạt động của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh...
Kịch bản văn học chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố
đầu tiên và quan trọng nhất của kịch. Kịch bản văn học là tác phẩm văn học,
có đầy đủ đặc điểm của nghệ thuật ngôn từ. Còn sân khấu thuộc nghệ thuật
biểu diễn.


16

Kịch bản văn học viết ra là để biểu diễn nên cũng đậm chất sân khấu. Vì
thế khi xem xét kịch bản văn học một mặt phải xem nó như một tác phẩm
nghệ thuật, mặt khác không thể tách rời nó khỏi nghệ thuật sân khấu mới

thấy hết được những đặc trưng của nó.
Nhìn dưới cấp độ như một thể loại, kịch ra đời vào khoảng nửa sau thế
kỉ XVIII với các sáng tác của các nhà văn khai sáng ở Pháp và Đức như là
G.E.Letsing, Boomacse, Didoro….
1.1.1.2. Một số đặc trưng của thể loại kịch
- Xung đột kịch:
Kịch bắt đầu từ xung đột. Pha đê ép cho rằng: "Xung đột là cơ sở của
kịch". Hiểu theo nghĩa hẹp, xung đột trong tác phẩm kịch là sự phát triển
cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập thông qua một sự
kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn, mỗi hồi
kịch. Có thể có rất nhiều loại xung đột khác nhau. Có xung đột biểu hiện của
sự đè nén, giằng co, chống đối giữa các lực lượng, có xung đột được biểu
hiện qua sự đấu tranh nội tâm của một nhân vật, có xung đột là sự đấu trí
căng thẳng và lí lẽ để thuyết phục đối phương giữa hai lực lượng...Do tính
chất sân khấu quy định cho nên trong khi phản ánh hiện thực, tác giả kịch
bản buộc phải bước vào những mâu thuẫn trong cuộc sống đã phát triển đến
chỗ xung đột, đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách này hay cách khác. Vì
vậy, có thể nói xung đột là đặc điểm cơ bản của kịch. Hégel cho rằng "tình
thế giàu xung đột là đối tượng ưu tên của nghệ thuật kịch".
Xung đột kịch cần phải phản ánh những mâu thuẫn cơ bản của xã hội
và thời đại, nói cách khác là luôn mang tính lịch sử cụ thể. Ở những thời đại
khác nhau có những xung đột khác nhau. Ở thời cổ đại, đó là sự xung đột
giữa thế giới quan thần linh, tư tưởng định mệnh với khát vọng làm chủ thiên
nhiên, làm


17

chủ bản thân của con người. Trong xã hội nô lệ, đó là xung đột giữa những
người nô lệ muốn đấu tranh giành lại tự do với bọn chủ nô. Trong xã hội

phong kiến, đó là xung đột giữa một bên là uy quyền của vua chúa, quan lại
với người dân bị áp bức và đòi được giải phóng. Trong thời kì hiện đại, các
xung đột thường xoay quanh những vấn đề cách mạng và phản cách mạng,
cái thiện, cái ác, cái mới, cái cũ, cái tốt, cái xấu...
Xung đột kịch do tính chất sân khấu quy định đồng thời xung đột làm
cho kịch có tính sân khấu. Sức hấp dẫn của một vở kịch là ở chỗ nhà văn phải
phát hiện, nêu ra và giải quyết các xung đột lớn nhỏ trong vở kịch. Các yếu tố
khác của kịch phải góp phần tô đậm xung đột và dẫn đến một kết cục sâu
sắc, gần gũi với những vấn đề của cuộc sống.
Xét một vài đặc điểm về xung đột kịch như vậy, có thể nói xung đột là
yếu tố quan trọng không thể thiếu trong kịch. “Giá trị tư tưởng nghệ thuật
của vở kịch phụ thuộc vào việc lựa chọn đúng đắn xung đột kịch và xung đột
kịch chỉ có thể trở thành cơ sở tốt đẹp của vở kịch khi nó nảy sinh ra như
một sự phản ánh độc đáo những mâu thuẫn điển hình của cuộc sống”
[16,tr.20]
- Hành động kịch:
Hành động kịch cũng là một đặc trưng nổi bật của kịch bởi kịch là một
thể loại mang lại sự nhận thức thực tại thông qua yếu tố hành động. Xung
đột kịch được triển khai thông qua các hành động. Hành động là cơ sở cơ
bản của một tác phẩm kịch. Tuy nhiên không thể hiểu đơn giản hành động
kịch chỉ là lời nói cử chỉ, dáng điệu (ngôn ngữ cơ thể) của diễn viên.
Hành động kịch chính là sự thể hiện trực tếp nội dung của xung động
kịch. Hành động kịch chính là cốt truyện được tổ chức một cách thống nhất
và chặt chẽ trong một khuôn khổ hoàn chỉnh của một tác phẩm nghệ thuật.
Kịch có cốt truyện chặt chẽ vừa đủ không có chỗ cho những vụn vặt, trữ tình
ngoại


×