Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Dạy học văn bản “ Vợ chồng A Phủ’’ của Tô Hoài bằng các hoạt động trải nghiệm sáng tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 76 trang )

PHẦN I- MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Một trong những vấn đề cốt lõi của đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo là phải chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến
thức sang phát triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học, học đi đôi
với hành, lý luận gắn với thực tiễn, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo
và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học. Từ đó rèn luyện cho học sinh
năng lực vận dụng kiến thức nhằm giải quyết các vấn đề trong học tập và
trong thực tiễn
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm chú trọng phát triển kỷ năng,
năng lực của học sinh là phương hướng phù hợp với nhịp độ phát triển của
thời đại đổi mới của đất nước. Nắm được phương pháp trên và đưa nó ứng
dụng vào giảng dạy, học tập môn ngữ văn ở trường THPT đối với các nhà
quản lý giáo dục và đặc biệt đối với các giáo viên đứng lớp là điều hết sức
quan trọng để có thể góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong thời kì hiện
đại.
Trong trường phổ thơng, Ngữ văn là một mơn học có đặc thù riêng, vừa
mang tính khoa học, vừa mang tính nghệ thuật. Dạy văn bản văn học là bằng
tài năng sư phạm của mình, giáo viên đưa học sinh hịa mình trong tác phẩm,
rung động với nó, lắng nghe tiếng nói của tác giả, thưởng thức cái hay, cái đẹp
của tác phẩm. Bằng trí tưởng tượng, kinh nghiệm và cả tâm hồn mình, học
sinh khám phá ý nghĩa từng câu, từng chữ, cảm nhận sức sống của từng hình
ảnh, hình tượng nhân vật, theo dõi diễn biến cốt truyện… làm cho văn bản
khô khan biến thành một thế giới sống động đầy sức cuốn hút. Trước đây để
làm được điều này, giáo viên chủ yếu thuyết giảng, học sinh chăm chú lắng
nghe, ghi chép. Giờ đây, người giáo viên phải là người biết thiết kế, tổ chức
các hoạt động để học sinh có thể tự chiếm lĩnh được kiến thức. Qua đó hình
thành cho học sinh những năng lực cần thiết: Năng lực thu thập thông tin liên
quan đến văn bản; Năng lực giải quyết các tình huống đặt ra trong các văn
1



bản; Năng lực đọc - hiểu văn bản theo đặc trưng thể loại; Năng lực trình bày
suy nghĩ, cảm nhận của cá nhân về ý nghĩa văn bản; Năng lực hợp tác thảo
luận về một vấn đề trong tác phẩm; năng lực giao tiếp bằng tiếng Việt… Làm
được như thế thì giờ học tác phẩm văn học, hay cịn gọi là giờ đọc - hiểu văn
bản mới đến được cái đích cần đến.
Nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Ngữ văn, gần đây trên
các diễn đàn nghiên cứu, các hội nghị, hội thảo, người ta đã bàn nhiều đến
vấn đề đổi mới phương pháp dạy học. Qua nghiên cứu thực tiễn ở trường
THPT hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát triển năng lực
người học thông qua hoạt động trải nghiệm sáng tạo là một trong những nội
dung rất cơ bản và quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả dạy học. Việc đưa
hoạt động trải nghiệm sáng tạo vào dạy học góp phần khắc phục những tồn tại
của phương pháp dạy học hiện nay, nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết của đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục.
Xuất phát từ chủ trương đổi mới tồn diện giáo dục, trong đó đổi mới
phương pháp giáo dục là một trong những khâu quan trọng để nâng cao chất
lượng giáo dục hiện nay. Đồng thời trên cơ sở gắn bó với nghề và bắt nguồn
từ những băn khoăn trăn trở trong q trình dạy học mơn ngữ văn ở trường
THPT là làm thế nào để có được một giờ học tốt, làm sao để học sinh có thể
phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo, vận dụng kiến thức, kỹ năng
của người học vào trong học tập và ứng dụng vào thực tế cuộc sống, đồng
thời phát huy được năng lực vốn có của học sinh. Điều đó đã thơi thúc tơi suy
nghĩ để đưa ra phương pháp phù hợp trong quá trình giảng dạy một số tác
phẩm truyện ngắn trong chương trình ngữ văn 12 và có thể đáp ứng được
phần nào định hướng giáo dục là chú trọng phát huy năng lực của học sinh.
Tôi thiết nghĩ văn bản “Vợ chồng A Phủ’’ của Tơ Hồi trong chương
trình Ngữ văn lớp 12 được xem là bài hay, dung lượng kiến thức nhiều. Việc
tổ chức học tập thông qua việc sử dụng kiến thức liên môn, tăng cường hoạt
động trải nghiệm là một trong những giải pháp sẽ đem lại hiệu quả cao. Hoạt


2


động trải nghiệm chắc chắn sẽ làm cho bài học trở nên sinh động, hấp dẫn
hơn tạo niềm say mê tìm tịi, tư duy sáng tạo, từ đó phát triển năng lực học tập
và kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn của mình.
Với những ý nghĩa và lý do trên tôi quyết định chọn đề tài: Dạy học
văn bản “ Vợ chồng A Phủ’’ của Tơ Hồi bằng các hoạt động trải nghiệm
sáng tạo nhằm phát huy các kỷ năng, năng lực cho học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu
- Đối với học sinh: Biết vận dụng kiến thức liên mơn, tăng cường trải
nghiệm, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong giờ học.
Đồng thời vận dụng được kiến thức đã học vào giải quyết các vấn đề nảy sinh
trong học tập cũng như trong thực tiễn cuộc sống.
- Đối với giáo viên: Thiết kế bài giảng sáng tạo, nâng cao hiệu quả bài
học là niềm say mê tiếp thêm sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ trồng người.
3. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về lý luận dạy học trải nghiệm sáng tạo, tích hợp liên môn
và phát triển năng lực học sinh . Lấy tác phẩm làm đối tượng nghiên cứu
trong phạm vi bài “ Vợ chồng A Phủ ’’ của Tơ Hồi.
4. Phạm vi nghiên cứu
- Để thực hiện tốt vấn đề nghiên cứu tôi đã chọn học sinh khối 12 nơi
tôi công tác làm đối tượng nghiên cứu, chọn 2 lớp 12A2 ( lớp thực nghiệm)
và 12A10 (lớp đối chứng). Hai lớp được chọn làm đối tượng tham gia nghiên
cứu có những nét tương đồng về đặc điểm và trình độ.
- Lấy kết quả bài kiểm tra 15 phút để làm đối chứng (kết quả bài kiểm
tra ở phần phụ lục)
5. Giả thuyết khoa học
Dạy học văn bản “ Vợ chồng A Phủ ’’ của Tơ Hồi theo định hướng

tăng cường hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phát huy năng lực học sinh sẽ
giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình, đồng thời
trang bị được một số kỹ năng: tự tin trong ứng xử, giao tiếp, tự giải quyết

3


được những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn cuộc sống, nâng cao hiệu quả dạy
học Ngữ văn ở trường phổ thông. Phát huy được tác dụng của việc dạy học
gắn với thực tiễn.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về lý luận dạy học trải nghiệm sáng tạo, tích hợp liên môn
và phát triển năng lực học sinh .
Nghiên cứu thực trạng của việc dạy học Ngữ văn với bài “ Vợ chồng A
Phủ’’của Tơ Hồi. Xây dựng các tiến trình dạy học theo định hướng tăng
cường hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phát huy năng lực cho học sinh.
7. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các nhóm phương pháp nghiên cứu sau:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: Phân tích, tổng hợp, khái
qt hóa các tài liệu lý luận và các văn bản pháp quy về tích hợp liên mơn
trong dạy học.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, thực nghiệm, ứng
dụng công nghệ thông tin, soạn giáo án thể nghiệm, minh họa thông qua hệ
thống tranh, ảnh và phiếu học tập.
8. Đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
- Về mặt khoa học: Góp phần làm rõ cơ sở lý luận của dạy học trải
nghiệm sáng tạo trong dạy học ở trường phổ thông nói chung, dạy học Ngữ
văn nói riêng.
- Về mặt thực tiễn: Đề xuất quy trình, nội dung và hình thức tổ chức
dạy học có tính khả thi nhằm tăng cường hoạt động trải nghiệm sáng

tạo, phát huy năng lực học sinh qua dạy học văn bản “ Vợ chồng A Phủ ’’ của
Tơ Hồi.

PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận.
1.1.Cơ sở pháp lí

4


Việc đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi những điều kiện thích hợp về
phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý.
Ngồi ra, phương pháp dạy học cịn mang tính chủ quan. Mỗi giảng viên với
kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những phương hướng riêng để cải
tiến phương pháp dạy học và kinh nghiệm của cá nhân.
Sự nghiệp cơng nghiệp hố và hiện đại hố đất nước ngày nay địi hỏi
nguồn nhân lực khơng những chỉ đủ về số lượng mà cịn phải có chất lượng.
Nguồn nhân lực đóng vai trị hết sức to lớn đối với sự phát triển của mỗi đơn
vị, doanh nghiệp nói riêng và của đất nước nói chung. Kiến thức và sự hiểu
biết về nguyên tắc đảm bảo chất lượng ngày càng mở rộng hơn, logíc tất yếu
địi hỏi chất lượng đào tạo ngày càng phải tốt hơn. Một trong những định
hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính
hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình
thành năng lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học.
Định hướng quan trọng trong đổi mới PPDH là phát huy tính tích cực, tự lực
và sáng tạo, phát triển năng lực hành động, năng lực cộng tác làm việc của
người học. Đó cũng là những xu hướng quốc tế trong cải cách PPDH ở nhà
trường.
Đổi mới PPDH môn ngữ văn ở trường THPT là kết quả của một quá
trình nghiên cứu, thực hiện kiên trì và được nghiệm thu. Khâu đột phá về chất

lượng đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn là bồi dưỡng năng lực thực
hành nghề nghiệp của đội ngũ giáo viên. Trước hết đội ngũ giáo viên phải
nhận thức việc đổi mới phương pháp dạy học bộ môn thường xuyên là lẽ
sống, là trách nhiệm, lương tâm, danh dự của người thầy. Thầy giỏi mới đào
tạo được trò giỏi. Thầy giỏi ở trường THPT là người có khả năng tự nghiên
cứu để nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ theo xu thế quốc tế, đáp ứng
những đòi hỏi của đất nước trong thời kì cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, biết
thường xuyên vận dụng kết quả tự nghiên cứu của mình vào q trình dạy học
bộ mơn.
5


Đổi mới phương pháp dạy học đang thực hiện bước chuyển từ chương
trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa
là từ chỗ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến chỗ quan tâm HS vận
dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, phải thực hiện
chuyển từ phương pháp dạy học theo lối “truyền thụ một chiều” sang dạy
cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
phẩm chất. Tăng cường việc học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên –
học sinh theo hướng cộng tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực
xã hội. Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn
học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập tích hợp liên mơn nhằm phát
triển năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Đối với giáo viên Trung học, đó là cách hiểu mới về môn học, về bản
chất của khoa học và nghệ thuật của văn chương. Không hiểu văn không thể
dạy văn. Yêu cầu nắm vững kiến thức cơ bản về ngữ văn vẫn là một trong
những nhân tố quan trọng về tiềm năng của người giáo viên trong quá trình
thực hiện đổi mới phương pháp dạy học.
Đổi mới phương pháp dạy học khơng có nghĩa là loại bỏ các phương
pháp dạy học truyền thống như thuyết trình, đàm thoại, luyện tập mà cần bắt

đầu bằng việc cải tiến để nâng cao hiệu quả và hạn chế nhược điểm của
chúng. Để nâng cao hiệu quả của các phương pháp dạy học này người giáo
viên trước hết cần nắm vững những yêu cầu và sử dụng thành thạo các kỹ
thuật của chúng trong việc chuẩn bị cũng như tiến hành bài lên lớp, kỹ thuật
đặt các câu hỏi và xử lý các câu trả lời trong đàm thoại, hay kỹ thuật làm mẫu
trong luyện tập. Tuy nhiên, các phương pháp dạy học truyền thống có những
hạn chế tất yếu, vì thế bên cạnh các phương pháp dạy học truyền thống cần
kết hợp sử dụng các phương pháp dạy học mới, có thể tăng cường tính tích
cực nhận thức của học sinh.
Việc đổi mới giáo dục Trung học dựa trên những đường lối, quan điểm
chỉ đạo giáo dục của nhà nước, đó là những định hướng quan trọng về chính

6


sách và quan điểm trong việc phát triển và đổi mới giáo dục Trung học. Việc
đổi mới phương pháp dạy học cần phù hợp với những định hướng đổi mới
chung của chương trình giáo dục trung học.
Những quan điểm và đường lối chỉ đạo của nhà nước về đổi mới giáo
dục nói chung và giáo dục trung học nói riêng được thể hiện trong nhiều văn
bản:
– Luật giáo dục số 38/2005/QH11, Điều 28 quy định: Phương pháp
giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo của
học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng
phương pháp tự học, khả năng làm việc theo nhóm; rèn luyện kỹ năng vận
dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng
thú học tập cho học sinh.
– Nghị quyết hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản toàn
diện giáo dục và đào tạo: “ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo và vận

dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt, một
chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự
học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát
triển năng lực…”
– Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011-2020 ban hành kèm
theo quyết định 711/QĐ-TTg ngày 13/6/2012 của Thủ tướng chính phủ chỉ rõ:
“ Tiếp tục đổi mới phương pháp dạy học và đánh giá kết quả học tập, rèn
luyện theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo và năng
lục tự học của người học.”
-Bộ GD&ĐT vừa có văn bản hướng dẫn thực hiện chương trình GDPT
hiện hành theo định hướng phát triển năng lực và phẩm chất học sinh từ năm
học 2017-2018: Chú trọng rèn cho học sinh phương pháp tự học, tự nghiên
cứu SGK để tiếp nhận và vận dụng kiến thức mới thông qua giải quyết nhiệm
vụ học tập đặt ra trong bài học; dành nhiều thời gian trên lớp cho học sinh

7


luyện tập, thực hành, trình bày, thảo luận, bảo vệ kết quả học tập của mình;
giáo viên tổng hợp, nhận xét, đánh giá, kết luận để học sinh tiếp nhận và vận
dụng.
Trong phần mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ
trọng tâm trong 5 năm 2016-2020, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã đưa ra
một trong những nhiệm vụ trọng tâm đó là: “Đổi mới căn bản và toàn diện
giáo dục, đào tạo (GD-ĐT); phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao”.
Giáo viên tổ chức, hướng dẫn hoạt động học tập cần tạo ra môi trường
học tập thân thiện và những tình huống có vấn đề nhằm khuyến khích người
học tích cực tham gia các hoạt động học tập. Chính người thầy giáo phải khơi
gợi, khuyến khích học sinh tự khẳng định năng lực và nguyện vọng của bản

thân, đồng thời rèn cho các em thói quen và khả năng tự học, phát huy tiềm
năng và vận dụng hiệu quả những kiến thức, kỹ năng đã tích lũy. Từ đây tạo
tiền đề để phát triển con người toàn diện trong bối cảnh phát triển của cách
mạng công nghiệp 4.0, hướng tới một nền giáo dục Việt Nam hiện đại và hội
nhập quốc tế.
Những quan điểm, định hướng nêu trên là cơ sở lí luận và mơi trường
pháp lí thuận lợi cho việc đổi mới giáo dục phổ thơng nói chung, đổi mới
phương pháp dạy học theo định hướng phát triển kỷ năng, năng lực người học
nói riêng.
1.2. Mục tiêu của dạy học môn Ngữ văn ở trường THPT
- Cung cấp, bồi dưỡng kiến thức về văn học cho học sinh
Mục tiêu dạy học mơn Ngữ văn là sự cụ thể hóa mục tiêu giáo dục nói
chung, chú trọng dạy chữ, dạy người và hướng nghiệp. Đi vào cụ thể, môn
học Ngữ văn nhấn mạnh 3 mục tiêu chính sau:
+ Trang bị những kiến thức phổ thơng, cơ bản, hiện đại, có tính hệ
thống về ngơn ngữ và văn học- trọng tâm là Tiếng Việt và Văn học Việt Nam ,

8


phù hợp với trình độ phát triển của lứa tuổi và yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực
trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
+ Hình thành và phát triển ở học sinh các năng lực sử dụng Tiếng Việt,
tiếp nhận văn bản, cảm thụ thẩm mỹ, phương pháp học tập tư duy, đặc biệt là
phương pháp tự học, năng lực ứng dụng những điều đã học vào cuộc sống.
+ Bồi dưỡng cho học sinh tình yêu tiếng Việt, văn học, văn hóa, tình
u gia đình, thiên nhiên, đất nước, lịng tự hào dân tộc, ý chí tự lập, tự
cường, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, tinh thần dân chủ nhân văn, giáo dục cho
học sinh trách nhiệm công dân, tinh thần hữu nghị hợp tác quốc tế, ý thức tôn
trọng và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc và nhân loại"

- Hình thành phương pháp tự kiến tạo tri thức văn học cho học sinh.
Để học sinh tự kiến tạo tri thức văn học, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh chiếm lĩnh các tác phẩm văn chương. Phải làm sao cho học sinh tự vận
động, tự phát triển từ nhận thức về đặc điểm của tác phẩm văn chương và đặc
trưng của quy luật tiếp nhận văn chương, từ đặc điểm của quá trình cảm nhận
tác phẩm của văn học của học sinh để phân chia một cách bao quát những cấp
độ, những hình thức hoạt động, chiếm lĩnh tác phẩm của học sinh.
1.3. Ý nghĩa cấp thiết của hoạt động trải nghiệm sáng tạo nhằm phát
triển kỷ năng, năng lực của học sinh THPT.
1.3.1. Khái niệm trải nghiệm sáng tạo
Theo từ điển tiếng Việt: “Trải nghiệm là trải qua, kinh qua. Trải nghiệm
là trải qua thực tế để rút ra được những kinh nghiệm. Trải nghiệm thiên về các
hoạt động thực tế”
Theo từ điển giáo dục học: “Trải nghiệm là hành động thực hành, thực
nghiệm các vấn đề đặt ra trong bài học và những vấn đề liên quan đến bài
học”
Dự thảo Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa giáo dục phổ
thông sau năm 2015 đã nêu: “Hoạt động trải nghiệm sáng tạo(HĐ TNST) bản
chất là những hoạt động giáo dục (HĐGD) nhằm hình thành và phát triển cho

9


học sinh những phẩm chất tư tưởng, ý chí, tình cảm, giá trị, kỹ năng(KN)
sống và những năng lực cần có của con người trong xã hội hiện đại. Nội dung
của HĐ TNST được thiết kế theo hướng tích hợp nhiều lĩnh vực, mơn học
thành các chủ điểm mang tính chất mở. Hình thức và phương pháp tổ chức đa
dạng, phong phú, mềm dẻo, linh hoạt, mở về không gian, thời gian, quy mô,
đối tượng và số lượng…để học sinh có nhiều cơ hội tự trải nghiệm”.
Trong dạy học trải nghiệm sáng tạo là những hoạt động giáo dục được

tổ chức gắn liền với kinh nghiệm, cuộc sống để học sinh trải nghiệm và sáng
tạo, phát huy các kỷ năng, năng lực của mình.
1.3.2. Khái niệm năng lực học sinh
Bộ Giáo dục Quebec Canada, trong cuốn Công nghệ Giáo dục kỹ thuật
và dạy nghề (nguyên bản tiếng Pháp đã được dịch sang tiếng Việt), định nghĩa
năng lực là “khả năng thực hiện một nhiệm vụ trọn vẹn, đạt chuẩn kỹ năng
tương ứng với ngưỡng quy định.
Theo trường phái của Anh: “Năng lực giới hạn bởi ba yếu tố: Kiến thức,
kĩ năng, thái độ. Đây cịn gọi là mơ hình ASK”.
Theo trường phái của Mỹ: “Năng lực là bất kỳ yếu tố tâm lý của cá
nhân có thể giúp hồn thành nhanh chóng cơng việc hay hoạt động nào đó
một cách hiệu quả”.
Các nhà tâm lí học Việt Nam cho rằng: “Năng lực là tổng hợp các đặc
điểm, thuộc tính tâm lí của cá nhân phù hợp với yêu cầu đặc trưng của một
hoạt động nhất định nhằm đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao”. Người ta
cũng chia năng lực thành năng lực chung, cốt lõi và năng lực chun mơn,
trong đó, năng lực chung là cốt lõi, là năng lực cơ bản cần thiết làm nền tảng
để phát triển năng lực chuyên môn.
1.3.3. Khái niệm kỷ năng sống
Hiện nay chưa có một khái niệm nào thống nhất trên toàn thế giới về kĩ
năng sống, kĩ năng sốngđược tiếp cận theo nhiều quan điểm khác nhau.

10


Quan niệm rộng nhất là quan niệm do Tổ chức Văn hóa, Khoa học và
Giáo dục của Liên hiệp quốc (UNESCO) đưa ra, dựa trên cơ sở là bốn mục
tiêu cơ bản của việc học: Học để biết – Học để làm – Học để là chính mình –
Học để cùng chung sống. Dựa vào đó, UNESCO định nghĩa “Kĩ năng sống là
năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các chức năng và tham gia vào cuộc

sống hàng ngày”.
Quan niệm hẹp hơn là quan niệm do Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa
ra, dựa trên lý thuyết học tập xã hội của Bandura (1977), tức là nhấn mạnh sự
học tập qua quá trình trải nghiệm của con người, qua sự tích lũy kinh nghiệm
sống, cấu trúc kinh nghiệm và chủ động nắm lấy kinh nghiệm. Theo đó, WHO
định nghĩa “Kĩ năng sống” là những năng lực giao tiếp đáp ứng và những
hành vi tích cực của cá nhân có thể giải quyết có hiệu quả những yêu cầu và
thách thức của c̣c sống hàng ngày”.
Có thể nói, kỹ năng sống là tập hợp các hành vi tích cực và khả năng
thích nghi cho phép mỗi cá nhân đối phó hiệu quả với các nhu cầu và thách
thức của cuộc sống hàng ngày; nói cách khác là khả năng tâm lý xã hội. Đó là
tập hợp các kỹ năng mà con người tiếp thu qua giáo dục hoặc trải nghiệm trực
tiếp được dùng để xử lý các vấn đề và câu hỏi thường gặp trong đời sống con
người. Các chủ đề rất đa dạng tùy thuộc vào chuẩn mực xã hội và mong đợi
của cộng đồng. Kỹ năng sống có chức năng đem lại hạnh phúc và hỗ trợ các
cá nhân trở thành người tích cực và có ích cho cộng đồng.
Ở Việt Nam, với Đề án đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào
tạo, mục tiêu giáo dục đang chuyển hướng từ trang bị kiến thức nặng lý thuyết
sang trang bị những năng lực cần thiết và phẩm chất cho người học. Điều đó
cũng khẳng định thêm tầm quan trọng và yêu cầu thiết yếu đưa giáo dục kĩ
năng sống vào trường học cùng với các môn học và các hoạt động giáo dục.
Giáo dục kỹ năng sống là rất quan trọng và cần thiết cho học sinh.
Giáo dục kỹ năng sống giúp cho học sinh phát triển nhân cách, thể chất, tình

11


cảm, giao tiếp, ngơn ngữ, tư duy một cách tồn diện, là nền tảng để các em tự
tin bước vào đời.
1.3.4. Nội dung của hoạt động trải nghiệm sáng tạo và mợt số hình

thức trải nghiệm sáng tạo.
Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực không chỉ chú
ý tích cực hóa học sinh về mặt trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải
quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng
thời gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành, thực tiễn. Tăng cường việc
học tập trong nhóm, đổi mới quan hệ giáo viên – học sinh theo hướng cộng
tác có ý nghĩa quan trọng nhằm phát triển năng lực xã hội. Các hoạt động cá
nhân, nhóm được tổ chức linh hoạt sao cho vừa giúp học sinh huy động kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân, vừa xây dựng được ý thức hợp tác,
tinh thần học tập lẫn nhau.
Bên cạnh việc học tập những tri thức và kỹ năng riêng lẻ của các môn
học chuyên môn cần bổ sung các chủ đề học tập phức hợp nhằm phát triển
năng lực giải quyết các vấn đề phức hợp.
Thực tế cho thấy, áp dụng phương pháp học này, học sinh tỏ ra rất hào
hứng với nội dung bài học, vốn kiến thức tổng hợp của học sinh được bổ sung
nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả.
Môn Ngữ văn trong chương trình THPT có thể trải nghiệm sáng tạo
bằng nhiều hình thức:
- Có thể quan sát hình ảnh để trao đổi một vấn đề nào đó có liên quan
đến bài học, thiết kế dưới dạng kết nối hoặc những câu hỏi nhẹ nhàng.
- Một số hoạt động có thể yêu cầu học sinh đọc diễn cảm, kể chuyện,
ngâm thơ, hát hoặc vẽ tranh về chủ đề liên quan đến bài học. Các hoạt động
này trong một số trường hợp thiết kế thành cuộc thi nhằm tạo không khí sơi
nổi, hứng thú cho học sinh.
- Tổ chức hoạt động trải nghiệm bằng trò chơi, hoạt động tham quan
thực tế, sắm vai, hoạt động nhóm, ứng dụng giải quyết vấn đề thực tiễn.

12



1.3.5. Tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phát huy
năng lực học sinh THPT
Sự phát triển nhanh chóng về thơng tin cũng như khoa học kĩ thuật đã
thay đổi hình thái giáo dục. Giáo dục đang chuyển dần từ giáo dục theo nội
dung kiến thức sang giáo dục theo năng lực, theo đó người học khi tốt nghiệp
ra trường có đủ năng lực để nắm vững kiến thức và kĩ năng nhằm đáp ứng yêu
cầu của xã hội cũng như thị trường lao động. Hệ thống giáo dục của Việt Nam
để theo kịp với các hệ thống giáo dục tiên tiến trên thế giới cũng đã bắt đầu
chuyển đổi sang hình thái giáo dục năng lực.
Trước yêu cầu về đổi mới giáo dục, những năm gần đây, Bộ GD&ĐT đã
yêu cầu các trường phổ thông chú trọng đổi mới phương pháp dạy học, tăng
cường các hoạt động trải nghiệm sáng tạo để phát triển phẩm chất, năng lực
cho học sinh. Vì vậy, nhà trường các cấp đã chú trọng công tác tổ chức các
hoạt động trải nghiệm cho HS.
Việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa trải nghiệm, nâng cao kiến thức kỹ
năng sống, đặc biệt là hoạt động hướng nghiệp cho học sinh là điều cần được
khuyến khích trong trường học. Bởi lẽ hoạt động này giúp các em phát triển
toàn diện, năng động, sáng tạo, thích nghi tốt với mơi trường sống.
Tại thành phố Hà Nội, hoạt động trải nghiệm sáng tạo cho học sinh
những năm gần đây được các nhà trường coi trọng. Giờ học Lịch sử, Giáo dục
công dân của học sinh Trường THPT Nguyễn Tất Thành được giáo viên lồng
ghép vào các hoạt động ngoại khóa. Học sinh được đến tham quan làng Cốm
Vịng, từ đó các em sưu tầm, làm video clip trải nghiệm. Tương tự, đến tham
quan làng gốm Bát Tràng học sinh vừa được quan sát thực tế các hoạt động
của làng gốm từ khâu chọn đất, nhào đất, nặn, phơi, nung, và bày bán sản
phẩm…vv.

13



Các chuyên gia giáo dục cũng khẳng định, hoạt động trải nghiệm sáng
tạo là hoạt động giáo dục, trong đó, dưới sự hướng dẫn và tổ chức của nhà
giáo, từng cá nhân học sinh được tham gia trực tiếp vào các hoạt động thực
tiễn khác nhau của đời sống gia đình, nhà trường cũng như ngồi xã hội với tư
cách là chủ thể của hoạt động, qua đó phát triển năng lực thực tiễn, phẩm chất
nhân cách và phát huy tiềm năng sáng tạo của mình.
Việc đưa hoạt động trải nghiệm, sáng tạo vào trong nhà trường như một
phương pháp dạy học góp phần khắc phục những tồn tại của chương trình
giáo dục hiện nay, đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản toàn diện giáo dục.
Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của Bộ Giáo dục - Đào tạo cũng đã
u cầu đa dạng hóa các hình thức học tập chú trọng các hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, nghiên cứu khoa học của học sinh.
Tăng cường hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phát huy năng lực là giải
pháp có tính khả thi cao, có thể vận dụng trong bất kỳ điều kiện nào của nhà
trường, phương pháp này khơng chỉ hữu ích với học sinh mà cịn nhẹ nhàng,
hiệu quả đối với giáo viên trong một tiết dạy. Đồng thời làm cho bài học thêm
sinh động tránh nhàm chán.HS cũng thay đổi nhận thức về di tích lịch sử.
Nhiều thầy cô giáo sau khi đưa học sinh của mình đi tham quan, đã khẳng
định: nhất định sẽ dẫn con đến di tích đó. Điều này cho thấy hoạt động trải
nghiệm sáng tạo của học sinh có tác động tích cực. Bản thân HS thơng qua
cách làm clip đã biết lồng âm thanh, hình ảnh, phối cảnh, phối hình, tạo thoại.
Cách làm sáng tạo của học sinh nhiều khi khiến thầy cơ ngạc nhiên vì khi giao
việc cho các em họ cũng không nghĩ các em làm được như vậy. Thế nhưng
thực tế học sinh đã làm được điều vượt hơn cả mong đợi của giáo viên.
Khi cho học sinh trải nghiệm sáng tạo, có những cái nhà trường khơng
có đủ điều kiện, thời gian để truyền đạt hết kiến thức khi học ở trên lớp,
nhưng thực tế trải nghiệm đã bổ sung cho các em. Các em trưởng thành cả về
trình độ và nhận thức, vốn sống. Bản thân các em rút ra được kinh nghiệm
14



sống cho mình. Như đến bảo tàng hay nơi trang nghiêm, học sinh biết ăn mặc
đàng hồng, nói năng lễ phép. Đây chính là điều thực tế đơi khi nhà trường
không thể dạy hết được.
1.4. Những định hướng dạy đọc - hiểu văn bản theo hướng tăng cường
hoạt động trải nghiệm sáng tạo và phát triển kỷ năng, năng lực học sinh.
1.4.1. Những định hướng về đổi mới phương pháp dạy đọc - hiểu theo
hướng phát triển kỷ năng, năng lực
Môn Ngữ văn giúp học sinh phát triển các năng lực và phẩm chất tổng
quát và đặc thù, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ
thông nói chung. Năng lực tư duy, năng lực tưởng tượng và sáng tạo, năng lực
hợp tác, năng lực tự học là những năng lực tổng quát, liên quan đến nhiều
môn học. Năng lực sử dụng ngôn ngữ và năng lực thẩm mỹ mà chủ yếu là
cảm thụ văn học là những năng lực đặc thù, trong đó năng lực sử dụng ngơn
ngữ để giao tiếp và tư duy đóng vai trò hết sức quan trọng trong học tập của
học sinh và công việc của các em trong tương lai, giúp các em nâng cao chất
lượng cuộc sống. Đồng thời với quá trình giúp học sinh phát triển các năng
lực tổng qt và đặc thù, mơn Ngữ văn có sứ mạng giáo dục tình cảm và nhân
cách cho người học. Tất cả các năng lực và phẩm chất trên đây đều được phát
triển thông qua các hoạt động dạy học, xoay quanh bốn lĩnh vực giao tiếp cơ
bản: đọc, viết, nói và nghe. Các kiến thức lí thuyết về tiếng Việt, lịch sử văn
học, lí luận văn học và tập làm văn chủ yếu được dùng như là phương tiện
tiến hành các hoạt động dạy học đó.
Dạy học đọc - hiểu là một trong những nội dung cơ bản của đổi mới
phương pháp dạy học Ngữ văn trong việc tiếp nhận văn bản. Khi hình thành
năng lực đọc - hiểu của học sinh cũng chính là hình thành năng lực cảm thụ
thẫm mỹ, khơi gợi liên tưởng, tưởng tượng và tư duy. Năng lực đọc - hiểu của
học sinh còn được hiểu là sự tích hợp những kiến thức, kỹ năng của các phân
mơn, các mơn học liên quan và tồn bộ kỹ năng và kinh nghiệm sống của học
15



sinh. Nội dung thông tin trong các văn bản đọc - hiểu hết sức phong phú, có
liên quan đến nhiều lĩnh vực trong cuộc sống và nhiều môn học khác, do vậy
tích hợp liên mơn là một điều quan trọng và cần thiết, đồng thời cần giúp học
sinh có phương pháp đọc, khả năng tự tìm kiếm nguồn thơng tin đa dạng của
cuộc sống.
Để đọc - hiểu văn bản, cần định hướng cho học sinh phải thực hiện các
nhiệm vụ sau:
- Tìm kiếm thơng tin từ văn bản.
- Giải thích, cắt nghĩa, phân loại, so sánh, kết nối thông tin để tạo nên
những hiểu biết về văn bản.
- Phản hồi và đánh giá thông tin trong văn bản.
- Vận dụng những hiểu biết về văn bản đã học vào việc đọc các loại văn
bản khác nhau, đáp ứng những mục đích học tập và đời sống.
1.4.2. Định hướng tổ chức hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong dạy
môn Ngữ văn THPT.
Hoạt động trải nghiệm sáng tạo giúp học sinh biết huy động kiến thức,
kỹ năng để tiếp nhận kiến thức, kỹ năng mới và vận dụng chúng vào hoạt
động thực tiễn. Thực tế cho thấy, áp dụng phương pháp học này, học sinh tỏ ra
rất hào hứng với nội dung bài học, vốn kiến thức tổng hợp của học sinh được
bổ sung nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả.
Hoạt động trải nghiệm được tổ chức trong suốt tiến trình của bài học,
giáo viên cần xác định đúng mục đích, mức độ yêu cầu. Các hoạt động cá
nhân, nhóm được tổ chức linh hoạt sao cho vừa giúp học sinh huy động kiến
thức, kỹ năng, kinh nghiệm của bản thân vừa xây dựng được ý thức hợp tác,
tinh thần học tập lẫn nhau.
Trong chương trình Ngữ văn THPT nói chung và Ngữ văn 11 nói
riêng, có rất nhiều tác phẩm có thể ứng dụng trải nghiệm sáng tạo, nhưng ở
phạm vi một sáng kiến, người viết chỉ nêu định hướng ở một tác phẩm để

minh họa.

16


1.4.3. Định hướng thiết kế bài học Ngữ văn theo hướng phát triển kỷ
năng, năng lực
Thiết kế bài dạy học Ngữ văn theo quan điểm tích hợp khơng chỉ chú
trọng nội dung kiến thức tích hợp mà cần thiết phải xây dựng một hệ thống
việc làm, thao tác tương ứng nhằm tổ chức, dẫn dắt học sinh từng bước thực
hiện để chiếm lĩnh đối tượng học tập, nội dung môn học, đồng thời hình thành
và phát triển năng lực, kỹ năng tích hợp, tránh áp đặt một cách làm duy nhất.
Giáo án giờ học đọc - hiểu không phải là một bản đề cương kiến thức
để giáo viên lên lớp giảng giải, truyền thụ áp đặt cho học sinh, mà là một bản
thiết kế các hoạt động, thao tác nhằm tổ chức cho học sinh thực hiện trong giờ
lên lớp để lĩnh hội tri thức, phát triển năng lực và nhân cách theo mục đích
giáo dục và giáo dưỡng của bộ mơn.
Đó là bản thiết kế gồm hai phần hợp thành hữu cơ: Một là, hệ thống các
tình huống dạy học được đặt ra từ nội dung khách quan của bài văn, phù hợp
với tính chất và trình độ tiếp nhận của học sinh. Hai là, hệ thống các hoạt
động, thao tác tương ứng với các tình huống trên do giáo viên sắp xếp, tổ
chức hợp lí nhằm hướng dẫn học sinh từng bước tiếp cận, chiếm lĩnh bài văn
một cách tích cực và sáng tạo.
Bởi thế, thiết kế giờ học đọc - hiểu theo mơ hình trường học mới cần tổ
chức hoạt động cho học sinh qua các bước:
- Hoạt động khởi động
- Hoạt động hình thành kiến thức mới
- Hoạt động thực hành
- Hoạt động ứng dụng
- Hoạt động bổ sung.

Mỗi đơn vị kiến thức được hướng dẫn học theo một cấu trúc thống nhất
gồm các hoạt động, trong đó có hoạt động cá nhân, hoạt động cặp đơi, hoạt
động nhóm, hoạt động cộng đồng. Mỗi hoạt động được xây dựng với mục

17


tiêu, yêu cầu và phương pháp cụ thể. Các hoạt động này hỗ trợ, bổ sung cho
nhau trong suốt tiến trình bài học.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng nhận thức về nhiệm vụ tăng cường hoạt động trải
nghiệm sáng tạo, phát huy kỷ năng, năng lực học sinh.
Đối với giáo viên, việc rèn kỹ năng sống đã được nhà trường chỉ đạo
thực hiện song vẫn mang tính hình thức như chỉ thể hiện trên giáo án hoặc ở
các tiết dạy thao giảng. Học sinh chưa được giáo viên chú trọng rèn kỹ năng
sống thường xuyên. Vì vậy các em còn nhút nhát, thiếu tự tin, khi tham gia
các hoạt động tập thể các em bộc lộ rất rõ điểm yếu này. Các giáo viên đã có ý
thức đổi mới phương pháp dạy học Văn nhưng việc thực hiện mới chỉ mang
tính hình thức, thử nghiệm chứ chưa mang lại hiệu quả mong muốn. Một số
giáo viên vẫn có thói quen dạy học theo kiểu truyền thụ kiến thức một chiều:
giáo viên giảng, học sinh lắng nghe, ghi nhớ và nhắc lại đúng điều mà giáo
viên đã truyền đạt. Giáo viên chủ động cung cấp kiến thức cho học sinh, áp đặt
những kinh nghiệm, hiểu biết, cách cảm, cách nghĩ của mình tới học sinh. Một
bộ phận khơng nhỏ giáo viên chưa được trang bị kĩ càng, đồng bộ về quan
điểm và lí luận phương pháp dạy học Văn mới. Ngoài ra sự thiếu thốn về
phương tiện và thiết bị dạy học như tranh, ảnh, sơ đồ, dụng cụ nghe nhìn để
minh họa cho bài giảng, tài liệu tham khảo, các tác phẩm văn học cho giáo viên
ở nhiều trường học đã khiến cho việc áp dụng phương pháp dạy học mới gặp
nhiều bất lợi, dẫn đến tình trạng dạy chay, học chay.
Về phía học sinh, mặc dầu mơn Văn có vị trí, chức năng quan trọng đặc

biệt như vậy nhưng hiện nay đang xuất hiện tình trạng nhiều học sinh khơng
thích học mơn Ngữ văn. Tỉ lệ học sinh thi vào các trường khối C càng ngày
càng ít. Một số học sinh chọn thi khối C khơng phải vì thích hoặc có khả năng
học các mơn khoa học xã hội mà chỉ vì họ khơng đủ khả năng để thi vào khối
nào khác. Nhiều bậc phụ huynh cũng than phiền về việc con em mình khơng
thích đọc sách văn học bằng các loại truyện tranh chỉ mang ý nghĩa giải trí
18


đơn thuần. Qua các kỳ thi, các bài kiểm tra mơn Ngữ văn, có thể nhận thấy có
nhiều học sinh học theo kiểu đối phó, học vẹt, lạm dụng tài liệu tham khảo,
không chú trọng kỹ năng diễn đạt, dùng câu, từ... Trong kỳ thi tốt nghiệp
THPT, học sinh còn có cơ hội để quay cóp, trao đổi bài, sử dụng tài liệu nên
có điểm cao mặc dù khơng chịu học. Thực tế trên đã khiến cho nhiều học sinh
vốn đã khơng thích học mơn Ngữ văn, nhất là những học sinh thi các khối thi
có các mơn khoa học tự nhiên, càng có “cớ” để lạnh nhạt, hờ hững với môn
học này.
Một bộ phận không nhỏ học sinh không thích học Ngữ văn và yếu kém
về năng lực cảm thụ văn chương không chỉ gây bi quan đối với dư luận xã hội
mà còn tác động tiêu cực đến người dạy.Các em lười phát biểu, thụ động
trong giờ học.Nhiều lúc lên lớp các em lại không quan tâm, chú ý nghe giảng
thậm chí cịn nói chuyện riêng hoặc chế giễu những bạn chăm chỉ mơn này.Từ
đó dẫn đến giờ học trôi qua nặng nề, lớp học trầm lặng, tinh thần học tập của
học sinh mệt mỏi. Các số liệu thống kê cho thấy, môn Ngữ văn đang bị tuyệt
đại đa số học sinh phổ thông chối bỏ, hầu hết học sinh THPT chỉ cần học văn
để thi đỗ tốt nghiệp. Mặt khác, theo thống kê kết quả tuyển sinh đại học, cao
đẳng những năm gần đây có nhiều bài thi môn Ngữ văn của học sinh khiến
người đọc dở khóc dở cười vì những sai sót cơ bản như sai chính tả, sai kiến
thức, suy diễn cảm tính, viết mà khơng hiểu những gì mình đã viết...
Có một thực tế lo ngại hiện nay nữa là rất ít học sinh biết rung động trước

những tác phẩm văn học hay. Do vậy, khi làm bài học sinh thường suy luận chủ
quan, thơ tục hóa văn chương. Điều đó cho thấy học sinh rất lơ mơ về kiến thức
Ngữ văn. Hiện nay, một số học sinh khơng có thói quen đọc sách, các tác phẩm
văn học để tích lũy kiến thức, vốn từ, phục vụ cho việc học môn văn. Thậm chí
nhiều học sinh cho rằng Ngữ văn là bộ mơn không thực tế, vô bổ. Hiện trạng này
cho thấy vấn đề cảm thụ và diễn đạt văn chương của học sinh là rất đáng báo
động.

19


Trong q trình giảng dạy mơn Ngữ văn ở trường THPT mà đặc biệt là
giảng dạy những tác phẩm văn học thuộc thể loại truyện ngắn, trước đây, bản
thân tôi cùng các đồng nghiệp vẫn quen sử dụng phương pháp dạy học truyền
thống. Dạy học vẫn nặng về truyền thụ kiến thức lý thuyết và truyền thụ tri
thức một chiều vẫn là phương pháp dạy học chủ đạo của nhiều giáo viên. Số
giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các phương
pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích
cực, tự lực và sáng tạo của học sinh cịn chưa nhiều. Việc rèn luyện kỹ năng
sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn cho học sinh thơng qua khả
năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được quan tâm. Việc ứng dụng
công nghệ thông tin – truyền thông, sử dụng các phương tiện dạy học chưa
được thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường trung học phổ thông.
Những giờ dạy học Ngữ văn trước đây tơi thấy dù có thành cơng mấy đi
chăng nữa thì học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ lĩnh hội, tiếp thu và ghi nhớ
tri thức một cách máy móc mà chưa phát huy hết được năng lực chủ động,
sáng tạo trong quá trình chiếm lĩnh tri thức mới.
Là một giáo viên đứng trên bục giảng tôi ln băn khoăn suy nghĩ, trăn
trở làm cách nào có thể nâng cao được chất lượng giáo dục học sinh và điều
quan trọng hơn là học sinh qua mỗi bài học các em có thể khám phá được

những tri thức mới như thế nào và có thể ứng dụng được gì vào trong thực
tiễn cuộc sống. Chính vì điều đó tơi muốn cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu để có
thể đưa ra được một phương pháp dạy học phù hợp với thực tiễn dạy học Ngữ
văn ngày nay.
2.2. Thực trạng tổ chức dạy học Ngữ văn gắn với việc tăng cường hoạt
động trải nghiệm sáng tạo, phát huy kỷ năng, năng lực học sinh THPT
Thứ nhất: Dạy học đọc chép. Hiện tượng dạy học đọc chép trong môn
văn trước đây và môn ngữ văn rất phổ biến ở các trường phổ thơng hiện nay.
Đọc chép trong giờ chính khóa và trong các lị luyện thi. Thầy cơ đọc trước,
HS chép sau, hay thầy cô vừa đọc vừa ghi bảng rồi HS chép theo. Đối với các

20


bài khái quát về giai đoạn văn học hay khái qt về tác gia thầy cơ cũng
thường tóm tắt rồi đọc cho HS chép. Đối với bài “giảng văn” thầy cô cũng
thường nêu “câu hỏi thu từ”, rồi giảng, sau đó đọc chậm cho HS chép các kết
luận, nhận định. Trong cách dạy này HS tiếp thu hoàn toàn thụ động, một
chiều.
Thứ hai: Dạy nhồi nhét. Dạy nhồi nhét cũng là hiện tượng phổ biến do
thầy cô sợ dạy không kĩ, ảnh hưởng đến kết quả làm bài thi của HS, cho nên
dạy từ a đến z, không lựa chọn trọng tâm, khơng có thì giờ nêu vấn đề cho HS
trao đổi, sợ “cháy” giáo án. Kết quả của lối dạy này cũng là làm cho HS tiếp
thu một cách thụ động, một chiều.
Thứ ba: Dạy học văn như nhà nghiên cứu văn học. Một hiện tượng
thường thấy là cách giảng văn trên lớp như cách nghiên cứu văn học của các
học giả, như cách học của sinh viên văn học. Đó là cách phân tích sâu về tâm
lí, về kĩ thuật ngôn từ, về phương pháp sáng tác….. Trong khi đố đối với HS
môn ngữ văn chỉ cần dạy cho HS đọc hiểu, tiếp nhận tác phẩm như một độc
giả bình thường là đủ, nghĩa là chỉ cần nắm bắt đúng ý nghĩa, tư tưởng của tác

phẩm, một vài nét đặc sắc về nghệ thuật đủ để thưởng thức và gây hứng thú.
Thứ tư: Dạy học thiếu sự hợp tác giữa trò và thầy, giữa trò với trò.
Mỗi cá nhân trong q trình học tập đều có hạn chế, bởi mỗi người thường chỉ
chú ý vào một số điểm, bỏ qua hoặc không đánh giá hết ý nghĩa của các kiến
thức khác. Trong điều kiện đó, nếu biết cách hợp tác trong học tập, giữa thầy
giáo và HS, HS với HS có thể nhắc nhở nhau, bổ sung cho nhau, làm cho kiến
thức được tồn diện và sâu sắc.
Có thể nói, các kĩ năng của học sinh ít được chú ý rèn luyện trong giờ
dạy văn. Mơn văn có thể phát huy nhiều kĩ năng : kĩ năng phân tích ngơn ngữ,
kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết phục, kĩ năng làm chủ cảm xúc..., nhưng
phần lớn giờ học chỉ đi sâu vào những kĩ năng tiếp nhận lí thuyết mà chưa
phát huy những kĩ năng sống cho học sinh.

21


Để tránh sự nghèo nàn, đơn điệu trong dạy văn là một vấn đề khơng
dễ. Ở đó có những vấn đề thuộc về ý thức, thái độ, tình cảm nghề nghiệp,
năng lực của giáo viên, song việc giáo dục kỹ năng sống gắn với dạy học ngữ
văn sẽ góp phần giảng dạy môn Ngữ văn sinh động và hiệu quả.
Mục tiêu của môn Ngữ văn ở trường phổ thông là hình thành và phát
triển ở học sinh năng lực chung (tức năng lực giao tiếp, bao gồm kiến thức
tiếng Việt cùng với bốn kĩ năng cơ bản: Nghe, nói, đọc, viết và khả năng ứng
dụng các kiến thức và kĩ năng ấy vào các tình huống giao tiếp khác nhau
trong cuộc sống) và năng lực chuyên biệt (tức năng lực văn học, gồm tiếp
nhận hoặc cảm thụ văn học, sáng tác văn học.
3. Thiết kế giáo án thực nghiệm

VỢ CHỒNG A PHỦ - TƠ HỒI
(3 tiết)

A. MỤC TIÊU BÀI HỌC
1. Kiến thức:
Tiết 1:
+ Hiểu được những nét cơ bản về tác giả Tơ Hồi và tác phầm “Vợ chồng
A Phủ’’.
+ Hiểu được vẻ đẹp cũng như nỗi khổ của nhân vật Mị.
Tiết 2:
+ HS cảm nhận được sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị .
+ Hiểu được tính cách, số phận của nhân vật A Phủ.
+ Thấy được cảnh xử kiện- hủ tục lạc hậu trong phong tục tập quán của
người dân miền núi Tây Bắc trước cách mạng.
+ Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Tiết 3:
+ HS biết sử dụng những kiến thức, kĩ năng đã học để giải quyết các vấn
đề, các tình huống diễn ra trong cuộc sống.

22


+ HS biết nghiên cứu, sáng tạo, tìm ra cái mới theo sự hiểu biết của
mình, tìm phương pháp giải quyết vấn đề và đưa ra những phương án giải
quyết khác nhau góp phần hình thành năng lực học tập, năng lực giao tiếp…
2. Kỹ năng:
- Làm quen với các hoạt động trải nghiệm sáng tạo trong đọc hiểu văn
bản.
- Biết cách đọc hiểu truyện ngắn hiện đại theo đặc trưng thể loại.
- Vận dụng kiến thức đã học để giải quyết vấn đề đặt ra trong thực tiễn.
3. Thái độ:
Biết trân trọng con người, ln có khát vọng chính đáng, biết đấu tranh
cho quyền sống, quyền hạnh phúc, tự do cho chính mình.

4. Tổ chức hoạt động trải nghiệm và định hướng các năng lực hình
thành:
a. Tổ chức hoạt đợng trải nghiệm
- Trị chơi: Tổ chức trong hoạt động khởi động giúp tạo hứng thú cho
học sinh trước khi vào bài học mới.
- Hoạt động nhóm: Thảo luận nhóm tạo sự tham gia tích cực của học
sinh trong học tập. Học sinh được tham gia trao đổi, thảo luận, bàn bạc, chia
sẻ vấn đề mà cả nhóm cùng quan tâm. Qua đó học sinh được tự do bày tỏ
quan điểm, biết đón nhận quan điểm bất đồng, hình thành quan điểm cá nhân
giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giải quyết các vấn đề khó khăn.
- Đóng vai:
+ Học sinh chuyển thể một số đoạn trong văn bản thành kịch bản sân
khấu sau đó diễn đoạn kịch đó. Từ đó học sinh cảm nhận sâu sắc nhân vật,
tình huống và ý nghĩa tác phẩm
+ Xử lý một tình huống giả định trong cuộc sống với vai trò là người
hùng biện về một số vấn đề trong văn bản liên quan đến cuộc sống. Từ đó
giúp học sinh rèn luyện những kỹ năng thực hành ứng xử và bày tỏ thái độ,
quan điểm của mình đối với các vấn đề trong cuộc sống.

23


b. Định hướng các năng lực hình thành
- Năng lực chung: Năng lực tự học; năng lực phát hiện và giải quyết
vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực ngôn ngữ.
- Năng lực chuyên biệt:
+ Năng lực trải nghiệm ( đóng vai, thuyết trình)
+ Năng lực thu thập thơng tin liên quan đến văn bản.
+ Năng lực giải quyết những tình huống đặt ra trong các văn bản.
+ Năng lực hợp tác thảo luận về nội dung và nghệ thuật của văn bản.

+ Năng lực cảm thụ và thưởng thức thẫm mỹ.
+ Năng lực tự đọc hiểu các tác phẩm truyện ngắn hiện đại.
+ Năng lực vận dụng những kiến thức liên môn đã học để giải quyết
những vấn đề thực tiễn: Vấn đề bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa dân
tộc..
B. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN VÀ HỌC SINH
1. Giáo viên:
- Tranh, ảnh phục vụ nội dung bài học.
- Phiếu học tập, phiếu giao nhiệm vụ, phiếu đánh giá.
- Máy tính, máy chiếu kết nối.
- Bài soạn.
2. Học sinh:
- Đọc kỹ văn bản ở nhà.
- Nghiên cứu nội dung bài học đã được giao.
- Kịch bản.
- Đóng vai diễn kịch.
- Dụng cụ âm nhạc (sáo).
- Giấy viết.
C. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC.
- Kết hợp các phương pháp: Đọc sáng tạo, đối thoại, nêu vấn đề, thảo
luận, tích hợp, công nghệ thông tin…giúp giờ dạy học đạt hiệu quả tốt.

24


- Tổ chức dạy học bằng các hoạt động theo mơ hình trường học mới:
Hoạt động khởi động, hoạt động hình thành kiến thức mới, hoạt động thực
hành, hoạt động ứng dụng, hoạt động bổ sung.
D. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC
1. Ổn định lớp:

2. Kiểm tra bài cũ:
3. Giới thiệu bài mới:
Tơ Hồi thuộc thế hệ nhà văn cầm bút từ trước Cách mạng. Năm 1952,
ông đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Với thế mạnh của một nhà văn
phong tục, Tơ Hồi đã nhanh chóng nắm bắt được hiện thực cuộc sống đồng
bào các dân tộc: Thái, Mường, H'mông …và ông đã viết liền một hơi 3 tác
phẩm gộp lại thành tập "Truyện Tây Bắc", trong đó tiêu biểu nhất là “Vợ
chồng A Phủ”.
Trước khi tìm hiểu nội dung văn bản, chúng ta cùng tiến hành một hoạt
động khởi động - trải nghiệm .
4. Hoạt động dạy và học :
TIẾT 1
Giáo viên (GV) tổ chức cho học sinh (HS) hoạt động khởi động .
Mục đích: Kiểm tra việc đọc văn bản ở nhà của HS nhằm giúp HS huy động
kiến thức, kỹ năng, tạo hứng thú tiếp nhận bài mới .
Yêu cầu: HS thể hiện những vấn đề liên quan đến tác phẩm.
Cách tiến hành:
GV:
- Chiếu hình ảnh minh họa cho một vấn đề liên quan đến bài học:
Hình ảnh đơi trai gái người Mèo đang thổi sáo.
- Gọi một bạn HS trong lớp có năng khiếu về âm nhạc thổi sáo bài
“Tình ca Tây Bắc” (tiết mục thổi sáo này GV cho HS chuẩn bị từ
trước).

25


×