Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

văn học địa phương thái nguyen thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (347.01 KB, 46 trang )

CHƯƠNG TRÌNH ĐỊA PHƯƠNG MÔN NGỮ VĂN

NGUYÊN

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THÁI

Biên soạn:
…………………………….

TÀI LIỆU GIÁO DỤC ĐỊA PHƯƠNG
MÔN NGỮ VĂN LỚP 6
(Lưu hành nội bộ)

Thái Nguyên, năm 2013
LỚP 6
Bài 1: VÀI NÉT VỀ VĂN HỌC THÁI NGUYÊN
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Hiểu được khái quát sự phát triển, tồn tại của văn học tỉnh Thái Nguyên trong s ự
phát triển chung của văn học nước nhà.
A. KHÁI QUÁT VĂN HỌC DÂN GIAN THÁI NGUYÊN
I. Khái niệm văn học dân gian Thái Nguyên và phạm vi vùng văn hóa Thái
Nguyên
Văn học dân gian (VHDG) từ cội nguồn bao giờ cũng phát sinh từ m ột làng, m ột
mường bản cụ thể. Quá trình giao thoa văn hóa trong phạm vi một vùng hay m ột b ộ
tộc hoặc giữa các dân tộc đan xen quần tụ đã tạo dựng, tích h ợp thành v ốn VHDG c ủa
một địa phương. Cái vốn đó lại do những điều kiện địa lý - lịch s ử và s ự v ận đ ộng xã
hội nhất định trong quá trình hoàn thành và phát tri ển Nhà n ước và c ộng đ ồng qu ốc
gia dân tộc và tiếp thụ lẫn nhau, hòa nhập vào nhau tr ở nên phong phú v ề n ội dung,
bền vững về phong cách, đa dạng về sắc thái. Đó chính là giá tr ị có ý nghĩa n ền t ảng
tinh thần thống nhất trong đa dạng.



Văn học dân gian trên vùng văn hóa Thái Nguyên không n ằm ngoài quy lu ật trên. Nó
vừa chứa đựng cái nguồn sống chảy trong nguồn mạch văn hóa c ộng đồng, vừa không
ngừng tích tụ những nét bản sắc Thái Nguyên trong lịch sử. Do đó, việc gi ới thuy ết nó
trong khái niệm VHDG Thái Nguyên là hoàn toàn có th ể ch ấp nhận đ ược. Đ ương
nhiên, VHDG Thái Nguyên là tổng giá trị VHDG của các thành ph ần dân t ộc anh em đã
từng cộng cư và quần tụ từ trước cả khi Thái Nguyên có địa danh hành chính là b ộ Vũ
Định thời Hùng Vương. Trải qua các biến thiên lịch sử gắn với mỗi th ời đại: khi thu
hẹp châu Thái Nguyên chỉ là một huyện Đồng Hỷ (thời Lý), khi m ở r ộng tr ấn Thái
Nguyên lại bao gồm cả phủ Cao Bằng (thời Hậu Lê), khi tách ra thì m ột ph ủ Thông
Hóa cũng được đổi thành một tỉnh Bắc Cạn (thời Pháp thu ộc)….Tuy v ậy, dù sao đ ịa
giới cũng chỉ là vấn đề lịch sử hành chính, còn l ịch s ử văn hóa truy ền th ống trong đó
có VHDG thì rõ ràng không thể đặt gọn vào một khuôn khổ có tính xác đ ịnh trong t ừng
thế kỷ.
II. Tiến trình thể loại và những đặc điểm cơ bản
Chỉnh thể VHDG Thái Nguyên trong các thành tựu đã sưu tập hiện nay chưa đủ dữ
kiện để dựng lại một hệ thống tiến trình phát tri ển của nó trong l ịch sử. Do đó, ch ỉ có
thể giới thiệu VHDG Thái Nguyên là một di sản đa th ể loại hợp thành. Trong đó VHDG
Tày - Nùng giữ vai trò chủ thể giữa một toàn cảnh văn hóa giàu b ản s ắc tộc người, t ạo
thành bản sắc Thái Nguyên.
1. Loại hình tự sự dân gian
1.1. Thần thoại Thái Nguyên khá phong phú đa dạng. Trong đó thần thoại suy nguyên
còn ít được sưu tập ngoài các mẫu kể đơn giản về người khổng lồ Tài Ngào vẫn đ ược
lưu truyền ở thần thoại H'mông - Dao cũng như thần thoại Sán Dìu, Tr ại Đ ất…ít mang
bản sắc địa phương, nhưng cũng tập hợp thành các nhóm mẫu kể trên các địa bàn
Định Hóa, Đại Từ và vùng ngoại thành Thái Nguyên. Hầu h ết, b ộ ph ận này là các th ần
thoại nguồn gốc tộc người, tộc danh và địa danh. Cá bi ệt, có th ần tho ại Tày khá trùng
khớp với thần thoại Việt Mường (Sự tích các dân tộc Tày, Nùng, Mèo, Dao là anh em).
1.2. Truyền thuyết Thái Nguyên nổi đậm màu sắc tiếp xúc và hội tụ. Truyền thuyết địa
danh hiện còn vô số các mẫu kể: Giếng Dội, Núi Xem, Núi Văn, Núi Võ, Vực Ách, Gò

Chùa (Đại Từ) Đồi Vua Mọc, Đá Miếu Nữ Tướng (Phú Lương)… Trong đó có nhiều mẫu
kể ở Phú Lương, Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên như: Sự tích Đền Cô Thắm, Sự tích Miếu
Nữ Tướng, Sự tích Gò Chúa Chỏm, Sự tích Núi Cô Tiên, Núi Đong Quân… đều chứa đựng
khá nhiều mô - típ truyền thuyết dân tộc Kinh. Có th ể cho r ằng đó là nh ững truy ện có
liên hệ ít, nhiều với các truyền thuyết về Thánh Gióng và Hai Bà Tr ưng. Tuy nhiên, các
truyền thuyết lịch sử về Dương Tự Minh, Lưu Nhân Chú, Hoàng Hoa Thám, Tr ịnh Văn
Cấn…trên đất Thái Nguyên vẫn là những mẫu kể đáng chú ý hơn cả. B ởi lẽ từ đó hi ện
ra những con người Thái Nguyên thật sự khổng lồ về ý chí. Họ là những anh hùng dân
tộc giữa đời thường, rất đỗi khâm phục mà không hề xa cách trong cảm quan th ẩm
mỹ dân gian.
1.3. Cổ tích Thái Nguyên là cả kho tàng phong phú bao gồm từ những mẫu kể còn đ ơn
giản, chỉ có một mô típ như Sự tích Thôm Tòong (Ao Đồng) ở Phú Bình, Sự tích Ruộng
Thác Đao (Dải lụa đào) ở Đại Từ…đến những mẫu kể chuỗi xích liên hoàn như Tua
Tềnh và Tua Nhì (kiểu Tấm Cám) ở Định Hóa, Trong đó, yếu tố giao thoa văn hóa Kinh
- Tày rất đậm nổi, nhưng vẫn không làm nhạt nhòa bản s ắc tộc người. Bên c ạnh m ột
số cổ tích Kinh, có thể thấy cổ tích Tày - Nùng phong phú vào b ậc nhất. Đóng góp
quan trọng của bộ phận này vào kho tàng cổ tích Vi ệt Nam là ở sự nảy nở vô số các
mẫu kể cổ tích loài vật. Đó là những mẫu kể còn khêu gợi không khí hoang s ơ, thôn dã


mà kỳ thú (Sự tích thi gào to, Sự tích giống ếch lưng gù) . Ở thể loại này, còn thấy các
tộc người có số dân không quá mười ngàn người như Cao Lan, Sán Chí…cũng có những
mẫu kể đặc sắc. Hầu hết trong số này là sự tích về người mồ côi và người đội lốt.
1.4. Truyện ngụ ngôn và truyện cười Thái Nguyên còn ít hơn các thể loại khác về số
lượng và chưa hoàn thiện để đạt đến chất lượng ở đỉnh cao. Đi ều đó có lý do l ịch s ử xã hội. Cư dân bản địa - chủ thể Thái Nguyên là người Tày nói chung không s ở tr ường
lối tư duy triết lý trừu tượng. Mặt khác, đa số các vùng văn hóa Thái Nguyên tr ước
cách mạng tháng Tám mới bước vào hình thái xã hội phong ki ến s ơ kỳ. Ki ểu truy ện
cười khôi hài một cách trí tuệ, theo lối trào l ộng chữ nghĩa b ằng ti ếng Tày - Nùng là
xuất sắc hơn cả, nhưng cũng còn ít được phổ biến.
1.5. Truyện thơ Thái Nguyên khá phong phú. Một truyện thơ Tày Nùng được sưu tập

chủ yếu ở Cao Bằng hiện nay cũng thấy có ở Thái Nguyên. N ội dung chủ đạo trong
thể loại này nổi bật hai vấn đề: bi kịch tình yêu và khát v ọng anh hùng ch ống ngo ại
xâm. Truyện thơ H'mông - Dao còn đậm màu sắc th ơ ca nghi lễ, tình hu ống c ốt truy ện
khá đơn giản nhưng nội dung đáng được chú ý đặc biệt. T ừ vùng Ch ợ M ới (Phú
Lương) đến Phổ Yên, các truyện nôm khuyết danh của người Kinh khá phong phú. Ch ỉ
riêng ở vùng Đèo Vai cách Chợ Mới không xa, người Tày đọc Tống Trân Cúc Hoa, Phạm
Tải Ngọc Hoa bằng tiếng Kinh như của chính tộc người mình. Ở đây có nguyên nhân
từ sự hòa nhập nhân chủng tộc người.
2. Loại hình trữ tình dân gian
2.1. Thể loại bao trùm loại hình trữ tình dân gian là ca dao. Ca dao hiểu theo nghĩa
rộng bao gồm các thể loại hát dân ca trong đời sống dân gian các dân t ộc Thái Nguyên:
gầu plênh (hát giao duyên), gầu xống (hát cưới xin), gầu tú dua (hát m ồ côi), g ầu tu ờ
(hát cúng ma)…của người H'mông ở Đồng Hỷ, phong slư (th ơ tình yêu dân gian), sli
lượn (hát trữ tình) của người Tày Nùng ở Võ Nhai. Hàng loạt bài sli l ượn Thái Nguyên
cho thấy sự giao thoa mạnh mẽ giữa hai nền văn hóa Kinh - Tày, từ đ ịa danh, ngôn
ngữ đến cung cách phô diễn tình cảm. Đặc điểm này nổi đậm trong thể tài ca dao sinh
hoạt. Không thể không dẫn một vài câu như:
Gái xuống tắm tinh thông canh cửi
Tiếng lượn ngọt hơn mật với đường
Hình dong sáng hơn "gương thần diệu"
Ăn mặc những "yểu điệu thướt tha"
Xinh gái bằng "Ngọc Hoa công chúa"
Anh làm trai khách khứa xin mừng.
(Lượn mừng trong mục Lượn mỏ nước - theo Vi Hồng)
Có thể nhận ra các tiếng phổ thông (trong ngoặc kép) ở đoạn trên được dùng nguyên
văn trong bài hát Tày. Về các yếu tố thiết kế âm nhạc, còn có th ể nhận ra nh ững nét
có dáng dấp hát chầu văn (Nam Hà), hát quan họ (Bắc Ninh).
2.2. Ở các vùng Đại Từ, Phú Bình, Phổ Yên cho thấy đặc bi ệt phong phú ca dao sinh
hoạt bằng tiếng phổ thông. Đó là những bài ca cầm tay, những bài hát mừng quê
hương mới, cuộc sống mới trên những vùng "đất lành chim đậu".

Quê Ngâu thì ở Hà Đông
Ngâu đi lấy chồng ở đất Hà Tây
Gặp mình ta lại cầm tay…
(Ca dao cầm tay - Phú Bình)


Đó là những khúc hát ngắn, trữ tình duyên dáng, thường được di ễn xướng trong hình
thức đối đáp trên ruộng đồng gò bãi khắp các vùng bán s ơn địa xứ Thái.
Ca dao lao động với chức năng tổ chức lao động giản đơn ở Thái Nguyên không nhi ều,
và chỉ còn dấu ấn trong các bài hát vui chơi của trẻ em các dân tộc.
3. Loại hình trung gian
3.1. Tục ngữ Thái Nguyên có đủ các nhánh, nếu xem xét nó trong sắc thái nghệ thuật
biểu diễn của các dân tộc anh em. Tục ngữ Tày - Nùng, tục ngữ H'mông - Dao, t ục ng ữ
Sán Dìu, tục ngữ Cao Lan, Sán Chí…ở thể loại này, có th ể th ấy rõ những giá tr ị đ ặc s ắc
trong ngôn ngữ văn hóa đặc thù. Ngạn ngữ, phương ngôn Thái Nguyên không nhi ều.
Tuy nhiên, chỉ tìm hiểu một số bài ngắn trên đất Phú Lương, Võ Nhai cũng đã th ấy n ội
dung chủ đạo của nó là ngợi ca những miền quê giàu về s ản vật, đẹp v ề tình người
trong kỷ niệm thôn dã.
3.2. Các loại hát mo hát pụt, loàn, mại xe, phuối rọi, ngũ luận ngôn, tông nặc… còn ít
được nghiên cứu từ nguyên dạng trong đời sống văn nghệ Thái Nguyên.
III. Kết luận
Văn học dân gian Thái Nguyên là kho báu trí tuệ, tâm h ồn, tình c ảm th ẩm mỹ cao đ ẹp
và phong phú của nhân dân các dân tộc Thái Nguyên. Tr ước h ết, nó bi ểu hi ện s ự tích
tụ văn minh Thái Nguyên ngàn năm trên các vùng đất cổ, trong khu vực lan tỏa c ủa
nền văn hóa Thần Sa. Màu sắc tiếp xúc và hội tụ của VHDG Thái Nguyên r ất đ ậm n ổi.
Nhưng đó là những giá trị hợp lưu văn hóa được lắng kết muộn màng, cùng với quá
trình du cư của đồng bào các dân tộc ít người theo s ự chuy ển d ịch d ần các vùng r ừng
rậm rạp lên phía Bắc, kéo theo sự đan xen ngày một gia tăng c ủa dân t ộc ng ười Kinh,
mà một bộ phận đã Tày hóa. Sự thay đổi môi trường sinh thái do những tác đ ộng quy
luật xã hội đương nhiên đã tác động mạnh mẽ vào đời sống văn học dân gian. Hoàn

toàn có thể khẳng định VHDG Thái Nguyên là một nguồn mạch tạo dựng nền VHDG
Việt Nam thống nhất trong đa dạng.
B. VĂN HỌC THÁI NGUYÊN TỪ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM ĐẾN NAY
I. Tiến trình phát triển
1. Cách mạng tháng Tám thành công, tiếp đó là cuộc kháng chi ến ch ống Pháp đã m ở ra
cho Việt Bắc một thời kì văn học mới (giai đoạn lịch sử này, Thái Nguyên là m ột thành
tố không thể tách rời vùng Việt Bắc). Trong kháng chiến 9 năm, Thái Nguyên cũng
như nhiều tỉnh thuộc an toàn khu đã trở thành cái nôi của văn ch ương cách m ạng, văn
học kháng chiến. Năm 1949, cơ quan Hội văn nghệ Việt Nam đóng tại Làng Chòi thu ộc
Yên Giã, xã Mỹ Yên, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Nh ững nhà th ơ, nhà văn nh ư T ố
Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Huy Cận…đều đã có th ời gia
sinh sống và hoạt động ở đây.
Thời kỳ này, đồng thời với các nhà văn đàn anh từ khắp miền đất nước tụ v ề, s ự xu ất
hiện của các cây bút là người dân tộc ít người, quê gốc tại Vi ệt Bắc như Bàn Tài Đoàn,
Nông Quốc Chấn, Nông Minh Châu, Nông Viết Toại…cùng những tác ph ẩm vi ết b ằng
tiếng Tày, Nùng, Dao đã góp phần làm cho văn h ọc kháng chi ến c ủa đ ất n ước tr ở nên
đa dạng, đa diện, đa sắc. Và có thể nói, những tác giả là người dân tộc ít người v ừa
nêu trên cũng chính là những tên tuổi đầu tiên làm nên n ền văn h ọc Vi ệt B ắc và văn
học Thái Nguyên sau này.
Năm 1957, Hội văn nghệ Việt Bắc được thành lập tại thị xã Thái Nguyên (lúc này là
thủ phủ khu tự trị Việt Bắc) đã như một cuộc hội tụ lớn của văn ngh ệ sĩ 6 t ỉnh Thái
Nguyên, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn.


Từ đây, nền văn học thành văn của các dân tộc Việt Bắc, trong đó có Thái Nguyên, có
điều kiện phát triển mạnh mẽ. Những tác phẩm quan trọng như "Mu ối của C ụ H ồ",
"Xuân về trên núi" của nhà thơ người Dao Bàn Tài Đoàn; "Ti ếng ca người Vi ệt B ắc"
của nhà thơ dân tộc Tày Nông Quốc Chấn; "Ché Mèn được đi h ọp"; "Mu ối lên r ừng"
của nhà văn Nông Minh Châu; "Ăn ngay nói thẳng" của nhà văn Nông Vi ết To ại đ ều ra
đời trong giai đoạn này.

2. Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đưa văn học sang một thời kì mới. Toàn
Đảng, toàn dân tập trung vào hai nhiệm vụ chính là ch ống giặc ngo ại xâm và xây dựng
kiến thiết đất nước. Văn học Thái Nguyên tiếp tục phát tri ển trong hoàn cảnh chung
của đất nước. Chủ đề "tất cả cho tiền tuyến đánh thắng gi ặc Mỹ xâm l ược" là ch ủ đ ề
trọng yếu của văn học lúc bấy giờ đã được các cây bút khai thác tri ệt đ ể. M ột đi ều
đáng nói là chính trong những năm tháng đầy cam go và ác li ệt ấy, đ ội ngũ sáng tác ở
Thái Nguyên đã phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Kế ti ếp những tên tu ổi đã
được khẳng định trong kháng chiến chống Pháp, ngay từ những năm đầu của th ập
niên 60 (thế kỷ XX) hàng loạt các cây bút mới như Lê Minh, Xuân Cang, Vi H ồng (văn
học), Bế Sĩ Uông, Nông Ích Đạt, Bế Dôn (kịch)…đã dần dần hi ện di ện trên văn đàn c ả
nước cũng như ở Thái Nguyên. Những tác phẩm của các nhà sáng tác trong những năm
tháng này đều mang hơi thở nóng hổi của th ời đại: "Trận địa giữa ru ộng bậc thang"
(Nông Minh Châu); "Suối gang"; "Lên cao" (Xuân Cang); "Người chia ánh sáng” (Vi
Hồng); "Suối Lê Nin" (Trần Văn Loa); "Gái Quan Lang" (Lê Thoa)…
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước bước vào giai đoạn quy ết liệt nh ất, cũng l ại là
lúc đội ngũ sáng tác văn học của Thái Nguyên lớn mạnh hơn bao gi ờ hết. Các gi ải
thưởng của tổ chức văn học lớn ở Trung ương vào thời kỳ này của các nhà văn Xuân
Cang ("Những vẻ đẹp khác nhau", tặng thưởng Hội nhà văn 1968); Vi H ồng ("C ọn
nước eng Nhàn", Báo văn nghệ - Hội nhà văn 1971); Hồ Thủy Giang ("Cô Bánh Xích"
Báo văn nghệ - Hội nhà văn 1971)…cùng sự xuất hiện khá rầm r ộ những tên tu ổi m ới
như Ma Trường Nguyên, Trần Văn Loa, Hoàng Minh Tường, Trịnh Thanh Sơn, Chu
Hồng Hải, Nguyễn Đức Thiện, Khánh Điểm, Ba Luận…đã làm nên một diện mạo văn
học Thái Nguyên trên văn đàn cả nước.
3. Bước sang thời kỳ thống nhất đất nước (1975) đội ngũ văn học Thái Nguyên vẫn
tiếp tục thế mạnh của mình. Nhiều nhà văn đã hướng ngòi bút vào hi ện th ực m ới c ủa
xã hội. Những chủ đề về cuộc sống hòa bình, thống nhất, tình cảm Bắc Nam cùng
những biến cố của thời cuộc đã dần dần đi vào văn học. Một s ố tác giã Thái Nguyên
đã trưởng thành và được khẳng định qua các tập sách riêng gây được sự chú ý của d ư
luận. Tiêu biểu nhất là hai tiểu thuyết "Đất bằng" và "Vãi Đàng" của nhà văn Vi H ồng,
Nhà xuất bản Hội nhà văn năm 1980, đã được đánh giá như một hiện tượng ti ểu

thuyết Việt Nam của thập kỷ 80 (thế kỷ XX).
Năm 1987, sự ra đời của Hội văn học nghệ thuật tỉnh đã như một bước ngoặt l ớn đ ối
với văn học Thái Nguyên.
Sự xuất hiện hàng loạt các cây bút ở các lứa tuổi, các th ể loại v ới nhi ều bút pháp khác
nhau đã làm cho "kho tàng văn chương" Thái Nguyên gi ầu có lên m ột cách đáng m ừng.
Những tác giả văn xuôi nối nhau, đại diện cho nhiều th ế h ệ cầm bút: Đ ặng V ương
Hưng, Hà Đức Toàn, Nguyễn Bình Phương, Lê Thế Thành, Nguy ễn Cao Thâm, Nguy ễn
Minh Sơn, Đỗ Dũng, Nguyễn Văn, Ngọc Thị Kẹo, Thanh Hằng, Hoàng Lu ận…Những cây
bút thơ theo năm tháng lại phát tri ển không ngừng như: Th ế Chính, Tr ần Th ị Vân
Trung, Võ Sa Hà, Nguyễn Thúy Quỳnh, Nguyễn Đức Hạnh, Hữu Ti ệp, Hi ền M ặc Chất,
Nguyễn Long, Ba Luận, Minh Hằng, Huy Duân, Nguyễn Anh Đào, Vũ Đình Toàn, Tri ệu


Doanh, Mai Thắng…Đó là những tên tuổi trưởng thành trong thời kì H ội văn h ọc ngh ệ
thuật Thái Nguyên được thành lập.
4. Thế kỉ XXI, cùng sự chuyển mình của đất nước, văn học Thái Nguyên đã có nh ững
bước tiến mới. Một lớp tác giả đã xuất hiện từ cuối thể kỷ trước đang được dần dần
khẳng định ở đầu thế kỉ này như: Phạm Đức, Bùi Thị Như Lan, Dương Thu Hằng, Trần
Quang Toàn, Tô Sơn, Phan Thái, Bùi Nhật Lai, Phạm Ngọc Chuẩn, Thu Huy ền, Phan
Thức, Xuân Nùng, Nguyễn Kiến Thọ, Trần Xuân Tuyết, Nguyễn Hữu Bài, Nguy ễn
Thịnh, Hồ Triệu Sơn, Ngọ Quang Tôn, Phạm Quí…
Hàng chục đầu sách riêng được xuất bản hàng năm của các tác gi ả Thái Nguyên, dù
chất lượng không đồng đều nhưng cũng đã minh chứng cho những bước đi dài r ộng
của văn chương toàn tỉnh.
Giai đoạn văn học này, có một điều đáng nói là trong khi văn xuôi Thái Nguyên chỉ phát
triển một cách bình lặng thì thơ lại có những bước ti ến vượt bậc mà có lẽ Thái
Nguyên chưa bao giờ đạt được. Ba tập thơ của Nguyễn Thúy Quỳnh (Mưa mùa đông),
Võ Sa Hà (Cánh chim về núi), Minh Thắng (Rét ngọt) được giải của Ủy ban toàn quốc
Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam trong các năm 2004 và 2006; Ba giải thưởng thơ của
hai tờ báo lớn: Văn nghệ Quân đội, Báo văn nghệ trao cho ba tác gi ả: Nguy ễn Thúy

Quỳnh, Lưu Thị Bạch Liễu và Võ Sa Hà, đã đưa vị thế thơ của Thái Nguyên lên m ột
tầm cao mới so với toàn quốc.
Song song với thơ và văn xuôi nhưng công tác nghiên cứu, lí lu ận, phê bình ở Thái
Nguyên mới chỉ được tiến hành trong các nhà trường Đại học n ằm trên địa bàn tỉnh,
nội dung cũng hạn hẹp trong phạm vi học đường chứ chưa phổ biến đ ể tr ở thành
một hoạt động rộng khắp trên toàn tỉnh. Bởi vậy, đội ngũ vi ết phê bình, lí lu ận văn
học ở Thái Nguyên còn yếu và thiếu. Ngoài những tác gi ả nh ư nhà văn Lâm Ti ến, nhà
giáo Vũ Châu Quán, Vũ Đình Toàn, các PGS-TS Trần Thị Vân Trung, Vũ Anh Tu ấn, Ph ạm
Mạnh Hùng, Nguyễn Huy Quát, chưa thấy sự xuất hiện của các cây bút mới.
Sáng tác kịch bản ở Thái Nguyên cũng còn nhiều hạn chế. Từ những năm 90 c ủa th ế
kỉ trước đến nay, với một số ít vở kịch nói, chèo của Nguy ễn Đức Tr ạo và Mông Đông
Vũ được dàn dựng trên sân khấu và truyền hình trung ương, còn hầu nh ư r ơi vào im
lặng.
Một sự kiện văn học nghệ thuật không thể không nhắc đến, đó là sự ra đời của tờ Báo
văn nghệ Thái Nguyên vào giữa năm 1991. Tuy còn nhỏ, lẻ, lượng phát hành không cao
nhưng tờ Văn nghệ Thái Nguyên nhiều năm nay, đặc biệt là sang th ế k ỉ XXI đã th ực s ự
bước vào đời sống kinh tế, văn hóa xã hội của tỉnh nhà, là m ột di ễn đàn không th ể
thiếu của anh chị em văn nghệ sĩ Thái Nguyên.
II.Những đặc điểm cơ bản
1. Văn xuôi
Qua mỗi thời kì văn học, văn xuôi Thái Nguyên luôn bộc lộ những đặc đi ểm nh ất đ ịnh.
Trong kháng chiến chống Pháp và thời kì đầu của hòa bình l ập l ại, nhân v ật ti ểu
thuyết và truyện ngắn của các nhà văn thường là anh lính cụ Hồ, nh ững người nông
dân miền núi đi theo cách mạng…
Suốt một thời gian dài sau đó, người công nhân, nông dân, người lính luôn là nhân v ật
trung tâm trong văn xuôi Thái Nguyên. Những tác ph ẩm văn xuôi trong th ời kỳ này có
lối viết đơn giản, xuôi chiều, ít cá tính.
Khoảng những năm 1980 trở lại đây, ở Thái Nguyên, mà bắt đầu từ nhà văn Vi H ồng,
cuộc sống tâm hồn con người miền núi đã được miêu tả một cách phong phú, sâu s ắc,
đa dạng. Với sự vận dụng tối đa vốn văn hóa dân gian, Vi Hồng đã sáng tạo và kh ởi



xướng một cách viết mới về miền núi, mà có nhà văn đã nhận đ ịnh đó là cách vi ết
"Hiện đại hóa dân gian". Sau này, không ít các nhà văn người dân tộc ở Thái Nguyên và
Việt Bắc ảnh hưởng Vi Hồng một cách sâu sắc và có hiệu quả.
Từ cuối thế kỉ XX bước sang thế kỉ XXI, trước làn sóng hội nhập toàn cầu, trong s ự
tiếp nhận các lí thuyết văn học hiện đại của thế giới, văn xuôi Thái Nguyên tuy còn
nhiều hạn chế, nhưng cũng không nằm ngoài xu thế chung ấy.
Các cây bút văn xuôi Thái Nguyên, dù ít dù nhi ều, dù thành công hay ch ưa thành công,
đều đã bắt đầu có những chuyển động nhất định trong bút pháp, trong ph ương pháp,
trong quan niệm về hiện thực….và đã có những thành tựu nhất định.
2. Thơ
Thơ Thái Nguyên luôn có những bước thăng trầm. Vào khoảng vài chục năm đầu k ể từ
khi hòa bình lập lại, nếu coi các nhà thơ Nông Qu ốc Ch ấn, Bàn Tài Đoàn, C ầm Giang…
là những người đã sống và hoạt động lâu năm ở Thái Nguyên là các nhà th ơ c ủa x ứ
Thái, thì có thể nói, thời kỳ này đã đánh được một dấu son khá r ực r ỡ cho phon trào
thơ tỉnh nhà. Nhưng nhìn chung, đội ngũ thơ Thái Nguyên m ặc dù tr ải qua năm tháng
đã được hình thành, thậm chí khá đông đảo nhưng chỉ dừng l ại ở ý nghĩa phong trào,
thiếu hẳn tính chuyên nghiệp. Vào đầu thế kỉ XXI thơ Thái Nguyên mới thực sự n ổi
bật khi một số tác giả có ý thức tìm tòi và đổi mới th ơ. Có th ể nh ận đ ịnh, th ơ Thái
Nguyên thế kỉ XXI đã có sự đổi về chất. Võ Sa Hà từ lối viết truy ền th ống cùng s ự ti ếp
cận thi pháp hiện đại đã tạo ra những hình tượng, những ngôn từ th ơ đ ầy ám ảnh.
Nguyễn Thúy Quỳnh cùng những độc bạch nội tâm, gi ầu tri ết lí, th ấp thoáng hình ảnh
thơ siêu thực. Lưu Thị Bạch Liễu với giọng điệu lạnh lùng, bất an, chứa ch ất nhi ều
"ẩn số". Rồi Nguyễn Đức Hạnh, Thế Chính, Nguyễn Kiến Thọ, Phạm Văn Vũ…m ỗi
người một vẻ, một đóng góp đã thổi bùng ngọn lửa thi ca Thái Nguyên hôm nay.
Từ những thành quả của thơ Thái Nguyên trong nhiều năm tr ở l ại đây và đặc bi ệt là
từ số không nhiều các tác giả thơ vừa nêu trên, ta có th ể nhận định: Th ơ Thái Nguyên
đang trên đà đổi mới và phát triển.
III. Kết luận

Hơn một nửa thế kỉ đối với tiến trình văn học của một địa ph ương không ph ải là quá
dài. Hơn nữa, Thái Nguyên vốn là một vùng đất giàu truy ền th ống l ịch s ử, cách m ạng,
là nơi hội tụ của nhiều dân tộc, nhiều vùng mi ền, mang nhiều nét đ ặc tr ưng v ề kinh
tế, văn hóa, phong tục, tập quán, ngôn ngữ….chắc chắn văn h ọc không th ể phản ánh
đầy đủ và sâu sắc trên mọi bình diện cuộc sống. Việc gi ới thi ệu, đánh giá văn h ọc
hiện đại Thái Nguyên cũng chỉ có thể như những phác thảo, nhằm mục đích gi ới
thiệu, tạo ra một cái nhìn tổng quan ban đầu.
Nhưng chắc chắn có thể khẳng định là văn học Thái Nguyên, đến ngày hôm nay, đã đủ
sức hòa nhập vào tiến trình văn học Thái Nguyên đương đại.
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
1. Đặc trưng của văn học dân gian Thái Nguyên, sự phát tri ển và các thành tựu.
2. Đặc điểm của một số thể loại tiêu bi ểu.
3. Sự phát triển của văn học viết Thái Nguyên qua các giai đoạn cụ th ể. K ể tên m ột s ố
thể loại, tác giả và tác phẩm tiêu biểu.
LUYỆN TẬP
1. Em có suy nghĩ gì về ý kiến: “Văn học dân gian Thái Nguyên là kho báu v ề trí tu ệ,
tâm hồn, tình cảm thẩm mĩ cao đẹp và phong phú của dân tộc Thái Nguyên”?
2. Nêu nhận xét khái quát về tiến trình phát tri ển của văn học Thái Nguyên.


Bài 2: SỰ TÍCH ĐỀN THƯỢNG NÚI ĐUỔM

- Truyền thuyết -

KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Hiểu được ý nghĩa, nội dung và nghệ thuật của truyện. Có tình yêu th ương con
người, yêu quê hương đất nước và lòng tự hào dân tộc.
TIỂU DẪN
Trải qua 4000 năm dựng nước và giữ nước hào hùng, chúng ta thấy trên kh ắp đ ất
nước, hầu như ở địa phương nào cũng có những ngôi đền thờ những người anh hùng

dân tộc. Đó là đền thờ Ngô Quyền và Phùng Hưng ở Sơn Tây, Tr ần Qu ốc Tu ấn ở V ạn
Kiếp, Quảng Ninh, Hai Bà Trưng ở Mê Linh, Vĩnh Phúc…Nh ững người anh hùng ấy đã
được truyền thuyết hóa để trở thành phúc thần, được huyền thoại hóa đ ể tr ở thành
nhân vật trong văn học dân gian Việt Nam. Với Thái Nguyên, chúng ta tự hào có m ột
ngôi đền - một truyền thuyết đẹp - một nhân vật văn học đặc biệt như th ế. Đó là đ ền
Đuổm thờ người anh hùng dân tộc Dương Tự Minh và truyền thuyết "Sự tích đền
Thượng Núi Đuổm".
***
Ngày xưa có một gia đình nghèo khổ. Hai vợ chồng chỉ sinh được một người con trai.
Khi người con mới lên hai tuổi thì người bố qua đời. Hai mẹ con tần tảo nuôi nhau.
Trên núi Đuổm (Động Đạt, Phú Lương) ngày ấy có một bầy tiên n ữ xu ống đánh c ờ.
Chàng trai nhà nghèo lớn lên cũng làm cái ngh ề của b ố, ngày ngày chàng lên r ừng l ấy
củi về bán, lấy tiền nuôi mẹ già. Chàng trai còn là người có tư chất thông minh, tu ấn
tú, hiếu học nên chàng chỉ tự học mà đã tinh thông các ban võ ngh ệ, l ại gi ỏi văn
chương thơ phú. Tương truyền có lần chàng đã giết được một con hổ th ọt thành tinh
chuyên ăn thịt người trên núi Cấm, trừ họa cho mọi người nên dân trong vùng ai n ấy
đều mến phục. Đương khi thấy dân làng nghèo khổ mà chàng chưa nghĩ được kế giúp
người già, con trẻ thì tình cờ một hôm lên núi Đuổm, chàng gặp bảy nàng tiên. Sau khi
hỏi han trò chuyện về gia cảnh, chàng được nàng tiên thứ bẩy đem lòng yêu m ến. M ột
hôm nàng nghe chàng kể lể về ý muốn cứu dân, nàng bèn cởi tấm áo đang m ặc trên
mình trao cho chàng trai và dặn rằng: "chàng hãy mặc áo này vào thì m ọi ng ười sẽ
không còn nhìn thấy chàng, chàng có thể vào kho báu của nhà vua l ấy vàng b ạc v ề cho
mọi người".
Từ đó, chàng nghèo khổ nọ đã nhiều lần lấy được của cải nhà vua phân phát cho
người nghèo. Kho báu của nhà vua ngày càng vơi. Nhà vua tra kh ảo lính canh thì b ọn
họ dập đầu kêu oan. Trong bọn có người nói: ngày ngày anh ta chỉ thấy có mỗi một
con bướm bay ra, bay vào nhà kho, chứ tuyệt nhiên không thấy bóng một người qua
lại.
Nhà vua bày kế bắt con bướm. Thế là chàng trai mồ côi tốt bụng b ị nh ốt vào cũi, gi ải
về kinh đô. Tại sao lại có chuyện con bướm bay vào bay ra và con b ướm đó l ại là

chàng trai? Có người chưa hiểu cho là áo ma. Thật ra đó chính là vì chàng trai m ặc
chiếc áo tàng hình của nàng tiên thứ bẩy cho. Số là vì có một hôm chàng đi r ừng l ấy
măng, đốn củi, bị vướng cây nhọn rách một miếng nhỏ. Mẹ chàng không hay bi ết, bèn


đem vải thường vá vào một miếng nhỏ vừa bằng hai cánh bướm. Hình ảnh con bướm
ấy chính là miếng vải trần gian.
Thủa ấy, khi chàng trai đang bị giam cầm trong ngục tối, có lính canh gi ữ c ẩn th ận đ ể
chờ ngày xét xử, thì nước ta có giặc ngoại xâm. Thế gi ặc mạnh như vũ bão, ng ười
người bị chết, nhà nhà đau khổ, cả một vùng biên ải tan hoang. Tr ước tin tức t ới c ấp
báo về kinh đô, nhà vua chưa biết ứng phó ra sao thì từ trong ngục t ối, chàng trai tính
được vận nước, ngỏ lời xin được nhà vua cho đi giết gi ặc lập công. Nhà vua c ả m ừng,
lập tức chiều lòng chàng.
Chàng trai ra trận như một vị tù trưởng oai phong lẫm li ệt, đầu chít khăn đ ầu rìu màu
xanh, vận võ phục màu xanh. Nhân dân nghe tin, theo chàng đi đánh gi ặc r ất đông.
Nghe nói giặc có nhiều phép thuật, gươm chặt, giáo đâm không ch ết nhưng cũng b ị
đạo quân của chàng đánh cho tan tác. Giặc tan, đất nước thanh bình, chàng trai l ại
đem đoàn quân của mình lên vùng núi Đuổm lập trang trại để sinh s ống. Chàng không
cần chức tước, bổng lộc, ơn huệ của nhà vua.
Khi vị tướng đã trở về già, ông làm nghề thuốc chữa bệnh cho dân. Người đ ời g ọi ông
là ông lang già núi Đuổm. Tương truyền sau khi ông mất, dân trong vùng tưởng nh ớ
mà lập đền thờ trên núi Đuổm. Trong khi dựng đền, người ta x ẻ m ột cây mít làm đôi,
đem một nửa cây thả xuôi theo dòng sông Cầu. Tấm g ỗ mít trôi đ ến vùng Hà Châu
thuộc huyện Tư Nông tức Phú Bình bây giờ thì không trôi đi n ữa. Ở Hà Châu nhân dân
biết chuyện cũng lập đền thờ, gọi là đền Hạ để phân bi ệt đền Thượng núi Đuổm.
Ngừa xưa còn có câu Thượng Đu Đuổm, Hạ lục đầu giang.
Ngày nay, đền Đuổm đã bị thời gian và chiến tranh tàn phá, nh ưng n ền móng x ưa v ẫn
còn in dấu tích nhắc nhở về người xưa cảnh cũ. Đền đã được xây dựng l ại nhi ều l ần.
Ở đền chính, trên hai cột gian giữa còn đắp nổi một đôi câu đối.
Quan Triều đầu thánh thiên thu thái

Động Đạt giáng thần vạn cổ thanh
(Quan Triều sinh thánh ngàn năm thịnh
Động Đạt giáng thần vạn thủa xanh)
(Theo Vi Hồng và Vũ Anh Tuấn sưu tầm)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
1. Em hãy tìm hiểu nhân vật Dương Tự Minh qua các phương di ện: lai lịch, ph ẩm chât,
hành động... Nghệ thuật xây dựng nhân vật có điểm gì đáng lưu ý?
2. Ý nghĩa của câu chuyện.
LUYỆN TẬP
1. Suy nghĩ và hành động cụ thể của em để góp phần bảo vệ và gi ữ gìn Đền Th ượng
núi Đuổm và những di tích lịch sử văn hóa của địa phương.
2. Tìm đọc truyền thuyết "Sự tích Lưu Trung và Lưu Nhân Chú".

Bài 3: SỰ TÍCH SÔNG CÔNG, NÚI CỐC


- Truyền thuyết KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Hiểu được nội dung,nghệ thuật và ý nghĩa của truyện. Trân trọng những khát v ọng
mang tính nhân văn của nhân dân.
TIỂU DẪN
Núi Cốc và sông Công đã trở thành danh thắng của đất Thái Nguyên và đi vào huy ền
thoại. Ngọn núi và dòng sông ấy đã đi vào thơ, vào nhạc và in d ấu trong lòng người
Thái Nguyên. "Sự tích Sông Công, Núi Cốc" là một truy ền thuy ết được nhân dân Thái
Nguyên sáng tạo, lưu truyền. Qua thời gian, truyền thuyết ấy đã trở thành một viên
ngọc quý trong kho tàng văn học dân gian của tỉnh Thái Nguyên.
***
Chuyện kể rằng từ đời xửa đời xưa, tiếng cửa miệng của người dân tộc ở vùng h ồ này
nói là đời già, đời cũ, ở vùng Hồ Núi Cốc bây giờ có một chàng trai mồ côi v ốn là con c ả
của một gia đình nghèo khổ. Sau khi cha mẹ qua đời chàng ph ải tự ki ếm s ống nuôi các
em bằng nghề kiếm củi. Ngày ngày chàng mang dao, mang búa lên dãy núi Chúa ch ặt

hết củi cây đến củi cành từ sáng cho đến lúc ông mặt tr ời l ặn r ồi m ới v ề nhà. V ốn
trước chàng cũng được cha mẹ đặt cho một cái tên để gọi nhưng vì ngày nào chàng
cũng phải ngồi ăn hai bữa cơm đêm, chẳng những thế vào những ngày mưa ch ẳng lên
rừng kiếm củi được thì chàng lại phải mò mẫm trên đồng cạn dưới đồng sâu đ ể ki ếm
con cua con ốc nên mọi người đã quen gọi chàng là chàng C ốc. Năm tháng qua đi,
chính chàng cũng không còn nhớ tên thật của mình nữa. Vì nghèo quá, chàng C ốc cũng
chẳng được ai kết bạn với mình. Chàng chỉ có một cây sáo làm b ạn. M ỗi khi ti ếng sáo
của chàng vút lên thì con gà gô đang gáy ở rừng sồi gi ữa tr ưa nắng chói chang cũng
ngừng bặt, gió đang thổi cũng dừng lại để nghe. Muôn vạn c ỏ cây chim chóc n ơi n ơi
hễ nghe tiếng sáo của chàng cũng đều phải động lòng thương cảm. Ngày qua tháng
lại, khi các em chàng lớn lên mỗi người một n ơi thì chàng v ẫn ki ếm ăn m ột mình bên
dãy núi Chúa, bụng bảo dạ rằng mình đã rơi vào cái phận nghèo thì còn nói gì đ ến
chuyện vợ con. Thế rồi một ngày kia chàng lên đường tìm đến vùng Định Hóa ngày
nay và đi ở cho một nhà giàu. Đàn trâu của nhà này đông vô k ể. Nh ững nhà kho đ ựng
thóc lúa của họ cũng san sát mọc lên như một cánh rừng. Ruộng của h ọ cũng nhi ều
đến nỗi con nai phải chạy mỏi chân. Nhà này có một người con gái đẹp tuyệt trần.
Chẳng những thế mà nàng còn múa dẻo nổi tiếng khắp vùng. Nàng th ường có m ặt ở
những ngày đầu xuân khi bàn làng mở hội tung còn. Các trai bản ai ai cũng muốn
được hát si lượn qua hai bờ núi với người con gái ấy, nhưng tận đến khi tu ổi xuân c ủa
nàng đẹp rực rỡ, tài múa của nàng mềm mại như dòng nước uốn lượn của con su ối
trước nhà, nàng vẫn chưa nhận lời kết duyên với ai. Người ta gọi nàng là nàng Công.
Nàng vừa đẹp vừa hiền, lại vừa múa khéo, nhưng ít người được trò chuy ện. Trong khi
đó cha của nàng ra điều kiện kén rể rằng: ai muốn được làm r ể nhà nàng thì ph ải làm
công trong ba năm và không được sai phạm một điều gì. Hết th ời gian đó, cha nàng sẽ
cho gặp mặt nàng Công. Nàng bằng lòng với người nào thì lễ cưới sẽ được ti ến hành
ngay. Đã mấy năm trôi qua nhưng nàng Công chưa ưng lòng thu ận ý đ ẹp duyên v ới
một người nào. Bởi vì những người đến xin làm rể nhà nàng đông quá. Ngày cha nàng
cho họ gặp mặt con gái, họ đứng chen chúc dưới sàn. Khi nàng Công từ trong nhà
bước ra, ai cũng cố chen vai thích cánh để ngoi lên cho nàng đ ược nhìn tận m ặt, nên



nàng Công cứ đứng lặng trước đám người mà không rõ đây là nh ững con người hay là
những bộ xương biết đi biết nói. Nàng rùng mình bước vào trong nhà. Đám đông bu ồn
bã hồi lâu rồi mỗi người tản đi một ngả…
Vừa khi ấy nàng Công nghe thấy ở bên ngoài có tiếng sáo vút lên bay bổng, véo von.
Thoạt đầu nàng cũng không để ý lắm, nhưng hình như ti ếng sáo ấy c ứ len l ỏi vào tai
nàng, tìm đến phòng nàng đang ở để nói lên một nỗi cô đ ơn và c ảnh s ống éo len c ực
khổ của một người nào đó. Chẳng mấy chốc, nàng Công nghe ti ếng sáo đ ầm đìa n ước
mắt. Nàng quay ra sàn ngoài thì hình như ti ếng sáo cứ xa d ần. Nàng quay tr ở vào, v ừa
đặt mình nằm nghỉ thì tiếng sáo lại vút lên. Hôm ấy nàng thao thức đến n ửa đêm v ề
sáng vẫn không thể nào chợp mắt được. Nàng vùng dậy l ần tìm theo ti ếng sáo. Khi
tiếng sáo dẫn nàng vừa kịp đến ngôi lều của chàng trai n ọ thì ti ếng gà r ừng đã eo óc
gáy. Nàng Công vội vã ra về. Nàng chưa bi ết r ằng đó chính là ti ếng sáo c ủa chàng C ốc.
Đêm hôm sau, nàng lại đi tìm. Lần này hai người gặp nhau. Tho ạt đ ầu chàng C ốc th ấy
sự lạ đã toan tránh vào phía sau đống củi, nhưng nàng Công đã kịp nhận ra. Hai ng ười
trò chuyện đến khi biết được ý định chân thành của nàng Công, chàng C ốc m ới m ạnh
dạn ngỏ lời muốn được se duyên với nàng. Không ngờ nàng Công bằng lòng ngay. T ừ
đó, cứ đêm đêm tiếng sáo lại đưa nàng Công vào rừng v ới chàng C ốc và sáng mai ra
nàng đã có mặt ở nhà. Nhưng câu chuyện tình của họ rồi sau cũng không th ể gi ữ kín
mãi được. Người của nhà giàu một lần đem gạo muối vào cho chàng C ốc đã tìm th ấy
những sợi tóc mượt dài còn vương trên sàn chòi canh trâu nhà chàng. Người này vội
về báo cho ông chủ. Biết chuyện, nhà giàu lập mưu để ki ếm c ớ đuổi chàng C ốc đi.
Một lần họ ngầm sai người nhà chất cỏ khô để đốt chuồng trâu rồi đổ lỗi cho chàng
Cốc. Hôm ấy khi thấy lửa cháy rừng rực chàng Cốc chỉ bi ết mang cây sáo ra th ổi. Gió
bỗng nhiên ngừng bặt. Chàng Cốc đã mừng nhưng lửa không bi ết nghe ti ếng sáo, c ứ
lem lém liếm vào mái tranh giữa rừng già. Lũ trâu chạy ho ảng lo ạn. Chàng C ốc b ị l ửa
đuổi sát vào vách đá thì bỗng có một trận mưa như trút. Lửa tắt, chàng C ốc đã th ấy có
một ông lão râu tóc bạc phơ đứng ngay trước mặt mình. Chàng chưa hết bàng hoàng
thì ông lão tiến lại gần và nói cho chàng biết thâm ý của nhà giàu và khuyên chàng hãy
xẻo thịt trâu làm lương ăn rồi mau mau tìm đường thoát kh ỏi n ơi này. Chàng C ốc ch ưa

kịp quỳ xuống tạ ơn thì ông lão đã biết mất. Chàng vội vã làm theo l ời ông lão. Ngay
trong đêm ấy, chàng tìm đường về quê cũ. Chàng không quên nhờ ti ếng sáo chuy ển l ời
mách bảo đến với nàng Công. Ở nhà mình, vừa nghe ti ếng sáo k ể h ết s ự tình, nàng
Công cũng vội vã khoác tay nải hạt vừng lên vai r ồi tr ốn cha, v ượt sàn ch ạy vào r ừng
gặp người yêu. Cũng lúc ấy, cha nàng được tin chàng C ốc đã cao chạy xa bay, ông ta v ội
vàng chạy sang buồng của cô con gái cưng. Nhìn thấy cửa v ẫn đóng, then v ẫn cài mà
nàng Công không còn ở đó, ông ta vội vàng cho người ngựa đuổi theo. Nàng Công k ịp
trao cho chàng Cốc tay nải hạt vừng thì người ngựa nhà nàng đã r ầm r ập ở phía sau.
Chàng Cốc vội vàng tránh được. Nàng Công bị người nhà bắt v ề. Đ ể ph ạt tội trái ý cha,
nhà giàu đã đẩy nàng vào tận nhà trong rồi cho người canh gác như m ột tên tù n ặng.
Lại nói chàng Cốc sau khi thoát khỏi cu ộc rượt đuổi của người nhà nàng Công, chàng
chạy mải miết quên cả cây móc, gai cào chân tay bật máu tươi. Chàng không bi ết r ằng
chiếc tay nải hạt vừng đã bị cây cối dọc đường móc rách từ lúc nào. H ạt v ừng c ứ th ế
rải theo từng bước chân của chàng, cho đến khi chàng vừa đặt chân đ ến ng ọn núi
Chúa quê mình thì những hạt vừng trong tay nải cũng vừa hết. Lúc b ấy gi ờ th ấy vai
mình nhẹ bỗng, đặt tay lên nắm chiếc tay nải chàng m ới hi ểu ra cái ý sâu xa c ủa nàng
Công. Từ đó chàng lại kiếm sống theo nghề cũ và ngày này qua tháng khác v ẫn mong
theo lối cây vừng đón gặp được người yêu. Vừng đã ra hoa, hoa vừng đã thành qu ả, r ồi


quả vừng khô, cây vừng chết, hạt vừng lại rụng xuống mọc thành cây. Cây v ừng l ại ra
hoa….Đã bao mùa cây vừng thay đổi như thế rồi mà nỗi đợi chờ của chàng vẫn c ứ
thăm thẳm vô vọng. Một ngày kia chàng Cốc nhịn đói suốt mấy ngày r ồi c ố trèo lên
đỉnh ngọn núi Chúa. Chàng cứ ở mãi trên ấy, ngày đêm đăm đắm nhìn v ề ph ương B ắc.
Nơi ấy có quê hương nàng Công.
Lại nói về nàng Công từ khi bị người cha giàu có và độc ác rẽ duyên, trong tình c ảnh
như bị giam lỏng, nàng cũng vô cùng đau khổ. Ngày cũng như đêm nàng ch ỉ còn bi ết an
ủi mình bằng những dòng nước mắt. Nàng khóc suốt tháng năm dài, thân hình nàng
gầy quắt lại, vàng võ chỉ còn da bọc xương. Nước mắt của nàng ch ảy hoài đ ến n ỗi
người cha của nàng cũng phải động lòng. Ông ta hối hận m ới ch ịu sai b ảo người nhà

không cần canh gác nữa. Chỉ cần có thế, nàng Công vội vàng tìm cách theo v ề v ới
chàng Cốc. Nàng cứ lần theo những vệt cây rừng mà đi. Nước mắt nàng chảy dòng
theo mỗi bước chân. Nàng tìm đến chân ngọn núi Chúa thì chàng C ốc đã không còn ở
đây nữa. Nàng Công chưa biết rằng chàng C ốc đã trèo lên đ ỉnh núi. Trong c ơn tuy ệt
vọng, nàng Công quanh quẩn cứ lần theo chân núi mà tìm. Trời đất như c ảm thông v ới
nỗi lòng nàng. Một bà tiên nhân từ đã hóa thành m ột bà cụ già nhân hậu d ựng lên ở
đây một ngôi quán nhỏ, rồi đón nàng Công về với bà trong m ột buổi chi ều tà. Bà c ụ
đem hết lời khuyên giải người con gái. Bà nói mãi nói mãi từ lúc trăng lên r ồi trăng
lặn. Nhưng tấm lòng nhân từ của bà cụ vẫn không ngăn được nước mắt nàng Công đã
chảy thành một con suối tự bao giờ. Dòng suối nước mắt của nàng c ứ đ ầy lên và ôm
lấy chân ngọn núi Chúa. Từ tạ bà cụ, nàng cũng trèo lên đ ỉnh núi. Nàng Công tìm đ ược
chàng Cốc thì chàng đã đau khổ và chết héo tự bao gi ờ. Nàng Công đã đau đ ớn v ừa
khóc vừa đắp đất thành mộ cho người yêu trên đỉnh núi cao. Nhưng v ới hai bàn tay
con gái, nàng đắp rất chậm chạp. Đàn mối rừng cảm động trước m ối tình éo le ngang
trái, chúng kéo về cùng nàng đắp mộ chàng Cốc thành một ng ọn núi l ớn, đ ất đ ỏ ối.
Quả núi ấy cứ cao mãi lên. Có người đời sau còn nh ớ câu chuy ện tình đau th ương c ủa
hai người, đem kể lại. Từ đấy, người đời gọi dòng suối nước mắt kia là suối nàng
Công, còn ngọn núi cao nhất ở quê hương chàng Cốc được gọi là ngọn núi C ốc.
Lại nói sau khi được đàn mối giúp sức, nàng Công đắp xong n ấm m ộ thì nàng cũng teo
tóp dần đi trong bộ quần áo rực rỡ. Nàng héo hắt tàn lụi r ồi ch ết. Nàng bi ến thành
con chim công ngày nay. Đó chính là con chim công mà ng ười Tày g ọi là gà công hay gà
cúc. Ngày nay các loài gà ở trong rừng như gà cỏ, gà lôi, gà gô…th ảy đ ều g ọi là gà thì
đều ăn mối. Riêng chỉ có gà công là vì còn nhớ công của đàn m ối giúp mình nên ch ẳng
bao giờ ăn mối.
( Theo Vũ Anh Tuấn và Vũ Phong sưu tầm)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
1. Tình yêu của chàng Cốc, nàng Công được tác giả dân gian kể l ại như th ế nào? Tìm
những yếu tố thần kỳ có trong truyện và cho biết tác dụng của những yếu tố đó.
2. Ý nghĩa của truyện là gì?
LUYỆN TẬP

1. Hãy tóm tắt các sự kiện chính trong tác phẩm. Hãy k ể lại theo cách c ủa em n ội dung
câu chuyện.
2. Sưu tầm tranh ảnh và các bài thơ, bản nhạc viết về mối tình huyền thoại này.


Bài 4: TUA TỀNH TUA NHÌ
(Truyện cổ tích Tày - Nùng, Định Hoá, Thái nguyên)
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Hiểu được nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa của một câu chuy ện có mô típ gi ống v ới
truyện Tấm Cám của người Kinh.
TIỂU DẪN
Tua Tềnh Tua Nhì là truyện cổ tích của dân tộc Tày Nùng, được sưu tầm ở vùng Định
Hóa. Truyện có môt típ giống với truyện cổ tích Tấm Cám của ng ười Kinh, m ột trong
những câu chuyện tiêu biểu cho loại truyện cổ tích thần kì Việt Nam và cũng là lo ại
truyện quen thuộc ở nhiều nước trên thế giới như ở Thái Lan, Cam – pu – chia, Đ ức,
Pháp... Truyện kể về cuộc đời của cô gái mồ côi bất hạnh và ước mơ chi ến th ắng cái
ác để giành và giữ hạnh phúc của mình.
***
Ngày xưa, đời già đời cũ có con trâu còn bi ết ngồi thì ở bản n ọ có m ột gia đình sinh
được hai người con gái. Người chị là Tua Tềnh, người em là Tua Nhì. Mẹ Tua Tềnh mất
sớm, Tềnh phải ở với dì ghẻ, người vợ kế của bố Tềnh.
Người vợ kế rất độc ác. Mụ bắt Tềnh làm việc suốt ngày không một lúc nào công việc
dời chân tay Tềnh. Chăn trâu, lấy củi, gánh nước, xay thóc, giã g ạo, n ấu cám l ợn, chăn
gà vịt cùng các việc không tên khác trong nhà đều m ột tay T ềnh lo toan. Trong khi đó
thì con Nhì suốt ngày rong chơi, ăn ngon mặc đẹp, người béo múp. T ềnh thì rách r ưới
như vây cá cờ, người gầy đét vì chẳng bữa nào được no bụng. Nhưng lạ thay Tềnh
càng lớn càng xinh đẹp, còn Nhì càng l ớn càng béo núc ních nh ư con v ịt b ầu, đi đ ến
đâu lăn như một cái cối đất. Nhì quen ăn ngon mặc đẹp l ại được mẹ chi ều chu ộng,
nên khinh người ra mặt vì thế cả mường ai cũng ghét Nhì. Trái l ại T ềnh là con ng ười
quen lao động, gặp ai dù mình đang bận trăm công nghìn vi ệc thì Tềnh cũng s ẵn sàng

giúp, gặp người già người yếu gánh nặng giữa đường thì Tềnh sẵn sàng đ ỡ cho h ọ
một vai nếu Tềnh đi không….Vì thế cả mường ai cũng thương yêu Tềnh!
Còn Nhì càng lớn càng xấu nết, hắn cũng bắt chước mẹ mắng Tềnh như bà chủ v ới kẻ
ở trong nhà. Người bố tuy thương Tềnh nhưng lại sợ vợ nên chẳng dám bênh Tềnh.
Một năm vào đầu xuân nhà vua mở hội thi tài, thi sắc đẹp của những người con gái
trong cả nước để cho hoàng tử kén vợ. Giữa mùa xuân trăm hoa trên cành đang khoe
trăm hồng nghìn tía, nhà vua mở hội. Người người trẩy hội áo quần trăm màu r ực r ỡ
cùng ngàn hoa đang khoe sắc thắm xuân sang, nhất là những cô gái có tài s ắc thì càng
ăn mặc đẹp hơn: Họ ngồi trong kiệu hồng hay trong những chi ếc võng đào. Áo qu ần
của các cô gái ấy rực rỡ như những nàng tiên trên tr ời vừa m ới giáng tr ần đ ể d ự h ội.
Mẹ con nhà Nhì cũng đua nhau sắm sửa hàng tháng để đi dự hội thi sắc thi tài. Mụ cho
Nhì ăn mặc như một bà hoàng hậu: áo vóc, quần nhi ễu…kh ắp người đeo đ ầy nh ững
vàng bạc, ngọc ngà…
Đến ngày mở hội thì mẹ con Nhì không muốn cho Tềnh đi xem h ội vì s ợ s ắc đ ẹp c ủa
Tềnh hơn Nhì, mụ bèn trộn một đấu đỗ với vừng và bảo Tềnh:
- Mày phải ở nhà nhặt hết chỗ đỗ và vừng này mỗi thứ riêng ra thì mới được đi dự hội,
nếu không tao về thì mày chết.
Tềnh sợ quá cô ngồi khóc hu hu. Mấy con qu ạ đậu trên cành cay to đ ầu nhà lên ti ếng
mách cho Tềnh:
Cù cù, quà quà


Au xâng mà xoà
Au đống mà phắt…
Cù cù, quà quà
(Quạ quạ, quà quà
Đem sàng mà sàng
Đem nia mà sảy
Quạ quạ, quà quà…)
Nghe lũ quạ mách thế, Tềnh liền đem sàng mà sàng, đem nia mà s ảy. T ềnh đ ược đ ỗ ra

đỗ và vừng ra vừng. Tềnh chuẩn bị đi dự hội, nhưng Tềnh chẳng có quần áo đẹp đ ể đi
hội. Tềnh lại ôm mặt khóc. Trong khi Tềnh đang nghẹn ngào khóc lóc thì b ỗng cô
nghe thấy có tiếng hỏi mình:
- Cháu làm gì mà khóc đắng, khóc cay như thế?
Tềnh ngẩng đầu lên, một bà già tóc bạc phơ đứng trước mặt, tay chống gậy. Tềnh
hoảng sợ nhưng nhìn kỹ thì thấy bà già rất hi ền hậu. T ềnh yên tâm k ể l ại cho bà lão
nghe về tình cảnh của mình. Bà lão an ủi:
- Cháu đừng khóc. Cháu muốn đi dự hội để bà giúp cho.
Nói rồi bà lão đưa cho Tềnh một gói nhỏ. Rồi bà lão bi ến đâu m ất. T ềnh m ở cái gói
nhỏ ra xem: Tềnh thấy những bộ quần áo nhỏ xíu nhưng đẹp vô cùng, trong gói nh ỏ
còn có nón quai thao, có con ngựa, có đôi giày, xuyến. khuyên…nh ưng m ọi th ứ đ ều nh ỏ
xíu cả. Tềnh bày từng thứ ra mặt đất ngắm nghía. Nhưng thật kỳ l ạ: khi T ềnh đ ặt
xuống đất thì tất cả mọi thứ đều to lên như mọi thứ thật. Tềnh ướm th ử b ộ qu ần áo
thì thấy vừa như in…Rồi Tềnh ăn vận mọi thứ thì cũng đều v ừa như in. Con ng ựa
hồng mao rực rỡ hí vang cả mường ý như giục Tềnh: mau mau cưỡi nó đ ể đi xem h ội!
Tềnh ăn vận đầy đủ như người con gái vua không bằng. Tềnh nh ảy lên con ngựa đã
sẵn yên bạc, cương vàng đi đến kinh đô dự hội thi tài sắc.
Khi sắp vào hội, phải qua một cái cầu, chẳng may Tềnh đánh rơi một chi ếc giày
xuống suối. Hoàng tử cưỡi ngựa đi đến cái cầu đó thì con ngựa của hoàng tử không
chịu đi mà cứ vếch đầu lên trời mà hí vang cả một vùng! Hoàng tử sai binh lính xu ống
suối mò thì thấy một chiếc giày rất xinh đẹp! Hoàng tử đem giày đó v ề cung. T ềnh đi
vào hội, ăn mặc rực rỡ và đẹp như nàng tiên thật sự, hai mẹ con Nhì v ừa căm t ức v ừa
lạ lùng nhưng không làm gì được.
Giữa hội nhà vua tuyên bố:
- Người con gái tài giỏi trước hết phải biết dệt vải. Dệt nhiều và đ ẹp. H ẹn ngày mai ai
mà có đủ vải lợp một cái nhà lớn thì ta sẽ kén làm con dâu của ta.
Những cô gái có sắc đẹp lại khéo dệt vải - vải được tích sẵn hàng mấy rương thì thi nhau
mang vải đến hội để dựng nhà.
Sắc đẹp thì Tềnh vào loại nhất, nhưng Tềnh chẳng có m ột tấm v ải nào c ả, nên T ềnh
lại ngồi mà khóc…Bà già lại hiện ra trước mặt Tềnh và đưa cho Tềnh m ột cái dây nh ỏ.

Tềnh phàn nàn: “cháu cần hàng vạn sải tay vải cơ, một cái túi nh ỏ tí th ế này thì ch ẳng
làm được gì đâu…” Tềnh nói chưa dứt thì bà lão nói:
Con! Ta là mẹ của con. Ta từ ngày về với tổ tiên thì không ngày nào là không ở c ạnh
con. Mọi nỗi khổ cực của con ta biết hết. Nhưng chưa đến lúc ta giúp con…Con hãy
nghe lời mẹ: trong cái túi này đã có đủ cột kèo chạm trổ…bà lão ch ỉ nói th ế và bi ến
mất.
Ngày hôm sau, những người con gái có sắc đẹp đều thuê hàng nghìn th ợ đ ến h ội đ ể
dựng nhà và lợp bằng vải. Mẹ con Nhì cũng mang thợ và vải vóc đến h ội đ ể d ựng nhà.
Tềnh cũng đến chiếm một chỗ để dựng nhà theo yêu cầu c ủa nhà vua. M ẹ con con


Nhì nhìn thấy Tềnh thì bĩu môi khinh bỉ: “Bà chúa còn ch ẳng ra gì, hu ống h ồ sâu b ọ”
(the đeng giảng pần - lọi là mèng rừn).
Hàng trăm ngôi nhà của hàng trăm cô gái đã d ựng xong, v ới hàng trăm nghìn th ợ t ấp
nập. Còn Tềnh thì thui thủi một mình: lắp dựng một cái nhà ch ỉ nh ỏ xíu bằng cái hòm
đựng quần áo!
Ba hồi trống lớn chấm dứt thì việc thi dựng nhà nổi lên vang v ọng kh ắp vách đá thì
cái nhà nhỏ xíu của Tềnh cũng lớn lên vùn vụt theo nhịp tr ống c ủa nhà vua. Ti ếng
trống vừa dứt thì cái nhà của Tềnh cũng lớn lên thành một toà lâu đài v ới m ột mái v ải
trăm ngàn màu làm quáng mắt tất cả mọi người đứng xem. Vua ch ấm cho T ềnh đ ược
giải nhất!
Cuộc thi thứ hai xem ra có vẻ dễ nhưng thật oái oăm: Nhà vua m ắc võng đào vào đúng
chỗ giọt gianh của cái lâu đài của Tềnh và ra l ệnh. Cô nào trèo lên mái nhà lăn xu ống,
mà lăn trúng võng đào, sau đó lại đi vào chi ếc giày của hoàng t ử mà v ừa nh ư in thì
người đó sẽ chính thức làm vợ hoàng tử!
Tất cả các cô gái trong cuộc thi đều lần lượt trèo lên mái nhà và lăn xu ống võng đào
của nhà vua. Rất nhiều cô lăn ra ngoài võng nhưng cũng có cô s ắp r ơi vào võng thì cái
võng của vua lại tự nó đung đưa tránh hết, không một cô gái nào lăn trúng vào võng
cả.
Tềnh là người lăn cuối cùng. Tềnh lăn trúng võng đào nhà vua. Sau đó hoàng t ử đích

thân mang chiếc giày hoàng tử tìm thấy ở dưới suối Tềnh ướm thử. Tênh đi chi ếc giày
ấy vừa như in lại rất giống chiếc giày kia của Tềnh. Hoàng tử cùng nhà vua r ước Tềnh
về cung và cưới linh đình đến nửa tháng.
Sau khi cưới xong được ít lâu thì nhà vua lâm bệnh và mất. Hoàng tử lên ngôi thay vua
cha, Tềnh trở thành hoàng hậu. Hoàng hậu đẻ được một đứa con trai. Cu ộc s ống ở
kinh đô với địa vị hoàng hậu không làm cho Tềnh quên ngày gi ỗ mẹ. T ềnh xin phép
nhà vua về quê để dự giỗ mẹ. Về đến nhà hai mẹ con Nhì gi ả v ờ đón ti ếp T ềnh ngon
ngọt. Mụ dì ghẻ nói trong khi đang cúng giỗ mẹ của Tềnh:
- Dì nghe nói ngày còn sống mẹ của con hay ăn cam. Con hãy ch ịu khó trèo lên cây cam
bên bờ ao lấy vài quả cúng mẹ. Tềnh nghe thấy phải. Mùa này những cây cam xung
quanh bờ ao nhà Tềnh sai quả, trĩu cành những quả cam vàng mọng lúc l ỉu r ủ xu ống
mặt ao. Nhìn những cây cam Tềnh càng nhớ đến mẹ: Vừa tr ẩy cam v ừa th ấy vui vui
trong lòng vì Tềnh nghĩ rằng: mẹ mình sẽ được ăn cam ngon lành từ chính tay mình
trẩy cho mẹ! Trong khi Tềnh đang say sưa trẩy cam thì nghe ở d ưới g ốc mụ dì gh ẻ
đang chặt gốc cam.
- Dì ơi! Dì làm gì ở dưới gốc cây đấy! Tềnh hỏi vọng xuống.
- Không biết kiến ở đâu đến nhiều vô kể, dì đuổi kiến hộ cho con đấy mà.
Cây cam đổ xuống bờ ao. Tềnh chết dưới ao sâu. Mụ dì ghét l ột quần áo của Tềnh cho
Nhì mặc rồi mụ đưa con Nhì vào kinh đô thay Tềnh. Nhì vào đ ến cung, con c ủa T ềnh
lon ton chạy ra đón mẹ, nhưng nhận ra không phải mẹ của nó, nó kêu lên:
(Sửa khoá pần sửa khoá mé
Khen kha pần ké cần giau)
Quần áo là quần áo của mẹ
Chân tay lại chân tay kẻ ác kẻ gian!
Hoàng tử cũng nhận ra Nhì không phải là vợ của mình, chàng bu ồn, nh ớ v ợ vô ng ần,
suốt ngày hoàng tử hết ra lại vào trong cung, hết ngắm thứ này r ồi lại ng ắm th ứ khác
của vợ. Nhớ vợ quá một hôm hoàng tử lang thang khắp bản mường mong tìm thấy v ợ.
Khi đi qua bờ ao nhà Tềnh, nơi mà Tềnh đã bị chết, hoàng tử th ấy m ột bông hoa gi ống



như một bông hoa sen nhưng đẹp hơn nhiều. Bông hoa nổi rực rỡ trên mặt nước.
Hoàng tử thấy đẹp quá, đứng lại ngắm bông hoa rất lâu. Bỗng bông hoa cất ti ếng nói:
(Ơi cần khéc lạ quá tàng
Cần khéc làng quá lò
Báo ké nhằng xuôn xỏ xa mìa?
Báo đếch nhằng dàm dè xe mẻ bấu nỏ?)
“Ơi người khách lạ qua đường
Người khách sang ngang lối
Trai lớn có len lỏi tìm vợ?
Trai nhỏ có khóc nhè tìm mẹ?”
Hoàng tử lội xuống ao vớt bông hoa biết nói đem về cung. Ngày đêm hai b ố con nâng
niu bông hoa đó trên tay mà ngắm nghía mà th ơm mãi lây h ương không bao gi ờ chán.
Thật lạ thay bông hoa không cành bám, không có gốc ở đất nh ưng bông hoa ấy c ứ
ngày càng toả hương và khoe sắc. Sắc hoa rực rỡ như ánh hào quang. Bông hoa càng
nằm trên tay hoàng tử lâu ngày càng toả hương sắc ngào ngạt, càng rực rỡ.
Thấy nhà vua chỉ yêu quí bông hoa mà chẳng chú ý gì đến mình, Nhì tức l ắm. Nhân lúc
nhà vua có việc bàn cùng quần thần, con Nhì đem bông hoa ấy vò nát và ném xu ống
chân dậu. Một gà trống thấy liền nhặt ăn hết những vụn hoa. Con gà tr ống sau khi ăn
hết bông hoa ấy tự nhiên cất tiếng gáy ngon ngọt l ạ thường. Và lông con gà tr ống s ặc
sỡ chưa bao giờ thấy. Về nhà thấy mất bông hoa quí, nhà vua bu ồn vô h ạn, nh ưng l ại
thấy con gà trống của mình tự nhiên trở nên rực rỡ, nhà vua l ại b ắt con gà tr ống lên
nhà. Cũng thật là lạ, khi hoàng tử định nhốt con gà tr ống vào cái l ồng s ơn son thi ếp
vàng thì gà trống cất tiếng gáy và cất thành lời:
(Ọc ó ó…
Dá au xúng mà to
Khỏi chắc lo, chắc lẹo)
Ò ó o…
Đừng đem lồng mà nhốt
Tôi có chước tôi lo…
Nhà vua liền thả con gà trống ra. Nhà trống không chạy mà l ại quanh quẩn v ới nhà

vua và đứa con. Lâu lâu gà trống lại cất tiếng gáy ngon ngọt cho hai b ố con nghe. Và
xoè cánh xoè lông rực rỡ ra múa rất đẹp cho hai bố con nhà vua xem. Hai b ố con nhà
vua lại say mê với con gà trống. Thấy vậy Nhì gi ận l ắm, nhưng không bi ết làm th ế
nào. Một hôm nhân nhà vua đi vắng, Nhì đem gà tr ống th ịt ăn. Nhì đưa cho đ ứa con
của Tềnh hai cái coòng (đùi gà), nhưng đứa con của Tềnh không ăn. Chú bé lén đem
hai cái đùi gà chôn đằng sau nhà. Nhà vua thấy mất gà bu ồn nh ư mất h ồn, câm nh ư
trâu đã ăn mất lưỡi! Nhưng chẳng bao lâu tư chỗ chôn hai cái đùi gà li ền m ọc lên hai
cây trúc xinh đẹp lạ thường. Hai cây trúc mập mạp, lá cây trúc trăm màu. Hai b ố con
nhà vua ngày ngày ra đây chăm nom cây trúc và đem võng đào ra m ắc ở hai cây trúc
suốt ngày. Từ những cành lá trăm màu của hai cây trúc phát ra ti ếng nh ị êm ái su ốt
ngày ru hai bố con nhà vua ngủ. Từ cành lá cây trúc làn gió mát rượi phe phẩy m ơn
man trên da thịt vua. Vua ngủ say và thấy mình sảng khoái vô cùng. Vì th ấy nhà vua
yêu hai cây trúc gấp bội; ngày ngày quyến luyến v ới hai cây trúc không thèm ngó
ngàng gì đến con Nhì cả. Con Nhì lại càng tức điên ng ười. Nhì tr ộm ch ặt hai cây trúc
đó đem vào nhà làm sào căng màn. Nhưng l ạ khi con Nhì đi trong nhà, qua l ối nào cái
sào màn cũng đâm vào mắt. Nhì bực quá, đem hai cái sào màn đun b ếp. Hai cây trúc
cháy không ra cháy mà chỉ khói um cả nhà. Nhì đi đ ến đâu khói c ủa cây trúc đang đun


ở trong bếp cũng ùa theo và phả vào mắt Nhì, Nhì không m ở được m ắt. Ở c ạnh cung
vua, có một bà cụ goá nghèo khổ. Cụ đã già có ít ruộng phải nhờ người làm. Hôm ấy bà
cụ nhờ người đến gặp giúp, nên bà cụ phải làm cơm cho những người đến giúp gặt
ăn. Nhưng không có lửa để nhóm bếp, những người nhà xung quanh hôm ấy cũng tự
nhiên tắt bếp hết. Bà cụ mới đi vào cung vua xin lửa. Nhân có ng ười xin l ửa, Nhì đem
hai cây trúc cháy dở ấy đưa cho bà cụ , và nhổ nước bọt theo sau bà cụ mà nói r ằng:
- Phì! Của ma bắt quỷ tha hãy ra khỏi nhà tao!
- (Phỉ! Của rại pây quây, của đây mà xẩư!)
Bà goá một thân một mình đang lom khom nấu nước, người đi làm h ộ đã s ắp v ề th ế
mà bếp lại nhập nhạp nhèm nhèm! Bà cụ cúi xuống thổi. Ngọn lửa từ hai cây trúc
bùng cháy sáng chói cả mắt. Rồi một gióng trúc nổ to như người ta đốt pháo. T ừ trong

gióng trúc, theo tiếng nổ có một cô gái đẹp như tiên bật ra ngồi cạnh bếp. Cô tiên kêu:
- Ôi nóng quá! Nóng quá. Cụ làm ơn quạt hộ cháu!
Bà cụ tuy rất bận nhưng cũng phải dừng tay quạt cho nàng tiên Trúc. Bà goá qu ạt
mãi, quạt mãi nhưng nàng tiên Trúc vẫn kêu nóng. Bà quạt đã lâu và m ỏi tay bà già
bảo:
- Nàng cố chịu khó nhá, già này còn bận nấu cơm cho người đi làm giúp s ắp v ề đ ến
nơi rồi!
- Già ơi, già cứ quạt cho cháu, tí nữa cháu mát, cháu sẽ giúp bà. Th ấy nàng tiên Trúc
kêu thảm thiết quá bà đành quạt cho nàng tiên Trúc. Bà già quạt mãi qu ạt mãi cho
đến khi chiều tối, mọi người đã gánh thóc đầy về nhà, nàng tiên Trúc m ới giúp bà già
được. Nàng tiên bảo:
- Già không phải làm gì cả. Già cứ xếp những bát không lên mâm, r ồi l ấy lá chu ối che
lại, tí nữa tự khác có cơm cho khách ăn!
Nàng tiên vừa nói vừa giúp bà làm, chỉ trong nháy mắt là xong.
- Bây giờ cháu vào buồng, bà không được nói cho ai biết rằng có cháu giúp nhé! Nói r ồi
nàng tiên đi vào trong buồng. Khách khứa đi làm về rửa chân tay xong, h ọ th ấy mâm
xếp đầy đầy. Khách vào ăn, mọi người mở những tấm lá chu ối l ớn che trên m ặt mâm
lên thì thấy toàn thịt và rất nhiều món ăn ngon lành…Thật không thi ếu m ột th ứ gì.
Ngoài ra còn hàng trăm thức ăn lạ mà người trần chưa được nếm bao giờ.
Từ đấy nàng tiên Trúc ở luôn với bà cụ, ngày ngày nàng tiên d ệt v ải, d ệt l ụa cho bà c ụ
đi bán. Hai bà cháu sống với nhau thật hạnh phúc, nhưng lòng nàng tên Trúc thì không
lúc nào nguôi nhớ chồng. Một hôm nàng tự tay làm thức ăn, đủ 120 vị ngon ng ọt. Nàng
nhờ bà cụ mời nhà vua đến dự tiệc, nhưng bà goá không dám vì già nghèo khó lâu
nay…Bà già thấy mình không xứng tiếp nhà vua. Nhưng vì nàng tiên Trúc nài mãi, n ể
lời nàng bà lão chống gậy đến mời nhà vua. Nhà vua đang bu ồn nh ớ v ợ, nên cũng
thách một câu cho bà cụ về cho xong:
- Già mời ta đến dự tiệc thì phải có lụa năm màu, vóc năm sắc trải từ cửa nhà già đến cung
điện của ta thì ta mới đến.
Bà già lại về nói với nàng tiên Trúc. Nàng tiên trúc bèn đem h ết s ố vóc l ụa mà nàng đã
dệt được từ lâu nay trải từ nhà bà già đến cung vua. Nhìn những t ấm vóc l ụa: “Hình

như hình vợ cũ, bóng như bóng vợ ta” (Bóng pây bỏng mìa hây, ngàu pần ngàu mìa
cáu). Nhà vua lẩm bẩm. Càng nhìn những tấm vóc lụa nhà vua càng nh ớ đến v ợ. Đ ể
khuây khoả nhà vua đến nhà bà già dự tiệc. Nhà vua đi trên những tấm l ụa mà th ấy
mát tận tim…Nhà vua càng nhớ vợ.
Nhà vua cùng bà cụ và con trai ngồi ăn ti ệc. Những món ăn rất l ạ r ất ngon, c ứ gi ống
cái hương vị của những bữa ăn mà người vợ cũ đã xào nấu cho nhà vua ăn. Nhà vua


hỏi gặng mãi ai đã xào những món thức ăn này. Nhưng một mực bà già cứ bảo là bà
làm lấy. Vì nàng tiên Trúc đã dặn bà cụ: dù nhà vua có h ỏi th ế nào đi n ữa thì cũng
đừng nói là nàng nấu nướng những món thức ăn này.
Đứa con vua đang cầm chiếc coòng gà, định ăn thì có một con mèo ở đâu ch ạy đ ến
giằng lấy trên tay và chạy tọt vào buồng. Đứa bé chạy đuổi theo…Nh ưng đ ứa bé b ỗng
chạy ra và reo lên:
- Bố ơi! Bố ơi!... Mẹ con ở trong buồng này này, vừa nói thằng bé vừa ch ỉ vào trong
buồng.
Nhà vua buồn vô hạn:
- Con ăn đi! Mẹ con đã chết từ lâu rồi…
Nhưng đứa bé cứ nhất nhất bảo mẹ nó còn sống và ở trong bu ồng. Nếu ph ải m ẹ c ủa
con thì con hãy xin mẹ con vắt sữa vào lòng bàn tay đem đây cho b ố xem! Đ ứa bé ch ạy
vào, lúc sau đứa bé ra, ngửa lòng bàn tay cho b ố nó xem. Nh ững gi ọt s ữa tr ắn ng ần
thoảng hương thơm. Nhà vua nhìn và một giọt nước mắt nhà vua rơi vào lòng bàn tay
đứa con đang đựng những giọt sữa. Những giọt sữa sôi lên và càng toả h ương th ơm
ngào ngạt. Nhà vua nhận ra giọt sữa của chính v ợ cũ của mình. Nhà vua c ất ti ếng h ỏi
vọng vào buồng:
Xin mẹ Pụt trên trời
Trình mẹ then trên cao
Phải vợ ta thì ra xem mặt
(Xo mẻ pụt nưa bân
Chiềng mẻ then nưa uja

Dừa mía câu chiềng nà chiềng gần)
Tềnh tức nàng tiên Trúc - ở trong buồng thấy lòng ngọt mọi khúc ruột. Vì nàng biết rằng
chồng nàng vẫn thương yêu nàng. Nàng đi ra gặp chồng. Hai vợ chồng bấy lâu lại gặp
nhau vui mừng hơn cả cá gặp nước lũ. Họ cười họ khóc với nhau rồi hai vợ chồng xin
phép bà cụ già láng giềng trở về cung.
Tềnh trở về đẹp rực rỡ hơn xưa mười lần, Nhì vừa sợ vừa thèm khát được s ắc đ ẹp
như chị. Nhì ngọt ngào:
- Chị Tềnh ơi chị Tềnh. Chị làm sao mà được đẹp như vậy?
Thấy hai mẹ con Nhì đã độc ác với mình quá nhiều, nên Tềnh bảo:
- Em muốn đẹp như chị thì khó gì! Cứ nấu một chảo to nước sôi r ồi n ằm vào lo ỏng,
bảo người khác đổ nước sôi vào đó nó bong lượt người đi thì được đẹp ngay thôi!
Nhì nghe theo lời Tềnh. Nhì sai lính đun nước sôi. Và Nhì nằm vào trong lo ỏng, cho
lính đổ nước sôi vào. Nhì chết luộc, chết nhừ thịt nhừ xương.
Từ đấy Tềnh sống với chồng con trong cung vua êm ấm.
(Theo Vũ Anh Tuấn và Vũ Phong sưu tầm)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
1. Hãy xác định bố cục của truyện.
2. Phân tích cuộc đấu tranh giữa Tua Tềnh và mẹ con Tua Nhì để th ấy đ ược nh ững giá
trị nội dung cũng như đặc sắc nghệ thuật của truyện.
LUYỆN TẬP
Tìm những yếu tố thần kì có trong truyện và cho biết tác dụng của những y ếu tố đó.


Bài 5: BIỆN PHÁP SO SÁNH TRONG TRUYỀN THUYẾT, CỔ TÍCH
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Hiểu được tác dụng của các biện pháp so sánh thường xuyên được sử dụng trong
truyền thuyết và cổ tích. Có kĩ năng xác định, phân tích và s ử d ụng bi ện pháp ngh ệ
thuật này.
1. Tìm hiểu khái niệm biện pháp so sánh.
2. Tìm hiểu biện pháp so sánh trong truyện cổ tích "Tua T ềnh Tua Nhì" - truy ện c ổ

tích Tày Nùng.
3. Hãy tìm thêm những ví dụ có sử dụng biện pháp so sánh trong truy ền thuy ết, c ổ
tích ở Thái Nguyên.
4. Hãy phân tích các ví dụ trên để chỉ ra hi ệu quả nghệ thuật của bi ện pháp so sánh
đã được sử dụng.

Bài 6: THI KỂ CHUYỆN TRUYỀN THUYẾT, CỔ TÍCH
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Biết cách kể lại một truyện truyền thuyết hoặc cổ tích.
1. Học sinh chuẩn bị ở nhà: tập kể chuyện với các tác phẩm: Sự tích Đền Thượng núi
Đuổm; Lưu Trung và Lưu Nhân Chú, Sự tích Sông Công núi Cốc, Tua Tềnh Tua Nhì…
2. Đến lớp: Học sinh kể lại chuyện. Yêu cầu đối với học sinh:
- Nêu chủ đề của câu chuyện vừa kể.
- Nét đặc sắc nhất trong nghệ thuật của câu chuyện vừa kể.
3. Giáo viên kể lại chuyện hoặc dựng một tiểu phẩm cho học sinh biểu diễn theo cốt
truyện của một truyền thuyết, cổ tích nào đó ở Thái Nguyên bằng hình thức kịch nói hay
hoạt cảnh đặt lời mới theo các làn điệu dân ca...

LỚP 7
Bài 7: CA DAO, TỤC NGỮ THÁI NGUYÊN
( Ở ĐẠI TỪ, PHÚ LƯƠNG, PHÚ BÌNH, ĐỊNH HÓA)


KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Hiểu được đặc điểm và cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong nội dung và nghệ thuật
của ca dao, tục ngữ Thái Nguyên. Có tình yêu thương con người, yêu quê h ương và
ngôn ngữ dân tộc được thể hiện trong các bài ca dao, tục ngữ.
I. CA DAO
Bài 1:
- Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đại Từ em thiếu gì giang
Sao anh lại hỏi đan sàng bằng tre?
Bài 2:
Ngồi buồn ra đứng cầu thang
Gió đưa ngọn cỏ tưởng chàng sang chơi
Ngồi buồn ra đứng cổng đào
Ve sầu nó hót cành cao não nùng
Nước đầy đổ đĩa khôn bưng
Nàng về ấm phận chớ đừng quên anh.
Bài 3:
Bao giờ cho đến tháng tư
Lên đất Đại Từ ăn bát canh mon
Ra đi nhớ vợ cùng con
Về nhà nhớ bát canh mon Đại Từ
Bài 4:
Xin chàng bỏ áo em ra
Rồi mai em lại đi qua chốn này
Chốn này Nhã Lộng Cầu Mây
Rồi mai em biết chốn này là đâu
II. TỤC NGỮ
1. Một hạt thóc, chín hạt mồ hôi
2. Mười cây lúa cấy muộn
Không bằng năm cây lúa cấy đúng vụ
3. Ngồi ăn, núi đá lở
4. Đàn ông không biết làm cầy, thành quái
Đàn bà không biết dệt vải, thành cáo
5. Người tốt, khó được gặp
Người khỏe, thấy hàng ngàn
(Theo Vi Hồng, Nguyễn Đức Thụ, Vũ Anh Tuấn,

Lục Văn Vận sưu tầm)
HƯỚNG DẪN HỌC BÀI
1. Tìm hiểu ý nghĩa của các bài ca dao 1 và 2. Chú ý cách nói, hình ảnh trung tâm đ ể
thấy được không chỉ nội dung mà cả những đặc sắc nghệ thuật trong bài.
2. Tìm hiểu ý nghĩa của một số câu tục ngữ để thấy được nh ững ý nghĩa tri ết lý,
những bài học kinh nghệm mà tác giả dân gian gửi gắm trong đó.


LUYỆN TẬP
Tìm hiểu của các bài ca dao còn lại và sưu tầm thêm các bài ca dao, t ục ng ữ c ủa đ ịa
phương.

Bài 8: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TU TỪ TRONG CA DAO ĐỊA PHƯƠNG
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Nhận biết và hiểu được tác dụng của các biện pháp tu từ được s ử dụng trong ca dao
Thái Nguyên. Có kĩ năng xác định và sử dụng trong thực tế. Có ý th ức gi ữ gìn s ự trong
sáng của tiếng Việt.
Hãy phân tích một số biện pháp tu từ trong các bài ca dao sau:
1.
Khi đục như nước Bác Bồ
Khi trong vời vợi như ô thạch bàn
Khi xanh như đám cỏ loan
Khi vàng rờ rỡ như vàng trời cho
2.
Nước đầy đổ đĩa khôn bưng
3.
Thương chàng đứt cả dây dao
Quai túi cũng đứt, khăn đào cũng rơi
4.
- Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng

Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
- Đại Từ em thiếu gì giang
Sao anh lại hỏi đan sàng bằng tre?
-------------------------------------------------------Bài 9: HƯỚNG DẪN SƯU TẦM THÀNH NGỮ,
TỤC NGỮ, CA DAO ĐỊA PHƯƠNG
KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Biết cách sưu tầm và phân loại thành ngữ, tục ngữ và ca dao địa phương.
1. Các bước tiến hành sưu tầm


- Tổ chức học sinh thành các nhóm: 5 - 10 học sinh.
- Phân chia các nhóm về các địa phương: xóm, xã…
- Mỗi nhóm sưu tầm thành ngữ, tục ngữ, ca dao của một dân tộc c ư trú trên đ ịa bàn
điền dã.
- Tiến hành hỏi, gợi ý, ghi chép.
- Đặc biệt chú ý đến các bậc cao niên để gợi mở, sưu tầm.
2. Phân loại các tác phẩm sưu tầm được theo 3 tiêu chí:
+ Tác phẩm của dân tộc nào?
+ Tác phẩm thuộc thể loại nào?
+ Tác phẩm có nội dung thuộc đề tài, chủ đề nào
- Tiếng hát giao duyên.
- Kinh nghiệm sản xuất
- Phong tục tập quán.
- Chống lễ giáo phong kiến lạc hậu.
- Tiếng hát than thân…
3. Phân tích, đánh giá
+ Giá trị nghệ thuật.
+ Giá trị nội dung.
+ Bản sắc văn hóa dân tộc (Kinh, Tày, Cao Lan, H'mông, Thái…).
+ Dấu ấn địa phương: địa danh, đặc sản tự nhiên của từng vùng, mi ền…

4. Xây dựng chuyên san, báo tường.
5. Tổ chức đọc, ngâm hát, diễn xướng các tác phẩm đã sưu tầm.
Bài 10: theo sgk Ngữ văn 7
LỚP 8
Bài 11: ĐƯỜNG VỀ VỚI MẸ CHỮ

(Trích truyện kí)

KẾT QUẢ CẦN ĐẠT
Hiểu được nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Có kỹ năng đ ọc hi ểu và đánh
giá một tác phẩm tự sự. Có ý thức sử dụng và giữ gìn ngôn ng ữ, văn hóa dân t ộc
Tày.
Tiểu dẫn
Tác giả:
Nhà văn dân tộc Tày Vi Hồng sinh ngày 13 tháng 7 năm 1936, m ất ngày 31 tháng 3
năm 1997. Quê quán Đức Long, Hòa An, Cao Bằng. Thuở thiếu thời, Vi H ồng từ Cao
Bằng về thị xã Thái Nguyên học tại trường phổ thông cấp 3 Lương Ngọc Quy ến. Sau
khi tốt nghiệp Đại học, có một thời gian ông công tác tại Hà Giang, Tr ường đ ại h ọc S ư
phạm Hà Nội, năm 1966 trở về làm giảng viên khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm
Việt Bắc cho đến khi mất. Ngay từ những năm cuối của thập niên 50 th ế k ỉ XX, ông đã
bắt đầu sáng tác văn học với những truyện ngắn in trên các báo chí Trung ương và đ ịa
phương. Truyện ngắn "Ngôi sao đỏ trên đỉnh núi Phia Hoàng" đoạt gi ải T ổng H ội sinh
viên Việt Nam năm 1959, truyện ngắn "Cây su su n ọong ỷ" đo ạt gi ải Báo Ng ười Giáo


viên Nhân dân năm 1962…đã như một dự báo, như những xuất phát đi ểm đ ể ông tr ở
thành một cây bút văn xuôi hàng đầu của nền văn học các dân tộc thi ểu s ố sau này.
Vi Hồng đã xuất bản trên 20 đầu sách gồm các thể loại: ti ểu thuy ết, truy ện ng ắn,
nghiên cứu văn nghệ dân gian…Trong đó, có các cuốn sách tiêu bi ểu nh ư "Đ ất b ằng"
(tiểu thuyết) giải thưởng hội đồng dân tộc thiểu số - Hội nhà văn 1985; "Đường v ề

với mẹ chữ" (truyện vừa) giải thưởng nhà xuất bản Kim Đồng năm 1997; "Kh ảm h ải"
(nghiên cứu) giải thưởng hội văn nghệ dân gian Việt Nam năm 1993; "Th ầm thì dân
ca nghi lễ" (nghiên cứu) giải thưởng Hội VHNT các dân tộc thi ểu s ố Vi ệt Nam năm
2002…
Vi Hồng là Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Nguyên Phó Chủ t ịch H ội Văn h ọc ngh ệ
thuật Bắc Thái, nguyên chủ nhiệm bộ môn Văn học dân gian trường Đại học Sư ph ạm
Việt Bắc.
Tác phẩm:
"Đường về với mẹ chữ" là một truyện kí mô tả lại quá trình gian kh ổ và đ ầy ý chí c ủa
nhóm học sinh của tỉnh Cao Bằng (trong đó có tác giả) đến học tập tại "M ẹ ch ữ" Trường Lương Ngọc Quyến.
***
I
Trước năm 1949 cả bảy tỉnh thuộc miền núi vùng Đông Bắc n ước ta ch ỉ có m ột
trường cấp II gọi là trường trung học Việt Bắc, khoảng 1949 mới đổi thành tr ường
Phổ thông cấp II. Trường luôn luôn di chuyển lúc thì ở giữa rừng sâu, lúc ra ch ỗ núi
đồi quang, nhưng phải học trong hang đá. Mỗi lần tin báo: Tây đi càn, tr ường l ại ch ạy
tản cư cùng dân. Học sinh nghỉ học làm lều lán, tạo dựng lớp h ọc ho ặc ở g ầm nhà sàn
dân…Mấy anh em chúng tôi là học sinh trường này. Chúng tôi học l ớp b ảy (tương
đương với lớp chín bây giờ) có hai mươi tám học sinh. Đây là l ớp bẩy đón chi ến th ắng
Điện Biên Phủ, đón hòa bình lập lại tưng bừng năm 1954.
Những năm năm mươi tất cả các tỉnh miền núi ở miền Bắc chỉ có m ỗi tr ường ph ổ
thông cấp III hoàn chỉnh. Đó là trường Lương Ngọc Quy ến, đặt tại th ị xã Thái Nguyên.
Trường Lương Ngọc Quyến ngày ấy có cả học sinh Tây Bắc và học sinh người Lào.
Mấy anh em chúng tôi cân nhắc nên đi thi vào học ở trường cấp III nào? Tr ường Hùng
Vương thì xa rồi, ở tận Phú Thọ. Còn trường phổ thông cấp III Ngô Sĩ Liên ở Bắc Giang
thì cũng có thể…nhưng lại là trường ở nơi đồng rộng (đồng bằng) s ợ không quen!
Hơn nữa đường đi có thể xa hơn, chúng tôi lại không hề biết tý gì về con đ ường từ
Cao Bằng đến thị xã Bắc Giang. Chúng tôi chỉ được nghe m ột vài người đi lính Tây tr ở
về nói rằng ở phủ Lạng Thương đồng rộng lắm. Mặt tr ời lên "ngồi ngh ỉ ở bờ ru ộng"
khá lâu mới lên tiếp được! Buổi chiều mặt trời cũng phải "ngồi ngh ỉ ở bờ ru ộng" phía

Tây một lúc mới đi xuống lỗ (mặt trời lặn).
Với Thái Nguyên thì người Cao Bằng quen l ắm. Người Tày Cao Bằng ngày ấy g ọi Thái
Nguyên là "xử Thải" (xứ Thái). Từ xa xưa, những người Cao Bằng nghèo khổ, không
một hòn đất ném chim, một tấc đất cắm dùi, chỉ có m ột lối thoát là "kh ảm Th ải"
(sang Thái). Những tiếng Tày ngày ấy thường ấy có mấy từ quen thu ộc vừa hy v ọng
lấp ló nơi chân trời xa vừa như mang nỗi lo âu s ợ hãi. Đó là nh ững t ừ "sang Thái", "đi
Thái", "mừa Thải" (đi về Thái).
Người Tày Cao Bằng có câu ca:
Nên thì nên việc lớn
Không nên thì sang Thái buôn củ nâu!


Các già ở Cao Bằng thường kể đoạn đường về Thái cho con cháu nghe như k ể chuy ện
về một xứ hoang vu rất xa lạ. Từng chuyện, từng chuy ện cứ như từng đo ạn c ảnh c ủa
một cuốn phim. Con cháu Cao Bằng cảm thấy "xử Thải" (xứ Thái) và con đường đi v ề
“xử Thải” gần gũi như đã quen thân.
Vì thế bọn chúng tôi quyết định tìm "đường về với Mẹ Chữ" Lương Ngọc Quyến ở "xử
Thải".
Con đường đi học thật vất vả, xa xôi. Mấy anh em con cháu Cao B ằng chúng tôi ph ần
lớn đều ở huyện Hòa An, đi về đến Thái khoảng hai trăm năm mươi cây s ố. Còn b ạn
Phan Soong ở Hà Quảng và nhất là bạn Phan Văn Hỏn ở huy ện Trùng Khánh thì cách
Thái Nguyên gần ba trăm cây số hoặc trên ba trăm cây s ố. M ỗi khi g ặp gian nan, v ất
vả và cả nguy hiểm nữa, mấy anh em chúng tôi đều động viên nhau: chúng ta c ần c ố
gắng cần gan dạ mới về được với "mẻ sư" (mẹ chữ)[1]. Các "Mẹ chữ" ở Cao Bằng,
chúng ta đã học được hết. Nhưng chúng ta lại muốn học chữ nhiều nữa, cao nữa thì
phải dũng cảm, phải luyện cái mật cái gan to bằng quả bí mới được! Đấy là l ối nói bắt
chước các cụ xưa cho vui đoạn đường dài. Thời chúng tôi đã ít nói theo l ối cổ này.
Với những gì quý giá và có vẻ như sinh sôi n ảy n ở được, người Tày chúng tôi đ ều g ọi
là "mẻ" (mẹ). Không chỉ có người và động vật, mọi vật đều có th ể được g ọi là m ẹ.
Ngày nay, người Tày vẫn nói: "Mẹ đá", "Mẹ nước"…Trường học, nơi "sinh ra cái chữ"

cho mọi học trò gom nhặt lấy, người Tày cũng gọi là nhà "M ẹ ch ữ". Ông thày nhi ều
chữ cũng gọi là ông "Mẹ chữ". Vì thế, chúng tôi rong ruổi đ ường dài tr ẩy h ọc cũng g ọi
theo các già xưa nói rằng mình đang đi tìm "Mẹ chữ". Cũng có là đ ể t ỏ tấm lòng tha
thiết quý yêu chữ nghĩa của lũ chúng tôi…
II
Đi đúng chín ngày thì đến thị xã Thái Nguyên. Tối hôm vừa đến, lũ chúng tôi ng ủ ở nhà
trọ bình dân. Sáng hôm sau vào Ty Giáo dục hỏi thì bi ết đ ịa đi ểm thi tuy ển sinh ở n ơi
trường tản cư, thuộc một cánh rừng cạnh thị trấn Đu. Chúng tôi l ại đi ngược hai
mươi cây số đến Đu và hỏi thăm đến địa điểm thi tuy ển sinh vào lớp tám trường phổ
thông cấp III Lương Ngọc Quyến. Đi chừng ba cây s ố thì đến một b ản toàn ng ười
Nùng. Chúng tôi xin trọ. Cô bác biết là học sinh Cao Bằng thì vui v ẻ đón ti ếp nh ư đón
tiếp khách quý và thân tình như người nhà xa cách lâu năm m ới tr ở v ề. Vì c ả b ản này
là người Nùng Cao Bằng vừa mới xuống "xử Thải" được vài chục năm.
Hôm sau lũ chúng tôi đi vào rừng xem trường lớp. Ngôi trường gồm hai cái nhà lá.
Nghe dân bản bảo đây là hai lớp học của trường Phổ thông cấp III Ngô Quy ền (năm
sau đổi tên thành Lương Ngọc Quyến) mới làm năm nay. Sang năm thì tr ường m ới v ề
cả đây.
Hai lớp học, hai căn nhà tạm bợ dựng giữa rừng "mạy piao" (một loại n ứa m ọc dày
như mạ). Người ta chỉ phát lối đi nhỏ. Cây "mạy piao" vẫn đổ xuống che kín mít mái
lớp. Trên nền lớp có nhiều vắt "gang mình" đo ngang dọc.
Lũ chúng tôi rất phấn khởi, rất tích cực ôn thi. Sau m ột tu ần ôn thi - ch ỉ còn hai ngày
nữa thi thì bỗng có thông báo hoãn thi một tháng! Lũ chúng tôi bu ồn và lo vô h ạn vì
tiền nong không đủ ăn một tháng để đợi đến ngày thi. Chúng tôi đành bu ồn nản và
đau khổ lếch thếch rủ nhau cuốc bộ chín ngày đường tr ở v ề Cao Bằng. Chưa v ề đ ến
nhà đã lo đi tiếp….Năm ấy là năm học 1954-1955.
Ngày nay con đường Thái Nguyên - Cao Bằng nườm nượp xe ô tô. Nhưng vào cái năm
lũ chúng tôi đi thi để vào cấp III Lương Ngọc Quyến thì không th ể có cái xe nào ng ược
xuôi Cao Bằng - Thái Nguyên được. Họa hoằn lắm mới có m ột hai chi ếc xe quân đ ội đi
theo đường số ba. Còn đường số ba phụ - đường chính ngày nay từ Thái Nguyên lên



Cao Bằng, qua Ben Le (đèo Cao Bắc) thì măng v ầu, măng n ứa m ọc gi ữa đ ường tua t ủa
như chông gai của lũ quỷ rừng. Đường nhiều đoạn chui dưới mái đ ại ngàn âm u. Ánh
sáng mờ mờ ảo ảo như men theo bờ vực thẩm của địa ngục!
III
Ngày ấy chúng tôi tuy là học sinh lớp bẩy đang đi thi vào l ớp tám nhưng đều đã l ớn c ả.
Có người mười chín tuổi, người ít nhất cũng mười bẩy. Cho nên chúng tôi đi b ộ nhanh
lắm. Ngày đầu chúng tôi cuốc bộ được gần năm mươi cây số. Nhưng ngày th ứ hai thì
đôi chân cả lũ đều sưng vù lên ! Lê lết lãi cũng chỉ đi được đoạn đường gần hai chục
cây mà thôi. May có bạn Phan Soong mang theo m ột lọ rượu ngâm củ ú tàu - g ọi t ắt là
rượu ú tàu. Có lẽ gia đình bạn Soong thấy con mình yếu ớt, m ỏng manh th ư sinh nên
chuẩn bị phương tiện đi đường chu đáo hơn. Rượu ú tàu bóp chân đau vì đi b ộ r ất là
thiện nghệ. Nhưng khi trở về thì rượu ú tàu đã hết. Tuy ngâm ti ếp v ẫn dùng được,
nhưng không tốt. Ngày thứ hai lượt về, tuy đã quen hơn những cũng ch ỉ đi được ba
mươi cây số. Ngày thứ hai đi được có hai mươi nhăm cây s ố. Ngày th ứ t ư tr ở đi thì l ại
quen dần, đi nhanh dần…
Ngày đi, đêm gặp nhà, gặp bản thì xin nghỉ nhờ. Tối giữa rừng thì ng ủ rừng, ngủ các
lều quán dọc đường…âu là chuyện thường.
Phan Hỏn người cao hai mét, nặng tám mươi nhăm ki lô gam, không đi v ừa gi ầy dép
bán ngoài chợ. Đôi giày của nhà tự làm lấy, và cả đôi mang theo dự phòng cũng đ ều
rách tan hết. Lượt về chưa được bốn mươi cây số đôi giày thứ hai của b ạn H ỏn đã
rách. Những ngày đầu anh còn lấy dây, lấy giẻ buộc lại mà đi. Nhưng ch ỉ được m ột
ngày, đôi giày của anh đã nát như chân con rết! Anh v ứt giày đi chân đ ất. Đi đ ược n ửa
ngày, chúng tôi tưởng anh chị bị đau chân. Ai cũng thông cảm, h ỏi han, có gì thì chăm
sóc! Bạn Hỏn cao lênh kênh mỉm cười mệt mỏi và nói:
- Ày! Có sao đâu mà! Các thằng mày, bỏ giày, đi đất hóa ra l ại mát chân và tho ải mái
hơn đấy.
Tôi là người bỏ dép đầu tiên theo gương bạn Hỏn cao l ớn. R ồi đ ến Đ ặng L ư cũng đi
chân trần. Ba chúng tôi quả thấy thoải mái. Tiếp theo ba chúng tôi thì nh ững ng ười
khác cũng đi chân đất. Nhưng chỉ được chục cây số là các chàng công tử kêu đau chân.

Bởi các chàng là con nhà khá giả. Sinh ra và l ớn lên ch ỉ bi ết ăn và h ọc. B ạn H ỏn cao l ớn
tủm tỉm cười mà rằng:
- Các thằng mày không làm lụng, không đi đấ bao giờ bàn chân mỏng. Đi giày vào!
Mấy đưa lại đi dép cao su hoặc dép xăng đan trắng vào. Phan Soong ng ười nh ỏ thó, ẻo
lả như cô gái. Soong có cái giọng kim của cô gái, lên tiếng một cách đau khổ:
- Chúng mày ơi! Chân tao ai nung nấu chín nhừ cả r ồi! - Soong mà nhăn m ặt, u ốn c ặp
môi dẻo thì ai cũng cảm thấy như chính mình đau.
Nói vậy thôi, Soong đúng là một thư sinh trói gà không nổi, nhưng đi đường dài vẫn
rất khá.
Hôm nào cũng vậy, cứ gần trưa và chiều chiều thì chúng tôi tự tách nhau ra, không ai
nói với ai. Anh nào cũng thất thểu, buồn thiu, câm lặng như những cái bóng v ật v ờ
ruổi trên đường dài. Nhưng khi ăn cơm trưa, chiều, ở quán, ở bụi bờ xong lại tíu tít.
Một hôm gần đến Nà Phặc, trời đổ tối, rừng âm u, bản làng th ưa th ớt, b ạn T ập lên
tiếng thức tỉnh cả lũ:
- Các thằng mày à! Trời sắp trát chàm vào mắt rồi đấy! Ngủ rừng hay sao à?
Tập là người Kinh duy nhất trong đoàn nhưng lại hay nói tiếng Tày nhất.
Tập có cái trán cao, dô, rất thông minh, mặt vuông mắt sáng. M ỗi khi di ễn đ ạt đi ều gì
quan trọng, Tập cho cả mặt mũi đều cùng nói.


×