Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học và một số biện pháp kỹ thuật nhân giống, gây trồng cây sơn tra (docynia indica (wall ) decne ) tại vùng tây bắc việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 91 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

MÙA TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

Thuộc nhóm ngành: Lí luận văn học

Sơn La, tháng 5 năm 2018


TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

MÙA TRONG CA TỪ TRỊNH CÔNG SƠN

Thuộc nhóm ngành: Lí luận văn học

Sinh viên thực hiện: Đào Thị Nụ

Nam, nữ: Nữ

Lớp: K56 ĐHSP Ngữ văn

Khoa: Ngữ văn

Năm thứ: 3/ Số năm đào tạo: 4
Ngành học: Sư phạm Ngữ văn


Sinh viên chịu trách nhiệm chính: Đào Thị Nụ
Người hướng dẫn: TS. Vũ Minh Đức

Sơn La, tháng 5 năm 2018

Dân tộc: Kinh


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình, tận tâm của các
thầy giáo, cô giáo, bạn bè và những người thân trong gia đình.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc nhất tới người thầy tuyệt vời của mình, Tiến sĩ Vũ
Minh Đức. Thầy đã gợi mở cho tôi những vấn đề lý thú, tạo điều kiện thuận lợi cho tôi
trong học tập và nghiên cứu, hướng dẫn tận tình, chi tiết trong quá trình làm đề tài và
đặc biệt, thầy là người thầy biết truyền cảm hứng cho sinh viên của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng Đào tạo, Phòng Quản lí Khoa học và Quan hệ
Quốc tế trường Đại học Tây Bắc, quý thầy cô trong Khoa Ngữ văn, Trung tâm thông
tin - Thư viện trường Đại học Tây Bắc, tập thể lớp K56 ĐHSP Ngữ văn và những
người bạn đã tạo điều kiện thuận lợi, ủng hộ và giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu,
tìm hiểu các vấn đề liên quan tới đề tài.
Cuối cùng, và quan trọng nhất, tôi xin gửi lời cảm ơn gia đình tôi, gia đình luôn
ủng hộ, tạo điều kiện cho sự lựa chọn của tôi và là động lực để tôi vượt qua những
phút giây khó khăn trong cuộc sống.
Tác giả đề tài

Đào Thị Nụ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................................3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu .................................................................................................7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................................7
4.1. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................................7
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................................7
5. Phƣơng pháp nghiên cứu ...............................................................................................................8
6. Đóng góp của đề tài ........................................................................................................................8
7. Cấu trúc đề tài ................................................................................................................................9
Chƣơng 1: ............................................................................................................................................ 10
GỌI TÊN BỐN MÙA.......................................................................................................................... 10
1.1. Đôi nét về “mùa” .......................................................................................................................... 10
1.2. Khảo sát, thống kê ........................................................................................................................ 13
1.3. Mật ngữ bốn mùa ......................................................................................................................... 15
1.3.1. “Mùa xuân bước chân người rất nhẹ” ................................................................................. 15
1.3.2. “Trong vườn em mùa hạ” ...................................................................................................... 17
1.3.3. “Nhìn những mùa thu đi” ..................................................................................................... 19
1.3.4. “Ngoài phố mùa đông” .......................................................................................................... 21
Tiểu kết chƣơng 1 ................................................................................................................................ 25
Chƣơng 2: ............................................................................................................................................ 27
BIỂU TƢỢNG MÙA........................................................................................................................... 27
2.1. Khái quát về biểu tƣợng .............................................................................................................. 27
2.2. Những biểu tƣợng mùa tiêu biểu trong ca từ Trịnh Công Sơn ................................................ 33
2.2.1. Biểu tượng Lá ............................................................................................................................. 33
2.2.1.1. “Đời ta có khi tựa lá cỏ” ..................................................................................................... 34
2.2.1.2. “Lá bỗng vàng bỗng xanh”................................................................................................... 37
2.2.2. Biểu tượng Hoa .......................................................................................................................... 43
2.2.2.1. “Kết hoa vàng cho lộng lẫy đời” ......................................................................................... 44
2.2.2.2. “Đóa hoa vô thường” .......................................................................................................... 47
2.2.3. Biểu tƣợng Màu sắc................................................................................................................... 51

2.2.3.1. “Nhuộm cho hồng hạt mầm trót vay” .................................................................................. 51
2.2.3.2. “Vàng phai sẽ cuốn đi mịt mù” ............................................................................................ 54


2.2.3.3. “Chợt một chiều tóc trắng như vôi” .................................................................................... 56
2.2.3.4. “Mùa xanh lá vội” ............................................................................................................... 59
2.2.4. Biểu tượng Âm thanh ................................................................................................................. 61
2.2.4.1. “Xin người hãy gọi tên”....................................................................................................... 62
2.2.4.2. “Ru mãi ngàn năm” ............................................................................................................. 67
Tiểu kết chƣơng 2: ............................................................................................................................... 71
KẾT LUẬN .......................................................................................................................................... 73
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................................................. 76
PHỤ LỤC ................................................................................................................................................1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Từ cổ chí kim, thơ và nhạc đã có mối lương duyên sâu nặng. Bắt đầu từ
thuở bình minh của loài người, những điệu hát dân gian đã có lời ca mang dáng dấp
câu thơ như vè, chèo, và những loại thể như ca dao thì giàu nhạc tính tới độ bất cứ bài nào
cũng có thể hóa thân thành câu hát ru, câu hò hay bay bổng cùng làn điệu quan họ. Phát
triển trong cái nôi văn học ấy, các tác phẩm thi ca Việt Nam đề cao tính nhạc bằng cách
quan tâm đến gieo vần, âm điệu hay cách ngắt nhịp. “Nhạc điệu là một yếu tính của thi ca.
Thiếu nhạc tính thơ trở thành văn xuôi” (Bằng Giang) [6;24]. Không có nhạc tính, thơ
không còn mềm mại, uyển chuyển và giảm khả năng biểu lộ cảm xúc trực tiếp. Sự nối kết
đặc biệt của thơ và nhạc được thể hiện bằng hình thức ngâm thơ hoặc phổ nhạc cho thơ.
Ngược lại, có khá nhiều tác phẩm âm nhạc giàu chất thơ. Chất thơ ấy thể hiện trong việc
dùng từ, sử dụng hình ảnh, thiết lập hệ thống cú pháp và đặc biệt, phía sau phần câu từ
hiển hiện ấy ẩn chứa nhiều hàm nghĩa. Có những nhạc sĩ sáng tác tác phẩm âm nhạc
mà khi tách riêng phần nhạc và lời thì ta sẽ có những bài thơ.

1.2. Trịnh Công Sơn (1939 – 2001) công bố nhạc phẩm Ướt mi năm 1958 (Nhà
xuất bản An Phú), từ đó, cuộc đời hoạt động âm nhạc của ông chính thức được bắt đầu
(có thông tin trước đó ông đã viết Sương đêm và Sao chiều nhưng chưa được công
bố). Tính đến ngày 01/04/2001, tức là ngày mất của ông, số nhạc phẩm ước tính đã lên
tới hơn 600 ca khúc [12;8]. Thành quả quá trình sáng tác của Trịnh Công Sơn đã
chứng minh được vài trò quan trọng của ông trong nền nghệ thuật nước nhà. Và, ta
cũng có thể khẳng định, việc sáng tác của Trịnh Công Sơn là sự kết hợp hài hòa của
ngộ năng và trí năng, sáng tác là bản chất của một tâm hồn nhạy cảm và cũng là sự
phản ứng lại với thực tại xã hội, con người.
Khi đánh giá Trịnh Công Sơn, người ta không thể xếp ông vào hoặc là nhạc sĩ
hoặc là thi sĩ, bởi ở các tác phẩm của ông, khó có thể phân định được thiên về thơ hay
thiên về nhạc, hay nói cách khác, tác phẩm có sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn
giữa hai yếu tố trên. Văn Cao đã gọi Trịnh Công Sơn là “người ca thơ”: “bởi ở Sơn,
nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định cái nào là chính, cái nào là phụ”
[19;11]. Và tác phẩm ra đời như kết quả của một cuộc hôn phối lạ kì giữa ngôn ngữ và
giai điệu.

1


1.3. Tìm hiểu hệ thống ca từ Trịnh, chúng tôi nhận thấy thời gian trở thành một
mối bận tâm lớn, một ám ảnh nghệ thuật trong thế giới nghệ thuật của ông. Thời gian
là một đơn vị, một đại lượng để xác định quá trình tồn tại và phát triển của mọi sự vật
hiện tượng. Chiều kích thời gian có thể đo bằng nhiều đơn vị, nhỏ thì đo bằng giây;
phút, lớn hơn thì ngày, tháng, mùa; thậm chí tới đời người hay thế kỉ. Mùa là một lát
cắt thời gian quan trọng thể hiện những biến động tinh vi trong tâm hồn tác giả. Trong
ca từ Trịnh, có thể thấy sự xuất hiện của cả bốn mùa xuân, hạ, thu, đông với những
cung bậc cảm xúc khác nhau. Sự biến chuyển, tuần hoàn của các mùa diễn tả chu kì
của đời sống. Thế nhưng, khác với tính vĩnh hằng của chu kì ấy, đời người, và các mùa
của đời người, chỉ tồn tại, phôi pha và không lặp lại. Ý thức được điều này, đứng trước

mỗi mùa với những vẻ đẹp khác nhau, nỗi buồn khác nhau, Trịnh Công Sơn luôn có sự
ám ảnh về sự chia ly: chia ly với tha nhân, chia ly với miền đất và chia ly cùng đời
sống. Từ đó, thông qua hệ thống mùa, tác giả gửi gắm những triết lý nhân sinh giản dị
mà sâu sắc: “Hãy yêu như đang sống và hãy sống như đang yêu. Yêu để sự sống tồn tại
và sống cho tình yêu có mặt” [14;25].
1.4. Khi đến với nhạc Trịnh, thứ cuốn hút tôi không phải là sự dịu dàng giai
điệu mà là sự bình dị nhưng sâu lắng của ngôn từ. Từng ca từ, khi thì trong như suối,
lúc lại buồn như đêm, đôi khi là tiếng khóc than van day dứt và cũng có những khúc là
niềm tuyệt vọng miên viễn nhưng lại mở ra lối thoát lạ kì từ chính trái tim rừng rực lửa
cháy bên trong thân xác xanh xao hao gầy. Ca từ có vẻ giản đơn mà lại như ẩn chứa cả
một thế giới linh diệu thần kỳ của tôn giáo, triết học, tâm lý học, xã hội học… Chính
vì thế, chẳng có gì là ngoa dụ khi ông được đánh giá là một tác giả lớn của nền tân
nhạc Việt Nam, một nhà thơ đặc biệt của văn học hiện đại Việt Nam. Ca từ Trịnh
Công Sơn như một ẩn số mà bất cứ người nghe, người đọc nào cũng từng có hy vọng
giải mã được bất chấp mọi khó khăn.
Ở phạm vi đề tài này, dưới góc nhìn của thi pháp học học hiện đại, chúng tôi coi
mùa trong ca từ Trịnh Công Sơn không chỉ là một phạm trù thuộc về không gian, thời
gian mà còn thuộc về đời sống tâm hồn con người, được khám phá bằng hệ thống
những biểu tượng đặc trưng của mùa. Và đó là con đường mà tôi chọn để giải mã một
phần ca từ Trịnh, để thêm thông hiểu và thấu cảm tác giả.

2


2. Lịch sử vấn đề
Trịnh Công Sơn là một hiện tượng đặc biệt của nền âm nhạc và văn học Việt
Nam. Để viết về tác giả đặc biệt này, các nhà nghiên cứu và những người quan tâm
nhạc Trịnh đã tìm hiểu tác phẩm của Trịnh Công Sơn ở nhiều góc độ như hội họa, âm
nhạc, triết lý nhân sinh, ca từ, ngôn ngữ… Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, chúng
tôi chỉ quan tâm đến những công trình, bài viết bàn về ca từ hay mối quan hệ giữa âm

nhạc và ngôn ngữ Trịnh Công Sơn, và đặc biệt là mùa trong ca từ như một sản phẩm
độc đáo của quá trình sáng tạo.
Đặc sắc ngôn ngữ trong các ca khúc của Trịnh là vấn đề thu hút nhiều sự quan
tâm của các tác giả. Hoàng Phủ Ngọc Tường cho rằng: “Ca từ của Trịnh Công Sơn
chính là vấn đề khiến cho ai nấy đều băn khoăn tự hỏi không biết nguồn thơ của Trịnh
Công Sơn kiếm từ đâu ra ngoài thần cảm bí ẩn của nhưng con người thời nhà Đường”
[21;79]. Dương Viết Á, nhà nghiên cứu âm nhạc Việt Nam nhận định: “xét riêng về ca
từ, nhiều nhạc sĩ cần được gọi thêm là nhà thơ, thậm chí nên được tuyển chọn vào các
tập thơ ca thế kỷ XX: Đặng Thế Phong, Văn Cao, Trịnh Công Sơn…” [1;226]. Văn
Cao cũng ưu ái gọi Trịnh Công Sơn là “người thơ ca”: “Tôi gọi Trịnh Công Sơn là
người thơ ca (Chantre) bởi ở Sơn, nhạc và thơ quyện vào nhau đến độ khó phân định
cái nào là chính, cái nào là phụ.” [19;11]. Sau Văn Cao, ai cũng cố đi tìm một định
nghĩa để trả lời cho câu hỏi “Tôi là ai? Là ai?” của Trịnh Công Sơn, chính việc trả lời
câu hỏi ấy cũng phần nào nói lên vị trí của nhạc sĩ trong lòng bè bạn và người hâm mộ.
Các định nghĩa vô cùng đa dạng: Trịnh Công Sơn là… Phù thủy ngôn ngữ của âm
nhạc Việt Nam (Nguyễn Xuân An), một nhà thơ hàng đầu trong ca khúc Việt Nam (Lê
Chí Trung), một thần tượng chưa đổ vỡ… một thiên tài ngôn ngữ (Hữu Bảo)… Qua
các ý kiến, ta thấy các tác giá đánh giá rất cao những ca khúc của Trịnh Công Sơn về
mặt ngôn từ.
Công trình có tính quy mô và hệ thống đầu tiên phải kể tới là Trịnh Công Sơn,
một người thơ ca, một cõi đi về do Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thụy Kha và Đoàn
Tử Huyến sưu tầm và biên soạn ngay sau khi Trịnh Công Sơn mất (2001) để tỏ bày
lòng tri ân. Tập sách gồm bốn phần: phần 1 gồm những bài viết về Trịnh trước khi ông
mất, phần 2 tập hợp một số bài viết của Trịnh về cuộc đời và nghệ thuật, phần 3 giới
thiệu 63 bài thơ ứng với 63 năm ở trọ cõi trần rút từ các ca khúc Trịnh, phần 4 tập hợp
một phần nào bài viết khóc thương Trịnh sau khi ông qua đời. Nhóm tác giả nhận
3


định: “Có thể nói Trịnh Công Sơn là một tài danh Việt Nam thế kỉ XX. Ông là hiện

tượng đặc biệt trong làng tân nhạc nước nhà” [19;5]. Yếu tố khiến Trịnh Công Sơn
trở thành một hiện tượng đặc biệt ấy có lẽ là do sự kết hợp hài hòa giữa phần nhạc và
phần ca từ, khiến ông trở thành một tượng đài trong lòng người hâm mộ: “Lời trong ca
khúc Trịnh Công Sơn đã tạo ra tên tuổi Trịnh Công Sơn. Lời ở đây, như đã nói, là
truyện thơ, là hình ảnh siêu thực, nét chấm phá, những hoa gấm cho sóng nhạc và có
những giây lát cao độ, lời được đặc cách hóa kiếp thành kinh… đây là một loại kinh
do chính mình phát nguyện, dóng tiếng và gởi gắm trở lại cho chính mình” [19;21].
Cùng với Một cõi Trịnh Công Sơn (2001) và Người hát rong qua nhiều thế hệ
(2004), các tác giả khẳng định mối quan hệ bền chặt giữa âm nhạc và ngôn ngữ Trịnh
Công Sơn, tạo nên những tác phẩm thấm đẫm tính triết lý nhưng vẫn dung dị, nhẹ
nhàng, dễ đi sâu vào trái tim người nghe, người đọc.
Năm 2003, với Trịnh Công Sơn, một nhạc sĩ thiên tài, Bửu Ý đã cung cấp đầy
đủ, cụ thể và chân thực nhất về tiểu sử, về cuộc đời, đề cập đến những chủ đề chính
trong sáng tác, đưa ra những dòng thủ bút, những tranh ảnh tư liệu về nhạc sĩ cùng
những đánh giá về ông qua con mắt của những người cùng thời trong nước và hải
ngoại. Tác giả cuốn sách nhận xét: “Ca khúc Trịnh Công Sơn ưu thế ở lời. Lời ca lại
ưu thế hơn lời nói: nếu lời nói còn lướng vướng vào văn chương, thuyết giáo, lý luận
thì lời ca chỉ trực vào lòng” [25;49]. Đó là lý do ta có thể thấy ca từ Trịnh mang đậm
những triết lý nhưng lại dung dị, đời thường, dễ đi vào trái tim người nghe, người đọc,
tạo nên hiệu ứng lan truyền thông điệp. Trong những tác phẩm của Trịnh Công Sơn,
“Thông điệp có khi không hiển lộ, chỉ được phác thảo gián tiếp, tá túc vào hình ảnh
này, hình ảnh khác và nhẵn theo nét nhạc. Do đó, ta không nhận ra ngay, phải chờ
cho nhạc lắng xuống, thông điệp mới hiển hiện.” [25;48]. Thêm vào đó, những yếu tố
chân thực về cuộc đời Trịnh Công Sơn cũng giúp người viết trong việc khai thác nội
dung hàm ẩn trong các tác phẩm, từ đó lý giải các biểu tượng trong phạm vi đề tài.
Bằng một nỗ lực lớn trong việc giải mã ca từ Trịnh thông qua những ám ảnh
nghệ thuật và ngôn ngữ trong Trịnh Công Sơn, ngôn ngữ và ám ảnh nghệ thuật, xuất
bản năm 2005, Bùi Vĩnh Phúc tiến hành khảo cứu và đặc biệt nghiên cứu về ám ảnh,
về không gian, thời gian trong các sáng tác của cố nhạc sĩ. Tác giả nhận xét: Trịnh
Công Sơn “chính là một thi sĩ tự trong bản chất và trong cách thế sai sử ngôn ngữ của

mình” [16;13]. Trong công trình nghiên cứu này, đáng chú ý là tác giả đã dành phần
4


nào sự quan tâm tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong ca từ Trịnh Công Sơn. Bùi Vĩnh
Phúc viết: “đối với Trịnh Công Sơn, thời gian không hẳn chỉ là một đại lượng. Mà nó
còn là một nỗi ám ảnh. Một nỗi ám ảnh bao trùm lên hiện sinh anh, ôm ấp và ôm giữ
lấy anh. Tôi thấy chúng ta có thể chia thời gian trong các tác phẩm của anh thành
những loại thời gian như sau: thời gian phai tàn, thời gian tiếc nuối, thời gian trông
ngóng (một hạnh phúc, một tin vui), thời gian hướng vọng thiên thu, và thời gian thực
tại” [16;71]. Theo đó, ta có thể thấy thời gian trong ca từ Trịnh không phải thời gian
tuyến tính, vận động theo quy luật của tự nhiên mà thời gian “được sử dụng như một
hình tượng, được tái hiện, được dự phóng, để diễn đạt tâm và ý của kẻ sáng tạo”
[16;68].
Trịnh Công Sơn, vết chân dã tràng của tác giả Ban Mai xuất bản năm 2009 là
một công trình mang ý nghĩa tổng thuật. Tác giả trình bày được tổng hợp những vấn
đề như “Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam”, “Trịnh Công Sơn – người tình của
cuộc sống” và đặc biệt là phần “Trịnh Công Sơn - người ca thơ”. Ở đây, Ban Mai chỉ
ra một số tác phẩm “đã là những bài thơ với những vần điệu rất đúng quy tắc, tưởng
như không cần sự nâng đỡ của nhạc”, “như thể Trịnh Công Sơn đã làm ra những bài
thơ này trước rồi từ đó phổ nhạc” [12;51]. Sau đó, tác giả triển khai khá nhiều nội
dung liên quan tới ca từ như thể thơ, nhạc điệu, ngôn ngữ, hình ảnh, biện pháp nghệ
thuật và tính triết lý của ca từ. Các dữ liệu Ban Mai cung cấp giúp người đọc có cái
nhìn tổng quát về Trịnh Công Sơn trong các mối quan hệ với lịch sử, xã hội, con
người, phục vụ cho việc nghiên cứu các biểu tượng trong ca từ Trịnh.
Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn (2009) của Nguyễn Thị Thanh
Huyền là một công trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực ngôn ngữ. Tác giả nghiên cứu về
ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc nhìn của ngôn ngữ học, tìm hiểu về ẩn dụ tri nhận
trong những tác phẩm của ông. Tác giả luận văn “đã trừu suất từ trong ca từ Trịnh
Công Sơn và phân tích hai ẩn dụ cấu trúc điển hình: ĐỜI NGƯỜI LÀ ĐÓA HOA VÔ

THƯỜNG và CUỘC ĐỜI LÀ MỘT CÕI ĐI VỀ phản ánh cách nhìn của ông về thế
giới (thế giới quan) và nhìn cuộc đời (nhân sinh quan) của ông qua lăng kính Tiếng
Việt và Văn hóa Việt” [10;104]. Qua việc tham khảo luận văn này, chúng tôi biết thêm
một cách nhìn nhận về nhân sinh quan và thế giới quan của Trịnh Công Sơn: “Tư duy
nghệ thuật của Trịnh Công Sơn là kiểu tư duy biện chứng: biện chứng giữa cái biến

5


thiên và cái bất biến (Dịch học), biện chứng của “A là A đồng thời không phải là A”
(của F. Engels), biện chứng của “sắc sắc không không” của đạo Phật” [10;104].
Đặc biệt, Trịnh Công Sơn, hạt bụi trong cõi thiên thu của Bích Hạnh, xuất bản
năm 2011 để tri ân nhân kỉ niệm 10 năm ngày mất của Trịnh Công Sơn, đã ý thức
được mức độ quan tâm của độc giả và giới nghiên cứu với ngôn ngữ Trịnh Công Sơn:
“Ca từ Trịnh Công Sơn đang được giới nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là soi chiếu ca
từ dưới góc độ ngôn ngữ. Việc tìm hiểu và lí giải các biểu tượng ngôn ngữ trong ca từ
Trịnh Công Sơn sẽ góp thêm một cái nhìn mới về thế giới quan, nhân sinh quan của
người nhạc sĩ tài hoa” [8;7]. Bích Hạnh đã nghiên cứu và giới thiệu các biểu tượng
ngôn ngữ, đưa ra các ý nghĩa biểu trưng và mức độ khái quát của từng biểu tượng, từ
đó tìm hiểu quan niệm nghệ thuật của nhạc sĩ. Tác giả nghiên cứu kí hiệu học/ biểu
tượng với các mẫu gốc thiên về cái nhìn của phân tâm học. Đó là những biểu tượng
trực quan với mẫu gốc “Bầu trời”, “Nước”, “Con người”. Những biểu tượng phi trực
quan như mẫu gốc “Thời gian” và “Âm thanh”. Đặc biệt, với mẫu gốc “Thời gian”, tác
giả đi sâu vào nghiên cứu biểu tượng mùa – thời gian phôi pha. Có thể nói, công trình
của Bích Hạnh đã ít nhiều liên quan tới nội dung của đề tài và gợi mở cho chúng tôi
những cảm quan về mùa cất lên từ ca từ Trịnh Công Sơn thông qua mẫu gốc “Thời
gian”. Song, nếu Bích Hạnh dành mối quan tâm chủ yếu ở việc tìm hiểu những kết hợp
từ và khái quát nên mô hình ngôn ngữ thì chúng tôi lại thực hiện công việc xác lập
biểu tượng thơ trong ca từ Trịnh và để (tự) cất lên những ẩn/ mật ngữ chìm trong các
biểu tượng thời gian.

Trần Kim Phượng và Phan Ngọc Ánh, trong tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số
4 năm 2011, đã thể hiện sự quan tâm của mình với danh từ chỉ thời gian - mùa trong ca
từ Trịnh Công Sơn. Qua việc khảo sát 127 ca khúc in trong tập Những bài ca không
năm tháng, nhóm tác giả đã lập được bảng thống kê “Các tiêu loại danh từ trong ca từ
Trịnh Công Sơn” và rút ra kết luận: “Các danh từ xuất hiện trong ca khúc Trịnh Công
Sơn bao gồm nhiều phạm trù khác nhau. Trong đó, phạm trù chỉ thời gian chiếm số
lượng lớn nhất (19.6%)” [28]. Phạm trù chỉ thời gian được nghiên cứu theo các khía
cạnh thời gian thiên văn, thời gian mùa – thời tiết và thời gian quá khứ - hiện tại –
tương lai. Về thời gian thiên văn, “Bốn mùa đều xuất hiện trong những ca khúc của
người nhạc sĩ họ Trịnh. Nhưng chiếm số lượng nhiều nhất là mùa thu (44.7%), rồi đến
mùa xuân (22.7%), mùa đông (17%) và xuất hiện với tần số ít ỏi nhất là mùa hạ (7.1%)”
6


[28]. Từ đó, nhóm tác giả nhận định thời gian – mùa như một phương tiện, một yếu tố
không thể thiếu trong sáng tạo nghệ thuật vì thông qua nó, tác giả bộc lộ được hết những
cảm xúc cũng như những quan niệm thẩm mĩ của mình. Mặc dù bài nghiên cứu này có
phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu khác với đề tài của người viết, thế nhưng, dựa vào đây,
người viết có thêm cơ sở vững chắc để nhận định rằng việc tìm hiểu và giải mã ca từ
Trịnh qua yếu tố mùa (một phương tiện chỉ thời gian) là khả quan.
Nhìn chung, ca từ Trịnh Công Sơn được quan tâm nghiên cứu ở nhiều phương
diện khác nhau, từ góc độ ngữ pháp, biểu tượng ngôn ngữ đến những ám ảnh nghệ
thuật, cũng có nhiều tác giả đề cập đến vấn đề thời gian và mùa. Không lặp lại những
điều đã nghiên cứu trước, ở đề tài này, chúng tôi tìm hiểu các mùa trong ca từ Trịnh
Công Sơn thông qua hệ thống biểu tượng, đó cũng coi như một dấu chim bay khác biệt
trong khoảng trời đã sẵn những vết quen.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là mùa trong ca từ
Trịnh Công Sơn. Chúng tôi nhìn nhận mùa thông qua việc sử dụng các lí thuyết về
biểu tượng. Song cũng không thể bao quát hết khu rừng biểu tượng rậm rạp trong thế

giới ca từ Trịnh, nên chúng tôi chỉ tập trung ở một số biểu tượng mùa tiêu biểu, như:
lá, hoa, màu sắc, âm thanh.
Phạm vi nghiên cứu: Các ca khúc của Trịnh Công Sơn trong cuốn Tuyển tập
100 ca khúc Trịnh Công Sơn – Một cõi đi về. Cần lưu ý, chúng tôi chỉ quan tâm tới ca
từ Trịnh Công Sơn, nên âm nhạc không nằm trong phạm vi quan tâm của đề tài này.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc phân tích, tìm hiểu về biểu tượng mùa từ những vấn đề có tính
chất lí luận, chúng tôi hệ thống và giải mã biểu tượng mùa trong ca từ Trịnh Công Sơn
và hướng tới làm phát lộ quan niệm về thiên nhiên, cuộc đời, thân phận, con người và
tình yêu,… được kín đáo kí thác sau lớp áo ngôn từ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hướng tới những mục đích nêu trên, đề tài đặt ra những nhiệm vụ cơ bản
sau: Trước hết, đề tài tiến hành khảo sát và thống kê sự xuất hiện của các mùa trong ca
từ Trịnh Công Sơn. Tiếp theo, xác định nội hàm khái niệm biểu tượng nghệ thuật và
cách thức tiếp cận biểu tượng là nhiệm vụ có tính quan trọng của đề tài. Sau cùng,
7


nhiệm vụ trọng tâm của đề tài là xác định và làm sáng tỏ ý nghĩa của các biểu tượng
mùa trong ca từ Trịnh.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Cùng với việc vận dụng các thao tác nghiên cứu văn học cơ bản như phân tích,
chứng minh, bình luận, tổng hợp, giải thích, so sánh đối chiếu… đề tài sử dụng các
phương pháp nghiên cứu sau:
Phương pháp kí hiệu học: Phương pháp này trước hết được thực hiện thông qua
tiến trình khảo sát văn bản để khám phá và xác định biểu tượng ở trong tác phẩm.
Chúng tôi sẽ sử dụng phương pháp này chủ yếu ở chương hai khi nghiên cứu về hệ
thống các biểu tượng để chỉ ra nghĩa hàm ẩn bên cạnh nghĩa biểu hiện của nó.
Phương pháp thi pháp học: Với phương pháp này, chúng tôi quan tâm đặc biệt ở

lý luận về không gian - thời gian và hình tượng con người trong tác phẩm văn học. Qua
việc tiếp cận văn bản, ta có thể khám phá ý nghĩa, tư tưởng ẩn bên trong tác phẩm.
Phương pháp hệ thống – cấu trúc: Thế giới biểu tượng trong tác phẩm là một
chỉnh thể cấu tạo từ những yếu tố khác nhau. Bởi vậy, lựa chọn phương pháp này,
người viết muốn tìm ý nghĩa biểu tượng của các yếu tố trong hệ thống và ngược lại, từ
sự soi chiếu trong hệ thống có thể nhận ra những đặc điểm riêng biệt, độc đáo của từng
yếu tố.
Phương pháp liên văn bản: Liên văn bản (intertextuality) coi văn bản nào cũng
là một liên văn bản, có liên quan mật thiết/gắn liền với các văn bản khác, và liên quan
cả tới những vấn đề ngoài văn bản như hoàn cảnh xã hội, không khí thời đại, phong
cách cá nhân,... giúp chúng ta có cái nhìn khái quát và xuyên suốt qua các tác phẩm
của tác giả. Với nỗ lực gắn bó phân tâm học và phê bình văn học, xếp chồng văn bản
(superposition) sẽ tạo điều kiện cho chúng ta nghiên cứu những mạng lưới liên tưởng
trong ngôn ngữ và hình ảnh của ca từ Trịnh Công Sơn, đặc biệt là khái niệm mùa, liên
tưởng mùa được biết đến như một biểu tượng tự phát, thuộc về tiềm thức của tác giả.
6. Đóng góp của đề tài
Lí thuyết biểu tượng và kí hiệu học là những vấn đề còn mới mẻ. Đặc biệt, vấn
đề về kí hiệu học vẫn chưa phổ biến trong các bậc học phổ thông, chưa nhận được sự
quan tâm tìm hiểu đúng mực của các nhà nghiên cứu trong nước. Thực hiện đề tài này,
với nỗ lực tiếp cận khái niệm biểu tượng, chúng tôi hi vọng những kết quả của quá

8


trình nghiên cứu sẽ đóng góp được thêm một cách nhìn nhận về biểu tượng trong hệ
thống tác phẩm văn học.
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu một nhạc sĩ như một thi sĩ còn là vấn đề khá xa lạ
trong cách tư duy và đánh giá của nhà trường. Tuy nhiên, Trịnh Công Sơn là một trường
hợp đặc biệt của âm nhạc học và văn học. Vì vậy, qua đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu
mối liên hệ bền chặt chẽ giữa thơ và nhạc, đồng thời góp thêm một cách nhìn vào hành

trình giải mã ca từ Trịnh đã được khởi phát từ lâu.
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho những ai quan
tâm tới ca từ Trịnh Công Sơn, biểu tượng nghệ thuật, đặc biệt là biểu tượng mùa trong
ca từ Trịnh nói riêng và thơ ca nói chung.
7. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, đề tài được triển khai trong hai
chương:
Chương 1: Gọi tên bốn mùa
Chương 2: Biểu tượng mùa

9


Chƣơng 1:
GỌI TÊN BỐN MÙA
Mùa là một khái niệm bao trùm cả chiều kích không gian và thời gian. Nó vừa
gọi tên một khoảng thời gian lại vừa gợi ra tất cả những đặc điểm của không gian mà
nó bao chứa. Bên cạnh việc đi tìm hiểu về mùa, người ta cũng đi tìm hiểu về một thế
giới tâm lý phức tạp của con người ở trong mỗi mùa. Nói cách khác, ta chỉ đang dần
dần gỡ bỏ lớp xác áo ngôn từ để tiến gần hơn vào tâm hồn người nghệ sĩ, để yên lặng
lắng nghe sự rung cảm của họ trước thời thế và nhân thế.
1.1. Đôi nét về “mùa”
Đầu tiên, ta phải xét đến mùa (season) với nghĩa là một khái niệm thuộc về địa
lý học: “Mùa là một phần thời gian của năm, nhưng có những đặc điểm riêng về thời
tiết và khí hậu” [9;74]. Nguyên nhân sinh ra mùa là “do trục trái đất nghiêng và không
đổi hướng trong khi Trái Đất chuyển động theo quỹ đạo” [9;74]. Theo sự định nghĩa
của Từ điển tiếng Việt, mùa là “1. mùa thiên văn. Phần của năm, phân chia theo
những đặc điểm về thiên văn thành những khoảng thời gian xấp xỉ bằng nhau. Bốn
mùa xuân, hạ, thu, đông. 2. mùa khí hậu. Phần của năm, phân chia theo những đặc
điểm và diễn biến khí hậu, có thể dài ngắn, sớm muộn tùy nơi, tùy năm. Mùa khô. Mùa

gió chướng” [15;643]. Như vậy, “mùa” là một khái niệm thuộc về thời gian, chỉ một
giai đoạn nào đó trong năm gắn với một số đặc điểm riêng biệt về mặt khí hậu, như
một cuốn lịch của thiên nhiên biểu đạt quy luật vận hành của trời đất. Sự thay đổi của
thời gian gắn với sự khác biệt của không gian. Vì vậy, mùa cũng mang đặc điểm của
một loại không gian. Mùa xuân, tiết trời mát mẻ, có mưa phùn và cây cối đâm chồi nảy
lộc. Mùa hạ nóng và mưa nhiều, là mùa cây cối đơm hoa kết trái. Mùa thu là mùa của
gió heo may và cái lạnh đầu mùa mang theo dự cảm về cái tàn phai sắp sửa. Mùa đông
được biết đến như là khoảng không – thời gian tang tóc và lạnh giá. Tùy từng quốc
gia, từng vùng lãnh thổ mà mùa lại được phân chia khác nhau.
Ở các nước ôn đới có bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông. Ở các khu vực nhiệt đới và
cận nhiệt, cùng với sự thay đổi về lượng mưa, họ chia làm mùa mưa và mùa khô. Một
số khu vực khác lại chia làm mùa nóng, mùa mưa và mùa lạnh. Đặc biệt, một số dân
tộc ở lãnh thổ Bắc của Úc lại sử dụng hệ thống bảng chia sáu mùa, một số dân tộc ở
vùng Scandinavia thừa nhận không ít hơn tám mùa.

10


Cũng có khi, mùa không chỉ là khái niệm cứng nhắc chỉ các thời gian trong
năm. Trong đời sống, con người vẫn thường sử dụng mùa gắn với các hoạt động nổi
bật, thiết yếu của con người trong một khoảng không gian nhất định như mùa cháy
rừng, mùa gieo hạt, mùa thu hoạch, mùa hoa, mùa trồng cây,… hay lãng mạn hơn là
mùa nhớ, mùa phơi váy (Hoàng Anh Tuấn), và cũng có thể là mùa yêu (Lê Cát Trọng
Lý) với những biểu hiện rất dễ thương:
“Chân ta đi hôn mặt đất nồng ấm
Tim ta say yêu con gió lang thang…”
Mùa là một hiện tượng thuộc về thế giới khách quan, nhưng trong cảm nhận
của mỗi con người, mùa lại có tính riêng biệt do cái nhìn, cảm xúc, tâm trạng chi phối.
Điều này đã làm nên tính chủ thể của mùa, khiến mùa trong tâm tưởng mỗi con người
thống nhất nhưng không đồng nhất với mùa – không gian khách thể. Ta thử xét đến

trường hợp mùa thu, mùa của thi nhân chắp bút. Mùa thu của đất trời là mùa lá vàng
rơi rụng, là mùa sương bảng lảng mơ hồ, là mùa của hoa cúc vàng như nắng mật ong
bên dưới nền trời xanh trong cao vời vợi… Cùng là mùa thu ấy, nhưng trong mỗi tác
giả lại gợi ra biết bao thứ cảm tình khác nhau. Lưu Trọng Lư, khi mơ màng đứng giữa
một mùa thu với những sắc vàng rất khác nhau, tầng tầng, lớp lớp, lại thêm tâm hồn
tinh tế nhạy cảm, đã phải thốt lên những câu thơ tài hoa:
“Em không nghe mùa thu
Lá thu rơi xào xạc
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô.”
(Tiếng thu)
Đó là một mùa thu êm dịu, nhẹ nhàng, mơ mộng và hoang hoải nhớ thương
thổn thức. Hữu Thỉnh thì khác, ông chú tâm nghe những rung động rất nhẹ lúc giao
mùa để cất lên tiếng ca của một người đã trải qua nhiều sóng gió và an yên nhìn ngắm
cuộc đời:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”
(Sang thu)
11


Trái với một mùa thu bảng lảng, mơ hồ rất dịu dàng, dung dị nhưng mang nhiều
triết lý ấy, mùa thu trong mắt nhạc sĩ Văn Cao lại là một tiếng thở dài đau nhói. Vẫn là
lá vàng rụng, nhưng lá vàng ở đây tượng trưng cho một sự chết/rớt rơi tàn úa tuyệt
vọng cả một mùa, một đời:
“Đêm mùa thu chết
Nghe mùa đang rớt rơi theo lá vàng.”
(Buồn tàn thu)

Như vậy, mỗi con người, tức là mỗi điệu hồn riêng, bản sắc riêng, quá trình
chiêm nghiệm riêng, ai cũng có những cảm nhận mang đậm tính cá nhân về mỗi mùa.
Có thể khẳng định, tính chất mùa hoàn toàn phụ thuộc vào cảm nhận của chủ thể.
Trong một số trường hợp, cảm nhận mùa đã nâng lên tới mức trở thành một ám thị,
xây dựng lên hệ thống hình ảnh về mùa độc đáo.
Tuy nhiên, cũng phải nhấn mạnh rằng, mùa không phải một định nghĩa
(definition) mà là một khái niệm/ quan niệm (concept). Với tính chất của một “concept”,
chúng ta hãy khoan áp một quy chuẩn nhất định nào đó trong cách nhìn nhận mùa và hệ
thống mùa. Xuân Diệu đã từng chia sẻ: “Với lòng tôi, trời đất chỉ có hai mùa: Xuân với
Thu… Xuân với thu là hai bình minh trong một năm, sự đổi thay hệ trọng nhất cho tâm
hồn. Và bởi vậy, thu cũng là một mùa xuân... Đầu xuân là bình minh ấm của lòng tôi;
đầu thu là bình minh mát của lòng tôi. Và ấm hay mát, thu hay xuân, lòng tôi cũng rạo
rực những tiếng thu, ái tình ghé môi gọi lời trong gió...” [26]. Trong trái tim khối óc của
ông, mùa thu cũng là mùa xuân và cũng là mùa yêu nữa. Vì vậy, ông viết:
“Kể chi mùa, thời tiết, với niên hoa
Tình không tuổi và xuân không ngày tháng.”
(Xuân không mùa)
Mùa là một đề tài muôn thuở của thi ca. Trong văn học, dù là dân gian hay hiện
đại, dù là phương Tây hay phương Đông thì đều có những tác phẩm mang đậm đặc
trưng mùa, và mùa trở thành một yếu tố không thể thiếu trong tác phẩm. Trong văn
học Nhật Bản, nhất là hệ thống thi ca có tính chất tối giản, đề cao những rung động
nhỏ bé nhưng tinh vi, từ Manyoshu đến thơ Haiku là một bước phát triển lớn trong
việc quan trọng hóa yếu tố mùa trong tác phẩm: “Các nhà thơ haiku hầu như lúc nào
cũng đưa mùa vào thơ và các từ ngữ liên hệ đến mùa được gọi là kigo (quý ngữ). Cách
dùng kigo trở thành quy luật và hầu như các tuyển tập haiku đều quen xếp các bài thơ
12


theo từng mùa” [3;271]. Các mùa được gọi trực tiếp thành tên hoặc dựa trên những
quý ngữ để người đọc có thể đoán biết ra mùa mà tác giả đề cập. Khi Basho viết: “Một

đám mây hoa/chuông đền Ueno vang vọng/hay đền Asakusa.” thì người Nhật hiểu
ngay rằng ông đang nhắc tới mùa xuân và “một đám mây hoa” (Hana no kumo) là hoa
anh đào đang nở rộ, đó là biểu tượng của mùa xuân. Các từ dùng là quý ngữ cũng vô
cùng đa dạng và phong phú, phản ánh chân thực sự quan tâm của con người Nhật Bản:
chim én, chim sẻ, các loài hoa, tuyết tan, lá phong… Thơ Trung Hoa cũng vậy, tác giả
nào cũng để lại trong kho tàng tác phẩm của những những sáng tác có xuất hiện yếu tố
mùa. Nhắc tới Đỗ Phủ, không thể nào không nhắc tới Thu hứng, một tác phẩm kinh
điển của thơ Đường về mùa thu, Lý Bạch cũng viết những bài như Xuân tứ… Nhìn
chung, sử dụng yếu tố mùa đã trở thành một truyền thống của thi ca. Trịnh Công Sơn
tiếp thu truyền thống văn học ấy, cũng cảm nhận được tình cảm, cảm xúc của mỗi
người trong mỗi mùa. Thế nhưng, với cảm quan riêng của mình, chắc hẳn trong ca từ
Trịnh, mùa có những nét tương đồng và khác biệt với cảm quan chung. Đó là điều mà
chúng tôi sẽ tìm hiểu ở những phần tiếp theo.
Với tất cả những điều đã trình bày ở trên, quan niệm mùa mà chúng tôi đang sử
dụng dựa trên bốn mùa xuân, hạ, thu, đông của tự nhiên nhưng gắn bó chặt chẽ với
tâm trạng, cảm xúc của con người. Quan niệm mùa được sử dụng với nội hàm rộng
hơn một khái niệm của địa lý học và chỉ mang tính tương đối. Tương tự, khi tìm hiểu
về mùa và mỗi biểu tượng mùa trong ca từ Trịnh Công Sơn, ta cũng nên chấp nhận
những sự khác nhau/ trái ngược trong cách đánh giá, cảm nhận của ông và cách đánh
giá, cảm nhận của số đông quần chúng. Gia dĩ trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi
cũng đi theo con đường riêng của mình, đơn giản vì đối với chúng tôi, đó là con đường
của một trái tim rung động vì trái tim của người khác, cũng như việc “cố lấy hồn tôi để
hiểu hồn người” (Hoài Thanh).
1.2. Khảo sát, thống kê
Tiến hành khảo sát văn bản ca từ Trịnh Công Sơn, chúng tôi nhận thấy mùa trở
thành nỗi khắc khoải trong cảm xúc và tâm trí ông. Trong thế giới ca từ Trịnh, ta thấy
có một dòng thời gian lưu chuyển cùng những đổi thay của đất trời và muôn vàn tâm
trạng của chủ thể trữ tình. Xuân – hạ – thu – đông, bốn mùa hoa lá cũng là bốn mùa thi
ca trong cảm xúc của người nghệ sĩ với cố gắng “Gọi tên bốn mùa”.
Số ca khúc có xuất hiện hình ảnh mùa trong bốn mùa là 39 trên tổng số 99 ca

13


khúc khảo sát, tức là chiếm 39,4%. Trong số các sáng tác, không ít bài gọi cả tên của
bốn mùa như: Gọi tên bốn mùa, Góp lá mùa xuân, Tôi ru em ngủ… Ở những ca
khúc này, việc kể tên bốn mùa với những đặc điểm riêng một mặt nêu ra tính chu kì,
tạo nhịp điệu song song cho bài hát, một mặt làm phép so sánh cảnh sắc các mùa với
nhau. Còn đối với những tác phẩm chỉ gọi tên một mùa, ta có thể nhận thấy được đó là
dấu ấn của thời gian và suy tư của tác giả in đậm trên văn bản. Có một số bài viết về
mùa cụ thể như Nhớ mùa thu Hà Nội, Nhìn những mùa thu đi, Nắng thủy tinh… Và
tất nhiên cũng có những tác phẩm với sự xuất hiện của mùa chỉ là yếu tố ngữ cảnh,
làm nền cho sự thăng hoa cảm xúc của tác giả. Có thể kể đến một số tác phẩm thuộc
loại này như Diễm xưa, Ru tình, Vườn xưa… Dù thế nào đi nữa, vai trò của yếu tố
mùa trong ca khúc Trịnh cũng không thể phủ nhận được.
Cụ thể tần suất xuất hiện từng mùa như sau:
Bảng 1: Tần suất xuất hiện các mùa thiên văn
Các mùa

Mùa xuân Mùa hạ Mùa thu Mùa đông

Tổng số

Số ca khúc

13

9

16


13

99

Tỉ lệ (%)

13,1

9,1

16,2

13,1

100

Từ bảng số liệu có thể nhận xét, số ca khúc Trịnh Công Sơn viết có xuất hiện
dấu ấn của mùa là khá nhiều. Trong đó, nhiều nhất là mùa thu, xuất hiện ở 16 ca khúc,
chiếm 16,2%, ít nhất là mùa hạ với 9 lần xuất hiện, chiếm 9,1%.
Ngoài bốn mùa, ta còn có thể thấy trong ca từ Trịnh có những mùa đặc biệt, là
sự sáng tạo của cá nhân người nghệ sĩ.
Bảng 2: Mùa gắn với đặc điểm tự nhiên
Mùa
Mùa nắng

Tác phẩm
Em còn nhớ hay em đã quên
Hai mươi mùa nắng lạ
Em còn nhớ hay em đã quên


Mùa mưa

Mưa hồng
Mưa mùa hạ
Ru tình

Mùa gió

Trong nỗi đau tình cờ

Mùa cây trái

Tuổi đời mênh mông

Mùa lá xanh

Ru em từng ngón xuân nồng

Mùa xanh

Ru em từng ngón xuân nồng
14


Mùa vàng phai

Vàng phai trước ngõ

Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận ra rằng mùa gắn với đặc điểm tự nhiên
này cũng là một phần trong đặc điểm của bốn mùa thiên văn, và cách gọi tên ấy đã thể

hiện được dấu ấn sáng tạo riêng của người nghệ sĩ trong việc thể hiện cảm xúc, tâm trạng.
1.3. Mật ngữ bốn mùa
1.3.1. “Mùa xuân bước chân người rất nhẹ”
Mùa xuân xuất hiện trong ca từ Trịnh Công Sơn 13 lần, chiếm 13,1%. Ở một số
tác phẩm, mùa xuân được nhắc tới cụ thể, là cảm hứng chính của tác phẩm như Em
đến cùng mùa xuân, Em là bông hồng nhỏ, Hoa xuân ca… Nhưng cũng có những
tác phẩm, hình ảnh mùa xuân chỉ thấp thoáng như một yếu tố nhỏ góp phần tạo nên
hàm nghĩa của tác phẩm, có thể kể đến như Biển nhớ, Còn ai với ai, Người về bỗng
nhớ… Hình ảnh mùa xuân thường xuất hiện trong các kết hợp với các hình ảnh khác
hoặc thể hiện thông qua các hình ảnh đặc trưng của mùa: trái tim mùa xuân (Còn ai
với ai), Thành phố mùa xuân, hương hoa mùa xuân (Vẫn có em bên đời), nụ hồng
(Tôi ru em ngủ)…
Mùa xuân trong ca từ Trịnh Công Sơn, cũng như mùa xuân của đất trời, là mùa
của niềm vui, sinh sôi, đâm chồi nảy lộc. Mùa này thường xuất hiện hình ảnh ngây
thơ, đầy nhựa sống của lớp măng non. Đó là mùa của thiếu nhi, của “trẻ em như búp
trên cành”, Trịnh viết về mùa xuân và về các em với thái độ trân trọng, nâng niu, vừa
yêu mến thiết tha vừa gượng nhẹ che chở để cho niềm tự hào ấy được còn mãi. Phải
chăng, vì cũng sinh ra trong mùa xuân nên mùa xuân trong ca từ của ông nhận được sự
ưu ái ít ỏi để trở thành khoảng thời gian trong trẻo và tinh khôi, bên cạnh những phút
tư lự buồn bã chăng? Ban đầu của sự sinh sôi ấy, trong mắt tác giả, mùa xuân về cùng
với sự xuất hiện của các em (Em đến cùng mùa xuân). Sau đó, chính các em lại hóa
thân thành mùa xuân đáng yêu như hoa chớm nở:
“Em sẽ là mùa xuân cùa mẹ
Em sẽ là màu nắng của cha
Em đến trường học bao điều lạ
Môi hé cười là những nụ hoa.”
(Em là bông hồng nhỏ)
Mùa xuân, mùa khởi đầu của một năm. Cũng như trẻ thơ là khởi đầu của đời
người, hay nói cách khác trẻ thơ là mùa xuân của đời người. Hình ảnh em nhỏ đã được
15



đồng nhất với mùa xuân. Không chỉ là mùa xuân cá thể, em nhỏ còn mang tới mùa
xuân cho xung quanh và đặc biệt là người mẹ, đó là niềm vui, là sức sống, là sự hồi
sinh và thắp lên hy vọng về tình yêu cuộc sống cho gia đình.
Mùa xuân còn là mùa của cái đẹp và niềm vui được tận hưởng cái đẹp. Khác
với cái đẹp thơ ngây của những tâm hồn mầm non mới nhú, ở đây, cái đẹp đã được
đính kèm với lòng yêu và nhìn bằng con mắt yêu của một người con trai, đó là cái đẹp
của người con gái xuân thì với sự thanh khiết và từ tâm nhất về cả tâm hồn lẫn thể xác.
Với Trịnh, người con gái được đem đến như một món quá vô giá của cuộc đời:
“Đời sẽ cho lộc và đời sẽ cho hoa
Em mướt xanh như ngọc mà tôi có đâu ngờ.”
(Hoa xuân ca)
Cái đẹp sinh sôi và trong sáng ấy đã thay thế cho cảm giác tàn phai của mùa thu, mùa
đông lạnh giá, tang tóc vừa qua: “Mùa xuân thay lá mùa đông”. Niềm vui mùa xuân
còn là niềm vui của sự tha thứ và ước nguyện tương lai tốt đẹp từ hiện tại đau thương.
Đó là sự bao dung như “mùa xuân ơi, xác nuôi thơm” trong Bài ca dành cho những
xác người. Ta thấy, bên cạnh việc tả chân hiện thực chiến tranh đau thương: “Xác
người nằm trôi sông phơi trên ruộng đồng/ Trên nóc nhà thành phố, trên những đường
quanh co…/ Bên xác người già yếu, còn có xác thơ ngây”, Trịnh đang khóc lên thành
tiếng, và đồng thời cũng thắp lên một ước ao mùa xuân sẽ từ đau thương mà vươn dậy,
mà đứng lên dùng hình hài cứu rỗi như cây thánh giá của mình để cưu mang và hồi
sinh những số phận cùng khổ của cả một dân tộc. Mùa xuân không còn đơn thuần là
mùa xuân của cái đẹp, của niềm yêu nữa, mà đã trở thành mùa xuân của tình thương,
của khao khát phục sinh cùng với bao ước nguyện đẹp. Nó đã được chắp cánh thành
những lời cầu xin cho thân phận:
“Xin cho lá mùa xuân xanh trên rừng hoạn nạn
Xin cho những bàn chân hãy nối trên tật nguyền…
… Xin cho mọi người nhìn mắt anh em
Và xin thêm những ngày tìm hạnh phúc mai đây làm người.”

(Xuân nguyện)
Với Trịnh Công Sơn, mùa xuân là mùa của cái đẹp, của tình yêu, vừa sinh sôi
lại vừa tái sinh. Mùa xuân bắt đầu sự sống và duy trì sự sống đến muôn đời. Thế
nhưng, đứng giữa mùa xuân mật ngọt ấy ta vẫn bắt gặp một chủ thể trữ tình thấp
16


thoáng âu lo, suy tư, buồn sầu, nhạy cảm trước bước đi của thời gian. Đó là sự hoài
nghi thoáng đượm về sự tồn tại và tiêu biến của đời người, đối lập với niềm vui, cái
đẹp của sự sinh sôi. Có phải vì quá yêu, quá luyến tiếc tuổi trẻ sôi nổi, nên nhà thơ
luôn dặn lòng mình phải trân quý thời gian, kẻo một ngày kia mùa xuân sẽ trôi lặng
thầm và chưa đợi người thức nhận đã đi qua chóng vánh:
“Mùa xuân bước chân người rất nhẹ
Ngày xuân đã qua bao giờ.”
(Đêm thấy ta là thác đổ)
Như vậy, mùa xuân trong ca từ Trịnh xuất hiện ở hai mặt đối lập, một bên là
niềm vui, cái đẹp của tình yêu và hạnh phúc, một bên là nỗi lo lắng khôn nguôi khi
những ngày tháng tươi trẻ không còn kéo dài. Hai khía cạnh đối lập nhưng gắn bó biện
chứng với nhau, Trịnh đã sớm nhận ra mặt đất là thiên đường rồi giục giã con người
trân trọng thiên đường ấy. Đứng giữa mùa xuân mà tiếc nhớ mùa xuân, điều này đã
làm nên tính triết lý cho hệ thống tác phẩm.
1.3.2. “Trong vườn em mùa hạ”
Mùa hạ trong các sáng tác của Trịnh Công Sơn không phải là một mùa tiêu
biểu. Trong số 99 tác phẩm khảo sát, mùa hạ chỉ xuất hiện 9 lần, chiếm 9,1%. Điểm
qua các tác phẩm, ta thấy mùa hạ thường gắn với tình yêu trong trẻo, giản đơn như
Hoa vàng mấy độ, Vì tôi cần thấy em yêu đời, Mưa mùa hạ,… và đặc biệt là Hạ
trắng, một bài hát tiêu biểu về mùa hạ, liên hệ chặt chẽ với thân phận của tình yêu
trong gia tài âm nhạc Trịnh Công Sơn. Tác phẩm là một dấu ấn, một hồi ức có thực về
một người tình của tác giả: “Có một mùa hạ năm ấy tôi bị một cơn sốt nặng, nhiệt độ
trong người và bên ngoài bằng nhau. Tôi nằm sốt mê man trên giường không còn biết

gì. Và bỗng có một lúc nào đó tôi cảm thấy hương thơm phủ ngập cả căn phòng và tôi
chìm đắm vào một giấc mơ như một cơn mê sảng. Tôi thấy mình lạc vào một rừng hoa
trắng thơm ngào ngạt, bay bổng trong không gian đó. Ðến lúc tỉnh dậy người ướt đẫm
mồ hôi và tôi nhìn thấy bên cạnh giường có một người con gái nào đó đã đến cắm một
bó hoa dạ lý hương trắng rất lớn” (Giấc mơ hạ trắng) [19;181]. Mở đầu tác phẩm là
lời gọi nắng tha thiết và khẩn khoản, lời gọi về hồi ức, gọi một giấc mơ. Lời ca từ lặp
lại rất nhiều hình ảnh giấc mơ, rất nhiều màu trắng, nhưng cũng chính trong tác phẩm,
Trịnh đã gọi mùa thu về. Có phải, đó chỉ là giấc mơ, mùa hạ, mùa thu là một giấc mơ,
cuộc đời cũng là một giấc mơ, Trịnh đã tỉnh dậy khỏi giấc mơ hạnh phúc và khát khao
17


một sự hạnh phúc trong đời thực? Đó là sự hạnh phúc gắn với sự chung thủy và vĩnh
cửu của tình yêu và tình đời, tình yêu cứu rỗi thân phận:
“Áo xưa dù nhàu
Cũng xin bạc đầu
Gọi mãi tên nhau.”
Thời gian trôi để lại dấu ấn trên nếp nhàu tà áo và mái tóc pha sương, chỉ có
tiếng gọi nhau và tình cảm dành cho nhau là âu yếm và tròn đầy như những ngày quá
khứ còn son trẻ. Nhưng tình yêu chỉ còn trong dĩ vãng và giấc mộng: Người-con-gáiấy-đã-đi-rồi. Trong tác phẩm, Trịnh đã nhắc rất nhiều đến bước đi: đường xa áo bay,
lối em đi về, bước chân em về, tôi đưa em về, nắng đưa em về… Em đã đi rất xa hay
chính bản thân em là một tha nhân ưa thay đổi? Và liệu tình yêu có còn hay đã chết
yểu từ khi tôi biết em chỉ là tha nhân chứ chẳng phải “em là tôi và tôi cũng là em” (Tôi
ơi đừng tuyệt vọng). Giờ đây, người nghệ sĩ chỉ còn biết gọi tên em mãi suốt cơn mê
này, một tiếng gọi trở về vừa hư vô vừa tuyệt vọng.
Mùa hạ trong ca từ Trịnh được xây dựng dựa trên hệ thống hình ảnh như hoa,
nắng, mưa, phố... Trong Hoa vàng mấy độ, mùa hạ hiện lên thật độc đáo qua kết hợp
từ mới lạ:
“Em đến bên đời
Hoa vàng một đóa

Một thoáng hương bay
Bên trời phố hạ.”
Hay trong Vì tôi cần thấy em yêu đời, mùa hạ lại gắn với hình ảnh khu vườn. Khu
vườn ấy an yên, tươi vui đúng như bản chất của mùa hạ, trở thành điểm dừng chân cho
con người sau hành trình mỏi mệt của cuộc đời: “Tôi xin làm mưa bay/Trong vườn em
mùa hạ”. Là phố, là hoa vàng, hay nắng hạ thì mùa hạ đều hiển hiện như khoảng thời
gian rực rỡ, vui tươi nhất.
Ngoài một mùa hạ của tình yêu còn có một mùa hạ biểu tượng cho thời thơ ấu
như trong tác phẩm Ra đồng giữa ngọ. Đó là câu chuyện về một cậu bé vui tươi “ra
đồng giữa ngọ”, nhưng cũng lại là một câu chuyện buồn thương mà ca từ dễ dàng
khiến người nghe rơi nước mắt. Cái chết của cậu bé nhẹ nhàng, vội vàng và hóa hư vô
như đúng bản chất của một người ám ảnh bởi chủ nghĩa hiện sinh.

18


“Thằng bé xinh xinh ra đồng giữa ngọ
Ngờ đâu hội ngộ tan giữa thinh không.”
Ngoài ra, mùa hè còn gắn với “cơn mưa mùa hạ nồng nàn” (Mưa mùa hạ), hay
“mùa hè thênh thang” (Ra đồng giữa ngọ), rồi bỗng hóa thành “hạ khói mây” thoắt
xuất hiện rồi thoắt biến tan (Gọi tên bốn mùa).
Mùa hạ trong ca từ Trịnh xuất hiện không nhiều nhưng cũng biểu đạt được
những ý nghĩa riêng. Mùa hạ của trẻ thơ hồn nhiên trong sáng và mùa hạ của tình yêu
bình dị, giản đơn mà chung thủy nhưng cũng đã có ươm mầm tàn phai, trôi chảy và hư
vô. Mùa được xây dựng bằng hệ thống hình ảnh đặc trưng như mưa, nắng, hoa, phố,…
tạo sự gần gũi, dễ liên tưởng cho người nghe, người đọc.
1.3.3. “Nhìn những mùa thu đi”
Mùa thu là một đề tài muôn thuở của nghệ thuật dù là thi ca nhạc họa. Mùa thu
vàng trong tranh họa sĩ người Nga Isaac IIyich Levitan, Phong cảnh mùa thu của
Vincent Van Gohn là những bức họa nổi tiếng thế giới gây nhiều xúc cảm với người

thưởng thức. Trong thi ca, mỗi tác giả mỗi quốc gia cũng dùng thơ để lột tả bức tranh
phong cảnh mùa thu đặc trưng. Trong Hán tự của Trung Hoa, chữ sầu 愁 (buồn bã)
gồm có chữ thu 秋 (mùa thu) ở trên và chữ tâm 心 (trái tim) ở dưới, nếu diễn dịch theo
chiết tự thì mùa thu thường gắn với nỗi buồn. Có thể vì vậy mà dù là Bạch Cư Dị, Lý
Bạch hay Đỗ Phủ thì mùa thu đều gắn với nỗi buồn. Các nhà thơ Việt Nam cũng vậy,
Bích Khê viết mùa thu “buồn vương”, “thu mênh mông” (Tỳ bà), Xuân Diệu thấy mùa
thu đìu hiu, tang tóc (Đây mùa thu tới), Huy Cận lại thấy một thu cô đơn “củi một
cành khô lạc mấy dòng” (Tràng giang).
Có lẽ, trong bốn mùa, Trịnh dành nguồn thi cảm cho mùa thu là nhiều hơn cả.
Số tác phẩm xuất hiện mùa thu là 16/99, đạt 16,2%. Mùa thu có khi là mạch nguồn
cảm xúc chính cho tác phẩm với Nhìn những mùa thu đi, Nhớ mùa thu Hà Nội,
Nắng thủy tinh… Cũng có khi mùa thu chỉ xuất hiện bằng một số hình ảnh Ru tình,
Chiều một mình qua phố, Thương một người… Mùa thu là mùa của nỗi buồn, nhưng
nỗi buồn lại có những cung bậc cảm xúc khác nhau, gắn với những trạng thái khác
nhau của con người.
Mùa thu ca từ Trịnh, trước tiên, đó là mùa của nhớ nhung day dứt. Nhân vật trữ
tình “nhớ mùa thu Hà Nội”: “Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ” để
rồi bâng khuâng lòng như thầm hỏi tôi đang nhớ ai. Người đó là ai, mà để cho nhân
19


vật trữ tình nhớ đến một người để nhớ mọi người. Chắc hẳn, đó là một người rất đặc
biệt vì đã tạo nên một nỗi nhớ lạ kì. Và sự đặc biệt nên nỗi nhớ ấy lan rộng ra bao trùm
cả mùa thu?!
Mùa thu còn là mùa cô đơn. Điều kì lạ là nỗi cô đơn ấy tồn tại ngay khi xung
quanh mình có rất nhiều người, chỉ vì có một niềm tâm sự lớn mà nói mà viết suốt một
đời cũng không thành từ hết. Như vậy, làm sao mà trước những chiều thu có những cánh
chim bay về tổ ấm với hạnh phúc đoàn viên mà khỏi chạnh lòng cho được. Trịnh Công
Sơn viết: Chiều một mình qua phố (đợi mùa thu vàng áo thêm), Cánh chim cô đơn,…
cũng như là để bày tỏ sự cô đơn của mình trước sự biến chuyển của cuộc đời và sự thay

đổi của tha nhân. Nhận ra sự cô đơn, đó cũng là lúc ông nhận ra mình đã là “chiếc lá thu
phai”, chênh vênh giữa một bên là tuổi già và một bên là khát vọng ngày còn trai trẻ,
giữa một mùa xuân và một mùa thu, rồi để “lòng theo chút nắng bên ngoài”. Bài ca là
một sự thức nhận: “Giật mình ôi chiếc lá thu phai”. Tác giả tiếc thương mùa xuân quá
vội, rồi tự băn khoăn “Đời tôi ngốc dại, tự làm khô héo tôi đây”, và kết quả là sự giục
giã phải “vội vàng thêm những phút yêu người”. Đứng trong mùa thu, sau khi nhận ra sự
cô đơn, con người nhận ra sự già nua đang đến trên gương mặt và tâm trí mình: “Mỗi
sáng nhìn vào mặt gương soi lại thấy thêm rất nhiều sợi tóc bạc” [19;161]. Và sau đó,
cảm giác buồn bã ngậm ngùi ùa đến ngập kín tấm lòng vốn đã ngổn ngang tâm sự:
“Cuồng phong cánh mỏi
Về bên núi đợi
Ngậm ngùi ôi đá cũng thương thay.”
Những ca từ về mùa thu của Trịnh Công Sơn, tất cả đều đẹp và huyền diệu.
Nhưng nếu phải chọn vài ca khúc tiêu biểu nhất và đẹp nhất cho ca từ - thu của Trịnh
thì có lẽ không thể không nhắc tới Nhìn những mùa thu đi và Nắng thủy tinh. Đó là
những bài hát thể hiện sự rung động tinh tế và giao cảm đặc biệt của thiên nhiên và
con người. Không kể đến âm giai và tiết tấu, hai tác phẩm có hai nỗi buồn thật khác
nhau. Nắng thủy tinh là một nỗi buồn thật nhẹ, thật mênh mang, mà con người đã ý
thức được nỗi buồn ấy làm cho nó trở nên rất thơ, rất đẹp:
“Lùa nắng cho buồn vào tóc em
Bàn tay xanh xao đón ưu phiền.”
Trái lại, Nhìn những mùa thu đi là nỗi buồn đoạn tuyệt:
“Nghe tên mình vào quên lãng
20


×