Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

Nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật làm tăng khả năng giâm cành của giống chè kim tuyên tại lai châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (940.92 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

----------------------------------

NGUYỄN DUY HÙNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ BIỆN
PHÁP KỸ THUẬT LÀM TĂNG KHẢ NĂNG
GIÂM CÀNH CỦA GIỐNG CHÈ
KIM TUYÊN TẠI LAI CHÂU

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG

THÁI NGUYÊN – NĂM 2015


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM

----------------------------------

NGUYỄN DUY HÙNG

NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA MỘT SỐ BIỆN
PHÁP KỸ THUẬT LÀM TĂNG KHẢ NĂNG
GIÂM CÀNH CỦA GIỐNG CHÈ
KIM TUYÊN TẠI LAI CHÂU
Ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60.62.01.10


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG
Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ NGỌC OANH

THÁI NGUYÊN – NĂM 2015


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


Chè (Camellia Sinensis (L) O Kuntze) là cây công nghiệp lâu năm có nguồn
gốc ở vùng nhiệt đới nóng ẩm. Cây chè giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu cây trồng
nông nghiệp, sản phẩm chè là mặt hàng xuất khẩu quan trọng của ngành nông nghiệp
Việt Nam. Cây chè có giá trị kinh tế cao, một ha chè thu được 5-6 tấn chè búp tươi,
doanh thu đạt 40-50 triệu. Phát triển chè ở nước ta là biện pháp sử dụng hợp lý lao
động dư thừa, sản xuất và xuất khẩu chè thu hút lượng lao động khá lớn, gần 300
nghìn người. Sản xuất chè góp phần quan trọng trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa nơng nghiệp nơng thơn. Đặc biệt tại vùng Trung du miền núi phía Bắc, việc
trồng chè có ý nghĩa trong việc phân bố dân cư, lao động, chuyển dịch cơ cấu cây
trồng và nâng cao thu nhập cho người nông dân.
Lai Châu là tỉnh địa đầu biên giới phía Bắc, có điều kiện tự nhiên về đất
đai, khí hậu phù hợp cho sinh trưởng phát triển của cây chè. Tại nghị quyết Đại
hội tỉnh Lai Châu lần thứ XII đã xác định: Cây chè là một trong những cây trồng
chủ lực, cần được phát triển theo hướng thâm canh, tăng năng suất và mở rộng
diện tích, cần đưa các giống mới có chất lượng vào sản xuất để tạo ra sản phẩm
chè chất lượng cao từ đó giải quyết việc làm và giảm nghèo nhanh, bền vững cho
người trồng chè. Tỉnh có kế hoạch đến năm 2020 có 4350 ha chè, trong đó trồng
mới 1000ha, hình thành các vùng nguyên li ệu tập trung, chất lượng cao với các
giống chủ lực là Shan tuyết và Kim Tuyên trên địa bàn thành phố Lai Châu và các
huyện Tam Đường, Tân Uyên, Than Uyên.

Theo Sở Nơng Nghiệp tỉnh Lai Châu tính đến đầu năm 2014, diện tích chè
tồn tỉnh Lai Châu đạt 3357,6 ha. Trong đó diện tích chè kiến thiết cơ bản là
343,98 ha, diện tích chè kinh doanh là 2414,6 ha. Diện tích chè giai đoạn kiến
thiết cơ bản chủ yếu là trồng giống chè Kim Tuyên. Một trong những khó khăn
trong phát triển chè Kim Tuyên ở Lai Châu là chưa tự sản xuất cây con, thường
phải mua cây giống từ nơi khác, chưa có quy trình kỹ thuật giâm cành phù hợp
với giống chè Kim Tuyên. Hiện tại vườn ươm có tỷ lệ xuất vườn thấp, năm 2013
vườn ươm giống của công ty chè Tam Đường – tỉnh Lai Châu chỉ đạt tỷ lệ cành
giâm để xuất vườn hơn 50%.
Nghiên cứu kỹ thuật giâm cành cịn có tính thực tiễn cao, góp phần nâng cao
tỷ lệ xuất vườn, thúc đẩy sự phát triển của chè trong giai đoạn kiến thiết cơ bản,
nâng cao hiệu quả kinh tế cho người trồng chè trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Đó là lý


do đề tài “ Nghiên cứu ảnh hưởng của một số biện pháp kỹ thuật làm tăng khả
năng giâm cành của giống chè Kim Tuyên tại Lai Châu” được thực hiện.
2. Mục đích và yêu cầu của đề tài:
2.1. Mục đích của đề
tài.
Đánh giá được ảnh hưởng của bón bổ sung phân N, P, K cho cây mẹ sản xuất
hom giống và bón bổ sung phân, chế phẩm kích thích sinh trưởng đến khả năng nhân
giống bằng giâm cành của giống chè Kim Tuyên tại Lai Châu.
2.2. Yêu cầu của đề
tài:
- Đánh giá ảnh hưởng của bón bổ sung phân N, P, K cho chè sản xuất hom
giống đến năng suất hom và khả năng nhân giống bằng giâm cành của giống chè
Kim Tuyên tại Lai Châu.
- Đánh giá ảnh hưởng của bón bổ sung phân N, P, K cho cây con trong vườn
ươm đến khả năng nhân giống bằng giâm cành của giống chè Kim Tuyên tại Lai
Châu.

- Đánh giá ảnh hưởng của sử dụng chế phẩm kích thích sinh trưởng cho cây
con trong vườn ươm đến khả năng nhân giống bằng giâm cành của giống chè Kim
Tuyên tại Lai Châu.
3. Ý nghĩa của đề tài.
3.1. Ý nghĩa khoa học của đề
tài:
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ cung cấp những số liệu khoa học làm tài
liệu tham khảo và tư liệu sử dụng trong giảng dạy, đào tạo, tập huấn và kỹ thuật làm
tăng khả năng giâm cành của giống chè Kim Tuyên.
3.2. Ý nghĩa thực tiễn của
đề tài:
- Các kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ giúp nhân nhanh giống chè Kim Tuyên,
tăng tỷ lệ xuất vườn, sinh trưởng cho chè con tốt góp phần tạo ra những nương chè
sinh trưởng và phát triển tốt, mang lại hiệu quả kinh tế cao.
- Góp phần hồn thiện quy trình kỹ thuật sản xuất giống chè Kim Tuyên ở
Lai Châu.


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu.
1.1.1. Đặc điểm sinh lý của cành chè giâm.
Đối với thực vật nói chung và cây chè nói riêng để duy trì nịi giống của
mình chúng đều phải thơng qua cơ quan sinh sản hoặc chúng có khả năng tái
sinh từ các bộ phận khác của cơ quan sinh dưỡng như : lá, chồi, thân, rễ…Nếu
đưa các bộ phận của chúng vào môi trường thích hợp chúng sẽ phát triển thành
rễ, mầm và cây con. Đối với phương pháp giâm cành chè ta dùng một đoạn thân
lá (cơ quan dinh dưỡng) để tái sinh ra cây chè mới.
Phiến lá của hom là cơ quan để quang hợp tạo ra chất dinh dưỡng nuôi hom
và tái sinh cây, lá có vai trị quan trọng trong việc tạo thành cây chè con, nhưng

cũng dựa vào nhiều yếu tố khác như: chất lượng hom giống, đất đóng bầu, chế độ
sáng, chế độ chăm sóc và bón phân cho vườn ươm.
Để tạo thành cây chè hoàn chỉnh và sinh trưởng tốt trong vườn ươm, đủ
tiêu chuẩn đưa ra trồng trên nương nó phụ thuộc nhiều vào chất lượng hom
giống, môi trường giâm, chế độ chiếu sáng, chế độ chăm sóc và phân bón cho
vườn ươm. Mơi trường cắm hom chè thường dùng là một loại đất xốp có thành
phần cơ giới trung bình, độ chua thích hợp pH kcl từ 4,5 – 5,5. Từ vết cắt hom chè
sau khi giâm xuống đất nó sẽ hình thành một màng mộc thiêm để chống sự xâm
nhập của vi sinh vật, dần dần tạo thành mơ sẹo và từ đó mọc ra rễ đầu tiên, mầm
nách của hom chè cũng được phát triển cùng với sự phát triển của rễ, và lá đầu
tiên xuất hiện là lá vẩy ốc nở, sau đó đến lá cá và các lá thật, để tạo thành cây
con hoàn chỉnh. Nếu để mầm phát triển sớm hơn phát triển rễ là khơng có lợi cho
cây chè giâm do đó phải điều chỉnh sinh trưởng cân đối giữa mầm và rễ.
Thực vật nói chung và cây chè nói riêng có khả năng tái sinh cơ thể mới từ
các cơ quan sinh dưỡng. Khi một đoạn cành được cắt ra khỏi cơ thể mẹ thì các quá
trình phân chia tế bào vẫn tiếp tục xảy ra để hình thành mơ sẹo từ mặt cắt của cành
giâm phía dưới mặt đất và mầm ở nách lá hoạt động để hình thành một cây chè
hồn chỉnh. Tuy nhiên khả năng này thường có ở những cành bánh tẻ và có chứa
đỉnh sinh trưởng, đặc biệt phải có mơi trường thuận lợi. Những kết quả trong và
ngoài nước đã chỉ ra rằng q trình này chịu ảnh hưởng của các nhóm nhân tố như:


đặc điểm, trạng thái sinh lý của cây mẹ và cành giâm; các biện pháp kỹ thuật giâm
cành và các điều kiện môi trường (nhiệt độ, ẩm độ, sâu bệnh...)
Tỷ lệ và hàm lượng giữa nhóm auxin và xytokinin quyết định sự phân hoá
các bộ phận trên và dưới mặt đất của cây chè. Với một hom chè để trưởng thành
một cây chè hoàn chỉnh cần phải sinh trưởng rễ và chồi. Nhưng để hình thành rễ cần
phải tăng hàm lượng các chất thuộc nhóm auxin lúc mới giâm, sau đó rễ tự động
tổng hợp các chất thuộc nhóm xytokinin xúc tiến quá trình hình thành các chồi để
tạo nên cây chè hồn chỉnh. Đó là cơ sở của việc sử dụng một số các chất kích thích

sinh trưởng để làm tăng khả năng ra rễ, tăng tỷ lệ xuất vườn của những giống khó
nhân giống (Đỗ Ngọc Quỹ, Lê Tất Khương, 2000) [22].
1.1.2. Vai trò sinh lý của đạm, lân, kali đối với cây chè.
Bón phân cùng nhiều biện pháp tác động khác đối với giai đoạn chè con chủ
yếu để tạo ra cho cây có bộ rễ và bộ khung tán tốt, cơ sở cho việc nuôi hom chè và
cho cả chu kỳ sống và thu hoạch của cây. Việc sử dụng phân bón hợp lý cho cây
trồng phải dựa trên yêu cầu sinh lý của cây trồng, khả năng cung cấp dinh dưỡng
của đất và thời kỳ bón phân hợp lý cho chè.
Phân đạm đóng vai trị hàng đầu trong sự phát triển của cây trồng. Phân
đạm giúp cây sinh trưởng mạnh, tăng trưởng nhanh về chiều cao, diện tích là,
phân cành nhiều, giúp hình thành diệp lục, tăng hoạt động quang hợp và tích lũy,
giảm năng suất chất lượng cây trồng nghiêm trọng. Đạm là dinh dưỡng giúp cải
thiện kích thước chồi, lá, tăng năng suất, giúp ra lá nhiều, ra búp mới, lá mới.
Đối với cây chè khi cung cấp đầy đủ lượng phân đạm, chè phát triển nhanh thân,
cành, lá, búp, đâm chồi, nảy mầm ở các nách lá (Hoàng Minh Tấn, 2006) [26].
Phân lân có vai trị quan trọng trong q trình trao đổi năng lượng và
protein. Thúc đẩy ra rễ giúp tăng thu chất dinh dưỡng, góp phần tạo năng suất và
nâng cao chất lượng. Đối với cây chè, giúp sinh trưởng tốt, hệ thốn g rễ phát triển,
tạo khung tán mà cây chè tuổi nhỏ có nhu cầu, tham gia xúc tiến hình thành cơ
quan sinh sản, tiến hành trao đổi chất và năng lượng mạnh, xúc tiến các hoạt động
sinh lý đặc biệt là quang hợp và hô hấp... giúp cây tăng năng suất cây trồng
(Hoàng Minh Tấn, 2006) [26].
Phân kali có vai trị sinh lý quan trọng đối với cây trồng: giúp các hoạt động
trao đổi chất và các hoạt động sinh lý của cây; có tác dụng điều chỉnh các đặc tính lý


hóa của keo nguyên sinh chất; điều chỉnh đóng mở của khí khổng; điều chỉnh dịng
vận chuyển các chất trong mạch libe; hoạt hóa các enzyme; làm tăng khả năng chống
chịu của cây đối với điều kiện ngoại cảnh bất thuận. Giúp tăng khả năng thẩm thấu
qua màng tế bào, điều chỉnh PH, lượng nước qua khí khổng hoạt hóa enzim có liên

quan đến quang hợp và tổng hợp hydratcacbon (Hồng Minh Tấn, 2006) [26].
Chăm sóc vườn cây chè mẹ quan trọng nhất là chế độ phân bón và phịng trừ
sâu bệnh trong q trình ni hom giống. Vườn giống gốc để lấy hom cần được
chăm sóc chu đáo, ln sạch cỏ, sạch sâu bệnh. Hàng năm bón cân đối N: P: K, liều
lượng, thời kỳ và phương pháp bón phân cần được thực hiện đúng.
1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng giâm cành của cây chè.
1.2.1. Ảnh hưởng đặc điểm của giống tới khả năng giâm
cành.
a) Khả năng nhân giống của các giống chè.
Nghiên cứu về khả năng giâm cành của giống PH1, 1A, LDP1 cho thấy:
những giống chè có tốc độ hóa nâu chậm thì khi giâm cành tỷ lệ sống và đặc biệt
quá trình hình thành mô sẹo, ra rễ, bật mầm thấp hơn và ngược lại ở những giống
hóa nâu nhanh hơn thì có kết quả giâm cành tốt hơn (Nguyễn Văn Toàn, Trần Thị
Lư, Nguyễn Văn Niệm, 1998) [35].
Những nghiên cứu về khả năng nhân giống của các giống chè: PH1, 1A, TRI
777 và TH3 ở Thái Nguyên cho thấy các giống khác nhau có khả năng nhân giống
khác nhau (Lê Tất Khương, 1997) [11].
Những nghiên cứu về khả năng sản xuất hom của các giống chè 1A, LDP 1,
Shan Chất Tiền, Kim Tuyên cho rằng do đặc điểm sinh trưởng của các giống khác
nhau nên khả năng cung cấp hom của chúng cũng rất khác nhau. Giống thu được
số lượng hom/cây cao nhất là: LDP 1 đạt 166,4 hom (tương đương với 2.995.200
hom/ha), trong khi đó ở giống 1A số hom/cây chỉ đạt 73,4 hom (tương đương
1.321.200 hom/ha). Khả năng cho hom phụ thuộc vào sinh trưởng của cây mẹ,
điều kiện chăm sóc cũng như điều kiện ngoại cảnh (Đặng Văn Thư, Nguyễn Văn
Tạo, 2007-2008) [33].
Tỉ lệ xuất vườn là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá kết quả giâm cành và
hiệu quả kinh tế. Tỷ lệ xuất vườn phụ thuộc vào giống, độ non già của hom. Khi
giâm hom xanh của các giống chè thì tỷ lệ xuất vườn cao, dao động từ 75,28 –



87,32%.Tỷ lệ xuất vườn của các giống chè 1A, LDP1, Shan Chất Tiền và Kim
Tuyên khi giâm hom bánh tẻ, dao động từ 64,86 – 81,78% (Đặng Văn Thư, Nguyễn
Văn Tạo, 2007-2008) [33].
Khi chọn cành cắm hom thì yêu cầu màu sắc của hom khi cắm tùy thuộc vào
giống, giống PH1 yêu cầu màu xanh, nhưng TRI 777 và các giống chè LDP1, LDP2
lại có yêu cầu màu nâu sáng (Đỗ Văn Ngọc, 2003) [15].
Sau khi giâm cành được 60 ngày các cây chè Shan đầu dịng có tỷ lệ ra rễ
rất khác nhau, biến động từ 46,7% đến 93,3%, trong đó có 8 cây có tỷ lệ ra rễ cao
hơn giống TRI 777 (đối chứng) từ 20,0% đến 26,6%, cao nhất là các cây
C.BP:109-06; C.BP:120-06. Ở giai đoạn 90 ngày, các cây chè Shan đầu dịng đều
có tỷ lệ ra rễ tương đương với đối chứng, đạt trung bình từ 86,7% đến 100%
(Hoàng Văn Chung, 2012) [5].
Khi nhân giống vơ tính bằng giâm hom với 2 giống chè nhập nội chất lượng
cao Phúc Vân Tiên và Keo Am Tích (2005 – 2006). Chè ươm sinh trương phát triển
tốt, đạt và vượt tiêu chuẩn cây con xuất vườn quy định đối với giống Phúc Vân Tiên
và Keo Am Tích. Tỉ lệ xuất vườn đạt 91,2% với giống chè Phúc Vân Tiên và 84,6%
với giống Keo Am Tích (Nguyễn Văn Thiệp, 2005-2006) [28].
Giống chè 1A là một giống khó giâm cành, ra mô sẹo, ra rễ muộn, tỷ lệ sống
thấp và đặc biệt bộ rễ phát triển kém (Lê Tất Khương, 2006) [12].
Trong 3 giống chè thí nghiệm, giống 1A và giống Shan Chất Tiền khi tăng
tuổi cây giống thì tỷ lệ sống và mức sinh trưởng của cây tăng nhiều, giống Kim
Tun thay đổi ít hơn. Chính vì vây, tác giả đã khuyến cáo trong sản xuất để có hiệu
quả, giống Shan Chất Tiền và giống 1A nên trồng cây có 12 tháng tuổi. Giống chè
Kim Tuyên dùng cây 9 tháng tuổi.


Đối với vườn sản xuất hom giống: trồng các giống chè LDP1, LDP2, LDD97
và TB14. Riêng giống Tứ Quý nên có một tỷ lệ nhất định để nâng cao chất lượng
chè nguyên liệu. Các biện pháp chăm sóc được thực hiện đúng theo quy trình
(Nguyễn Văn An, 2006) [2].

b) Ảnh hưởng đặc điểm giải phẫu của cành chè giâm đến khả năng giâm


cành.
Các giống khác nhau có tỷ lệ ra mơ sẹo, ra rễ và tỷ lệ nảy mầm rất khác
nhau. Tỷ lệ ra mô sẹo, ra rễ, nảy mầm và xuất vườn của các giống: trung du, PH1,
TRI 777, 1A và TH3 khác nhau (Lê Tất Khương, 1997) [11].
Giống 1A có điểm khác biệt so với những giống chè khác như bản lá to, lá
mỏng và tầng dày biểu bì trên 1,7µ, mức độ hóa nâu chậm vì thế đây là giống chè
khi giâm cành sẽ có tỷ lệ sống thấp nhất (Nguyễn Văn Toàn, 1994) [34].
Sự khác nhau về cấu tạo giải phẫu của mỗi giống thể hiện ở kích thước độ
lớn của các mô khác nhau. Căn cứ vào biến động độ lớn các mô của hom từng
giống vào từng thời kỳ sau khi cắm hom giúp đánh giá mức độ hoạt động các mô
trong mỗi thời kỳ. Quan sát trên lát cắt ngang và cắt dọc của hom, nhận thấy chỉ
có một số mơ có khả năng phân chia tế bào mạnh tha m gia việc tạo mô sẹo, nó thể
hiện sự biến động của kích thước tế bào và bề dày các mơ (Nguyễn Thị Ngọc
Bình, Đỗ Văn Ngọc, 2003) [3].


Do hoạt động của tượng tầng sản sinh ra phía trong là gỗ, phía ngồi là libe
đã làm cho bề dày của gỗ cũng biến động nhưng biến động này không phải là hoạt
động chủ động của các tế bào gỗ phân chia. Mặc dù chiếm bề dày kích thước trong
hom rất lớn nhưng biến động của bề dày gỗ rất ít so với độ dày mà nó chiếm
(Nguyễn Thị Ngọc Bình, Đỗ Văn Ngọc, 2003) [3].
1.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố ngoại cảnh đến khả năng giâm cành
chè.
a) Ảnh hưởng của yếu tố thời vụ.
Với thời vụ giâm hom khác nhau có điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Điều
kiện này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tỷ lệ hom giống, khả năng ra rễ, bật mầm từ đó
ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cây con.

Khi nghiên cứu trên giống chè araxenli-1 (Anon., 1986) [36] đã kết luận:
Những hom chè có lượng đạm thấp và lượng đường cao khi giâm có khả năng ra rễ
tốt hơn, những cành giâm như thế thường ở thời vụ tháng 8. Ở thời kỳ này hàm
lượng đường trong lá cao hơn so với trong cuộng nên có tác dụng tốt đối với quá
trình ra rễ. Theo tác giả để tăng thời gian khai thác vườn chè giống cần tiến hành cắt
hom luân phiên, có nghĩa năm thứ nhất cắt vào vụ xuân, năm thứ hai cắt vào vụ hè
và ngược lại. Bằng cách cắt cành như vậy sẽ làm cho vườn chè giống phát triển hơn,
cành khỏe hơn và do đó khả năng ra rễ của cành giâm tốt hơn.
Nghiên cứu về giâm cành chè Shan, cho biết thời vụ nuôi hom tiến hành vào
tháng 5 – 6 (sau lứa hái 1) nuôi hom đến tháng 8, cắt hom và cắm cành vào tháng 9
– 10, năm sau tiến hành trồng mới, tỷ lệ xuất vườn nhìn chung đạt từ 65 – 80%,
trong đó có những cây đầu dòng ở Tủa Chùa đạt tỷ lệ cao nhất 90,7%. Cây chè Shan
sau 10 tháng giâm cành có chiều cao trung bình 32 – 38 cm, có những cây ở Tủa
Chùa cao 48,2 cm. Đường kính gốc cây chè con đạt trung bình 0,25 – 0,3 cm (có
cây đạt 0,37 cm – Tủa Chùa) tỷ lệ cây chè sống khi trồng đạt 80% (sau 3 tháng).
Đặc biệt khi trồng cây chè bằng giâm cành với kích thước cao 40 – 50 cm, đường
kính thân 0,25 cm, sau 3 năm đạt chiều cao 3,5 m, đường kính gốc 7 – 10 cm, có thể


sớm trở thành cây rừng. Trong khi cây trồng bằng hạt chỉ đạt chiều cao 2,2 m và
đường kính gốc 3 – 4 cm (Đỗ Văn Ngọc, 2003) [16], (Đỗ Ngọc Quỹ, 2007) [19].
Theo nghiên cứu về thời vụ giâm cành cho giống chè Shan (2012) ở Bằng
Phúc, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn cho biết tỷ lệ ra rễ của chè Shan ở các thời vụ
làm thí nghiệm đạt tới 60,0% đến 76,67%, đạt cao nhất là thời vụ 15/11 và 15/12,
đạt trên 80% số hom cắm ra rễ (Hoàng Văn Chung, 2012) [5], (Hoàng Văn Chung,
Lê Tất Khương, 2007) [7].
Khi nghiên cứu thời vụ giâm cành đối với giống chè PH 1, đã xác định có
hai thời vụ chính: Vụ đơng xn giâm từ tháng 12 đến tháng 2 và vụ hè thu từ
tháng 6 đến 15 tháng 7 nhưng thời vụ giâm cành tốt nhất đối với giống chè PH 1 là
vụ Đông Xuân (Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Văn Niệm, 1979) [20].

Khi nghiên cứu trên giống chè Shan triển vọng YB5 tại Phú Hộ đã kết luận tỷ
lệ ra rễ được tăng dần về thời vụ cuối năm (giâm tháng 12) (Nguyễn Hữu La, 2011)
[13].
Thời vụ để hom chè giống LDP1 và LDP2 có thể ni được quanh năm, tùy
thuộc vào điều kiện từng vùng và điều kiên thời tiết hàng năm. Tốt nhất nuôi hom
để cắm vào 2 thời vụ chính là vụ đơng xn và vụ hè thu. Thời gian nuôi cành chè
thành hom đủ tiêu chuẩn giâm từ 85 - 100 ngày. Vườn chè để hom được bón phân
bổ sung và chăm sóc cẩn thận (Nguyễn Văn Tạo, 2004) [24].
Theo nhóm tác giả của Viện KHKT Nơng Lâm nghiệp miền núi phía Bắc,
cho rằng có 3 thời vụ ni hom là vụ xn hè, hè thu và vụ đơng xn, trong đó 2
giống chè PH8 và PH9 chủ yếu được nuôi hom trong vụ đông.


Giâm cành vào vụ thu với giống chè 1A sẽ tốt hơn, tỷ lệ sống sau trồng sẽ cao
hơn vì giâm vào vụ thu thì tuổi cây con ở vườn ươm lớn hơn (cây cứng hơn) nên khi
trồng mới sẽ tốt hơn (Đặng Văn Thư, Đỗ Văn Ngọc, 2010) [31].
Nghiên cứu ảnh hưởng của nhiệt độ đến vườn chè giâm hom cho thấy: Nhiệt
o

o

o

o

độ dưới 5 C hoặc trên 45 C thì hom chè bị chết; nhiệt độ dưới 15 C và trên 35 C thì
hom chè sinh trưởng chậm; nhiệt độ thích hợp cho hom chè sinh trưởng và phát
o

triển tốt là 25 – 30 C (Patarava, B. D., 1987) [37].

b) Ảnh hưởng của kích thước bầu.
Chè Shan sinh trưởng khỏe, thời gian sống trong vườn ươm dài nên kích
thước túi PE cần lớn hơn giâm chè vùng thấp. Kích thước túi 18 x 25 cm, hàn đáy
túi và đục 6-10 lỗ ở nửa dưới túi, đường kính lỗ từ 0,8 - 1 cm.
c) Ảnh hưởng của lát cắt quan sát.
Trong kỹ thuật giâm cành chè bằng hom, sự tạo thành mô sẹo và sự ra rễ là
những chỉ tiêu quan trọng giúp cành giâm có một bộ rễ phát triển cá thể hoàn chỉnh.
Tùy thuộc vào đặc điểm cấu tạo của từng giống khác nhau mà hoạt động trao đổi
chất và các chức năng sinh lý cũng sẽ khác nhau. Theo nghiên cứu về cấu tạo giải
phẫu hom chè của các giống PH1, LDP1, 1A, ĐBT (Nguyễn Thị Ngọc Bình, Đỗ
Văn Ngọc, 2003) [3] quan sát trên lát cắt ngang hom, tại các vị trí cách vết cắt của
hom 0,5mm; 1,5mm và 2,5mm của 4 giống đều có cấu tạo giải phẫu về cơ bản nhìn
từ ngồi vào trong bao gồm các phần như sau: biểu bì; vỏ: hậu mơ, nhu mơ vỏ; nội
bì; cương mơ; trụ bì; libe; tượng tầng; gỗ (xylem); ruột.


Trên đoạn hom chè sau khi cắm, hoạt động tạo mô sẹo bao trùm lên vết
cắt của hom cũng xảy ra tập trung gần vết cắt. Càng xa vết cắt thay đổi xảy ra
càng ít, bởi các mơ ở xa vết cắt chỉ duy trì hoạt động bình thường khơng tham
gia tạo sẹo cho vết cắt. Sau cắm hom 40 ngày với giống chè PH1, biến động độ
lớn bán kính hom thay đổi, tại vị trí lát cắt quan sát cách vết cắt của hom 0,5mm
đạt 2685,0µ; cách vết cắt 1,5mm đạt 2610,2µ và cách vết cắt hom 2,5mm, bán
kính hom đạt 2509,8µ. Với giống LDP1 tại các vị trí lát cắt quan sát cách vết cắt
hom 0,5mm; 1,5mm và 2,5mm độ lớn bán kính hom lần lượt đạt 2065,9µ;
1998,6µ và 1912,6µ (Nguyễn Thị Ngọc Bình, Đỗ Văn Ngọc, 2003) [3].
d) Ảnh hưởng của các yếu tố khác.
Đối với vườn ươm: Chọn địa điểm thích hợp với cây chè và thuận lợi,
tránh được nắng, gió. Thời vụ giâm cành cũng như các biện pháp kỹ thuật quản
lý và chăm sóc vườn ươm được thực hiện theo quy trình giâm cành (Nguyễn Văn
An, 2006) [2].

Khi nghiên cứu về tuổi cây con khi trồng mới (1994) kết luận cây chè con 14
tháng tuổi khi trồng có tỷ lệ sống cao nhất (Nguyễn Văn Niệm, Chử Quốc Doanh,
Lê Sỹ Thức, 1994) [17].
Nghiên cứu về kích thước hom các tác giả kết luận: Hom chè có kích thước
dài 3-5cm và có 1 lá ngun là tốt nhất. Vết cắt phía trên của hom với khoảng cách
từ lá mẹ trở nên là 0,5cm là tốt nhất (Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Văn Niệm, 1979) [20].


1.2.3. Ảnh hưởng của phân bón tới khả năng giâm cành chè.
Nghiên cứu ở Kenya cho biết để có hom giống tốt cần phải chăm sóc vườn
cây mẹ như chế độ bón phân, đốn nhiều lần trong năm (Anon., 1986) [36].
Khi bổ sung phân bón cho cây mẹ sẽ tạo ra những hom chè khi giâm có tỷ
lệ ra rễ, bật mầm cao hơn, cây chè sinh trưởng tốt và tỷ lệ xuất vườn cao hơn bón
phân theo quy trình. Bón bổ sung cho cây mẹ phân hữu cơ sẽ có tác dụng tốt hơn
đối với bón phân vơ cơ. So với quy trình bón phân theo quy trình, bón bổ sung
lượng phân từ 8kg phân chuồng, 15g ure, 20g supe lân và 15g kali sulfat cho cây
mẹ làm tỷ lệ xuất vườn của các giống 1A, Shan Chất Tiền và Kim Tuyên cao
hơn chắc chắn (Đặng Văn Thư, 2006-2007) [29].
Trong điều kiện chăm sóc vườn ni hom theo quy trình, giống chè 1A
khi giâm cành có tỷ lệ xuất vườn thấp nhất đạt 51,32%, bộ rễ phát triển kém. Tỷ
lệ xuất vườn cao nhất là giống Kim Tuyên đạt 72 ,15%. Khi bổ sung phân bón
cho vườn cây mẹ như cơng thức 4: Quy trình + (8kg phân chuồng + 15g ure +
20g supe lân + 15g kali sulfat) sẽ có hiệu quả nhất về số lượng, chất lượng hom
giống, sinh trưởng, sinh khối cây chè con, tỷ lệ xuất vườn đạt cao nhất cho cả 3
giống chè 1A - Shan Chất Tiền - Kim Tuyên tương ứng là 70,82 - 85,02 87,50% (Đặng Văn Thư, 2006-2007) [29].
Muốn có hom chè tốt phải bón cho cây mẹ 20gam đạm sulfat, 20gam supe
lân, 20gam kalisulfat (Đỗ Ngọc Quỹ, Nguyễn Văn Niệm, 1979) [20].
Theo nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón đến hoạt động của bộ lá và năng
suất chè Trung du Phú Thọ (Lê Văn Đức, 1997) [9] cho thấy bộ lá phát triển thì cây
càng hồn thiện. Nếu bón các yếu tố riêng lẻ chỉ có đạm có tác dụng làm tăng số lá

chè 261,8%, lượng đạm tích lũy trong lá chiếm tới 57%. Bón đơn lẻ lân và kali
khơng làm tăng, thậm chí cịn làm giảm số lá, hiệu quả phân bón thấp. Khi bón đầy
đủ NPK ở mức N1P1K1 làm cho chỉ số lá cao nhất, tổng sinh khối đạt mức cao nhất
246,3%, sinh khối cành 520%, cây phát triển toàn diện làm. Kết quả nghiên cứu trên
bước đầu cho thấy khả năng hấp thụ dinh dưỡng và hiệu quả sử dụng phân bón của
cây chè kiến thiết cơ bản (cây chè mẹ nuôi hom) không phụ thuộc vào lượng tuyệt
đối mà phụ thuộc vào kiểu phối hợp các yếu tố phân bón.
Nghiên cứu về vai trị của phân bón đối với cành chè giâm (Đỗ Ngọc Quỹ,
Lê Tất Khương, 1998) [21] đã kết luận: bón phân là biện pháp quyết định đến tỷ lệ


chè con xuất vườn. Nguyên tắc bón phân là bón từ ít đến nhiều với lượng tương ứng
2

của các giai đoạn. Tổng số phân NPK/m bầu là 140g, cụ thể theo quy trình:
2

Bảng 1.1: Quy trình bón phân cho chè giâm cành ( cho 1m )
Thời gian cắm hom

Đạm sulfat (g)

Supe lân (g)

Kali Clorua (g)

Sau 2 tháng

9


4

7

Sau 4 tháng

13

6

10

Sau 6 tháng

17

8

14

Sau 8 tháng

21

12

19

Tổng số


60

30

50

Theo nghiên cứu của Bộ môn cây công nghiệp Trường đại học Nông lâm
Thái Nguyên ( 1982 - 1989) có thể tăng lượng phân bón trên 1,5 lần và tăng số
lần bón gấp 2 lần, bón hàng tháng (từ tháng 3 đến tháng 8), có thể tăng tỷ lệ xuất
vườn từ 5-6% (Chu Xuân Ái, Đinh Thị Ngọ, Lê Văn Đức, 1990-1999) [1].
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại phân bón cho chè Shan giâm
cành cho thấy các loại phân bón nghiên cứu đều có ảnh hưởng tốt đối với vườn ươm
chè Shan giâm cành. Trong đó, loại phân thích hợp nhất là phân NPK Việt Nhật và
NPK Hiến Nơng, khi bón 2 loại phân này tỷ lệ xuất vườn đạt từ 74,7% đến 75,7%,
cây chè con có bộ lá, thân và rễ phát triển tốt. Cũng theo tác giả, khi chia lượng
phân bón làm 7 lần bón cho chè Shan giâm cành thì tỷ lệ sống, tỷ lệ xuất vườn và
chất lượng cây giống sẽ cao hơn so với chia lượng phân bón làm 4 lần (Hoàng Văn
Chung, Lê Tất Khương, 2007) [6].
Nghiên cứu ảnh hưởng của phân bón và số lần bón cho vườn ươm chè (Lê
Tất Khương, Hoàng Văn Chung, 1999) [10] kết luận: khi tăng lượng phân bón đã
làm tăng tỷ lệ xuất vườn, hạ giá thành cây con, lượng phân bón tăng 25% so với quy
trình và bón 7 lần từ tháng thứ 3 sau cắm có kết quả rất tốt.
Việc bón phân cho cành giâm theo các tác giả chỉ nên bắt đầu khi các cành
giâm đã có rễ và kết thúc khi bắt đầu giai đoạn luyện cây trước khi mang trồng. Có
2

thể dùng phân Sulfat, phân Ure, phân tổng hợp … với lượng 2-30g/m tùy từng giai
đoạn. Lượng phân N, P, K theo tỷ lệ 15:10:10 bón với lượng 1,5g hỗn hợp này cho
một bầu giâm cành sẽ cho kết quả tốt. Phân Kali và Mg có vai trị rất lớn đối với sự
phát triển của bộ rễ chè (Nguyễn Văn Tạo, 2005) [25].



Khi nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng phân khoáng bón thúc đến động
thái cây chè con LDP 1 trong vườn ươm, cho rằng bón đạm sulfat cho cây chè con
đạt sinh khối cao nhất, bộ rễ phát triển khỏe, tỷ lệ xuất vườn cao (Nguyễn Văn
Tạo, 2005) [25].
Kết quả nghiên cứu kỹ thuật nhân giống chè 1A tại Phú Hộ, đã kết luận khi
bón riêng N, hom sinh trưởng kém cịn khi bón đầy đủ NPK hữu cơ thì cây con
khỏe, tỷ lệ xuất vườn cao (Đặng Văn Thư, 2010) [30].
Theo nghiên cứu về phân bón Agrodream cho hai giống chè Shan Chất Tiền
và Phúc Vân Tiên đã kết luận sử dụng phân bón Agrodream có ảnh hưởng đến tốc độ
tăng trưởng chiều cao cây; chế phẩm Agrodream giúp tốc độ ra lá đối với 2 giống
chè, đặc biệt có tác động rõ rệt khi cây gần cuối giai đoạn vườn ươm, giúp cây có bộ
lá khỏe mạnh; sử dụng chế phẩm Agrodream với liều lượng 20 ml chế phẩm/ 1lít
nước giúp bộ rễ phát triển, tăng trọng lượng rễ, tăng sinh khối cây chè [14].
Khi phun Komix, Agriconik và hỗn hợp axit Boric + Ure cho chè giâm cành
làm tăng tỷ lệ bật mầm, tăng tỷ lệ sống và tỷ lệ xuất vườn của cành giâm từ đó làm
giảm giá thành cây xuất vườn từ 3,2-8,1% (Lê Tất Khương, 2006) [12].
Trước khi cắm hom chè có thể xử lý bằng sun phát đồng (CuSO 4) 0,1% để
trừ nấm bệnh. Trước khi cắm hom bầu đất cần được tưới ẩm 80 – 85%, hom chè
được cắm thẳng đứng, lá xi theo chiều gió, cuống lá gần sát đất. Khơng cắm
sâu quá mầm dễ bị thối, sau khi cắm xong phải tưới ẩm ngay, tốt nhất là tưới
dưới dạng sương mù (Đỗ Văn Ngọc, 2003) [15].
Có thể xử lý hóa chất humat amon 75 ppm xử lý đất trước khi cắm, 10 ml
dung dịch/ bầu; xử lý bằng 2,4 D, NAA, NOA để rút ngắn thời gian ra rễ và nảy
mầm, tăng tỷ lệ sống và tỷ lệ xuất vườn (Đỗ Ngọc Quỹ, Lê Tất Khương, 2000) [22].
Khi nghiên cứu về ảnh hưởng của một số chất kích thích sinh trưởng trên
giống chè 1A, đã kết luận: khi xử lý hom chè bằng hóa chất làm cho cành giâm ra
rễ tốt hơn, cây sinh trưởng khỏe và cân đối do đó tỷ lệ xuất vườn, tỷ lệ sống cao
hơn hẳn đối chứng. Các công thức xử lý IAA nồng độ 4000 và 6000 ppm làm cho

cành giâm phát triển khá, các cơng thức xử lý 2,4D có tác dụng làm tăng tỷ lệ xuất


vườn nhưng không rõ. Các công thức xử lý NAA cho hiệu quả cao nh ất, tỷ lệ xuất
vườn cao hơn đối chứng, hom xanh và hom bánh tẻ có tỷ lệ xuất vườn trên 70%.
1.3. Một số quy trình kỹ thuật giâm cành chè.
1.3.1. Quy trình nhân giống chè LDP1 và LDP2 (Nguyễn Văn Tạo, 2004)
[24].
* Vườn sản xuất hom giống.
- Vườn lấy hom giống là: Các giống đã được Viện Nghiên cứu Chè tuyển
chọn, những giống đã được Bộ Nơng nghiệp & PTNT cơng nhận có năng suất chất
lượng và tính chống chịu cao, ổn định. Viện Nghiên cứu Chè trồng vườn giống gốc
cung cấp giống gốc để các địa phương xây dựng vườn chuyên để lấy hom giống.
- Vườn giống gốc để lấy hom giống: Cần được chăm sóc chu đáo, ln sạch
cỏ, sạch sâu bệnh, khi trồng mới bón lót 30-40 tấn phân hữu cơ và 600-800 kg supe
lân cho 1 ha. Hàng năm bón phân cân đối N, P, K lượng bón như chè hái búp.
Khi đã đến tuổi lấy hom giống hàng năm bón lượng phân khống cao hơn
chè kinh doanh 20-25% và bón bổ sung phân chuồng 15-20 tấn/ha, lượng phân
khống bón bổ sung tập trung vào lúc bắt đầu để búp (không hái) để nuôi hom.
* Kỹ thuật nuôi hom.
- Thời điểm ni hom:
Hom chè có thể ni được quanh năm, tùy thuộc vào điều kiện từng thời vụ
khác nhau. Hiện nay thường ni hom để cắm vào 2 thời vụ chính là vụ hè thu và
vụ đông xuân (chủ yêu là vụ đông xuân). Thời gian nuôi để cành chè thành hom
đủ tiêu chuẩn giâm từ 3 đến 3,5 tháng (tính từ lúc để búp không hái). Nếu lấy hom
giâm vào vụ hè thu (tháng 7-8) thì bắt đầu để búp nuôi hom vào tháng 4-5. Lấy
hom giâm vào vụ đông (tháng 11-12) cần nuôi hom từ tháng 8-9 (chọn lứa chính
có nhiều búp và sinh trưởng đều để ni).
- Bón phân cho vườn chè để hom giống: Trước khi để hom 15-20 ngày cần
bón lượng phân khống cân đối để tăng sản lượng và chất lượng hom, thường lượng

bón bổ sung cho 1 gốc chè của vườn giống như sau: Đạm sulfat 20-25g (Ure 1012g) KaliClorua (hoặc Kali Sulfat) 10-15g; Supe lân 20-25g với nương chè có năng
suất trên dưới 5-10 tấn/ha (lượng phân này tăng thêm so với lượng đã bón theo quy


trình chè sản xuất) tùy theo mức năng suất của nương chè mà bón tăng lượng phân
hoặc giảm cho hợp lý.
- Chăm sóc, tỉa hom: Trong thời gian ni hom chúng ta phải thường xuyên
kiểm tra kịp tời sâu bênh và hái những búp rìa tán, những búp nhỏ, sinh trưởng đợt
sau ở phía dưới để tập trung dinh dưỡng vào cành để hom. Cần điều chỉnh mật độ
cành hợp lý cho ánh sáng chiếu đến các cành chất lượng hom sẽ tốt hơn. Trước
khi cắt cành để lấy hom giâm 10 – 15 ngày cần tiến hành bấm ngọn để tạo điều
kiện cho mầm nách hoạt động và các hom đều thuần thục.
* Tiêu chuẩn cành và hom giống.
- Cắt cành: cần chọn cành khỏe, không bị sâu bệnh. Cắt vào sáng sớm hoặc
chiều tối. Để cành nơi râm mát, bảo dưỡng bằng cách thường xuyên phun nước làm
ẩm mặt lá và khơng khí nơi để hom.
- Cắt hom: Khi cắt cành về cần cắt ra hom ngay. Kích thước hom cắt: mầm
dài không quá 50 mm, lấy hom màu nâu sáng và đang chuyển từ màu xanh sang màu
nâu.
* Kỹ thuật vườn ươm.
- Yêu cầu chung đối với kỹ thuật vườn ươm.
Nguyên tắc: Vườn ươm lúc đầu phải được che kín, sau đó mở dần giàn che
và đặc biệt phải ln điều chỉnh ánh sáng theo tình hình thời tiết, ngày râm mát nên
mở giàn che để tăng cường ánh sáng và ngày nắng nóng thì ngược lại, phải che bớt
ánh sáng. Ẩm độ phụ thuộc vào giai đoạn phát triển của cây. Sau hai yếu tố ẩm độ
và ánh sáng thì chế độ phân bón cũng đóng vai trị quan trọng cho q trình phát
triển của hom giâm. Hom chè lúc đầu được cắm trong bầu đất nghèo dinh dưỡng mà
quá trình phát triển của cây chè dần dần yêu cầu một lượng dinh dưỡng cao hơn.
- Điều kiện khí hậu và đất đóng bầu: Ở những vùng trồng chè được là có thể
o


tiến hành xây dựng vườn ươm (nhiệt độ bình quân 18 – 23 C, lượng mưa trên
1200mm, độ ẩm khơng khí trên 70%).
Đất làm vườn ươm cần có thành phần cơ giới trung bình, hoặc thịt nhẹ, độ
chua đất từ PHkcl : 4,5 – 5,5.
- Thời vụ giâm hom: Giâm vào 2 thời vụ chính: Vụ đơng xn và vụ hè thu,
vụ đơng xn có thể giâm từ trung tuần tháng 11 đến trung tuần tháng 2 (năm


sau). Vụ hè thu giâm từ trung tuần tháng 6 đến trung tuần tháng 8, vụ hè thu tỷ lệ
sống thấp hơn vụ đông xuân rất nhiều do mưa nhiều rất khó điều chỉnh ánh sáng
và ẩm độ hợp lý.
- Tiêu chuẩn túi đóng bầu và kỹ thuật đóng bầu.
Túi đóng bầu là túi PE thường có kích thước 10cm x 16cm hàn đáy và đục 6
lỗ ở ⅓ phần đáy, đường kính đục lỗ 0,8-1,0cm.
Khi đưa đất vào túi bầu cần nhồi chặt, xếp bầu vào luống thật đứng và sít
nhau theo kiểu nanh sấu, dùng tre, nứa kẹp xung quanh luống, giữ bầu đất đứng
không để bầu nghiêng.
- Quản lý và chăm sóc vườn ươm: Vết cắt của hom chè sau cắm 10 – 15 ngày
thì liền và từ 15 – 30 ngày hom chè bắt đầu hình thành mô sẹo, sau 30 – 60 ngày
hom chè ra rễ đây là một thời kỳ quan trọng quyết định tỷ lệ xuất vườn cao hay
thấp. Về nguyên tắc, lúc đầu phải chăm sóc thật tốt tạo cho hom chè ra rễ sau đó là
giai đoạn bật mầm.
- Phân bón cho vườn ươm: Hom chè sau khi giâm trong vòng 2 tháng đầu
tuyệt đối khơng được bón bất kỳ loại phân gì, vì lúc này là giai đoạn hình thành mô
sẹo và rễ. Trong suốt giai đoạn vườn ươm cần được cung cấp phân đạm, lân, kali
ngày một tăng, theo bảng sau:
2

Bảng 1.2: Lượng phân bón cho vườn ươm (g/m )

Thời gian

Đạm Ure

Supelân

Kali

Sau 2 tháng

5

4

7

Sau 4 tháng

7

6

10

Sau 6 tháng

9

8


14

Sau 8 tháng

10

12

19

Cách bón: Hịa tan phân vào ơ doa tưới rải đều trên mặt luống (nồng độ 1%)
sau đó tưới rửa lại bằng nước lã, khi mầm chè mọc cao đã có 2 – 3 lá hồn chỉnh có
thế tiến hành phun đạm ure 2% kết hợp với phun thuốc bảo vệ thực vật.
* Tiêu chuẩn cây xuất vườn.
- Cao cây: 20 – 22cm, có 6 lá trở lên, lá cứng cáp, dày, xanh hơi vàng.
- Đường kính gốc: khoảng 3mm.


- Thân hóa nâu: khoảng 1/2 (nửa thân phần gốc đã chuyển màu nâu)
- Cây khơng cịn nụ, hoa.
- Sạch sâu bệnh.
- Bầu túi nilon còn nguyên vẹn.
- Những cây cao > 30cm, bấm ngọn.

1.3.2. Quy trình nhân giống 2 giống chè PH8, PH9 (Nguyễn Thị Minh
Phương, 2011-2012) [18].
- Thời vụ ni hom: có 3 thời vụ ni hom là vụ xuân hè, hè thu và đông
xuân (chủ yếu là vụ đơng xn).
- Lượng phân bón bổ sung trước khi ni hom: Đối với các giống chè PH8,
PH9 ngồi lượng phân bón theo quy trình chăm sóc bình thường khi ni hom cần

bón bổ sung mỗi cây với lượng phân: Đạm urê 10-12g; kali clorua 10-15g, lân supe
20-25g/cây.
- Mật độ cành hom giống: Đối với giống chè PH8, PH9 tuổi 4-5 để 25
cành/cây sẽ thu được 110-150 hom/cây, tương đương 2,26-3,0 triệu hom/ha.
- Tiêu chuẩn hom chè giống:
+ Hom loại 1: có chiều dài hom 3,5-4,5cm; đường kính hom: 3,0-3,5mm; độ
2

dài mầm nách <1,0cm, diện tích lá >20cm .
+ Hom loại 2: có chiều dài hom 3,5-4,5cm; đường kính hom: 2,5-3,0mm; độ
2

dài mầm nách <1,0-5,0cm, diện tích lá >18cm .
* Kỹ thuật trong vườn ươm:
- Kích thước túi bầu thích hợp đối với giống chè PH8, PH9 là nửa chu vi 910cm, chiều cao 15-16cm, hàn đấy; phần ½ đáy đục 6 lỗ, đường kính lỗ đục 0,81,0cm.
- Lượng phân bón thích hợp cho giống chè PH8, PH9 theo từng giai đoạn
sinh trưởng là:
2

Sau 50 ngày bón với tỉ lệ N:P:K = 9:4:7 (g/m )
2

Sau 100 ngày bón với tỉ lệ N:P:K = 13:6:10 (g/m )
2

Sau 150 ngày bón với tỉ lệ N:P:K = 17:8:14 (g/m )
2

Sau 200 ngày bón với tỉ lệ N:P:K = 21:12:19 (g/m )
2


Sau 240 ngày bón với tỉ lệ N:P:K = 25:15:23 (g/m )
-

Tiêu chuẩn cây con xuất vườn đối với giống chè PH8, PH9: Cao cây 2225cm, có 6-8 lá thật, đường kính gốc 2,5-3,0mm.


1.3.3. Quy trình nhân giống chè Kim Tuyên trên địa bàn tỉnh Lai Châu [23].
(Ban hành kèm theo quyết định số: 279/QĐ-SNN, ngày 17 tháng 9 năm 2010 của
Giám đốc sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lai Châu)
Thời kỳ ni hom: Hom chè có thể ni được quanh năm. Nhưng tỷ lệ sống
và tỷ lệ xuất vườn phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thời tiết đặc biệt là thời vụ
trồng chè. Thường nuôi hom chè để giâm cành vào hai thời vụ là hè thu và đông
xuân mà chủ yếu là vụ đơng xn.
Bón phân cho vườn sản xuất hom giống: Trước khi để hom 15 – 20 ngày cần
bón bổ sung lượng phân khống cân đối để tăng năng suất và chất lượng hom.
Thường lượng bổ sung cho một gốc chè là: Đạm ure: 43,48 – 54,35g; Lân Supe:
125 – 156,25g; Kali clorua: 17,24 – 25,86g.
Bón phân cho vườn ươm: Hom chè sau khi giâm hai tháng mới bắt đầu bón
phân. Lượng phân bón theo bảng sau
2

Bảng 1.3: Lượng phân bón cho vườn ươm (g/m )
Thời gian

Đạm sulfat

Supe lân

Kalisulfat


Sau cắm 2 tháng

9

4

7

Sau cắm 4 tháng

13

6

10

Sau cắm 6 tháng

17

8

14

Sau cắm 8 tháng

21

12


19

Cách bón: Hồ tan phân thành dung dịch nồng độ 1 - 2 % tưới đều trên mặt
luống nếu trời nắng tưới lại bằng nước lã. Khi mầm mọc cao có 2 - 3 lá có thể phun
2

urê nồng độ 2% (1 lít cho 5m ) kết hợp với phun thuốc bảo vệ thực vật. Hiện nay
nhiều cơ sở giâm cành đã tăng cường phân bón lên 1,5 - 2 lần, tăng số lần bón 2 - 3
lần đã làm tăng tỷ lệ xuất vườn.
Tiêu chuẩn cây con xuất vườn: Cao cây từ 18 – 20cm, có 6 – 8 lá thật, đường
kính gốc 1,5 – 2,0mm, thân hóa nâu 50%, cây sạch bệnh, bầu khơng bị vỡ.


Chương 2
VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Giống chè Kim Tuyên, 4 tuổi.
2.2. Vật liệu nghiên cứu.
- Phân bón: đạm sulfat, supe lân, kali clorua.
- Chế phẩm kích thích sinh trưởng:
+ Growmore 33-11-11.
+ Poly feed 19-19-19( Phân bón lá cao cấp).
+ Vinas 13 ( Phân bón lá hữu cơ cao cấp).
2.3. Thời gian địa điểm nghiên cứu:
2.3.1 Thời gian nghiên cứu:
Thời gian nghiên cứu từ năm 2014 - 2015
2.3.2 Địa điểm nghiên cứu:
Địa điểm: Vườn cây mẹ và vườn ươm công ty chè Tam Đường – Lai Châu.
2.4. Nội dung nghiên cứu:

- Ảnh hưởng của bón bổ sung phân N, P, K cho cây mẹ đến khả năng nhân
giống bằng giâm cành của giống chè Kim Tuyên.
- Ảnh hưởng của bón bổ sung phân N, P, K cho cây con trong vườn ươm đến
khả năng nhân giống bằng giâm cành của giống chè Kim Tuyên.
- Ảnh hưởng của chế phẩm kích thích sinh trưởng cho cây con trong vườn
ươm đến khả năng nhân giống bằng giâm cành của giống chè Kim Tuyên.
2.5. Phương pháp nghiên cứu.

2.5.1. Các thí nghiệm và phương pháp bố trí thí nghiệm.
Thí nghiệm 1: Ảnh hưởng của bón bổ sung phân N, P, K cho cây mẹ đến
khả năng nhân giống bằng giâm cành của giống chè Kim Tuyên.
Thí nghiệm có 4 cơng thức như sau:
Cơng

Lượng phân bón bón cho 1 cây mẹ


thức
Quy trình của Bộ Nơng Nghiệp năm 2010:

1

2kg phân chuồng + 10g Ns + 10g Kc + 20g Ps

2

Quy trình + 10g Ns

3


Quy trình + 10g Ns + 10g Ps

4

Quy trình + 20g Ns + 10g Ps

Thí nghiệm có 4 lần nhắc lại, bố trí theo khối ngẫu nhiên hồn tồn, diện tích
2

2

ơ 22,5 m , 45 cây/ơ, tổng diện tích thí nghiệm 360 m .
Sơ đồ thí nghiệm :
NL1

NL2

NL3

NL4

3

2

1

4

1


4

2

3

2

3

4

1

4

1

3

2

Kỹ thuật bón phân:
Phân chuồng hoai mục: đào rạch vùi lấp cùng với cành chè và lá chè đốn,
bón vào tháng 11 đến tháng 12 năm trước.
Phân hoá học: Chè trên 3 tuổi bón một năm 4 lần vào tháng 2, tháng 5, tháng
8, tháng 10. Tiến hành đào rạch giữa các hàng chè sâu 20cm, vùi lấp.
Thí nghiệm 2: Ảnh hưởng của bón bổ sung phân N, P, K cho cây con trong
vườn ươm đến khả năng nhân giống bằng giâm cành của giống chè Kim Tuyên.



×