Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Ảnh hưởng của niềm tin vào phật giáo đến sức khỏe tâm lý con người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (17.83 MB, 103 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

ĐHOGHN

BÁO CÁO TỎNG KÉT
KÉT QUẢ T H Ụ C HIỆN ĐỀ TÀI KH&CN
CẤP ĐẠI h ọ c QUÓC g i a

Tên đê tài: Anh hưỏng của niềm tin vào Phật giáo đến sức khỏe tâm lý
con người.
Mã số đề tài: Q G .15.44
Chủ nhiệm đề tài: PGS.TS. Nguyễn Thị Minh Hằng

Hà Nội,
• 7 2017


PHẦN I. THÔNG TIN CHUNG

1.1. Tên đề tài: Ảnh huỏng của niềm tin vào Phật giáo đến sức khỏe tâm lý con
ngưòi.
1.2. Mã số: QG.15.44
1.3. Danh sách chủ trì, thành viên tham gia thực hiện đề tài
TT

Chức danh, học vị, họ và tên

Đon vị công tác

Vai trò thực hiện đề


tài

1

PG S.TS. Nguyễn Thị Minh Hằng

ĐHKHXH& NV

Chú nhiệm

2

Th.s. N C S. Đặng Hoàng Ngân

ĐHKHXH& NV

Thư ký

3

Sinh viên Nguyễn Việt Hoàng

Đại học Minnesota, Mỹ

Thành viên

4

N C S. Nguyễn Minh Hà


ĐHKHXH& NV

Thành viên

5

Th.s. Cao Thị Thanh Nhàn

T T Trị liệu tầm lý, TP. Hải Phòng

Thành viên

6

CN. Bùi Thị Quỳnh Anh

Đ H K ỈIX H & N V

Thành viên

7

CN. Nguyễn Trâm Anh

ĐHKM XH& NV

Thành viên

1.4. Đon v ị chủ trì:
1.5. Thòi gian thực hiện:


1.5.1. Theo họp đồng:

từ tháng 3 năm 2015 đến tháng 3 năm 2017.

1.5.2. Gia hạn (nếu có):

đến tháng......năm.......................

1.5.3. Thực hiện thực tế: từ tháng 3 năm 2015 đến tháng 3 năm 2017.
1.6. Những thay đối so vói thuyết minh ban đầu (nếu có):

(Ve mục tiêu, nội dung, phương pháp, kết quả nghiên cứu và tô chức thực hiện; Nguyên nhân; Ỷ
kiến của C ơ quan quàn lý).
Theo thuyết minh, đề tài sẽ so sánh kết quả nghiên cứu trên nhóm khách thề là tín đồ Phật
giáo và nhóm không phái là tín đồ Phật giáo. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu sâu hơn về
các công cụ do lường niềm tin tôn giáo, nhóm nghiên cứu nhận thấy, các công cụ này không phù
hợp để đo trên nhóm khách thể không phải là tín đồ Phật giáo bơi không thể khăng định họ có
niềm tin tôn giáo hay không. V ì vậy, đề tài chỉ điều tra, nghiên cứu trên nhóm khách thể là phật

1.7. Tông kinh phí đưọc phê duyệt của đề tài: 300 triệu đồng.
PHẢN II. TỔNG QUAN KÉT QUẢ NGHIÊN c ử u
1. Đặt vấn đề:

Phật giáo là một trong những tôn giáo ra đời sớm nhất trong lịch sử loài người, tính đến
nay đã có 2561 năm. Phật giáo đã trở thành đề tài nghiên cứu ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau như
triết học, đạo đức học, xã hội học, tâm lý học, mỹ học, văn hóa học và tất nhiên là tôn giáo học.
Nhiều nhà nghiên cứu ớ các lĩnh vực khác nhau trên thế giới cho rằng, Phật giáo, ngoài những
yêu tô tâm linh thì trên hết, đó là một triết lý sống, một lối sống lành mạnh và hài hòa với tự
nhiên, về phương diện này, Phật giáo chứa đựng trong mình cả lý thuyết và đăc biệt là các

phương pháp rèn luyện rất bổ ích, gần gũi và hiệu quá để con người có được một lối sống như
vậy. Điều đó lý giải vì sao trong Tâm lý học hiện đại, Phật giáo trở thành một lĩnh vực nghiên
1


cứu ngày càng thu hút được sự quan tâm cua nhiều chuyên ngành của tâm lý học như Tâm lý học
xã hội, Tâm lý học tôn giáo, Tâm lý học tích cực. Tâm lý học văn hóa và đặc biệt là Tâm lý trị

Trong khi đó, ở Việt Nam. đã có khá nhiều nghiên cứu khoa học về Đạo Phật nhưng chủ
yếu dừng lại trong các lĩnh vực triết học, văn học, văn hóa học. đạo đức học. Tâm lý học, tâm lý
trị liệu hầu như chưa đề cập đến vấn đề này. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến hành nghiên
cứu ảnh hưởng của niềm tin vào Phật giáo đến sức khỏe tâm lý con người với mục tiêu kiểm
chứng các lợi ích của niềm tin Phật giáo (hiếu theo nghĩa rộng) đối với sức khóe tâm thần và cảm
nhận hạnh phúc của con người.
Đe tài nghiên cứu dựa trên tiếp cận của Tâm lý học tôn giáo, Tâm lý học sức khỏe và
Tâm lý học lâm sang.
2. Mục tiêu:

Đê tài nghiên cứu phân tích mức độ và cơ chế anh hưởng của niềm tin vào Phật giáo đối
với sức khởe tâm lý con người nhàm dề xuất phưưng thức ứng dụng Phật giáo để nâng cao sức
khỏe tâm lý nói chung.
3.

Phưong pháp nghiên cứu

a. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: những tài liệu nghiên cứu về Phật giáo trong lĩnh
vực Tâm lý học được sưu tầm, đọc, phân loại và khái quát thành các xu hướng nghiên
cứu cơ ban. Ket quả là. đề tài đã sử dụng khoảng hơn 300 tài liệu được xuất bàn trong
khoảng thời gian từ 1967 và cập nhật đến 2017, trong số đó chủ yếu là các bài báo
khoa học đăng trên các tạp chí uy tín của thế giới. Bên cạnh đó, đề tài cũng di sâu tìm

hiếu và nghiên cứu các công cụ đo lường niềm tin tôn giáo nói chung và niềm tin vào
Phật giáo nói riêng, sau đó lựa chọn những trắc nghiệm/thang đo phù hợp để thích
ứng và đưa vào nghiên cứu.
b. Phương pháp chuyên gia: Nhóm nghiên cứu đã xin ý kiến của 01 chuyên gia nghiên
cứu Phật giáo và 02 tu sĩ Phật giáo có tuổi đạo từ 10 năm trở lên để hiểu sâu sắc hơn
vê lĩnh vực Phật học, từ đó định hướng cho nghiên cứu.
c. Phương pháp trắc nghiệm/thang đo: Đe tài đã thích ứng và sử dụng các thang đo phổ
biên, cập nhật và có độ tin cậy, độ hiệu lực cao trong các nghiên cứu trên thế giới. Sau
đó, các thang đo này được thích ứng trên một mẫu thứ là 30 phật tử để tính toán độ tin
cậy, độ hiệu lực cấu trúc và độ hiệu lực nội dung. Trên cơ sở đó, những thang đo sau
đây đã được sử dụng cho nghiên cứu chính thức:
Thang đo Trọng tâm tôn giáo (The Centrality Religious Scale) cùa Huber và
Huber (2012);
Thang đo Định hướng tôn giáo (The Revised Intrinsic/Extrinsic Religious
Orientation Scale) của Gorsuch và McPherson (1989);
Thang đo Buông xả (Nonattachment Scale) cửa Sahdra, Shaver & Brown (2010);
Thang đo ứ n g phó tôn giáo rút gọn (The B rief Religious Coping) của Pargament.
Koenig và Perez (2011);
Thang đo Trầm cám, lo âu, stress của (Depression - Anxiety - Stress Scale) của
Lovibond và Lovibond (1995);
2


Bảng kiểm trạng thái lo âu (The State-Trait Anxiety Inventory - S T A I) của
Spielberger (1983):
Thang do Cảm nhận hạnh phúc (The R y ff Psychological W ell-being) của R y ff
(1989);
ứng phó rút gọn (The B rief C O P E ) cua Carver (1997).
d. Phương pháp điều tra bằng bang hỏi:
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được thiết kế đe thu thập thông tin về các biến số

nhân khâu (bao gồm: giới tính, tuôi, tình trạng hôn nhân, đạo tràng, nghề nghiệp và
thu nhập) và các biến số tôn giáo (Phật giáo) (bao gồm: tu sĩ/cư sĩ, quy y/chưa quy y,
số năm quy y, nơi tu tập Phật pháp thường xuyên, nhóm tu tập Phật pháp, tần suất tu
tập, tự đánh giá mức độ niềm tin vào Phật pháp, tự đánh giá mức độ thay đôi bán thân
từ khi tu tập theo Phật pháp.
e. Phương pháp phỏng vấn sâu:
Phương pháp này được sư dụng đê phỏng vấn một sô phật tử vê quá trình đên với
Phật giáo, trở thành tu sĩ Phật giáo, về sự thay đổi trongniềm tin, nhận thức, cảm xúc.
hành vi và các phương diện khác của họ từ khi thực hành Phật pháp.
f.

Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học:
Số liệu của nghiên cứu dược xử lý bằng phần mềm S P S S phiên bản 22.0. Các phép
thống kê đe tính toán độ tin cậy và độ hiệu lực của thang đo bao gồm: điểm trung
bình, điếm trung vị, độ nghiêng, hệ sổ KM O , phân tích nhân tố, tương quan items tông thê, hệ sô Cronbach’s Alpha. Các phép thông kê xử lý sô liệu phục vụ cho phân
tích kết quả nghiên cứu bao gồm: tần suất, điểm trung bình, độ lệch chuẩn, tương
quan Pearson, Independent Sample Test, One-way A N O V A , hệ so hồi quy đa biến
(Multiple Linear Regresion).
So liệu được thu thập thông qua hai phương thức: trực tiếp phỏng vấn, điều tra (446
người) và điều tra thông qua phiếu hỏi online (26 người).

4.

Tổng kết kết quả nghiên cứu

1. Niềm tin vào Phật pháp của tín đồ Phật giáo được nghiên cứu đạt 3.74 - đây là mức khá
cao so với các nghiên cứu khác trên các nhóm tín đồ Kitô giáo, Tin Lành, Hồi giáo, Do
Thái giáo và cả Phật giáo ở 21 nước trên thế giới. Các biến số nhân khẩu như giới tính,
nghề nghiệp, thu nhập không ảnh hưởng đến mức độ niềm tin vào Phật giáo của tín đồ.
Trong khi đó, lứa tuổi trung niên có niềm tin vào Phật pháp mạnh hơn những lứa tuổi

khác; những người sống cùng vợ/chồng có niềm tin cao hơn những người độc thân.
Những nhóm có mức độ gắn kết tôn giáo về mặt tổ chức cao và có trải nghiệm tôn giáo
như tu sĩ, những người đã quy y, quy y trên 10 năm, những người thường xuyên tu tập ở
chùa và tu tập cùng đạo tràng có niềm tin tôn giáo mạnh hơn so với các nhóm ít gắn kết
với tồ chức tôn giáo hơn. Những người có mức độ thực hành cao cũng có niềm tin cao
hơn. Ngoài ra, tự đánh giá về sự niềm tin và sự trải nghiệm chuyển hóa bản thân đều có
niềm tin vào Phật pháp đều có điếm niềm tin tôn giáo cao.
5. Nhìn chung, định hướng tôn giáo bên trong của tín đồ Phật giáo (M = 3.47) cao hơn định
hướng tôn giáo bên ngoài (M = 2.55). Các biến sổ nhân khẩu có anh hưởng rõ rệt đến
3


định hướng tôn giáo bên trong và định hướng tôn giáo bên ngoài. Những nhóm có định
hướng bên trong cao hơn đồng thời cũng là những nhóm có định hướng tôn giáo bên
ngoài thâp hơn các nhóm khác. Chi có yếu tổ giới có sự khác biệt, theo đó. tín đồ nam có
định hướng bên trong cao hơn tín đồ nữ nhưng đồng thời họ cũng có định hướng bên
ngoài cao hơn. Ở đây, một lần nữa. kết quả nghiên cứu lại cho thấy, những nhóm có mức
độ gắn kết tôn giáo và trải nghiệm tôn giáo cao đều có định hướng bên trong cao hơn một
cách có ý nghĩa so với các nhóm khác.
6. Buông xá là một biến số rất đặc trưng trong nghiên cứu tâm lý của tín đồ Phật giáo. Ket
quả nghiên cứu cho thấy, điếm buông xả ở tín đồ ở mức cao (M = 4.37) và ngang bằng
với một số nghiên cứu khác trên thế giới. Kết quả nghiên cứu cho biết, nữ có mức độ
buông xả cao hơn nam. Điều này cũng ghi nhận được ở một sổ nghiên cứu trên thế giới
và phù hợp với các thuyết về bản sắc giới. Đạo tràng có nhiều tu sĩ có điểm buông xả cao
hơn đạo tràng ít tu sĩ hơn. Mức độ gắn kết tôn giáo có ảnh hương rõ rệt đến mức độ
buông xả, theo đó, những nhóm có mắc độ gan kết tôn giáo cao đều có điếm buông xả
cao hơn nhóm khác. Thực hạnh Phật pháp thường xuyên cũng như mức độ niềm tin vào
Phật pháp và trai nghiệm sự chuyển hóa bản thân có ảnh hướng tích cực đến mức độ
buông xả hay chính xác hơn là chủng tác động lẫn nhau và chuyển hóa lẫn nhau.
7. Ket qua nghiên cứu ứng phó tôn giáo cho thấy tín đồ Phật giáo có ứng phó tích cực (M =

2.61) cao hơn có ý nghĩa so với ứng phó tiêu cực (M = 1.52). Có sự nhất quán giữa ứng
phó tích cực và ứng phó tiêu cực. Những nhóm tín đồ nào có điểm ứng phó tichsc ực cao
thì đồng thời cũng có điếm ứng phó tiêu cực thấp, ứng phó tôn giáo là một năng lực được
hình thành dần theo thời gian và tích lũy dần theo mức độ trải nghiệm tôn giáo. Điều này
lý giải vì sao không có sự khác biệt về giới trong ứng phó tôn giáo, kể cả tích cực và tiêu
cực nhưng lại có sự khác biệt rõ rệt ở biến số lứa tuôi và nghề nghiệp. Nhóm tuôi dưới 18
và học sinh, sinh viên đều có ứng phó tôn giáo tích cực thấp hơn so với những người lớn
tuôi hơn. Những người có mức độ gắn kết tôn giáo cao hơn đồng thời cũng có ứng phó
tích cực hơn những nhóm khác. Tuy vậy, riêng với những người tu tập một mình có ứng
phó tôn giáo tích cực cao hơn so với những người tu cùng bạn hoặc người thân. Điều này
có thê giải thích từ góc độ thực hành cá nhân là một hình thức tu tập Phật pháp rất quan
trọng, mà hình thức thực hành cá nhân quan trọng nhất của Phật giáo là thiền định. Thực
hành thiền định được chứng minh là có rất nhiều lợi ích cho sức khỏe và hạnh phúc của
con người, làm cân bàng cam xúc, giúp ứng phó tốt với các tác động của bên ngoài.
8. Rối loạn sức khỏe tâm thần (trầm cảm, lo âu và stress) ở tín đồ Phật giáo có điểm trung
bình M = .72 và 100% tín đồ Phật giáo được nghiên cứu không bị trầm cảm. lo âu và
stress. Ket quả này hết sức đặc biệt bởi chưa ghi nhận được trên một nhóm khách thê
nghiên cứu nào khác. Xét về các biến số nhân khẩu, những nhóm có mac độ gắn kết tôn
giáo cao cũng là những nhóm có điểm rối loạn tâm thần thấp hon các nhóm khác. Những
người tự đánh giá niềm tin vào Phật pháp và mức độ chuyển hóa bản thân tích cực đều có
điếm rối loạn tâm thần thấp hơn những nhóm đánh giá niềm tin của bản thân thấp hơn
hoặc mức độ chuyên hóa bản thân ít tích cực hơn.
9. Nghiên cứu cảm nhận hạnh phúc tâm lý của tín đồ Phật giáo cho thấy, điểm cảm nhận
hạnh phúc là M = 4.18 - mức khá cao. Không có sự khác biệt giới về cảm nhận hạnh
4


phúc chung cũng như ở sáu thành tố của nó. Gắn kết tôn giáo cao, một lần nữa, là biến số
có ảnh hưởng tích cực đến cảm nhận hạnh phúc, theo đó, tu sĩ, những người quy y, tu tập
cùng đạo tràng, thường xuyên tu tập ở chùa,...là những nhóm có điêm cám nhận hạnh

phúc cao hơn so với các nhóm còn lại. Thường xuyên thực hành Phật pháp, tự đánh giá
niềm tin cao vào Phật pháp và tự đánh giá mức độ chuyển hóa ban thân tích cực cũng ảnh
hưởng tích cực đến cam nhận hạnh phúc. Trong các thành tố của cám nhận hạnh phúc thì
tự chu có điểm thấp nhất, điều này có thê được lý giải từ sự khác biệt trong quan điêm về
tự chủ giữa Tâm lý học hiện đại và của Phật giáo, trong đó, sự khác biệt lớn nhất là góc
nhìn về biểu hiện tính tự quyết và tính ít chịu tác động từ ý kiến của người khác.
10. Nghiên cứu tương quan giữa các biến số niềm tin tôn giáo và sức khoe tâm lý cho kết
quả: tần suất thực hành Phật pháp, tự đánh giá niềm tin vào Phật pháp, tự đánh giá mức
độ thay đổi ban thân từ khi thực hành theo Phật pháp, hiểu biết giáo lý. lý tưởng tôn giáo,
thực hành tôn giáo cộng đồng, thực hành tôn giáo cá nhân và trải nghiệm tôn giáo đều
tương quan thuận với nhau và tương quan nghịch với trầm cảm, lo âu và stress. Điều này
có nghĩa là, niềm tin và thực hành tôn giáo càng tăng thì tín dồ Phật giáo càng ít có các
vấn đề về sức khỏe tâm thần, cũng có nghĩa là càng khỏe mạnh về tâm lý.
11. Niềm tin tôn giáo và các thành tố cua niềm tin là hiểu biết giáo lý, lý tướng tôn giáo, thực
hành cộng đồng, thực hành cá nhân, trải nghiệm tôn giáo, tần suất thực hành Phật pháp, tự
đánh giá niềm tin vào Phật pháp, tự đánh giá mức độ thay đổi bản thân từ khi thực hành
theo Phật pháp đều có tương quan thuận với cảm nhận hạnh phúc và các thành tố của cảm
nhận hạnh phúc (trừ thành tố tự chủ). Như vậy, niềm tin tôn giáo càng mạnh thì cảm nhận
hạnh phúc càng tăng.
12. Định hướng tôn giáo bên trong có tương quan nghịch với trầm cảm, lo âu và stress; trong
khi đó, định hướng tôn giáo bên ngoài có tương quan thuận với ba rối loạn này. Điều này
chứng tỏ, khi tín đồ thực sự sống với các giáo lý của đạo Phật, coi các tư tưởng của đạo
Phật là lý tưởng và lối sống của bản thân, đồng thời tu tập theo Phật pháp thì các triệu
chứng rối loạn tâm lý giảm đi. Nói cách khác, định hướng tôn giáo bên trong có tác dụng
phòng ngừa và làm giảm thiếu các triệu chứng trâm cám. lo âu, stress.
13. Định hướng tôn giáo bên trong tương quan thuận với cảm nhận hạnh phúc chung và các
thành tố: tự chấp nhận, mục tiêu sống và làm chủ hoàn cảnh. Trong khi đó, định hướng
tôn giáo bên ngoài không tương quan với càm nhận hạnh phúc chung, tương quan nghịch
với thành tổ tự chủ mà thôi. Kết quả trên cho phép nhận định rằng, khi cá nhân coi tôn
giáo là lối sống, là lý tướng của bản thân thì họ đồng thời cũng có mục tiêu sống rõ ràng,

có khả năng làm chủ hoàn cảnh và tự chấp nhận bản thân, người khác và mọi thứ. Ngược
lại, cá nhân càng có xu hướng sử dụng tôn giáo như những công cụ hay phương tiện đê
thực hiện điều gì đó cho bản thần thì càng kém tự chủ trong cuộc sống, càng dễ bị lệ
thuộc vào các đối tượng bên ngoài.
14. Buông xả là yếu tố có tương quan thuận mạnh nhất với cảm nhận hạnh phúc và tương
quan nghịch với trầm cảm. lo âu và stress. Điều này có nghĩa là khi tín đồ không còn bám
chấp vào sự vật, hiện tượng và người khác, không còn lệ thuộc vào cảm xúc do các giác
quan mang lại thì họ không chỉ có đời sống cân bằng, hạnh phúc mà đồng thời cũng có

5


mục tiêu sống rõ ràng, có khả năng chấp nhận cao và làm chủ hoàn canh lốt, và hiện thực
hóa ban thân cao.
15. Ung phó tôn giáo tiêu cực có tương quan nghịch ở mức trung bình cao với trầm cảm. lo
âu, stress, trong khi đó. ứng phó tôn giáo tích cực không tương quan với các triệu chứng
nêu trên, ửng phó tôn giáo tích cực tương quan thuận với cảm nhận hạnh phúc (trừ thành
tổ tự chu), trong khi đó, ứng phó tôn giáo tiêu cực tương quan nghịch và mạnh hơn với
cảm nhận hạnh phúc chung cũng như các thành tố riêng biệt. Như vậy, ứng phó theo cách
hướng vào tôn giáo và bán thân như: tìm kiếm những giải pháp tích cực từ tôn giáo, lắng
nghe sự mách bao tâm linh, xả bỏ cảm xúc tiêu cực và sám hối tội lỗi của bản thân có tác
dụng tích cực, làm tăng cám giác được kết nối với sức mạnh tâm linh, tăng cảm giác hạnh
phúc tâm lý. Ngược lại. ứng phó tôn giáo tiêu cực là nghi ngờ Phật pháp, đô lỗi cho
những thế lực siêu hình hay mặc cảm tội lỗi đều làm giảm cảm nhận hạnh phúc tâm lý.
16. Cảm nhận hạnh phúc và các thành tố của nó có tương quan nghịch với trầm cảm, lo âu và
stress.
17. Nhóm bốn yếu tố là tự đánh giá niềm tin vào Phật pháp, tự đánh giá mức độ thay đổi bản
thân từ khi tu tập theo Phật pháp, định hướng tôn giáo bên trong và ứng phó tôn giáo tiêu
cực có kha năng dự báo các rối loạn trầm cảm, lo âu ở tín đồ Phật giáo. Hai yếu tố là ứng
phó tôn giáo tiêu cực, định hướng tôn giáo bên ngoài có ảnh hương tiêu cực đên sức khỏe

tâm thần. Khá năng dự báo của nhóm các yếu tố này rất cao, từ 29,9% - 39,9% độ biến
thiên của trầm cảm, lo âu và stress.
18. Nhìn chung, các yếu tố buông xả, định hướng tôn giáo bên trong, định hướng tôn giáo
bên ngoài, ứng phó tôn giáo tích cực và ứng phó tôn giáo tiêu cực có khả năng dự báo rất
tốt cảm nhận hạnh phúc của tín đồ Phật giáo. Trong đó, buông xả là yếu tố có khả năng
dự báo cao nhất, trong khi đó, định hướng tôn giáo bên ngoài và ứng phó tôn giáo tiêu
cực là hai yếu tố dự báo được sự ảnh hưởng tiêu cực đến cảm nhận hạnh phúc của tín dồ
Phật giáo. Khả năng dự báo cám nhận hạnh phúc ớ tín đồ Phật giáo của các yếu tổ trên rất
cao, dao động từ 32,8% - 49,2%.
5. Đánh giá về các kết quả đã đạt đưọc và kết luận

Kết quả thu nhận được từ nghiên cứu này rất có ý nghĩa trong việc ứng dụng Phật giáo
vào việc nâng cao sức khỏe tâm lý con người và điều trị các rối loạn tâm lý. Cụ thê, sẽ rât lợi ích
đối với những người có tôn giáo là Phật giáo khi hướng dẫn họ không chỉ nhận thức sâu sắc hơn
về các triết lý sống như vô thường, nhân quả, nghiệp báo, Tứ diệu đế và Bát chánh đạo mà còn
tinh tấn thực tập buông xả, thực tập ứng phó tôn giáo theo cách tích cực. Đối với những người
không có tôn giáo, có thê nâng cao sức khỏe tâm lý thông qua lối sống lành mạnh của Phật giáo
như thực tập xả bo sự bám chấp của bán thân đối với những kích thích bên ngoài, những lạc thú
giác quan để tìm về với chính mình. Thực tập chánh niệm là một phương pháp hữu hiệu giúp con
người sống thật sự với từng phút, từng giây, từng khoánh khắc trong hiện tại mà không đau sầu,
tiếc nuối những gì đã qua vốn không thể thay đồi được hay vọng ảo về tương lai vốn là thứ mà
con người không hoàn toàn kiêm soát được.
Để thực hiện được những điều nói trên, rất cần có thêm các nghiên cứu khác trong tương
lai để bổ sung cho những hạn chế cùa nghiên cứu này. Một trong những bổ sung cần thiêt đó là
6


nghiên cứu mở rộng cơ chế ảnh hưởng của buông xả, định hướng tôn giáo bên trong, định hướng
tôn giáo bên ngoài, ứng phó tôn giáo tích cực và ứng phó tôn giáo tiêu cực đến sức khỏe tâm lý.
Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu, bài báo khoa học cua các tác giả trên thế giới về lĩnh vực này

(đã trình bày trong chương 2 và ớ chương 3), chúng tôi giả định rằng, cơ chế ánh hưởng này có
thê được giải thích bằng các biến số trung gian - đó là các phương pháp thực hành trong đạo
Phật, mà đặc trưng nhất là chánh niệm và thiền định. Ngoài ra. các biến số khác cũng có thê có
ánh hưởng khá mạnh, đó là quán từ bi (reflection on compassion/compassion meditation), quán
vô thường (reflection on impermanence), quán vô ngã (non-self reflection).
Song song với những nghiên cứu mang tính chất nền tảng lý thuyết, lĩnh vực này cũng
cần có các nghiên cứu áp dụng các mô hình trị liệu ứng dụng các phép thực hành của Phật giáo
đã được chứng minh là thành công trên thế giới. Mô hình trị liệu cho cả người khỏe mạnh và
người có stress nhàm điều chỉnh lối sống, nâng cao cam nhận hạnh phúc như Điều chỉnh stress
trên cơ sở chánh niệm (Mindfulness-based Stress Reduction - M B SR). Một số mô hình sử dụng
nhiều hơn trong điều trị các rối loạn tâm thần là: Trị liệu chấp nhận và cam kết (Acceptance and
Commitment Therapy - A C T ), Trị liệu hành vi biện chứng (Dialectical Behavior Therapy), Trị
liệu nhận thức dựa trên chánh niệm (Minfulness-Based Cognitve Therapy).
6. Tóm tắt kết quả (tiếng Việt và tiếng Anh)
Đe tài nghiên cứu về ảnh hưởng của niềm tin vào Phật giáo đến sức khỏe tâm lý trên một
nhóm mẫu là 472 tín đồ Phật giáo từ 2015 đến 2017. Các trắc nghiệm và thang do được sử dụng
bao gồm: The Centrality Religious Scale o f Huber và Huber (2012); The Nonattachment Scale of
Sahdra, Shaver & Brown (2010); The Brief Religious Coping o f Pargament, Koenig và Perez
(2011), Depression - Anxiety - Stress Scale of Lovibond và Lovibond (1995); The State-Trait
Anxiety Inventory o f Spielberger (1983); The R y ff Psychological Well-being o f R y ff (1989),
The Brief C O P E of Carver (1997).
Ket qua nghiên cứu cho phép nhận định, niềm tin vào Phật giáo (hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm: nhận thức giáo lý nhà Phật, định hướng tôn giáo bên trong/bên ngoài, thực hành Phật
pháp, trải nghiệm tôn giáo và ứng phó tôn giáo, buông xả - một kiểu ứng phó tôn giáo) có ảnh
hưởng đa chiều đến sức khỏe tâm lý của tín đồ. Theo dó, các yếu tố nhận thức giáo lý và trải
nghiệm tôn giáo không ảnh hưởng rõ rệt, trong khi đó, buông xả, định hướng tôn giáo và ứng phó
tôn giáo có ánh hưởng mạnh. Cụ thể hơn. buông xả, định hướng tôn giáo bên trong và ứng phó
tôn giáo tích cực có ảnh hưởng tốt, ngược lại, định hướng tôn giáo bên ngoài và ứng phó tôn giáo
tiêu cực có ảnh hưởng xấu đến sức khoe tâm lý của tín đồ Phật giáo. Nghiên cứu cũng chỉ ra
rằng, niềm tin tôn giáo đơn thuần không có tác dụng trong việc nâng cao sức khỏe tâm lý mà sự

thực hành và ứng dụng thực hành Phật giáo trong việc xử lý, giải quyết các vấn đề/khó khăn
trong cuộc sống mới mang lại lợi ích thiết thực cho con người. Điều này đặc biệt phù họp và
quan trọng trong Phật giáo bởi Phật giáo không chí là một tôn giáo nhân bản mà còn là triết lý
sống và lối sống lành mạnh.
Kết quả thu nhận được từ nghiên cứu này có ý nghĩa đáng kê trong việc ứng dụng Phật
giáo vào việc nâng cao sức khoe tâm lý con người và điều trị các rối loạn tâm lý.
Research on the influence of Buddhist beliefs on psychological well - being on a sample
of 472 Buddhists from 2015 to 2017. Psychological tests and scales included the Centrality
religious scale (Huber. & Huber, 2012), the Nonattachment scale (Sahdra, Shaver, & Brown,
2010), the Brief religious coping of Pargament (Koenig & Perez, 2011), the Depression - anxiety
7


- stress scale (Lovibond & Lovibond, 1995), the State - trait anxiety inventory (Spielberger,
1983), the R y ff psychological well - being (Ryff, 1989), and the B rief C O P E (Carver, 1997).
Research results provided empirical evidence supporting that Buddhist beliefs, which
included religious awareness, religious experience, religious coping, intrinsic religious
orientation, extrinsic religious orientation, Dharma practice, and nonattachment - a type of
Buddhist coping, had influence on psychological well - being o f followers. While religious
awareness and religious experience did not show any significant influence, nonattachment,
religious orientation, and religious coping showed significant influence on well - being. To be
more specific, nonattachment, intrinsic religious orientation, and positive religious coping
exerted beneficial influence on participants. In contrast, extrinsic religious experience and
negative religious coping had harmful influence on participants. Results also showed that people
did not enhance their psychological well - being by merely believing in Buddhism but rather by
practicing Buddhism and applying their practice to solving problems in their daily life. This
result is in accordance with and important to teachings of Buddhism because Buddhism is not
only a humane religion but also a healthy way o f life.
Obtained results are highly significant for employing the Buddhist approach in improving
psychological well - being and treating psychological disorders.


PHẦN III. SẢN PHẤM, CÔNG BÓ VÀ KÉT QUẢ ĐÀO TẠO CỦA ĐÈ TÀI
3.1. Kết quả nghiên cứu

IT

1

Tên san phâm

Nguyễn Thị Minh Hằng & Đặng
Hoàng Ngân (2017).
‘‘Phật giáo và sức khôe tâm lý”. Sách
chuyên khảo, N X B . Đại học Quốc
gia Hà Nội.

Yêu cầu khoa học hoặc/và chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật
Đăng ký

Đạt được

Đã xuất bản/Ký hợp
đồng xuất bản

Ký hợp đông
xuất bản

Nguyen Thi Minh Hang & Dang
Hoang Ngan.
2


‘'Buddhist
non-attachment
philosophy and Psychological well­
being in Vietnamese Buddhists” . The
European Proceedings o f Social &
Behavioural Sciences, Volume X X ,
1/2007, 119-134. Publication by
Future Academy, has been indexed in
ISI
Thomson
Reuters;
doi.org/10.15405epsbs.2017.01.02.14

Tạp chí ISI
Tạp chí IS I/SC O P U S

ISSN : 2357-1330


0
J

1. Đặng Hoàng Ngân & Nguyễn Thị
Minh Hằng. Các phương pháp và
công cụ nghiên cứu niềm tin tôn
giáo: thành tựu và thách thức. Tạp
chỉ Khoa học X ù hội và Nhân văn,
tập 2, số 4 (8/2016); 4 8 5 ^ 9 7 . IS SN
2354-1172.


02

02

0

01

0

01

2. Nguyền Thị Minh Hằng, ứ n g
dụng Phật giáo - một xu hướng mới
trong tâm lý trị liệu, ứ n g dụng Phật
giáo - một xu thế mới trong tâm lý trị
liệu hiện nay. Tạp chí Tâm lý học, số
11. 2015,49-63. IS SN : 1859-0098
Bài tham luận tại hội thao quốc tế tồ
chức trong nước:
4

5

Nguyễn Thị Minh Hằng. Sức khóe
tâm thần ở tín đồ Phật giáo: ảnh
hưởng của biến số nhân khâu và biến
số tôn giáo. K ỷ yếu Hội tháo Quốc tế
“Chăm sóc sức khỏe: các vấn đề xã

hội học và công tác xã hội” (đang in).
Hà Nọi, 4-5/11/2016.
Bài tham luận tại hội thảo Quốc tế tổ
chức ở nước ngoài (Bồ Đào Nha)
The Relationship between
Nonattachment and Mental Health
among Vietnamese Buddhists.
3rd icH & H psy International
Conference on Health and Health
Psychology, 05th - 07th July 2017.
Đã được chap nhận Abstract.

3.2. Hình thức, cấp độ công bố kết quả
Ghi địa chỉ
và cảm on
sự tài trợ
Sản phâm
của
TT
ĐHQ G H N
đúng quy
định
1 Công trình công bô trên tạp chí khoa học quôc tê theo hệ thông SI/Scopus
Đã xuât bản
1.1 “ Buddhist non-attachment

philosophy and Psychological
well-being in Vietnamese
Tình trạng
(Đ ã in/ chấp nhạn in/ đã nộp

đơn/ đã được chấp nhận đơn
hợp lệ/ đã được cấp giấy xúc
nhận SH T T / xác nhận sử
dụng sản phâm )

Đánh giá
chung
(Đạt,
không,
đạt)

Đạt

Buddhists”
1.2
2
Sách chuyên khảo được xuât bản hoặc ký hợp đông xuât bán
Đã ký họp đông xuât bán
2.1 Phật giáo và sức khóe tâm lý



Đạt
9


2.2
3 Đáng ký sở hữu trí tuệ
3.1
3.1

4 Bài báo quôc tê không thuộc hệ thông ISI/Scopus
4.1
4.2
5 Bài báo trên các tạp chí khoa học của Đ H Q G H N . tạp chí khoa học chuyên
ngành quốc gia hoặc báo cáo khoa học đăng trong kỷ yếu hội nghị quốc tế
5.1 Các phương pháp và công cụ

nghiên cứu niềm tin tôn giáo:
Đã xuất bản
thành tun và thách thức.
5.2 Các phương pháp và công cụ
nghiên cứu niềm tin tôn giáo:
Đã xuất bản

thành tưu và thách thức.
Đã ký hợp đông xuât bán
5.3 Sức khỏe tâm thân ở tín đô Phật
giáo: anh hưởng của biến số nhân

ky yếu
khâu và biến số tôn giáo.

The Relationship between
Đã được châp nhận
5.4 Nonattachment and Mental
abstract
Health among Vietnamese
Buddhists.
6 Báo cáo khoa học kiến nghị, tư vân chính sách theo đặt hàng của đơn vị sử
dụng

6.1 Kiên nghị áp dụng niêm tin và
thực hành tôn giáo trong tâm lý trị
liêu.
6.2 Kiên nghị phương thức áp dụng
tiếp cận Phật giáo nhằm nâng cao
sức khỏe tâm lý.
7 Kêt quả dự kiên được ứng dụng tại các cơ quan hoạch định chính sách hoặc cơ
sở ứng dụng K H & C N
7.1
7.2

Đạt

Đạt

Vượt

Vượt

Đạt

Đạt

3.3. Kết quả đào tạo

TT

Họ và tên

Nghiên cứu sinh

1 Đặng Hoàng Ngân

2

Nguyên Minh Hà

Hoc viên cao hoc
1 Cao Thi Thanh Nhàn
Sinh viên
1 Nguyên Việt Hoàng

Thòi gian và
Công trình công bố liên quan
kinh phí tham
(Sán phẩm KHCN, luận án, luận
gia đề tài
văn)
(sổ tháng/so tiền)

Đã bảo vệ

01 chuyên đê, 01 sách chuyên
khao, 01 bài báo Quốc tế, 01
bài báo trên Tạp chí chuyên
ngành.
01 chuyên đê

Chưa bảo
vệ


6 tháng/6 triệu

Điêu tra, khảo sát thực tiên

Đã bảo vệ

6 tháng/6 triệu

Thu thập và phân tích tài liệu.

Chưa bảo

20 tháng/30
triệu

6 tháng/12
triêu

Chưa báo
vệ

10


2
3

Bùi Thị Quỳnh Anh
Nguyên Trâm Anh


3 tháng/2 triệu
3 tháng/2 triệu

tham gia viêt 01 bài tham luận
Hội thảo Quốc tế.
Điêu tra, khảo sát thực tiên
Điêu tra. khảo sát thực tiên

vệ
Đã bảo vê
Đã bảo vệ

PHÁN IV. TỎNG HỢP KÉT QUẢ CÁC SẢN PHẨM KH&CN VÀ ĐÀO TẠO CỦA ĐÈ
TÀI
TT

Sản phâm

1

Bài báo công bô trên tạp chí khoa học quôc tê theo hệ thông
ISI/Scopus
Sách chuyên khảo được xuât bản hoặc ký hợp đông xuât
bản
Đăng ký sờ hữu trí tuệ
Bài báo quôc tê không thuộc hệ thông ISI/Scopus
Sô lượng bài báo trên các tạp chí khoa học của D H Q G H N ,
tạp chí khoa học chuyên ngành quốc gia hoặc báo cáo khoa
học đăng trong kỷ yếu hội nghị quốc tế
Báo cáo khoa học kiên nghị, tư vân chính sách theo đặt

hàng cua đơn vị sử dụng
Kêt quả dự kiên được ứng dụng tại các cơ quan hoạch định
chính sách hoặc cơ sở ứng dụng KI I& CN
Đào tao/hô trơ đào tao N C S
Đào tao thac sĩ
Đào tao cử nhân
Bài tham luận tại Hội thảo Quôc tê tô chức ở nước ngoài (đã
được chấp nhận đăng abstract)

2
3
4
5

6
7
8
9
10
11

Sô lượng
đăng ký
01

S ôlư ọn g đã
hoàn thành
01

01


01

0
0

0
0

02

03

02

02

01
01
0
0

02
01
02
01

PHẦN V. TÌNH HÌNH s ử DỤNG KINH PHÍ
TT
A

1
2
3
4
5

6
7
8
9
10
B
1
2

Nội dung chi

C h i phí trực tiếp
Đê cương chi tiêt và tông quan
Thuê khoán chuyên môn
Nguyên, nhiên vật liệu, cây con..
Hoạt động chuyên môn
Thiêt bị. dụng cụ
Công tác phí
Dịch vụ thuê ngoài
Hội nghị, Hội thảo, kiêm tra tiên độ, nghiệm
thu
In ân, Văn phòng phâm
Chi phí khác (Thù lao cho chu nhiệm đê tài)
C h i phí gián tiêp

Quản lý phí
Chi phí điện, nước
Tong số

Kinh phí
đưọc duyệt
(triệu đồng)

Kinh phí
thực hiện
(triệu đồng)

14

14

121,5

121,5

113

113

19

19

3,5
14


3,5
14

15

15

300

300

Ghi chú


PHẦN V. KIÉN NGHỊ (vềphát triên các kết quả nghiên cứu của đề tài; về quản lý, tô chức
thực hiện ờ cúc cấp)

Đề xuất nghiên cứu sâu về cơ chế ảnh hướng của niềm tin vào Phật giáo, buông xả, định
hưứng tôn giáo bên trong, định hướng tôn giáo bên ngoài, ứng phó tôn giáo tích cực và ứng phó
tôn giáo tiêu cực đến sức khỏe tâm lý. Trên cơ sở nghiên cứu cơ chế ảnh hưởng mới có thê đê
xuất được các phương thức cụ thể hơn (bao gồm quy trình, kỹ thuật) trong việc áp dụng Phật
giáo vào việc nâng cao sức khỏe tâm lý con người nói chung và áp dụng trong tâm lý trị liệu nói
riêng.
PHÀN VI. PHỤ LỤC (minh chứng các sảnphâm nêu ở Phan III)

H à Nội, n g à y 18 th á n g 4 năm 20 1 7
Đon vị chủ trì đề tài
(Thu trưởng đơn vị kỷ tên, đóng dấu)


Chủ nhiệm đề tài

Nguyễn Thị Minh Hằng

12


Volume XX

January 2017

The European Proceedings of

Social & Behavioural
Sciences
ISSN: 2357-1330
5th icCSBs 2017 - The A n nual International
Conference on C ogn itive - Social, and B ehavioural
Sciences
January 2017
Lidická 81, budova META, Brno, Czech Republic

Edited by:

Zafer Bekirogullari, Melis Y . Minas & Roslind X . Thambusamy

©2017 Published by the Future Academy

Future



T h e E u rop ean Proceedings of

Social & B ehavioural Sciences
EpSBS

C O Future Academy

ISSN: 2357-1330
http://dx .cloi.org/10.l5405/epsbs.2017,01.02.14

5th icC SBs, 2017
The A nnual International Conference on C ognitive - Social,
and Behavioural Sciences
B U D D H IS T N O N -A T T A C H M E N T P H IL O S O P H Y A N D
P S Y C H O L O G IC A L W E L L -B E IN G IN V IE T N A M E S E B U D D H IS T S

Nguyen Thi Minh llaniỉ (a), Dang Hoang Ngan (b)*
*Corresponding author

(a) Faculty of Psychology, University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University, Hanoi,
Vietnam,
(b) Faculty of Psychology, University ofSocial Sciences and Humanities, Vietnam National University, Hanoi,
Vietnam,

Abstract
Non-attachment in Buddhism has been conceptually proposed to have an impact on personal well-being,
Nevertheless, there has been limited empirical studies investigating how non-attachment influences
health, and in particular, its effect on eudaimonic well-being. Our key research questions were: Do
demographics influence non-attachment and psychological well-being? And, to what extent can non­

attachment and demographics affect psychological well-being? To investigate Ihese, developed the
following aims: (1) to compare non-attachment and psychological well-being in people with different
Buddhist status and types of practice (indicated by the types of groups they practiced with, the extent to
which they took refuge in The Three Jewels, and the frequency with which they practiced the Dharma);
(2) to examine tile relationship between non-attachment in Buddhism and psychological well-being,
including the related components of psychological well-being. Participants were 472 Buddhists from five
sanghas in Vietnam. Data was collected from January to April, 2016. Each participant was given a battery
of measures comprised of: The 'Non-Attachment Scale (Sahdra, Shaver, & Brown, 2010). The Ryff
Psychological Well-being scale (Ryff, 1989), and a demographic questionnaire. Results revealed a
significant positive correlation between non-attachmeni and psychological well-being (r = .60). Those
who practiced with a Sangha, took refuge in the Three Jewels, and practiced Dharma daily, had higher
non-attachment than those who did not. Non-attachment contributed 35.8% to psychological well-being.
In particular, participants with greater religious commitment, mindfulness, and meditation practice, found
it easier to be detached from the outer world, to find happiness, and perceived greater psychological well­
being.
© 2 0 1 7 P ublished by F uture A cadem y w w w .F utureA cadem y .o rg .UK

K eyw ords: N on-attachm ent, W ell-being, Psychological W ell-being, B uddhist.

@Q®©

fc d n m n a rrh is is an O pen A ccess article distributed under the term s o f the C reative C o m m o n s A ttrib u tio n -N o n co m m ercial 4.0
U nported L icense, perm itting alJ non-com m ercia! use. distrib u tio n , and reproduction in any m edium , provided the original w ork is
properly cited


lìilp: dv.íỉoi.orịỊ 10.15405 c p sh s.2 0 í ~ j ! I .(>2.1-ị
( orrcs/ioriiliri" A uthor: / ỉuna H oanv,' N'^an
Selection a n d p ee r-review u in k r resp o n sib ility o f the O rạ iim in n ’ ( (jm m illcc o t Ihơ con/ưrưncư
e/SSN : 2357-1330


1.

Introduction
Religious psvchologv is one of the oldest branch of psychological science (Joshi & Kumari, 2011).

It emerged from the early work of James (1902). Freud (1913), and Jung (1938), and has recently
experienced a rise in popularity (Farcament. Koenig, Tarakehwar. & Hahn. 2004). In the last ten years,
there has been increasing appreciation among psychologists and practitioners of the potential for religious
principles and philosophy to influence human well-being. Some argue that, for the reason that
participation in a particular religion can extend a person's support network, religion promotes individual
well-being (Diener et al., 2011: Krause & Hayward. 2013: McIntosh. 1995; Revheim & Greenberg,
2007), others argue that it reduces distress (Hefti, 2011); enhances stress coping ability (Pargament et al.,
2004: Park. 2005; Bradshaw et al.. 2010). promotes self-evaluation (Whittington & Seher, 2010).
purposeful perception of life (Martos et al., 2010; Diener et al., 2011), and postive perception of the
future (Levin. 2010).
In the Iasi decade, psychologists have become interested in contracts and practices of Buddhism
and Buddhist psychology (Pargament et al.. 2004; Ekman et al.. 2005; Wallace & Shapiro. 2006). This
trend may be reflecting interest among many agnostic scientists in a “spiritual" practice that can be
beneficial for nonreligious people, however, it could also be owing to increased recognition of Buddhist
practices in clinical psvchologv, and from a recent movement towards a positively-orientated approach to
psychology and well-being (Snyder & Lopez, 2009).
According to Buddhism, attachment, adversion, and ignorance are the three major human poisons,
and they are innate to the human condition (Dalai Lama, 2000). However, the) can he resisted and virtues
cultivated, through the practice of generosity, which should be performed in the spirit of unconditional
love (i.e., giving freely, without attachment or expectation) (Drakpa, Sunwar, & Choden, 2013). In other
words, the Buddhist approach to happiness is to strive to free one’s self from attachment.

Basic concepts


Attachment

Attachment theory was first proposed bv Bowbly (1969, 1973) and Ainsworth (1985). It considers

that the quality of a person's relationships and their mental states throughout their lifetime, are strongly
determined bv the type of attachment thev experienced with their primary caregiver during early
childhood. Although attachment theory focuses on the interaction between an individual’s relationships
and personality development, litlle consideration was given to how this model could be utilised to create
the conditions for psychological wellbeing in adulthood (Sahdra, 2013).
Buddhist psychology, meanwhile, describes attachment

(sa ra ẹ a -u p a d a n a

in Pali) as ‘wrong

thinking' - the mistaken decision to look for security and happiness in possessions, wealth, and reputation
(Sahdra. 2013). There are four parameters of attachment
(kam itpadana

- sense pleasures), attachment to views

(upadana -

grasping): attachment to sensuality

(ditthupadana

- views), attachment to rules and

customs (silabbatypadana - rule and custom), and attachment to the doctrines of self (a ttavadupadana —

doctrines of self). The Dalai Lama (2001) suggests attachment as the origin and root of suffering and the
reification of the ego-self. In this study, we use Shonin and colleagues (2014) definition of attachment as
120


Im p: dv.tỉoi.orịị Ỉ0 .I.U 0 5 c fw h s .2 o r .O I .O H 4
( ' or r esp o n d m ạ A uthor: ỈJuniỉ H oanii N\i,an
Sd/ưcíion (nii/ /ìccr-rcvicu under responsibility o f fhc O riiiinizniv ( um m illcc at ihư co n/crcncc
clSSSỈ: 2357-1330

"the overallocation of cognitive and emotional resources toward a particular object, construct, or idea to
the extent that the object is assigned an attractive quality that is unrealistic and that exceeds its intrinsic
worth" (p. 126).
N o n -a tta c h m e n t

Non-attachment (viraoa

-

non-attachment) refers to the absence o f raga. meaning lust, desire, and

craving for existence (Harris. 1997), or the absence of lust. Non-attachment, however, does not imply
withdrawal, but rather the freedom to see the world clearly. Non-attachment is achieved once a person is
aware that no possession, relationship or any achievement is infinite and that none will be able to satisfy
human need (Harris. 1997). In other words, non-attachment is the flexibility to free oneself from desire
and to choose peace. A person who practices non-attachment is not tied to any opinion, appearance or
desire for possession, and they may be more resilient to the trap of self-defensive cognitions (Sahdra et
al.. 2010)
Well-being


Well-being is the subjective evaluation of general life satisfaction and can also refer to specific
life-iiomains. Well-being is considered from two different perspectives: hedonic well-being and
eudaimonic well-being.
From the hedonic perspective, well-being is life experience with the presence of satisfaction and
absence of sadness (subjective well-heina) (Bradburn. 1969; Diener. 1984). According to Diener, Lucas
and Oishi (2005), subjective well-being is the individual evaluation of the cognitive and affective aspects
of their life. Two core principles of subjective well-being arc cognition (satisfaction) and affect (both
positive and negative affect) (BracJburn, 1969; Andrews & Withey, 1976; Diener et al.. 1985). Other
authors, however, have conceptualised subjective well-being as a combined model, between pleasure
(positive emotion) and engagement and meaning (Seligman et al., 2006). Alternatively, it has also been
conceived as a variable determined by excited activities balanced with challenges and personal skills
(Csikszentmihalyi. 1990).
In contrast, the Eudaimonic approach, does not separate human well-being from human potential.
Once the potential is actualized, a person will function healthily and positively (Diener. 1985; Ryan &
Deei, 2001). Being well does not only mean experiencing life with more excitement and less sadness, but
it is a process of self-actualization (Ryff, 1989). Ryff (1989) proposed a six-factor model of eudaimonic
well-being: positive self-perception (self-acceptance), positive relations, independence and autonomy, life
purpose, environmental mastery, and personal growth. The five dimensions model of Keyes (1998). on
the other hand, conceptualized well-being as being composed by: social integration, social contribution,
social acceptance, social actualization, and social coherence.
Contemporary researchers, while agreeing that well-being features a subjective, psychological, and
a social aspect (Negovan. 2010). have increasingly emphasized the psychological aspect of human
experience, and with it. its relation to religious belief. For example. Unterrainer and colleagues (2012)
suggest that from a religious approach, well-being has six dimensions: immanent hope, forgiveness, a
sense of meaning, transcendent hope, general religiosity, and connectedness. Returning to Buddhism, as
another example, Buddhism does not emphasize the achievement of goals or self-satisfaction, but on the
121


hup: (I.X.dot.org / 0. /5 4 0 5 cp.sh.s-.20r . O I . 02. /4

( or responding A uthor: D ư iv ỉ H o a n u A'{'(tn
Selection cm d p eer-review under resp o n sib ility o f th e O rg a n izn i'i ( 'um m illce o f the co n feren ce
a'ISSN: 2357-1Ĩ SO

self-balance experience (Joshi & Kumari, 2011) and positive relaxation (Tsai et al„ 2007). Well-being
from a Buddhist approach is a result of freedom from the mind itself, namely from its tendency to angst,
and the result of the ability to realise one's fullest potential in term of wisdom, compassion, and creativity
(Wallace & Shapiro, 2006).
N o n -a tta c h m e n t a n d w ell-being

Distinct from other religions, Buddhism conceptualizes human life as suffering and from which
no Buddha or spiritual feature can help people to escape (Finn & Rubin, 2000). In Buddhism, suffering is
not simply one's dissatisfaction, it is the result of humanity's misconception of life (Ekman et al.. 2005).
Therefore, rather than emphasizing the image of Buddha as a saviour figure. Buddhism focuses on the
message of The Four Noble Truths as an approach to life. The first, the Truth of Suffering, and the fourth
truth, the Truth of the Path Leading us to the End of Suffering, convey an essential component of
Buddhism, that life begins and ends with suffering. The other two truths have closer relations with nonattachment and with psychological well-being.

The Truth of the Cause of Suffering refers to the Buddhist concept that craving and ignorance are
the root causes all suffering. Craving is commonly presented under the form of gra sp in g or attachm en t.
According to this model, sadness, is the result of the human craving tor objects that they found attracted
to (Chah. 201!). In other words, humans have a tendency to find happiness in the possession of material,
pleasure, health, knowledge, position, compliment, and recognition. As a result, they are attached to their
environment and their relationships with it. rather than their inner strength for their own happiness. This
concept follows lhat, once attached, well-being is unstable according to the variation in the outside
phenomena (i.e., the possession of objects, relationships with others) that it is now dependent on. From
this perspective, status is another object of attachment, people become tied to the pressure of having to
achieve, and to possess in order to find happiness (Sahdra et al., 201Ơ).
The Truth of the End of Suffering implies that only when all the deep roots of suffering are
removed, suffering will end. And with the end of suffering, happiness emerges as freedom from

expectation and dissatisfaction (Fink, 2013). Accordinc to Buddhism, as everything is impermanent,
happiness cannot be sustained by holding onto property or objects. Buddhism proposes that everything
has three characteristics: impermanence, selflessness, and dissatisfaction, and each existence is the
consequence and cause of another, nothing is absolute or unchangeable. Although Buddhism has been in
existence for a centuries and has spread around the globe, this perception is not common to humanity, and
often the world is perceived as absolute and all forms as completely independent from each other (Ricard.
2006). Therefore, the majority of people seek happiness in the pursuit of success, youth, health.... Those
satisfactions are controlled by one's environmental stimuli, and their social interactions. Accordingly,
when those stimuli are removed, happiness is also diminished (Wallace & Shapiro. 2006).
From a Buddhist point of view, the only way to achieve inner peace is to eliminate attachment, or
to cultivate non-attachment. Non-attachment does not mean to run away or repress negative thoughts and
emotions, but to face and carefully analvse where they come from, how they take place, and how thev
impact one's self and others. For example, when a new situation arises, one is often overcome with greed,
hatred, and ignorance, from which emotions arise. These emotions, which could be pleasant, unpleasant,
or neutral, act to blind humans to the true nature of peace, they will ignore, evade or deny it, and instead


hup: d w tifi.o rsi 10 . I.u u .i c p s h x .2 0 r .0 I M 2 .1-I
( O! r e s p o n d in g A u th o r: / )(i)iiỉ H
Sc/ưciidii u n d p cc r-rcvicw under re.spiHisihihiv (.>/Ihc O riỉiiin iin ” ( '(/tnniiilcc <)f the con/erưncư
d S S V . 2 3 5 r - /3 3 0

cling to their attachment (Frvba, 1995). The focus of Buddhism, therefore, is to free people from their
emotion in order to perceive and accept things / phenomena as they are, not as they are created from the
illusions of the mind (Grabovac et al, 2011).

2.

Problem Statement

Several empirical studies have indicated a positive association between non-attachment and well­

being. For example, empirical findings indicate that subjective well-being and constructive well-being are
negatively associated with destructive emotions (Wang et al., 2016), stress (Naidu & Pande. 1990), and
closed-mindedness (Sahdra & Shaver, 2013). However, from the hedonic approach, there has been little
research into the relationship between non-attachment and eudaimonic well-being. With this study we
hope to contribute to this gap in the literature.

3.

Research Questions
As the above discussion highlights, the relationship between

11011-attachment

and well-being has

been largely neglected in research. The present study is designed to fill this gap. Our research questions
Q 1. Is there an effect of demographics on non-attachment and psychological well-being? (gender,
age, refuge status (in The Three Jewels), practice Dharma, frequency of mindfulness practice and
mediation)
Q2. What is the association between non-attachment and psychological well-being?
Q3. What is the contribution of non-attachment and demographics to the variation of
psychological well-being?

4.

Purpose of the Study
The purpose of this research is:
To compare non-attachment and psychological well-being in people with different Buddhist status


and types of practice (group of practice, taking refuge in The Three Jewels, and frequency of mindfulness
practice and meditation).
To examine the relationship between non-attachment in Buddhism and psychological well-being,
including related components of psychological well-being.

5.

Research Methods
5.1. Participants

Participants were 472 Buddhists from Vietnam. More than 70% were female. 90.5% were
laypersons, and participants came from five different sanchas. 41.5% had taken refuge. Detailed
information on the demographics of participants is presented in Table 1.

123


hup: dwcfoi.ori* 10.15405 cp.\h.\.201~.01.0 2 .14
C orresponding A u th o r: D anv J-Joani* Ni*{in
Selection a n d p ee r-review under responsib ility ọ / ih c O ruam ziii'j ( (Jinnnllee o f the conference
t'JSSN: 2 3 5 7 -/3 3 0

Tabic 01. Demographic characteristics of participants
Category
Gender
Age

Buddhist status
Refuge Status

Practice Dharma

Frequency of practicing
Dharma

n

%

27.7
72.3
1.9
32.1
31.9
24

Monk

130
339
9
150
149
112
47
427
45

Has taken Refuge
Has not taken Refuge

Alone
With social group
With Sangha
With family
Never
Several times a year
From 1-4 times/a month

183

41.5

258
104
107
138
89
25
102
82

58.5
23.7

More than 1/week

88

At least 1/dav


170

Male
Female
Under 18
18-25
26-35
36-55
Over 55
Layperson

10.1

90.5
9.5

24.4

315
20.3
5.4
21.8
17.6

18.8
36.4

5.2. Measure
N o n-attachm ent sc a le :


The Non-attachment Scale (NAS) was developed by Sahdra and

colleagues (2010) to measure the perception of non-attachment. This scale has 30 items, rated on a likert
scale from 1: Totally disagree to 6: I'otally agree. NAS showed excellent reliability with Cronbach's
Alpha of NAS: .93.
P sych o lo g ica l w ell-being:

The Rytf Psychological Well-Being Scale by Ryff (1989) is an 84-

item-scale that covers six domains of psychological well-being, including: (I) self-acceptance (2) positive
relations with others, (3) autonomy, (4) environmental mastery, (5) purpose in life, and (6) personal
growth. The internal consistency (or) coefficients reported by Ryff (1989) for the scales were as follows:
self-acceptance, .93; positive relations with others, .91; autonomy, .86; environmental mastery, .90:
purpose ill life. .90: and personal growth. .87.
There was evidence of good overall reliability with Cronbach's alpha .95. For each of the six
subscales, internal consistency exceeded .70: self-acceptance,
a =

.87; environmental mastery:

a =

.86; purpose in life:

a

a =

.76; positive relations with others:


= .84; personal growth

a =

.86. However,

it should be noted that the autonomy scale resulted in a Cronbach's alpha below .70 (a = .57).

5.3. P rocedure

Data was collected at five Sanghas around Vietnam. In December 2015, a pilot study was
conducted with 53 Buddhists, two monks who have practiced the Dharma for over 20 years, two
laypersons, and with one Buddhist researcher to check the face validity of translated scales. Suggestions
124


hup: i.orạ 10.15405 cpsbs.2D l~ .01.02. / - /
( o n c s p o n d m <' A u th o r: I )itn\i I lo a m ' A1{((in
Sc/ư clioii a n d p cc r-ri/v ii'w niii/cr resp on s/b iìih' of Ih c U ríỉiin iim ỵ ( (jrrirnillcc of llie con/erưncư
c/S S X : 2 3 5 7 -Ị.Ì30

were considered and translations adjusted to make the scales more accessible to Vietnamese Buddhists.
The survey was administered from February to May 2016 and from 500 invitations, 472 agreed to
participate, giving a response rate of 94.4%.

5.4. Data analysis

Data was coded and analysed using the Statistical Package for the Social Science (SPSS).
Inspection of the Non-attachment Scale (Sahdra et al.. 2010) and the Psychological Well-Being Scale
(Ryff, 1989) indicated that these two scales were normally distributed. To test our hypothesis, we

employed the following statistic methods: T-test, ANOVA, Bivariate Correlation, and Linear Regression
Analysis.

6.

Findings
The mean score of the non-attachment scale was 4.37

(SD =

.81). When compared to Sahdra and

colleagues’ (2010) study on adult participants in The United States of America, the mean obtained in that
study was much smaller for those participants who did not practice meditation

(M

= 4.39, S D

=

.76), and

those who did (M = 4.64, S D = .82) (Sahdra t't al., 2010).
Table 02. Mean, standard deviation, and Cronbach's Alpha

Non-attachment
Psychological Well-being
Self-acceptance
Positive relations with others

Autonomy
Personal growth
Purpose in life
Environmental mastery

M

SD

4.37
4.19
4.04
4.38
3.74
4.47
4.32
4.22

.81
.62
.71
.89
.56
.83
.82
.81

Min
1
3

2
1
2
2
2
1

Max
6
6
6
6
6
6
6
6

6.1. Effect o f dem ographics on non-attach ment and psychological

Cronbaeh's Alpha
.93
.95
.76
.87
.57
.86
.84
.86

well-being


G ender

An Independent Samples T-test yielded results indicating that there was an effect of gender on
non-attachment. Female participants had higher non-attachment scores
counterpart (M

=

4.22,

SD =

.87) t( 466) = 2.56, p

well-being total score /(467) = .88. p

>

<

(M =

4.44,

SD =

.77) than male

.01. No effect of gender was found on Psychological


.05, neither oil its components.

Age

One-way ANOVA analysis did not demonstrate an effect of age on non-attachment. F(4. 461) =
1.72, p

>

.05. Also, no effect was found between age and Psychological well-being total score, ^(4. 462)

= 1.38,

p

> .05. Participants in different age groups did not show any difference to subscales of the

psychological well-being scale. There was only significant difference in the Personal growth subscale,
125


Illlp: (Ị.X.dot.ori> 10 .1j-f()5 cp sh s.2 0 l~ .O I.02. / - /
( 'orrcspondnnỉ A uthor: JJanii H own* ;V tran
Selection a n d p ee r-review under re sp o n sib ility o f th e O rg a n izin g ( 'o m m iu ee o f th e c o n feren ce
eỉSSN : 2357-1330

F ( 4,

462) = 7.00. p


<

.001. The 18-25 aae group reported a higher score than did those of the 36-55 and

over-55 groups. The 26-35 age group also has higher scores compared to the over-55 group (Table 3).

Table 03.

Age and persona] growth subscale

Group
(1) Under i 8
(2) 18-25
(3)26-35
(4)36-55
(5) Over 55

n

M

SD

F .p

9
150
149
112

47

4.80
4.66
4.55
4.21
4.19

.70
.85
.81
.74
.90

f (4. 462) = 7.00./; = .00
(2) > (4), p = .00
(2)>(5),p-=.01
(3) >(4), p = .01

D harm a p ra c tic e arrangem ent

One-way ANOVA analyses showed that non-attachment scores were related to Dharrna practice
arrangement (a community of people that we practice with),

F ( 3,

443) = 29.54. p < .001. Participants who

practiced with a sangha had the highest non-attachmcnl score
significantly higher than practicing with friends

(M = 4.11;

SD =

.79: p

<

(M =

3,95;

(M =

4.77,

S D = .66: p <

<

.68). and it was

.001) or with family members

.001). It also found that those who practiced alone

(M =

significantly higher non-attachment than did those who practiced with friends
members (p


SD =

(p

4.53;

SD

= .85) had

< .001) or with family

.001), but not higher than those who practiced with a sangha.

People who practiced in a Sangha had the highest psychological well-being scores (M = 4.51,
.60). On the whole scale,

F ( 3,

434) = 20.47. p

.001. and on individual subscales: self-acceptance

<

433) = 15.19, p < .001; positive relations with others f(4. 433) = 19.18, p
434) = 10.96. p
15.45, p


<

<

.001; purpose in life F(4, 434) = 19.36, p

<

=

alone also reported higher self-acceptance scores (M

4.09, S D

= .77). purpose in life scores

3.81,

<

.001; personal growth

.001; environmental mastery

F ( 4,

SD =

(M =


.59, p = .02). (A/ = 4.16,

4.29,

SD =

SD

=

3.94.

SD =
=

.60). p

<

<

.001),

(M =

F ( 4,

SD =

.001. People who practiced


.74), personal growth scores (M = 4.54,

= .73) than did those who practiced with friends

.87, p

F (ĩ,

434) =

.001. People who practiced alone had higher psychological well-being scores (M = 4.19,

.59) than those who practiced in a group of friends (M
SD

SD =

3.97,

SD

= .81, p

<

(M =

.05), respectively.


Those who practiced with their family members had higher purpose in life scores (M = 4.27. SD = .81)
than those practicing with friends (p

<

.05).

it should be noted that, on the autonomy subscale, the
significant difference between groups, F ( 3, 443) = 2.64, p

>

one-way ANOVA did not yield any

.05.

Taking refuge in The Three Jew els a n d B uddhist status

Participants who had taken refuge in The Three Jewels

reported highernon-attachment

and

psychological well-being scores, which are statistically significant. Monks in this study reported higher
non-attachment and psychological well-being scores (except on the Autonom\ subscale) compared to
laypersons. An Independent Samples T-test demonstrated that the difference was statistically significant.
Detailed analysis is presented in Table 04.

126



lìiíp: (Ix.iioi.orịí 10.1540? c p s b \ . 2 0 r . a l .02. / -t
( 'orrcsporiiiuvj. A u th o r: J jiin a JJO ilin' X i'a n
Sc/ưcíion a m /p e e r-re vie w under ru sp itim h il Iiv of t/ic

c/ss\ 2357-/330
Table 04.

Nonattachment and Psychological Well-being across different Buddhist groups
Taking refuge in the Thrt:e Jewels
Has taken
Has not
t, df, p
refuge
takon refuge
M (SD )

M (SD )

Non-attachment

4.68 (.77)

4.14 (.75)

Psychological wellbeing
Self-acceptance

4.48 (.56)


3.98 (.58)

4.32 (.73)

3.82 (.62)

Positive relations
with others

4.80 (.81)

4.10 (.82)

Autonomy

3.80 (.60)

3.68 (.52)

Personal growth

4.79 (.69)

4.24 (.84)

Purpose in life

4.66 (.71)


4.06 (.79)

Environmental
mastery

4.51 (.81)

3.99 (.72)

Buddhist status
Layperson
s

Monk
M (,SD )

/. df. p

M (S D )

/(438) = 7.34
p = .000
/(439) = 8.98
p = .000
/(438) = 7.43
p = .000
/(438) = 8.91
p = .000
/(438) = 2.12
p = .03

/(439) = 7.51
p = .000
/(439) = 8.38
p = .000
/(439) = 6.96
p = .000

5.01 (.83)

4.31 (.77)

4.72 (.49)

4.14 (.61)

4.45 (.57)

4.00 (.71)

5.14 (.74)

4.30 (.87)

3.80 (.63)

3.74 (.55)

5.02 (.60)

4.41 (.84)


4.89 (.64)

4.25 (.81)

5.02 (.77)

4.14 (.77)

/■(469) = 5.42
p = .000
/(470) = 7.34
p = .000
/(469) = 4.09
p = .000
/(469) = 6.22
p = .000
/(469) = .70
p = .48
/(470) = 4.75
p = .000
/(470) = 6.17
p = .000
/(470) = 7.35
p = .000

F re q u en c y o f p ra c tic in g D harm a

Practicing Dharma includes a wide range of actions such as meditation, chanting, and praying.
One-way ANOVA analyses showed that there was a significant effect of frequency of practice on

attachment, /'(4, 461) = 28.06, /) < .001, and on psychological well-being, F ( 4, 462) = 18.67, p
People who practiced daily scored highest on the non-attachment scale
on the psychological well-being scale

(M

= 4.42.

SD

(M =

4.77,

<

SD

11011-

.001

= .74) and

= .61). Across scales, the several times a year group

had the lowest scores.
Those who practiced several times a year had lower non-attachment scores
and psychological well-being scores (M
score M = 4.77.


SD

= .74. p < .001;

M

one to four times a month (A/ = 4.33.
autonomy scores of this group

(M =

praying (M

<

= 4.0 \ . S D =

.60. p

=

3.82.

SD

= .71)

3.82, S D = .52) Ihiin those who practiced daily (non-attachment


= 4.42.
SD =

3.58,

(M =

SD =

.57, p

SD =

<

.61, p
.001;

<

.001. respectively) and those who practiced

M =

4.32,

SD =

.57, p


<

.001). Furthermore,

.43) were lower than that of those who did not practice

.05).

6.2. Relationships between non -attach m en t, psychological well-being and its com ponents

Pearson Correlation Analysis showed significant positive associations between non-attachment
and each of the dimensions of psychological well-being scale as well as its full scale. The correlations
between non-attachment and self-acceptance, positive relations with others, personal arowth, purpose in
life, and environmental mastery, were all moderate (from .49 to .52). However, the relationship between
non-attachment and autonomy was low: r(470) = .29. The relationship between non-attachmenl and the
full psychological well-being scale was moderately-strong:

r( 471) =

.60.


hup: dw tiot.orfi 10.15405 c p s h s .2 < )r.o / .0 2 .14
C orresponding A uthor: lJunSelection a n d pee r-review under resp o n sib ility o f th e O rạ o m im ạ ( vtn n iillee o f the conference
d S S M : 235 ?-1330

Correlation between Non-attachment and Psychological Well-being
Self­
acceptance


Autonomy

= .29**
A = 470

r

Personal
growth

Purpose
in life

.53**

/•= .46**

r=

rII

Non­
r = .49**
attachment
N = 470
** p < .01.

Positive
relations

with others
r = .51**
N = 470

II

Table 05.

Environ­
mental
mastery
/•= .52**
.V = 471

Well
being
= .60**
.V = 471

r

6.3. Factors predicting psychological w ell-being

Among demographic variables, only frequency of Buddhist practice was correlated to
psychological well-being

r( 462)

= .30.


p

< .01. Univariate linear regression was used to evaluate

predictive ability of psychological well-being of frequency of practice and non-attachment. Results
showed that frequency of practice could predict 8.8% of variance of psychological well-being and of non­
attachment, 35.8%.
Table 06.

Results of Univariate Linear Regression on predicting Psychological Well-being

Variables

Frequency
of
practicing
Dharma
Nonattachment

7.

Unstandardized
Coefficients

Standardized
coefficients

R2

R 2A


F

B

SE

p

.088

.086

45.04

12.24

1.82

.30

.00

35.8

35.6

261.12

1.29


.08

.60

.00

p

Conclusion

7.1. G eneral discussion

In this study we find evidence to sugaest that there are differences in non-attachment and
psychological well-being among Vietnamese Buddhists.
First, female participants had higher non-attachment than did male participants. The following
gender identity research suggests that gender differences are correlated with differences in self and
attachment. According to Bern (1974), the masculine sex-role is identified as "acting as a leader", while
the feminine sex-role is defined as "sensitive to the needs of others". Hofstede (2001) characterized
masculinity as ego-oriented, concentrated on materials, and to live in order to work. On the other hand, he
associated femininity as relationship oriented, focused on quality of life and relationships, and work is in
order to live. Therefore, it appears that masculinity is associated with possessions, conquering, and
enhancing ego, which represent attachment to external pleasure. These observations suggest
why men had lower non-attachment than women.
128

line

reason