Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

SKKN phat trien pham chat-năng luc-gd ky nang song cho hs lop 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 33 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGỌC HỒI
TRƯỜNG TIỂU HỌC BẾ VĂN ĐÀN
------------------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
HÌNH THÀNH NĂNG LỰC, PHẨM CHẤT VÀ
KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH KHỐI LỚP 1
TRƯỜNG TIỂU HỌC BẾ VĂN ĐÀN

NGƯỜI THỰC HIỆN: …………………………
TỔ/KHỐI:

Khối lớp 1

ĐƠN VỊ :

Trường TH …………………

0


Bờ Y, tháng 1/2017

LỜI CAM ĐOAN

Chúng tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng chúng tơi.

Các số liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong đề tài là trung thực, được các đồng
tác giả cho phép sử dụng và chưa từng công bố trong bất cứ một cơng trình nghiên


cứu nào khác.

Họ và tên tác giả

…………………

………….

1


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan

1

Mục lục

2

I.Đặt vấn đề

4

II. Giải quyết vấn đề

6


1. Cơ sở lí luận

6

1.1. Năng lực là gì? Đặc điểm, phân loại năng lực

6

1.2. Phẩm chất là gì?

7

1.3. Kĩ năng là gì?

8

2. Thực trạng của việc hình thành năng lực, phẩm chất và kĩ năng sống cho
học sinh khối lớp 1 trường tiểu học Bế Văn Đàn

9

3. Các giải pháp đã tiến hành để hình thành năng lực, phẩm chất và kĩ năng
sống cho học sinh khối lớp 1 trường tiểu học Bế Văn Đàn

12

3.1. Phát huy năng lực của hội đồng tự quản lớp học.

12


3.2. Rèn kĩ năng giao tiếp, hợp tác

13

3.3. Rèn kĩ năng tự học, giải quyết vấn đề

14

3.4. Rèn đức tính trung thực, kỉ luật, đồn kết

14

3.5. Xây dựng mơi trường học tập thân thiện

15

3.6. Bám sát và lựa chọn nội dung giáo dục kĩ năng sống cần rèn qua từng bài học.

16

3.7. Hình thành năng lực, phẩm chất, kĩ năng thơng qua các giờ sinh hoạt ngoại
khóa

17

3.8. Giáo viên là tấm gương sáng cho học sinh noi theo

18

3.9. Làm tốt công tác tuyên truyền, tư vấn cho phụ huynh hướng dẫn các em thực

hành các bài tập rèn luyện năng lực, phẩm chất và hành vi ở nhà

18

3.10. Đổi mới phương pháp dạy học, bám sát các hoạt động hàng ngày của học
sinh

19

3.11. Phối hợp với Đội thiếu niên, Đoàn thanh niên rèn luyện năng lực, phẩm chất,
kĩ năng cho học sinh qua sinh hoạt sao nhi

19

3.12. Rèn kĩ năng cho học sinh liên tục bằng hình thức lặp lại nhiều lần

20
2


4. Hiệu quả

20

III. Kết luận và đề xuất

27

Tài liệu tham khảo


31

3


I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Chức năng của nhà trường là dạy học và giáo dục. Điều đặc trưng nhất tạo ra
sự khác biệt giữa nhà trường tiểu học và trường mầm non chính là tính kỉ cương,
tính trách nhiệm đối với nhiệm vụ học tập, hình thành và phát triển các phẩm chất,
năng lực cần thiết. Nếu trường mầm non gần giống với mơi trường gia đình của trẻ
thì trường tiểu học là nơi làm việc và học tập, hướng đến sự phát triển năng lực,
phẩm chất cho các em chính là các em làm được gì trên cơ sở các em đã biết và đó
cũng chính là đích, là đầu của giáo dục. Nhìn vào mơi trường này thì ta thấy ngay
được học tập, rèn luyện các năng lực, phẩm chất là nhiệm vụ quan trọng nhất. Hoạt
động chủ đạo của lứa tuổi mầm non là hoạt động vui chơi, nó phù hợp với đặc
điểm tâm lý của độ tuổi này là tính khơng chủ định, dễ xúc động và tính hình
tượng trong hoạt động tâm lí… Đến cuối tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi không
đáp ứng được nhu cầu và sự phát triển của trẻ, trẻ bước sang một giai đoạn mới.
Chính vì vậy trẻ đã gặp khơng ít những khó khăn trong thời gian đầu khi bước vào
lớp 1.
Hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh tiểu học là hoạt động học tập, rèn
luyện năng lực, phẩm chất. Khác với hoạt động vui chơi với nguyên tắc là thích thì
chơi, khơng thích thì thơi, hoạt động học tập, rèn luyện với nguyên tắc tự giác, tích
cực và trách nhiệm đã làm cho các em cần biết tn thủ u cầu. Vì vậy, khó khăn
đầu tiên của các em là đặc điểm chế độ học tập mới mẻ như phải thức dậy đúng
giờ, không được bỏ học, thực hiện đúng nội quy trường lớp,… Đây là khó khăn
của các em bởi vì các em phải thay đổi nề nếp sinh hoạt hàng ngày. Điều này đòi
hỏi các em cần có những kĩ năng và thói quen cần thiết. Khơng chỉ có khó khăn khi
thay đổi hoạt động chủ đạo mà các em cịn gặp khó khăn do thay đổi tính chất quan
hệ qua lại giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh, giữa học sinh

với gia đình cũng thay đổi. Bên cạnh đó trong tập thể, khi các em thực hiện nhiều
nhiệm vụ học tập cũng như các hoạt động khác nhau trong nhà trường, khi bắt đầu
có sự phân hóa giữa những học sinh học tập sơi nổi, tích cực trong các hoạt động
với những em tự ti, nhút nhát, còn trốn tránh khi tham gia các hoạt động chung.
Bản thân các em cũng tự biết đánh giá mình, các em bắt đầu chơi với nhau theo
4


hứng thú, sở thích. Thế nên giáo viên cần phải biết điều hịa các mối quan hệ,
khơng q khen những em năng nổ và biết động viên kịp thời những em nhút nhát.
Phải đối xử công bằng với tất cả mọi trẻ, làm sao để các em cảm thấy lớp học
khơng phải là nhóm người xa lạ mà là một tập thể thiện ý và chu đáo của những
bạn cùng lớp.
Hơn nữa muốn đổi mới được phương pháp và hình thức dạy học, giúp học
sinh được luyện tập, thực hành nhiều thì bước đầu chúng ta cần hình thành năng
lực và phẩm chất cần thiết cho các em như: năng lực tự học, giao tiếp, hợp tác, tự
tin, tự trọng, tính kỉ luật, tự giải quyết vấn đề, yêu quý bạn bè, tích cực trong các
hoạt động... để làm được điều này nó cũng địi hỏi sự nổ lực rất lớn của cả giáo
viên lẫn học sinh. Mà khó khăn lớn nhất của vấn đề này tìm các biện pháp để hình
thành năng lực, phẩm chất, kĩ năng ngay từ lớp một, có như vậy mới mong đem lại
được hiệu quả cao nhất. Chính vì thế việc lựa chọn nội dung, phương pháp dạy học
và tổ chức hoạt động để tạo cơ hội cho các em hình thành, phát triển được năng lực
và phẩm chất. Đây là một trong những nội dung được đông đảo phụ huynh và dư
luận quan tâm, bởi đây là một chương trình giáo dục hết sức cần thiết đối với học
sinh và phù hợp với mục tiêu giáo dục hiện nay, nhằm đào tạo con người với đầy
đủ các mặt “đức, trí, thể, mỹ” để đáp ứng yêu cầu của xã hội, đặc biệt là học sinh
lớp một.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của việc hình thành năng lực,
phẩm chất và kĩ năng sống cho học sinh, trong thời gian vừa qua của năm học
2015-2016, chúng tôi đã lựa chọn và triển khai thực hiện sáng kiến “Một số biện

pháp hình thành năng lực, phẩm chất và kĩ năng sống cho học sinh khối lớp 1
trường TH Bế Văn Đàn” bởi vì không chỉ trang bị cho các em vốn kiến thức cơ
bản trong học tập, lao động còn phải giáo dục, rèn luyện cho các em phát huy được
những gì mà các em đã học được, biết vận dụng cái đã học vào thực tiễn cuộc
sống. Tạo cơ hội để các em có thêm kinh nghiệm thích ứng với mơi trường, xã hội
mới.

5


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận:
Quá trình dạy học, tìm tịi kiến thức mới chính là sự tương tác giữa giáo viên
và học sinh, giữa học sinh và học sinh có như vậy mới tạo được khơng khí thoải
mái, thân thiện trong lớp học, học sinh khơng thụ động mà bắt buộc phải tìm tịi,
khám phá, trao đổi kiến thức với cô giáo và với các bạn. Muốn làm được điều này
thì địi hỏi cần có q trình rèn luyện và hình thành các năng lực nhất định. Thành
lập và bồi dưỡng các năng lực tự phục vụ, tự quản lớp, giúp học sinh phát huy
được quyền làm chủ trong quá trình dạy học và giáo dục.
Hình thành các năng lực, phẩm chất và các kĩ năng sống là việc tổ chức các
hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú nhằm kích thích học sinh tham gia một
cách tích cực chủ động vào các q trình hoạt động, qua đó hình thành hoặc thay
đổi hành vi của trẻ theo hướng tích cực nhằm góp phần phát triển nhân cách toàn
diện. Đối với học sinh lớp Một, các em vừa ở tuổi mẫu giáo, cái tuổi bắt chước
theo người lớn, vốn kinh nghiệm sống nghèo nàn, chưa được thực hành, luyện tập
để phát huy hết các năng lực của bản thân nên phần nào có ảnh hưởng đến sự phát
triển của trẻ ở mọi nơi, mọi lĩnh vực, kể cả việc lĩnh hội kiến thức. Các em nhận
biết cái tốt, cái xấu, cái sai, cái đúng, cái thiện, cái ác cịn hạn chế. Vào học lớp
Một rồi có em cịn chưa nói được cụ thể họ và tên của mình, họ tên của bố mẹ, cịn
nói trống khơng, chưa biết tự mặc áo quần, chưa biết chuẩn bị đồ dùng học tập khi

đến lớp, chưa biết thắc mắc khi khơng hiểu bài, cịn nhút nhát chưa biết tham gia
hợp tác học tập cùng nhóm bạn… Nếu học sinh có năng lực giao tiếp tức là có kỹ
năng nói tốt tạo tiền đề học tốt các môn học. Để thực hiện được nhiệm vụ này
chúng ta nghiên cứu chuẩn mực đạo đức xã hội. Nghiên cứu những lý luận cần
thiết về rèn luyện năng lực, phẩm chất và các kĩ năng qua các bài học cụ
thể. Nghiên cứu cách đánh giá, nhận xét, cách tổ chức các hoạt động dạy học nhằm
phát huy được năng lực, phẩm chất của các em.
1.1. Năng lực là gì? Đặc điểm, phân loại năng lực:
6


Năng lực là khả năng vận dụng những kiến thức, kinh nghiệm, kĩ năng, thái
độ và hứng thú để hành động một cách phù hợp và có hiệu quả trong các
tình huống đa dạng của cuộc sống.
Năng lực có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất là có sự tác động của một cá nhân cụ thể tới một đối tượng cụ thể để
có một sản phẩm nhất định, do đó có thể phân biệt người này với người khác.

Thứ hai là năng lực là một yếu tố cấu thành trong một hoạt động cụ thể. Năng
lực chỉ tồn tại trong quá trình vận động, phát triển của một hoạt động cụ thể. Vì vậy,
năng lực vừa là mục tiêu, vừa là kết quả hoạt động.

Thứ ba là đề cập tới xu thế đạt được một kết quả nào đó của một công việc cụ
thể, do một con người cụ thể thực hiện (năng lực học tập, năng lực tư duy, năng lực tự
quản,…)

Năng lực gồm có năng lực chung và năng lực chuyên biệt:
Năng lực chung là những năng lực cơ bản, thiết yếu hoặc cốt lõi… làm nền
tảng cho mọi hoạt động của con người trong cuộc sống và lao động nghề nghiệp.
Một số năng lực cốt lõi của học sinh tiểu học: Tự phục vụ và tự quản, năng lực

giao tiếp và hợp tác, năng lực tự học và giải quyết vấn đề,…
Năng lực chuyên biệt: Là những năng lực được hình thành và phát triển trên
cơ sở các năng lực chung theo định hướng chuyên sâu, riêng biệt trong các loại
hình hoạt động, cơng việc hoặc tình huống, mơi trường đặc thù, cần thiết cho
những hoạt động chuyên biệt, đáp ứng yêu cầu hạn hẹp hơn của một hoạt động như
Toán học, Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể thao,…
1.2. Phẩm chất là gì?
Khơng có một khái niệm nào có thể định nghĩa được phẩm chất bởi phẩm
chất chính là đạo đức của mỗi con người, giúp con người nhận biết về những hành
vi đạo đức và pháp luật phù hợp với lứa tuổi trong các mối quan hệ của các em với
bản thân, gia đình, nhà trường, cộng đồng môi trường tự nhiên và ý nghĩa của viêc
thực hiện theo các chuẩn mực. Từng bước hình thành thái độ tự trọng, tự tin, yêu
7


thương, tôn trọng con người, yêu cái thiện, cái tốt, cái đúng, khơng đồng tình với
cái ác, cái xấu, cái sai. Đạo đức quyết định được phẩm chất đạo đức con người, nó
đưa con người từ chỗ chưa hồn hảo trở thành con người hoàn hảo hơn. Như Bác
Hồ đã nói: “Có tài mà khơng có đức là người vơ dụng, có đức mà khơng có tài làm
việc gì cũng khó”.
Tình trạng học sinh nghỉ học, vơ lễ với thầy cơ giáo, nói tục, ăn cắp, chia bè
phái đã khơng còn là chuyện lạ. Sự gia tăng đột biến của tệ nạn học đường ngày
còn trở thành vấn đề nhức nhối của tồn xã hội. Bên cạnh đó thanh thiếu niên ngày
càng có xu hướng sống hưởng thụ coi nặng giá trị vật chất, tiêu xài hoang phí, lười
lao động, đua địi, sống ích kỷ... Ngun nhân là do đâu? và làm thế nào để rèn
luyện phẩm chất đạo đức của các em ngay trong trường tiểu học? và đây cũng là
vấn đề cần quan tâm để đưa ra các biện pháp hình thành phẩm chất tốt đẹp cho các
em, các em được học tập qua lời dạy và thể hiện những việc làm tốt ngay tại
trường, lớp của mình.
1.3. Kĩ năng là gì?

“Kĩ năng” là khả năng thao tác thực hiện một hoạt động nào đó. Có nhiều
điều ta biết, ta nói được mà khơng làm được. Như vậy ln có những khoảng cách
giữa thơng tin, nhận thức và hành động. Chẳng hạn như biết tập thể dục là rất tốt
cho sức khoẻ nhưng để có hành động tập thể dục đều đặn là cả một vấn đề. Trong
cuộc sống ta thường khen hành vi của ai đó, ví dụ: em viết chữ đẹp, em hát hay, vẽ
khéo,... Điều này có nghĩa là chúng ta đang nói về những cá nhân ấy đã biết sử
dụng kiến thức học được vào thực hiện thành thục các nhiệm vụ khác nhau của
cuộc sống. Với những kĩ năng cũng vậy, nếu bạn có đầy đủ các kiến thức trong
cuộc sống, thế nhưng bạn lại chưa có kĩ năng cuộc sống và chưa biết sử dụng linh
hoạt các kĩ năng này thì khơng đảm bảo được là bạn sẽ có thể đưa ra quyết định
hợp lí, giao tiếp có hiệu quả hay có mối quan hệ tốt với những người khác. Vì vậy
bạn cần phải có kĩ năng đặc biệt cho cuộc sống và được gọi là “Kĩ năng sống”.
Kĩ năng sống đề cập đến lĩnh vực hoạt động từ học tập đến tổ chức các hoạt
động. Đó là năng lực tâm lí xã hội để đáp ứng và đối phó với những yêu cầu và
8


thách thức mà tuổi trẻ rất cần để vào đời. Có nhiều định nghĩa và quan niệm khác
nhau về kỹ năng sống. Mỗi định nghĩa được thể hiện dưới những cách thức tiếp
cận khác nhau. Thông thường, kỹ năng sống được hiểu là những kỹ năng thực hành
mà con người cần để có được sự an tồn, cuộc sống khỏe mạnh với chất lượng cao.
Kỹ năng sống được hình thành thơng qua một q trình sống, rèn luyện, học
tập trong gia đình, nhà trường và ngồi xã hội. Vì vậy, kỹ năng sống của mỗi người
vừa có tính cá nhân, vừa có tính xã hội và chịu ảnh hưởng của gia đình, cộng đồng,
dân tộc. Kỹ năng sống mang tính cá nhân bởi vì đó là khả năng của mỗi cá nhân.
Mặt khác kỹ năng sống có tính xã hội là vì trong mỗi giai đoạn của sự phát triển xã
hội, mỗi tôn giáo, cá nhân được yêu cầu để có sự phù hợp với những kỹ năng sống
ấy. Ví dụ: kỹ năng sống của những người sống ở những vùng miền khác nhau thì
cũng có sự khác nhau…
Vì vậy, giáo dục kỹ năng sống cho các em là giáo dục những kỹ năng mang

tính cá nhân và xã hội nhằm giúp các em có thể chuyển tải những gì mình biết,
những gì mình cảm nhận và những gì mình quan tâm thành những khả năng thực
thụ giúp các em biết phải làm gì và sử dụng hành vi như thế nào trong những tình
huống khác nhau trong cuộc sống.
Việc giáo dục kỹ năng sống cho HS tiểu học cũng được bắt đầu ngay từ
những buổi đầu các em đến trường. Nếu không chuẩn bị chu đáo về mặt tâm lí cho
trẻ trước khi đi học sẽ dẫn đến những tình huống như: địi theo bố mẹ về nhà,
khơng dám nói chuyện với bạn bè, khơng dám chào hỏi thầy cô, không dám xin
phép cô khi ra vào lớp.
2. Thực trạng :
Qua nhiều năm giảng dạy chúng tôi thấy thực tế của vấn đề này là:
a) Đối với học sinh:
Qua theo dõi, đánh giá hằng ngày cho thấy rất nhiều học sinh khi bước vào
lớp một các em chưa có kĩ năng tự phục vụ bản thân như: chưa biết tự mặc quần
áo, chưa biết tự đánh răng, không tự mình chuẩn bị đồ dùng, sách vở khi đến lớp,
9


chưa có ý thức tự giác khi tham gia các hoạt động chung của trường lớp mà cịn
đợi thầy cơ giáo chỉ bảo, nhắc nhở.
Một số học sinh khi giao tiếp, hợp tác với bạn bè, thầy cô, các em cịn rụt rè,
nhút nhát, cịn nói nhỏ, nói khơng đầy đủ câu, chưa mạnh dạn trình bày ý kiến cá
nhân và chia sẻ kết quả học tập với các bạn, với thầy cơ. Kĩ năng thảo luận, hợp tác
nhóm của các em còn nhiều hạn chế.
Học sinh học tập thụ động, cịn làm theo thầy cơ giáo, ít sáng tạo, tính tự
giác chưa cao, chưa có ý thức tự học và tự hoàn thành các nhiệm vụ học tập của cá
nhân.
Các em chỉ có học kiến thức, khả năng ứng phó với các tình huống trong
cuộc sống kém, tính tự tin ít, tự ti nhiều, giao tiếp hạn chế, nói tục, chửi bậy.
Do đặc điểm tâm sinh lí học sinh, nhiều em tính cách nhút nhát, từ nhỏ ít va

chạm với môi trường xung quanh nên khi vào lớp Một các em bắt đầu làm quen
với hoạt động học tập. Tất cả đều mới mẻ, vốn kinh nghiệm sống hạn chế khó
khăn cho việc tiếp thu kiến thức.
Một số học sinh như em Y Uyên, A Khánh, Phú, Y Xinh, Xuân... lớp 1D, em
A Vương, A Sợ, A Nghinh lớp 1B chưa mạnh dạn, khả năng giao tiếp còn hạn chế,
ít xung phong phát biểu ý kiến, hoặc khơng trả lời câu hỏi giáo viên đưa ra không
đầy đủ câu.
Khi tham gia các hoạt động trải nghiệm do Nhà trường, Liên Đội tổ chức
một số em chưa nghiêm túc, chưa tích cực trong các hoạt động.
Các em lớp Một hành vi cịn mang tính xung động cao và hành động ý chí
cịn thấp. Các em thường có những hành vi bột phát, phản ứng tức thì. Ví dụ, cả
lớp đang yên lặng, bỗng một bạn hét to: “Ôi, làm xong rồi” và khơng để ý đến ai
xung quanh mình. Những hành vi như vậy các em dễ bị đánh giá là hành vi vô tổ
chức, vô kỉ luật.
Các em chưa tự giác làm các việc phù hợp với khả năng của mình như quét
lớp, nhặt rác, nhổ cỏ vườn hoa,...Một số em không dám mạnh dạn nhận lỗi khi làm
10


sai, chưa chấp hành đúng nội quy lớp học, còn đi học muộn, nói chuyện riêng
trong giờ học, ăn mặc không đúng tác phong, quần áo chưa gọn gàng, chưa biết thể
hiện tình yêu thương, giúp đỡ bạn bè. Đây cũng chính là vấn đề đặt ra mà mỗi giáo
viên cần tìm các biện pháp để giúp đỡ các em phát huy các năng lực và hình thành,
rèn luyện các phẩm chất tốt đẹp.
b) Đối với giáo viên:
Bản thân giáo viên chưa thực sự quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh mà chỉ chú trọng truyền thụ kiến thức ở sách giáo khoa nên chưa chịu
khó tìm tịi các hình thức và phương pháp tổ chức cho các hoạt động này nên làm
mất sự hứng thú của học sinh.
Một số giáo viên chưa nhận định, chưa phân biệt rõ ràng đâu là năng lực,

đâu là phẩm chất để có hướng điều chỉnh hoặc phát huy các năng lực, phẩm chất
ấy của học sinh.
Việc hình thành các năng lực, phẩm chất và kĩ năng sống cho học sinh chưa
thường xuyên liên tục nên một số em còn thụ động, chưa biết tự học, tự giải quyết
các vấn đề, tinh thần học tập, hợp tác với bạn chưa cao, hành vi đạo đức chưa trở
thành thói quen, các em chóng quên, hành vi đó chưa có giá trị thực tế cao.
Một số giáo viên chưa chú ý đến việc rèn nề nếp cho học sinh, chưa rèn cho
hội đồng tự quản điều hành lớp học, chưa phát huy được hết năng lực của các ban.
Chưa kiểm tra, đôn đốc kịp thời để các ban có thể hoạt động tốt nhất. Giáo viên
vẫn chưa tin vào học sinh, còn làm thay, làm hộ cho học sinh.
c) Đối với phụ huynh:
Một số phụ huynh học sinh còn bận việc đồng áng, lo làm kinh tế mà quên
mất nhiệm vụ là phải dạy dỗ và giáo dục các em.
Nhiều phụ huynh học sinh chỉ khuyến khích các con tìm kiến thức mà quên
hướng cho con em mình làm tốt hoạt động đồn thể, hoạt động xã hội; chưa có ý
thức tự học, tự phục vụ, giao tiếp trong gia đình cịn nhiều hạn chế, xưng hô chưa
chuẩn mực nên các em bắt chước và xưng hô thiếu thiện cảm.
11


Nhiều bậc phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc hình
thành và phát triển năng lực, phẩm chất và các kỹ năng cần thiết, phù hợp độ tuổi
cho các em, cịn phó mặc việc giáo dục con em cho thầy cô và nhà trường.
Một số phụ huynh là người dân tộc thiểu số còn giao tiếp với con mình ở
nhà bằng tiếng mẹ đẻ, điều này ảnh hưởng rất lớn đến khả năng giao tiếp của các
em, các em rụt rè, nhút nhát khi giao tiếp bằng tiếng Việt với bạn, với thầy cô. Ngại
chơi, ngại tiếp xúc với các bạn dân tộc khác.
3. Các giải pháp đã tiến hành:
Nhằm hình thành năng lực, phẩm chất và giáo dục kĩ năng sống cho các em
được tốt hơn chúng tôi đã mạnh dạn vận dụng những biện pháp sau:

3.1. Phát huy năng lực của hội đồng tự quản lớp học:
Thơng qua việc bình bầu, các em tự đề cử những bạn có đủ năng lực để quản
lí lớp. Giáo viên là người trực tiếp giao nhiệm vụ để hội đồng tự quản phát huy khả
năng điều hành của mình. Hội đồng tự quản gồm 1 chủ tịch hội đồng tự quản, 2
phó chủ tịch và các ban (ban học tập, ban sức khỏe, ban vệ sinh, ban lao động, ...)
các ban có trách nhiệm giao nhiệm vụ, phân cơng và đơn đốc các thành viên trong
ban mình tích cực tham gia hoạt động, theo dõi, nhắc nhở, hỗ trợ và cùng tham gia
với các bạn để thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
Chủ tịch hội đồng là người theo dõi và kiểm tra mọi hoạt động của lớp, điều
khiển các bạn xếp hàng, điểm danh sĩ số, chào cờ và thể dục giữa giờ. Hai phó ban
có nhiệm vụ theo dõi , kiểm tra các ban của do giáo viên quy định như: Ban lao
động, ban văn nghệ, ban nề nếp, ban vệ sinh, ban học tập, ...giáo viên hướng dẫn
cụ thể nhiệm vụ và cách thực hiện ở mỗi ban chẳng hạn như:
Ban học tập: Điều khiển các nhóm thảo luận, trình bày kết quả hoặc theo dõi
tinh thần, thái độ học của các bạn, theo dõi việc học ở lớp và ở nhà.
Ban lao động: Theo dõi phân công trực nhật, vệ sinh lớp học, khu vực phân
công, phân công tưới cây, đổ rác, sắp xếp, lau chùi bàn ghế. Giao nhệm vụ cụ thể
cho từng bạn, từng ngày trong ban của mình,...
12


Cuối tuần giáo viên tổ chức cho các ban nhận xét, hai phó chủ tịch nhận xét
các ban của mình và chủ tịch hội đồng nhận xét toàn bộ các hoạt động của lớp
trong tuần vừa qua.
Giáo viên tổ chức cho học sinh thảo luận, tự bản thân mình phát hiện những
những việc đã làm được và chưa làm được để phát huy hoặc khắc phục. Từ tuần
tiếp theo trở đi các em sẽ tự tổ chức, điều khiển dưới sự giám sát của giáo viên. Có
như vậy nề nếp lớp học sẽ tốt hơn, giáo viên cũng bớt được các việc làm thay cho
học sinh và học sinh lại được tự mình phát huy hết khả năng, năng lực của bản
thân.

Cuối tuần giáo viên tổ chức cho học sinh bình bầu những cá nhân xuất sắc,
các ban có sự nổ lực hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Đưa ra một số hình thức
khen thưởng động viên, khích lệ các em.
3.2. Rèn kĩ năng giao tiếp, hợp tác:
Đối với học sinh khối lớp một, việc rèn kĩ năng giao tiếp cho các em hết sức
quan trọng, ngay cả việc trả lời đầy đủ câu mà rất nhiều em chưa thực hiện được.
Khi học sinh không điều chỉnh được cảm xúc của mình như quý mến bạn này, ghét
bỏ bạn kia. Điều này rất dễ dẫn đến những sai lầm trong giao tiếp, vì thế giáo viên
cần quan tâm đến việc rèn cho học sinh các kĩ năng quan sát và biết lắng nghe, biết
sử dụng những lời lẽ tốt đẹp đối với bạn bè và mọi người xung quanh.
Khi trả lời câu hỏi, đọc bài, thảo luận,... dù đúng hay sai thì giáo viên phải
thường xuyên nhắc nhở học sinh ln nói to, rõ ràng, dứt khốt, khơng nói nhanh
quá hoặc chậm quá, mạnh dạn trình bày các ý kiến cá nhân của mình khi thảo luận,
hợp tác, biết lắng nghe và chia sẻ kết quả với các bạn.
Giáo viên cũng cần quan tâm đến những học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp,
đặc biệt là những học sinh dân tộc thiểu số, cần động viên các em sử dụng tiếng
Việt ngay khi ở nhà. Trao đổi, khuyến khích phụ huynh là người dân tộc thiểu số
sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt để giao tiếp với con em mình.
3.3. Rèn kĩ năng tự học, giải quyết vấn đề:
13


Đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức lớp học là một trong những vấn
đề hế sức quan trọng, trong đó các hoạt động thực hành cần được thực hiện thường
xuyên. Chuyển quá trình thuyết giảng một cách hình thức, áp đặt của người dạy
thành quá trình tự học, tự tìm tịi, khám phá của người học. Biết tư duy, hợp tác
bạn để tìm tịi ra kiến thức mới, tự mình giải quyết vấn đề, biết mạnh dạn chia sẻ
cách làm và kết quả với bạn. Giáo viên chỉ là người hướng dẫn, gợi mở để học sinh
nắm được mục tiêu, tự mình giải quyết nhiệm vụ, nếu gặp khó khăn mới trao đổi
với bạn hoặc đưa ra ý kiến thắc mắc với cô giáo, mạnh dạn báo cáo kết quả học tập

của mình trước các bạn và cơ giáo.
Giáo viên cần dành nhiều thời gian cho hoạt động thực hành, quan sát kĩ thái
độ , cử chỉ, nét mặt để phát hiện em nào gặp khó khăn, kịp thời có biện pháp giúp
đỡ, đặc biệt đối với những em còn nhiều hạn chế, còn nhút nhát trong học tập và
các hoạt động chung. Việc sắp xếp chỗ ngồi cũng rất quan trọng, giáo viên có thể
linh động sắp xếp bàn ghế, chỗ ngồi phù hợp để thuận lợi cho việc trao đổi, tương
tác với nhau, kèm cặp, giúp đỡ bạn yếu kém cùng tiến bộ
Để hỗ trợ kịp thời cho các em thì giáo viên phải thường xuyên quan sát, theo
dõi cá nhân học sinh, nhóm học sinh trong q trình học tập để có nhận định, động
viên hoặc gợi ý, hỗ trợ kịp thời đối với từng việc làm, từng nhiệm vụ của mỗi cá
nhân hoặc của cả nhóm học sinh, đưa ra những nhận định về một số biểu hiện của
phẩm chất và năng lực của học sinh. Từ đó, động viên, khích lệ, giúp học sinh khắc
phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các tố chất riêng, sửa chữa khuyết điểm để
ngày càng tiến bộ.
3.4. Rèn đức tính trung thực, kỉ luật, đồn kết:
Trung thực là đức tính tốt của con người mà ở đó sự thật thà và những sự
thật được biểu hiện rõ nhất. Trung thực chính là bản thân ln tơn trọng sự thật,
sống thật thà, dũng cảm nhận lỗi, mạnh dạn chịu trách nhiệm các việc mình làm.
Đó chính là đức tính tốt của con người mà chúng ta cần giáo dục cho học sinh ngay
khi bước vào lớp một.

14


Đức tính tốt ấy cần được giáo viên theo dõi, nhắc nhở hàng ngày, trung thực
được thể hiện rõ khi học sinh biết nhận lỗi, sửa sai, biết chấp hành tốt kỉ luật, nội
quy của trường, lớp và nó cịn được thể hiện qua các kì kiểm tra, khơng quay cóp
bài của người khác, tự học và làm theo khả năng của mình. Có như vậy thì bản
thân mới khắc phục những lỗ hỏng, ngày càng tiến bộ hơn.
Truyền thống tốt đẹp của nhân dân ta còn được thể hiện qua sự đoàn kết,

tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động cụ thể, nhất là khi gặp khó khăn
thì đồn kết sẽ tạo được một sức mạnh to lớn. Giáo viên cần quan tâm đến tính
đồn kết trong tập thể lớp học, giáo dục học sinh biết giúp đỡ bạn có hồn cảnh
khó khăn, đồn kết để cùng nhau hợp sức tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc
trong học tập.
Giáo viên theo dõi và tuyên dương kịp thời những nhóm, cá nhân biết đồn
kết, giúp đỡ nhau. Kể những câu chuyện về lịng trung thực, tính đồn kết cho học
sinh hiểu và thực hiện.
3.5. Xây dựng môi trường học tập thân thiện:
Khi vào lớp Một tất cả các hoạt động với các em đều mới mẻ. Với tính cách
nhút nhát của một số em thì việc trang trí một môi trường học tập thân thiện là rất
cần thiết. Thực hiện “Phong trào xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực”, ngay từ tháng đầu năm học tơi đã lên kế hoạch để tạo nên môi trường xanh,
sạch, đẹp; thực hiện theo đúng kế hoạch của Phòng Giáo dục và Đào tạo và nhà
trường. Về không gian lớp học trang trí một mơi trường học tập thân thiện gần gũi
với các em. Các em được tự mình trang trí lớp học qua các bài mẫu, bài vẽ, bài nặn
theo từng chủ đề đã học, tiến hành khai thác các góc cơng cụ đã trang trí trong các
tiết học. Bên cạnh đó giáo viên dành thời gian giao tiếp, trò chuyện với các em đầu
giờ, trong giờ ra chơi, hỏi thăm về gia đình, tâm tư tình cảm, sở thích của từng em.
Qua đó giáo viên nắm bắt được từng đối tượng học sinh trong lớp từ đó đề ra biện
pháp giáo dục phù hợp với các em. Tạo khơng khí lớp học nhẹ nhàng, thân thiện,
gần gũi giữa cơ và trị. Có như vậy các em sẽ mạnh dạn, cởi mở, gần gũi, tự tin hơn
trong các tiết học và trong các hoạt động chung của tập thể.
15


3.6. Bám sát và lựa chọn nội dung giáo dục kỹ năng sống cần rèn qua
từng bài học.
Giáo viên nghiên cứu chương trình mơn học, mục tiêu cần đạt qua từng bài,
xác định kỹ năng cần rèn cho học sinh. Đồng thời vận dụng linh hoạt các nội dung

của giáo dục kỹ năng sống tuỳ theo từng hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp và
điều kiện cụ thể của từng môn học, xác định rõ các kỹ năng sống cần hình thành và
phát triển cho học sinh để tích hợp vào nội dung của hoạt động giáo dục.
Qua các giờ học giáo viên chú ý nhắc nhở các em thực hành hành vi đã học.
Ví dụ: Trong các giờ học, học sinh chưa có cử chỉ thể hiện đúng hành vi đạo đức
như: Đưa sách vở cho cô đưa bằng một tay và khơng biết nói lời ''thưa'', ''gửi''.
Giáo viên sửa lại hành vi đúng cho các em thể hiện lễ phép với thầy cô giáo và
người trên: Em đưa lại bằng hai tay và nói thưa cơ em nộp bài ạ.
Các em được tham gia học nhóm, đóng vai, báo cáo kết quả thảo luận trong
các giờ tự nhiên xã hội, đạo đức, tiếng việt để thực hành hành vi đạo đức đã học.
Việc giáo dục đạo đức cho học sinh ngay từ khi bước vào trường học là vơ
cùng quan trọng. Chính vì thế mơn học đạo đức cung cấp cho các em những hiểu
biết ban đầu về các kỹ năng giao tiếp, ứng xử lễ phép trong cuộc sống hàng ngày,
đó là những kỹ năng sống cần thiết cho mỗi con ngưịi, góp phần phát triển hoàn
thiện nhân cách mai sau.
Lựa chọn các phương pháp dạy thích hợp với từng bài dạy gây hứng thú học
tập cho học sinh. Khơng rập khn máy móc, khơng áp đặt tình huống, cần sáng
tạo theo từng tiết dạy. Qua từng bài tập trò chơi, kể chuyện theo tranh, quan sát
tranh và trả lời câu hỏi, đánh giá và tự đánh giá hành vi của bản thân và những
người xung quanh, các bài tập tơ màu, đóng vai theo tranh theo tình huống v.v...
Học sinh tự khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới, kỹ năng mới giáo viên kết luận
hành vi đạo đức đúng.
Hướng dẫn các em thực hiện hành vi qua các trò chơi, sắm vai, đố vui, nêu ý
kiến của mình để củng cố ghi nhớ hành vi đã học. Giáo viên khuyến khích những
em tính cách nhút nhát tham gia vào trò chơi.
16


Tạo khơng khí lớp học thoải mái, nhẹ nhàng, sơi nổi, học sinh học tập phấn
khởi bằng những lời động viên, khen ngợi của giáo viên, các em được phát biểu

dân chủ khơng gị ép.
Khi đến lớp giáo viên chú ý nhắc nhở các em quần áo đầu tóc gọn gàng,
sách vở đồ dùng ngăn nắp. Giáo viên quy định cách sắp xếp đồ dùng sách vở trong
ngăn bàn, chỗ treo cặp rõ ràng, cụ thể, vị trí nón, quần áo v.v... Một vài ngày đầu
giáo viên phân công các tổ trưởng theo dõi kiểm tra, cuối mỗi giờ học giáo viên
nhận xét tuyên dương những em đã thực hiện tốt trước lớp, giáo viên giúp đỡ động
viên những em còn lúng túng chưa thật gọn gàng. Dần dần hành vi trở thành thói
quen gọn gàng của các em.
3.7. Hình thành năng lực, phẩm chất, kĩ năng thông qua các giờ hoạt
động ngoại khoá.
Thường xuyên tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi tập thể lành mạnh,
chơi các trò chơi dân gian, tổ chức các hoạt động văn nghệ thể thao, qua các hoạt
động rèn cho học sinh kĩ năng ứng xử với bạn bè, xây dựng tinh thần đoàn kết tốt,
kỹ năng lắng nghe, kỹ năng hợp tác, kỹ năng quyết định, biết kiềm chế bản thân
trong khi xử lí các tình huống với bạn bè.
Hoạt động ngồi giờ lên lớp có vai trị quan trọng trong việc giáo dục đạo
đức, giáo dục truyền thống và hình thành nhân cách, rèn luyện kỹ năng sống cho
học sinh. Khi tổ chức hoạt động trải nghiệm, giáo viên cần lựa chọn những nội
dung để học sinh cả lớp được tham gia; khuyến khích, động viên và tạo cơ hội để
các em được tham gia bàn bạc từ khâu chuẩn bị đến khâu thực hiện. Có làm như
vậy, mới hình thành được ở các em năng lực phán đốn, óc tổ chức, năng lực tổng
kết đánh giá cũng như các phẩm chất tự tin, tự chịu trách nhiệm, tinh thần hợp tác
chia sẻ. Ví dụ: Khi tham gia cuộc thi vẽ tranh an tồn giao thơng với chủ đề
“Khơng đi ngược với sự sống”, có 5 em cùng tham gia vẽ tranh và tô màu, các em
đã biết sáng tạo, hợp tác, cùng bàn bạc để lựa chọn màu sắc phù hợp, phân chia
nhiệm vụ để hoàn thành bức tranh.
Nhà trường cũng đã phối hợp với Tổng phụ trách Đội tổ chức các hoạt động
17



chung cho học sinh theo khối lớp hay toàn trường chẳng hạn như hội thi trăng rằm,
thuyết trình vườn hoa,…Những hoạt động này đã huy động sự tham gia của phụ
huynh và cộng đồng, đã được đông đảo phụ huynh đồng tình, ủng hộ.
Giáo viên cần tổ chức các hoạt động lao động như: vệ sinh sân trường, lớp
học, trồng chăm sóc cây trên sân trường, bồn hoa, vườn trường; học sinh được rèn
một số kỹ năng như: cầm chổi qt, hót rác, tưới cây, tỉa lá... thơng qua đó HS biết
sử dụng có hiệu quả đồ dùng lao động.
3.8. Giáo viên là tấm gương sáng cho học sinh noi theo.
Giáo viên ln gương mẫu từ cử chỉ, lời nói, việc làm, cách ăn mặc, đi đứng
cho học sinh noi theo. Cô không những như người mẹ thứ hai mà còn phải như
người chị của các em. Thường xuyên quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, nhường nhịn,
gần gũi, ân cần với các em. Ví dụ: Bẻ lại cổ áo, chải lại tóc, hướng dẫn các em đi
giày v.v... giải quyết những thắc mắc của các em, động viên khen ngợi, nêu gương
người tốt việc tốt trước lớp.
Tính cách của các em rất hồn nhiên và cả tin. Các em hồn nhiên trong tất cả
các mối quan hệ với người lớn, thầy cô, bạn bè. Hồn nhiên nên rất cả tin: tin vào
sách vở, tin người lớn. Các em thường tin tưởng tuyệt đối ở nơi thầy, cô giáo nên
chúng thường bắt chước những cử chỉ tác phong của thầy, cô giáo mình. Ở trường
các em cịn được tiếp xúc với bạn bè, với tập thể nhóm bạn, tổ, lớp; những hoạt
động tập thể cũng ảnh hưởng khơng ít đến việc hình thành, phát triển nhân cách và
giáo dục kỹ năng sống cho trẻ . Vì vậy người lớn cần tận dụng niềm tin này để giáo
dục giá trị, tạo dựng niềm tin chân chính vào cuộc sống, ln là tấm gương sáng để
các em không bị vỡ niềm tin khi thế giới quan của các em đang bắt đầu hình thành
và phát triển ở các giai đoạn sau.
3.9. Làm tốt công tác tuyên truyền, tư vấn cho phụ huynh hướng dẫn
các em thực hành các bài tập rèn năng lực, phẩm chất, hành vi ở nhà.
Tổ chức họp phụ huynh thơng báo đặc điểm tình hình của trường, lớp, nêu
tầm quan trọng của việc hình thành các năng lực, phẩm chất, giáo dục đạo đức cho
18



học sinh, tính cấp bách của vấn đề hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh
qua các môn học. Thống nhất cùng phụ huynh phương pháp giáo dục ở nhà.
Phụ huynh được tập huấn, nghiên cứu chương trình học, cách hướng dẫn con
hoàn thành các bài tập ứng dụng qua từng bài học. Phụ huynh có nhiệm vụ nhắc
nhở con em mình thực hiện hành vi đã học ở nhà. Đó là những năng lực tự học, tự
quản, tự giải quyết vấn đề, tự tin, tự chịu trách nhiệm các việc mình làm, kĩ năng
giao tiếp trong cuộc sống thể hiện đúng và lễ phép với người trên như: Đi học và
học về biết chào ông, bà, bố, mẹ, anh, chị, em, cách chào đúng khoanh tay nói vừa
đủ nghe lễ phép. Biết tự giới thiệu họ tên của mình, họ tên bố mẹ, người thân. Đầu
tóc, quần áo gọn gàng. Biết lễ phép vâng lời ông bà, cha mẹ, nhường nhịn em nhỏ,
đi bộ đúng quy định, đi học đúng giờ.
Giáo viên có thể gọi điện thoại trao đổi trực tiếp với phụ huynh hoặc có thể
trao đổi qua phiếu liên lạc để phụ huynh kịp thời nắm bắt tình hình học tập, rèn
luyện, phối kết hợp với giáo viên trong việc giáo dục các em.
3.10. Đổi mới phương pháp dạy học, bám sát các hoạt động hằng ngày
của học sinh.
Giáo viên cần thực hiện tốt đổi mới phương pháp dạy học để phát huy tính
tích cực chủ động sáng tạo của học sinh (ví dụ: sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm, phương pháp gợi mở, nêu vấn đề, phương pháp đóng vai...; biết lựa chọn
phối kết hợp linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học); qua các
hoạt động học tập, học sinh được rèn các kỹ năng phân tích, tổng hợp, tư duy sáng
tạo, hợp tác theo nhóm, kỹ năng đánh giá, kỹ năng hợp tác trong nhóm, kỹ năng xử
lý tình huống...
Giáo viên cần nghiên cứu kĩ bài học trước khi lên lớp để lựa chọn phương
pháp và hình thức để mang lại hiệu quả cao nhất, mạnh dạn giao việc cho học sinh,
giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ để học sinh giải quyết vấn đề.
3.11. Phối hợp với đội thiếu niên, đoàn thanh niên rèn năng lực, phẩm
chất, kĩ năng cho học sinh qua sinh hoạt sao nhi:
19



Phối hợp, trao đổi cụ thể nội dung thực hành trong từng tuần sinh hoạt sao
để hướng dẫn các em. Bên cạnh đó cùng tổng phụ trách đội kiểm tra thường xuyên
các kĩ năng về đội - sao, chỉnh sửa, định hướng kịp thời giúp các em tiến bộ.
Đoàn thanh niên, đội thiếu niên nhà trường thường xuyên tham mưu với
đoàn thanh niên xã tổ chức nhiều hoạt động trong dịp hè để các em được tham gia
như văn nghệ, lao động dọn vệ sinh ấp, đường làng, quét dọn nhà bia tưởng niệm
liệt sỹ. Đó là hình thức giáo dục đạo đức cho các em trách nhiệm với địa phương
nơi cư trú.
3.12. Rèn kỹ năng cho học sinh liên tục bằng hình thức lặp lại nhiều
lần:
Việc rèn kỹ năng cho học sinh lớp Một, đòi hỏi giáo viên phải đầu tư thời
gian, kiên trì, chú tâm nhắc nhở hướng dẫn các em thực hiện hành vi đúng, sửa
chữa uốn nắn những hành vi chưa chuẩn. Tất cả những hành vi đó phải làm thường
xun liên tục vì các em rất chóng quên. Giáo viên cần chú ý từng việc làm, cử chỉ,
lời nói của các em ở mọi lúc, mọi nơi, ở trường, ở nhà để các em ghi nhớ và thực
hiện theo hành vi đúng để trở thành thói quen đạo đức tốt cho các em.
4. Hiệu quả của sáng kiến:
Sau thời gian áp dụng các biện pháp hình thành năng lực, phẩm chất và giáo
dục kĩ năng sống cho học sinh trường TH Bế Văn Đàn chúng tôi thu được những
kết quả sau:
Phụ huynh cùng học sinh đã tự mình cắt, vẽ, xé dán những hình ảnh ngộ
nghĩnh trang trí lớp học, giáo viên cùng học sinh đã tiến hành khai thác các góc
cơng cụ đã trang trí trong các tiết học để khám phá, tìm tịi kiến thức mới.

20


Sản phẩm của Phụ huynh, học sinh cùng tham gia trang trí lớp


Cách xưng hơ, lời nói, cử chỉ của các em từng bước thay đổi. Sau tháng học
đầu tiên các em đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn, mạnh dạn nói chuyện trao đổi với cơ
giáo và các bạn, biết ăn mặc gọn gàng, có ý thức học tập cao hơn.

Mạnh dạn trình bày ý kiến cá nhân

21


Các em đã biết phân chia trực nhật, lau chùi lớp học sạch sẽ, tủ đồ dùng
được các em sắp xếp gọn gàng, biết quét dọn và nhặt rác ở khu vực đã được phân
công.

Các em tự giác nhặt rác, qt sân ở khu vực được phân cơng

Nói lời cảm ơn hoặc xin lỗi

Ý thức tự giác khi học bài ở lớp

Tự mình biết

TSHS

nói lời cảm ơn

Cần người lớn

khi được nhận


nhắc nhở mới

Tự giác khơng

và xin lỗi khi

nói lời cảm ơn

cần nhắc nhở

làm ai đó buồn

hoặc xin lỗi.

Chưa tự giác,
thầy cơ phải nhắc
nhở nhiều

lịng.
29

SL

%

SL

%

SL


%

SL

%

27

93,1

2

6,9

25

86,2

4

13,7

22


Giáo viên cơ bản nắm vững cách đánh giá mới, đặc biệt là ở hai nội dung
đánh giá phẩm chất và năng lực. Lời nhận xét đã cụ thể hơn, chính xác hơn, qua đó
đã động viên, khích lệ học sinh học tập tiến bộ. Kịp thời uốn nắn những lỗi sai,
giúp các em có ý thức sửa sai và học tập tích cực hơn. Qua lời nhận xét giúp phụ

huynh biết con mình học được gì, cần kèm cặp thêm cho con ở điểm nào. Từ đó
em có hướng khắc phục, điều chỉnh để đạt chất lượng cao hơn.

Lời nhận xét của giáo viên

Hầu hết giáo viên tích cực đổi mới PPDH từ khâu thiết kế đến việc tổ chức
hoạt động trên lớp theo hướng hoạt động nhóm cộng tác; tăng cường tổ chức các
hoạt động trải nghiệm nhằm tạo cơ hội cho học sinh nắm vững kiến thức theo
chuẩn kiến thức kĩ năng, rèn luyện các phẩm chất năng lực cần thiết như kĩ năng tự
học, kĩ năng lắng nghe, chia sẻ, hợp tác, tự giải quyết vấn đề,…
Khảo sát qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm. Các em u thích mơn
học, thích chơi đóng vai, nói năng to rõ ràng, các em tự tin hơn, sôi nổi hơn. Biết
lắng nghe và biết hợp tác, biết phân chia nhiệm vụ cụ thể cho các thành viên trong
nhóm, biết chia sẻ kết quả của mình và lắng nghe các ý kiến của các thành viên
trong nhóm mình.

23


Tinh thần hợp tác, học tập nhóm
Biết cách lắng nghe, hợp tác,

Chưa biết cách lắng nghe, hay

trao đổi, bày tỏ ý kiến của

tách ra khỏi nhóm, chưa biết trình

mình


bày ý kiến của cá nhân mình.

TSHS

SL
29

26

%
89,6

SL
3

%
10,4

Học sinh hợp tác, thảo luận tìm kiến thức mới

Khảo sát qua các giờ sinh hoạt ngoại khóa, các em đồn kết chan hồ, vui
vẻ, cở mở trong giao tiếp. Ứng xử với bạn khi chơi các trò chơi dân gian tập thể.
Biết yêu quý mọi người gia đình, đồn kết giúp đỡ bạn bè.

Tham gia thi kéo co trong giờ sinh hoạt ngoại khóa

24



×