Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch diễn án hình sự 06 Lớp đào tạo luật sư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94 KB, 12 trang )

Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
PHẦN I: BÀI THU HOẠCH HỒ SƠ HÌNH SỰ SỐ 06
I. NGHIÊN CỨU NỘI DUNG HỒ SƠ VỤ ÁN
1. Tóm tắt nội dung vụ án
Ngày 16/03/2012 vào lúc 01h00p, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý
Công an Quận 7 kết hợp với công an phường Bình Thuận tiến hành kiểm tra phòng
số 101, khách san Khánh Ngọc địa chỉ : 30A, đường số 1, phường Bình Thuận,
quận 7 phát hiện các đối tượng: Lê Quang Trung, sinh năm 1982; HKTT: 92/2 khu
phố 3, phường Tân Thuận Đông, quận 7; Phạm Ngọc Thành, sinh năm 1974;
HKTT: 280/36 Nguyễn Tất Thành, phường 13, quận 4; Võ Quí Hiếu, sinh năm
1987; HKTT: 160 Nguyễn Chế Nghĩa, phường 12, quận 8; Nguyễn Thị Diễm, sinh
năm 1989 ; HKTT: 24C/38 Nguyễn Văn Cừ,phường Cầu Kho, quận 1 đang sử dụng
trái phép chất ma túy tổng hợp. Vật chứng thu giữ gồm : 20 gói ma túy tổng hợp tên
gọi Methmphetamine (MA), trọng lượng: 4,0852 gram, một máy điện thoại hiệu
NOKIA 3,500,000 đồng và một số dụng cụ để sử dụng ma túy tổng hợp. Sau khi bị
bắt giữ Lê Quang Trung khai nhận toàn bộ số ma túy và dụng cụ để sử dụng trái
phép chất ma túy là của Trung, do Trung cũng là đối tượng nghiện nên rủ bạn bè
đến khách sạn để sử dụng. Trung khai nhận số ma túy tổng hợp trên mua của Lê Hy
Minh Hải vào ngày 12/03/2012 và 15/03/2012 mỗi lần ½ hộp 5 về để phân ra từng
gói nhỏ để bán cho các đối tượng nghiện trên địa bàn với giá 200.000 đồng đến
300.000 đồng đồng để bán lẻ cho các đối tượng nghiện, nhưng Trung chưa kịp bán
thì đã bị Công an quận 7 bắt giữ. Cơ quan Công an Quận 7 tiến hành lập biên bản
bắt người phạm tội quả tang.
Qua quá trình lấy lời khai, Lê Quang Trung khai nhận mua ma túy của Lê Hy
Minh Hải mục đích mang về phân lẻ ra bán, vào ngày 10/03/2012 Lê Hy Minh Hải
bán cho Tống Hữu Thành 01 hộp 10 ma túy tổng hợp, Thành chưa có tiền trả. Do
vậy Lê Hy Minh Hải đã nói với Lê Quang Trung đi theo Tống Hữu Thành qua
đường Tôn Đản quận 4 lấy tiền đem về đưa Trung.
Ngoài việc bán ma túy cho Lê Quang Trung, Lê Hy Minh Hải còn bán ma túy
cho Tống Hữu Thành tổng cộng 03 lần:


1


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
Lần thứ nhất vào ngày 02/03/2012, tại khách sạn Khánh Ngọc địa chỉ
30A đường số 1, phường Bình Thuân, quận 7. Lần này Lê Hy Minh Hải bán cho
Tống Hữu Thành ½ hôp năm ma túy tổng hợp giá 3,500,000 đồng, Thành trả trước
1000,000 đồng và thiếu lại 2,500,000 đồng.
Lần 2 vào ngày 10/03/2012, tại quán café điểm hẹn quận 7, Lê Hy Minh
Hải bán cho Lê Hữu Thành 01 hộp 10 mà túy tổng hợp, giá 12.200.000 đồng. Lê Hy
Minh Hải nói Lê Quang Trung đi qua đường Tôn Đản quận 4 lấy tiền rồi đem về
đưa Hải.
Lần thứ 3 vào ngày 12/03/2012, tại khách sạn Khánh Ngọc, Lê Hy Minh
Hải bán cho Tống Hữu Thành ½ hộp năm ma túy tổng hợp giá 3.500.000 đồng,
Thành chưa trả tiền cho Hải.
Tổng cộng Lê Hữu Thành đã mua ma túy của Lê Hy Minh Hải 03 lần, riêng lần
mua 10 hộp ma túy tổng hợp Thành mang bán cho Tuấn (không xác định nhân thân
lai lịch) giá 12.800.000 đồng. Tống Hữu Thành thu lợi bất chính 600.000 đồng. Còn
hai lần Tống Hữu Thành mua của Lê Hy Minh Hải ½ hộp năm ma túy tổng hợp,
Thành mang về nơi tạm trú phân thành các gói nhỏ giá từ 200.000 đến 300.000
đồng cất giấu sẵn trong người. Chờ khi nào có các đối tượng nghiện cần mua lẻ sử
dụng, điện thoại cho Thành theo số 0903536313, Thành sẽ mang đi bán cho các đối
tượng nghiện. Các đối tượng nghiện thường mua ma túy của Tống Hữu Thành gồm
có: Phạm Văn Chính (tự Ty), Phạm Quốc Hiệp và Nguyễn Văn Lành và Võ Quốc
Cường (cùng bị bắt ngày 16/03/2012) và 5 đối tượng khác không biết rõ tên và địa
chỉ). Địa điểm Tống Hữu Thành thường bán ma túy là những địa bàn vắng người
trên quận 4 và quận 7.
Vào lúc 16 giờ ngày 16/03/2012, tại ngã ba đường Phan Huy Thực và đường Lê
Văn Lương phường Tân Kiểng, quận 7, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý
phát hiện Tống Hữu Thành đang được tên Võ Quốc Cường, sinh năm: 1985, HKTT:

450/110 Đoàn Văn Bơ, phường 4, quận 4, dùng xe NOUVO biển số 54Z4-2723 chở
Thành mang ma túy đi bán cho đối tượng nghiện (Nhưng Cường không biết Thành
đi bán ma túy). Thu giữ của Thành 01 gói ma túy tổng hợp (MA), trọng lượng
0,0852gram, 01 điện thoại di động và 300.000 đồng và xe gắn máy mang biển số

2


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
54Z4-2723. Tại trụ sở công an phường Tân Kiểng, quận 7, trong lúc lập hồ sơ bắt
quả tang Tống Hữu Thành thì có các đối tượng nghiện gọi điện cho Thành để mua
ma túy nên bị đội ma túy mời về làm việc; Phạm Văn Chính; (tự Ty) sinh năm:
1984; HKTT: ấp 2, thị trấn Cần Giuộc, Long An; Phạm Quốc Hiệp; sinh năm 1988,
HKTT: C84 xóm Chiếu, phường 14, quận 4.
Ngoài việc mua bán ma túy của Lê Hy Minh Hải ra, Tống Hữu Thành còn mua
ma túy của Dũng (không xác định thân nhân, lai lịch) được 02 lần. Lần 01 cách
ngày Tống Hữu Thành bị công an quận 7 bắt khoảng 01 tháng và lần 02 là ngày
17/03/2012. Mỗi lần Tống Hữu Thành mua ma túy của Dũng thì Dũng không trực
tiếp mang đi bán, mà Dũng nhờ Trần Thị Mỹ Thảo mang đi bán cho Dũng. Trong
thời gian thực hiện việc mua bán trái phép chất ma túy (kể từ ngày 17/02/2012 đến
ngày 17/03/2012), tổng số tiền Tống Hữu Thành thu lợi bất chính là 6.000.000
đồng, số tiền này Thành đã ăn sài và mua ma túy sử dụng hết.
Vào lúc 0 giờ 30p ngày 17/03/2012, trước khách sạn Lam Anh địa chỉ A77 khu
dân cư Kim Sơn, phường Tân Phong, quận 7, Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma
tuý Công an quận 7 đã phát hiện Trần Thị Mỹ Thảo đi xe ôm của Nguyễn Văn Hoa
(sinh năm 1956 HKTT: 245A/22 đến Ba Đình, phường 8, quận 8) mang ma túy đi
bán. Thu giữ của Thảo 01 gói ma túy tổng hợp tên gọi Methamphetaminne, trọng
lượng 2,3947 gram, 2 máy ĐTDĐ và 600.000 đồng. Tại cơ quan cảnh sát điều tra
công an quận 7, Trần Thị Mỹ Thảo khai nhận đã được Dũng nhờ đem ma túy đi bán
02 lần, ngoài việc bán ma túy cho Tống Hữu Thành ra, Thảo còn 02 lần bán ma túy

cho một đối tượng khác (không rõ nhân thân lai lịch) trên địa bàn quận 7. Việc Trần
Thị Mỹ Thảo bán ma túy cho Dũng, Thảo được Dũng cho tiền hai lần, tổng cộng là
3.000.000 đồng. Số tiền này Thảo đã ăn xài cá nhân và mua ma túy sử dụng hết.
Ngày 22/08/2012, Viện kiểm sát nhân dân quận 7 đã có cáo trạng ra quyết định
truy tố Lê Hy Minh Hải, Lê Quang Trung, Tống Hữu Thành và Trần Thị Mỹ Thảo
về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình
sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009.

3


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
II. CÁC VẤN ĐỀ CẦN LÀM RÕ
2.1. Văn bản pháp luật
- Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009;
- Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003;
- Các văn bản hướng dẫn khác.
2.2. Thủ tục
- Không có Quyết định phân công Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra của Thủ
trưởng Cơ quan điều tra (Điều 34 BLTTHS năm 2003);
- Quyết định phân công điều tra viên sai thẩm quyền. Người có thẩm quyền
phân công là Thủ trưởng Cơ quan điều tra (khoản 1 Điều 34 BLTTHS năm 2003);
- Các quyết định khởi tố bị can đều không ghi hoàn cảnh gia đình của bị can
(khoản 2 Điều 126 Bộ luật TTHS năm 2003);
- Quyết định Phê chuẩn quyết định khởi tố bị can: phê chuẩn sai số quyết định
(quyết định số 112 không phải số 122 đối với bị can Lê Quang Trung; số 110 không
phải số 111 đối với bị can Lê Hy Minh Hải);
- Lệnh tạm giam: đối với Lê Quang Trung căn cứ sai (phải là căn cứ Quyết định
khởi tố bị can số 112 không phải số 110) và ngày tháng ký lệnh (lệnh tạm giam từ
ngày 22/3 nhưng ngày ký là 18/10); sai căn cứ đối với Lê Hy Minh Hải (phải là căn

cứ Quyết định số 110 không phải số 112);
- Không có quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân
Quận 7 (khoản 3 Điều 88 Bộ luật TTHS 2003);
- Không có lệnh bắt khẩn cấp mà có quyết định phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp đối
với Lê Hy Minh Hải;
- Biên bản lấy lời khai của Trần Thị Mỹ Thảo vào ngày 17/3/2012, không thể
hiện sự có mặt của người giám hộ hay luật sư, cũng không có chữ ký của người
giám hộ hay luật sư.

4


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
2.3. Định hướng bào chữa
Qua quá trình nghiên cứu hồ sơ, với tư cách là luật sư bào chữa cho bị cáo Trần
Thị Mỹ Thảo, nhận thấy cần bào chữa theo hướng xin giảm nhẹ tội cho bị cáo về
hành vi “mua bán trái phép chất ma túy” của bị cáo. Cụ thể như sau:
- Bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo đã khai nhận hành vi phạm tội (tại bút lục số 20107).
- Đề nghị áp dụng một số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo
Trần Thị Mỹ Thảo như bị cáo đang có thai 11 tuần tuổi, trong quá trình điều tra, bị
cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó đề nghị áp dụng các điểm
l và p tại khoản 1 Điều 46 và Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung
năm 2009 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
- Bị cáo còn là người chưa thành niên (16 tuổi 5 tháng 6 ngày), phạm tội lần
đầu, có sự xúi giục của Dũng, chưa có tiền án tiền sự, trình độ học vấn thấp đến lớp
9, ít hiểu biết, nhận thức còn chưa đẩy đủ, gia đình hoàn cảnh khó khăn, ba mẹ đã ly
hôn từ sớm, không được sự giáo dục chăm sóc đầy đủ. Đề nghị Hội đồng xét xử
xem xét áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 46; khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự năm
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
III. KẾ HOẠCH HỎI VỚI TƯ CÁCH LÀ LUẬT SƯ BÀO CHỮA CHO BỊ

CÁO TRẦN THỊ MỸ THẢO
3.1. Hỏi bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo
- Bị cáo hãy cho HĐXX biết, hôm nay bị cáo cảm thấy sức khỏe thế nào?
- Bị cáo cho biết bị cáo sinh vào ngày tháng năm nào?
- Bị cáo học đến lớp mấy? Tại sao nghỉ học?
- Bị cáo sống tại Hồ Chí Minh bao lâu rồi? Có còn ở với ba hoặc mẹ ruột của bị cáo
không?
- Bị cáo có biết mình có thai hay không? Bị cáo cảm thấy tâm lý như thế nào?
- Bị cáo Thảo có mối quan hệ quen biết trong hoàn cảnh như thế nào với anh Dũng?

5


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
- Bị cáo có biết việc mang vật đi bán thay cho anh Dũng là vật gì không? Tại sao lại
đồng ý mang chất ma túy đi bán thay cho anh Dũng?
- Bị cáo bán hộ chất ma túy cho anh Dũng bao nhiêu lần rồi?
- Bị cáo có biết việc mang chất ma túy đi bán hộ cho người khác như vậy là vi phạm
pháp luật không?
- Bị cáo cho biết khi mang ma túy đã giao cho những ai?
- Bị cáo có làm công việc gì khác nữa không? Mức thu nhập đủ nuôi sống bản thân
không? Còn sống chung với ai không?
- Bị cáo biết sử dụng ma túy từ khi nào? Có bị người khác rủ rê sử dụng ma túy
không?
- Ngoài Dũng ra, bị cáo còn mua bán ma túy thay cho ai nữa không?
- Ngoài bị cáo ra, còn có ai tham gia vào hành vi mua bán trái phép ma túy nữa không?
- Bị cáo có biết nguồn gốc ma túy của Dũng giao cho đi bán là từ đâu không?
- Bị cáo có biết khối lượng ma túy mà bị cáo khi tại Cơ quan Điều tra là bao nhiêu
không?
- Bị cáo suy nghĩ gì về những hành vi của mình?

3.2. Hỏi bị cáo Tống Hữu Thành
- Bị cáo hãy cho biết mối quan hệ giữa bị cáo với Dũng và Trần Thị Mỹ Thảo là như
thế nào?
- Bị cáo nhận ma túy từ Dũng do Thảo giao hộ, còn gặp ai khác nữa không?
- Biên bản ghi lời khai lúc 19h30 ngày 16/3/2012. Khai khi mua ma túy của Hải thì
Thúy đến giao. Vậy Thúy là ai?
3.3. Hỏi bị cáo Lê Hy Minh Hải
- Bị cáo cho biết mối quan hệ như thế nào với Trần Thị Mỹ Thảo?
- Có mua ma túy từ Dũng do Thảo giao nhận không?
3.4. Hỏi bị cáo Lê Quang Trung

6


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
- Bị cáo cho biết mối quan hệ như thế nào với Trần Thị Mỹ Thảo?
- Có mua ma túy từ Dũng do Thảo giao nhận không?
IV. BẢN LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TRẦN THỊ MỸ THẢO
Kính thưa: -Hội đồng xét xử;
- Thưa vị đại diện Viện Kiểm Sát;
- Và các vị luật sư đồng nghiệp.
Tôi là luật sư

, đến từ Văn phòng luật sư , thuộc Đoàn luật sư Thành phố

Hồ Chí Minh, theo sự phân công của Trung tâm Trợ giúp pháp lý;
Hôm nay, tôi tham gia phiên toàn với tư cách là luật sư bào chữa cho bị cáo Trần
Thị Mỹ Thảo (người phạm tội chưa thành niên) bị Viện kiểm sát nhân dân Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm

2009.
Kính thưa Hội đồng xét xử, sau khi nghiên cứu kỹ những tình tiết, chứng cứ có
trong hồ sơ, thẩm tra những chứng cứ, lời khai của các bị cáo và các tình tiết diễn
biến tại phiên tòa cũng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân quận 7. Tôi có
một số ý kiến như sau: Tôi đồng ý với quan điểm của Vị đại diện Viện kiểm sát về
tội danh của thân chủ tôi, tuy nhiên, tôi xin bổ sung một số tình tiết để Hội đồng xét
xử xem xét khi lượng khung hình phạt:
Thứ nhất, về tình tiết phạm tội nhiều lần
Tại tình tiết định khung tặng nặng hình phạt “phạm tội nhiều lần” được quy
định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm
2009 được hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT ngày 24-12-2007 của
Bộ Công an -Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Toà án nhân dân tối cao - Bộ Tư pháp
về áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ
luật hình sự năm 1999 đó là:
“2.3. Tình tiết phạm tội nhiều lần được hiểu là đã có từ hai lần phạm tội trở lên
(hai lần mua bán trái phép chất ma tuý trở lên) mà mỗi lần phạm tội có đủ yếu tố

7


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
cấu thành tội phạm quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự, đồng thời trong
số các lần phạm tội đó chưa có lần nào bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết
thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Trong trường họp này người phạm tội phải
chịu trách nhiệm hình sự về tổng số lượng chất ma tuý của các lần cộng lại.”
Từ dẫn chứng trên đối chiếu với bản kết luận điều tra vụ án Công an Quận 7,
Cơ quan điều tra chưa chứng minh các lần mua bán khác của bị cáo Trần Thị Mỹ
Thảo có đủ yếu tố cấu thành tội phạm hay chưa. Đây chỉ là lời nói một phía từ bị
cáo trong lúc tâm lý hỗn loạn, việc ghi nhận lời khai của bị cáo cũng không có mặt
của người giám hộ hoặc luật sư đối với trường hợp bị cáo chưa thành niên.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 72 BLTTHS năm 2003 “Lời nhận tội của bị
can, bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ, nếu phù hợp với các chứng cứ khác
của vụ án. Không được dùng lời nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất
để kết tội”.
Theo quy định tại Điều 10 của BLTTHS năm 2003 “Cơ quan điều tra, Viện
kiểm sát và Toà án phải áp dụng mọi biện pháp hợp pháp để xác định sự thật của
vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định
có tội và chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và những tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo”.
Từ những quy định trên càng thấy rõ, trong trường hợp này Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát chưa làm rõ lời khai của bị cáo Thảo mà Viện kiểm sát vẫn dùng làm
chứng cứ để buộc tội bị cáo phạm tội nhiều lần là hoàn toàn đi ngược quy định pháp
luật, hạn chế đi quyền vốn có của bị cáo.
Do đó Viện kiểm sát truy tố tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự năm
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, xác định bị cáo Thảo “phạm tội nhiều lần” là chưa
có đủ cơ sở chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo tại tình tiết tăng nặng định
khung này.
Trường hợp phạm tội của bị cáo Thảo phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều
194 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 “Người nào tàng trữ, vận

8


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm
đến bảy năm”.
Như vậy, theo nội dung của vụ án và diễn biến tại phiên Tòa hôm nay, cho
thấy bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo chỉ phạm tội mua bán trái phép chất ma túy duy nhất
một lần vào 00h30p ngày 17/03/2012 trước khách sạn Lan Anh địa chỉ A77 khu dân
cư Kim Sơn, phường Tân Phong, Quận 7.

Vì vậy, có đủ cơ sở để khẳng định bị cáo Thảo phạm tội mua bán trái phép
chất ma túy theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi,
bổ sung năm 2009.
Thứ hai, về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Trong quá trình điều tra và xét hỏi tại phiên tòa hôm nay bị cáo Trần Thị Mỹ
Thảo đã thừa nhận hành vi phạm tội, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hợp tác
rất tốt với cơ quan Cơ quan điều tra kết thúc sớm. Cần xem xét các tình tiết giảm
nhẹ theo quy định tại các điểm e, l, p, q khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999
sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Bị cáo phạm tội do chưa ý thức được việc làm từ chính hành vi mình, đó là
mang lại hậu quả xấu cho xã hội và ngay cả bản thân của bị cáo. Bởi bị cáo có trình
độ học vấn thấp chỉ học đến lớp 9, hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, cha mẹ đã ly hôn
từ rất sớm, không ai chăm sóc, dạy bảo, phải ra ngoài đời kiếm sống để tự lo cho
mình, bị cáo là người chưa thành niên (mới 16 tuổi 5 tháng 7 ngày) hiện đang trong
quá trình hoàn thành hình thành nên khả nhận thức về mặt thể chất và tinh thần,
thiếu thốn về mặt vật chất và tinh thần nên dễ bị tác động, xúi giục dẫn tới con
đường xấu từ phía xã hội. Hiện bị cáo đang mang thai được 11 tuần. Có thể thấy bị
cáo hạn chế về nhận thức xã hội do không ai giáo dục hướng dẫn tường tận cái nào
đúng cái nào sai, việc nào được làm việc nào không được làm, nên bị sa ngã là một
điều tất yếu.
Kính mong HĐXX, xem xét đây là những tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo theo quy
định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
Thứ ba, về trách nhiệm dân sự từ phía bị cáo

9


Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
Bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo đã nộp lại toàn bộ số tiền từ chính hành vi phạm tội
của mình và các tài sản liên quan đến vụ án cho Cơ quan điều tra để hỗ trợ công tác

điều tra.
Tôi đề nghị HĐXX:
- Xem xét chuyển khung hình phạt, xét xử bị cáo Thảo về hành vi phạm tội
“Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình
sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.
- Áp dụng các tình tiết giảm nhẹ như:
+ Bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, hoàn cảnh này
không phải do chính bị cáo tự gây ra (điểm e khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm
1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009).
+ Bị cáo từ khi bị bắt đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thừa nhận hành vi
phạm tội của mình; đồng thời hợp tác tích cực với Cơ quan Cảnh sát Điều tra kết
thúc sớm vụ án (điểm p, q khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ
sung năm 2009).
+ Phạm tội khi đang mang thai, được quy định tại điểm l khoản 1 Điều 46 Bộ
luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; áp dụng khoản 2 Điều 46 Bộ luật
hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; xem xét căn cứ Điều 47 Bộ luật hình
sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 không áp dụng hình phạt tại điểm b khoản
2 Điều 194 BLHS đối với bị cáo Trần Thị Mỹ Thảo mà chuyển xuống khung thấp
hơn được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung
năm 2009.
Kính thưa Hội đồng xét xử, thưa vị đại diện Viện kiểm sát!
Hành vi của bị cáo thực sự là không đúng. Nhưng xét thấy hoàn cảnh của bị
cáo là người chưa thành niên (phạm tội khi mới 16 tuổi 5 tháng 7 ngày) nhận thức
về mặt thể chất và tinh thần của bị cáo còn hạn chế; bản thân bị cáo chưa có tiền án,
tiền sự;
Phạm tội do hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, bị cáo đang mang thai 11 tuần, đã
thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực hợp tác với giúp đỡ phát hiện về mặt
10



Bài thu hoạch hồ sơ tình huống hình sự số 06 về mua bán trái phép chất ma túy
điều tra tội phạm. Với những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm e, l, p, q
khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 mà tôi đã
nêu trên, một lần nữa xin quý Tòa hãy xem xét mở lượng khoan hồng, mở ra cho bị
cáo một con đường sửa chữa lỗi lầm để trở thành người lương thiện khi ở độ tuổi
chưa thành niên này, có cơ hội sớm làm lại cuộc đời, tạo điều kiện tốt để chăm sóc
thai nhi hiện đang 11 tuần tuổi và trở thành công dân tốt, có ích cho xã hội.
Đề nghị Hội đồng xét xử hãy xem xét hồ sơ vụ án, những đặc điểm về nhân
thân đặc biệt của bị cáo, những tình tiết giảm nhẹ để tuyên bị cáo có một mức án thể
hiện sự công minh của pháp luật, đồng thời mang trong đó tính nhân đạo.
Xin chân thành cảm ơn Hội đồng xét xử đã lắng nghe bài bào chữa của tôi.
Trân trọng

Luật sư

11




×