Tải bản đầy đủ (.docx) (145 trang)

Biện pháp quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông thị xã thuận an tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 145 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM

TRƯƠNG NGỌC PHỤNG

BIỆN PHÁP QUẢN LÝ
CÔNG TÁC GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP
Ở CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THỊ XÃ THUẬN AN - TỈNH BÌNH DƯƠNG

Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số
: 60140114

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHAN THỊ TỐ OANH

HUẾ, NĂM 2015
1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các
số liệu và kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được
các đồng tác giả cho phép sử dụng và chưa từng được công bố trong
bất kỳ một công trình nào khác.

Họ tên tác giả



TRƯƠNG NGỌC PHỤNG

2

2


LỜ I CAM ĐOAN

Với tình cảm chân thành và lòng quý trọng, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc đến:
PGS.TS. Phan Thị Tố Oanh - người đã hướng dẫn khoa học tận tình chỉ dẫn
và giúp đỡ tác giả trong quá trình nghiên cứu, hoàn thiện luận văn;
Lãnh đạo trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế; Lãnh đạo trường Đại học
Đồng Nai; Khoa Tâm lý – Giáo dục, Phòng đào tạo Sau đại học, trường Đại học
Sư phạm - Đại học Huế; Quý thầy giáo, cô giáo đã quan tâm và hết lòng giúp đỡ.
Lãnh đạo Sở GD&ĐT Bình Dương; Ban giám hiệu trường THPT Nguyễn Trãi,
Trường THPT Trần Văn Ơn, Trường THPT tỉnh Hoài Đức, đội ngũ giáo viên, nhân
viên và học sinh các trường THPT trên địa bàn tỉnh Bình Dương và tấm lòng
người thân, đồng nghiệp, bạn bè gần xa.
Do điều kiện về thời gian và phạm vi nghiên cứu của đề tài có hạn, luận văn
không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong các Thầy giáo, Cô giáo và các bạn
đồng nghiệp góp ý, chỉ dẫn để tác giả tiếp tục hoàn thiện luận văn sau này.

Huế, tháng 8 năm 2015
Tác giả luận văn
Trương Ngọc Phụng

3


3


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA ...................................................................................................i

4

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

5

Viết đầy đủ

• CBQL

: Cán bộ quản lý

• CSVC

: Cơ sở vật chất

• CNH-HĐH


: Công nghiệp hóa - hiện đại hóa

• ĐLC

: Độ lệch chuẩn

• GD & ĐT

: Giáo dục và đào tạo

• GDHN

: Giáo dục hướng nghiệp

• GV

: Giáo viên

• GVCN

: Giáo viên chủ nhiệm

• HS

: Học sinh

• NXB

: Nhà xuất bản


• QL

: Quản lý

• TB

: Trung bình

• THPT

: Trung học phổ thông

5


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ VÀ SƠ ĐỒ
Bảng:

Biểu đồ:

Sơ đồ:

6

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta hiện nay đang thực hiện đường lối đổi mới và tiến hành công

cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa. CNH – HĐH không chỉ là công cuộc xây
dựng nền kinh tế đất nước đang trên quá trình hội nhập quốc tế, mà còn là cuộc cách
mạng làm biến đổi sâu sắc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để thực hiện
thành công sự nghiệp CNH – HĐH ở nước ta, Đảng ta đã định hướng phát triển
kinh tế - xã hội trong việc nâng cao nguồn lực đổi mới toàn diện và phát triển nhanh
giáo dục là: “Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công
nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề. Thực hiện liên kết chặt
chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để
phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án
đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn.
Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển
kinh tế tri thức.”[2,tr14 ] Giáo dục và đào tạo đặc biệt giữ một vai trò quan trọng,
giáo dục mang tính chất liên tục từ bậc tiểu học, trung học rồi lên trung cấp, cao
đẳng và đại học. Trong đó, GD&ĐT ở bậc trung cấp, cao đẳng và đại học càng
quan trọng hơn, nó không chỉ giúp cho con người hoàn thiện về mặt tri thức, kĩ
năng mà còn giúp cho đất nước có được nguồn nhân lực dồi dào, có kĩ thuật phục
vụ cho công cuộc CNH – HĐH đất nước.
Những năm gần đây, Bộ GD&ĐT đã tổ chức kỳ thi chung ở bậc đại học và
công bố điểm sàn cho từng khối thi. Điều này tạo sự cạnh tranh lành mạnh giữa các thí
sinh dự thi, giúp các em có cơ hội cao hơn để vào được đại học. Tuy nhiên có những
trường đại học vì lấy cho đủ chỉ tiêu, hạ thấp điểm sàn nhằm thu hút thí sinh vào trường
để học, do đó khi các trường hạ thấp điểm sàn thì nhiều thí sinh sẵn sàng nộp đơn vào
học, dù biết rằng ngành học mà mình đang nộp đơn tham gia học tập khác hoàn toàn
với ngành mình đã nộp đơn thi trước đó. Điều này làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất
lượng GD&ĐT ở bậc đại học cũng như việc đào tạo nguồn nhân lực để phục vụ công
cuộc CNH – HĐH đất nước mà Đảng và Nhà nước ta đang tiến hành.

7

7



Giáo dục và đạo tạo là phải phân luồng, ở bất cứ cấp học nào cũng như vậy,
trong đó GD&ĐT ở bậc đại học phải thu hút được những nhân tài thực sự, còn lại
phân luồng để các em vào cao đẳng, trung cấp nghề, ... để tạo thành sự cân bằng
trong quản lý giáo dục và cơ hội việc làm cho các em sau khi ra trường. Tuy nhiên,
với sự bùng nổ và sự ra đời của rất nhiều trường đại học hiện nay, đặc biệt là các
trường đại học do tư nhân quản lý thì việc quản lý giáo dục càng khó khăn hơn nữa.
Vì vậy, chất lượng giáo dục không được đảm bảo. Thêm một hệ lụy không nhỏ nữa
đó là việc đào tạo “nhân tài” ồ ạt như vậy, sau khi các em ra trường không ai có thể
đảm bảo cho các em có việc làm. Kết quả là nhiều em có cho mình được tấm bằng
đại học rồi nhưng lại không kiếm cho mình được công ăn việc làm như mong đợi.
Như vậy, để học sinh có thể chọn cho mình một ngành học, một trường học
vừa phù hợp với sở trường, khả năng của bản thân vừa đảm bảo cho các em có một
tương lai tốt đẹp luôn là vấn đề quan trọng cần phải giải quyết. Đồng thời, thông
quá đó, nó cũng giúp thúc đẩy, nâng cao chất lượng GD&ĐT nguồn nhân lực có
khoa học – kĩ thuật phục vụ cho đất nước.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế, cho nên việc
đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục là nhiệm vụ cấp bách. Trong đó, nguồn nhân
lực có hàm lượng kĩ thuật cao đóng vai trò quan trọng, vì thế GD&ĐT ở bậc đại học,
cao đẳng đóng vai trò chủ đạo trong đào tạo nguồn nhân lực và giáo dục trung học
đóng vai trò nền tảng, giúp cho quá trình tuyển chọn nghề ở trường đại học,cao đẳng,
trung cấp chuyên nghiệp đạt kết quả tốt hơn thông qua giáo dục hướng nghiệp.
Bình Dương là một tỉnh đang có tốc độ phát triển kinh tế khá cao và đòi hỏi
cần phải có một nguồn nhân lực có chất lượng với số lượng lớn. Có thể nói, đây là
tỉnh thành đã ưu tiên phát triển công nghiệp như một mũi nhọn. Trong kế hoạch
phát triển các ngành kinh tế trọng điểm hay phát triển xã hội nói chung thì chắc
chắn lực lượng lao động kế thừa có chuyên môn cao với đầy đủ những phẩm chất
và kĩ năng nghề nghiệp vô cùng cần thiết. Theo dự báo về nhu cầu lao động của tỉnh
Bình Dương thì hàng năm, nhu cầu tuyển dụng là từ 30.000 - 40.000 lao động.

Trong khi đó, số lao động của Bình Dương mới chỉ đáp ứng được 50%. Vì vậy,
Bình Dương thu hút khoảng 50% lực lượng lao động đến từ các tỉnh khác mới tạm
8

8


đáp ứng được 80% nhu cầu hiện tại. Dự kiến trong giai đoạn 2010-2015, Bình
Dương cần khoảng 150.000 - 200.000 lao động. Do đó, vấn đề nguồn nhân lực kĩ
thuật chất lượng cao luôn là một trong những mục tiêu hàng đầu trong quá trình
phát triển chung của tỉnh.
Nhằm tìm ra một hướng đi mới phù hợp với tâm tư nguyện vọng của đa số
học sinh đang khó khăn, đắn đo suy nghĩ để chọn ngành học, chọn nghề cho tương
lai, công tác giáo dục hướng nghiệp trong nhà trường THPT trên địa bàn thị xã
Thuận An, tỉnh Bình Dương đã được triển khai và có kết quả nhất định. Tuy nhiên,
kết quả còn hạn chế, chưa đáp ứng được nguyện vọng của học sinh, các em gặp khó
khăn, thậm chí là rất khó khăn trong việc chọn nghề vì các em hoàn toàn bị động,
không biết về các ngành nghề trong xã hội cũng như không biết về năng lực, khả
năng của chính bản thân mình. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến công tác hướng
nghiệp chưa đạt kết quả cao, trong đó, có nguyên nhân quản lý từ phía hiệu trưởng.
Xuất phát từ những lý do trên, người nghiên cứu chọn nghiên cứu đề tài
“Biện pháp quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học
phổ thông Thị Xã Thuận An- Tỉnh Bình Dương”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lí luận và thực tiễn về công tác giáo dục hướng nghiệp
và quản lý hướng nghiệp của hiệu trưởng, đề ra một số biện pháp góp phần nâng
cao hiệu quả công tác QL GDHN của các trường THPT trên địa bàn thị xã Thuận
An, tỉnh Bình Dương.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác giáo dục hướng nghiệp ở các trường THPT

3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp QL công tác GDHN của hiệu trưởng
các trường THPT .
4. Giả thuyết khoa học
Công tác GDHN và quản lý GDHN của các trường THPT thị xã Thuận An –
Tỉnh Bình Dương đã đạt được một số thành công nhất định, tuy nhiên hiện nay công
tác này vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Vì vậy, nếu hiệu trưởng các trường THPT ở
đây đánh giá đúng thực trạng, áp dụng đầy đủ và đồng bộ các biện pháp GDHN phù
9

9


hợp với thực tiễn thì công tác GDHN sẽ đạt được hiệu quả cao hơn.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về GDHN và QL GDHN cho học sinh các
trường THPT.
5.2. Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng GDHN và QL GDHN của hiệu
trưởng các trường THPT trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.
5.3. Đề xuất một số biện pháp QL công tác GDHN của hiệu trưởng các
trường THPT trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.
6. Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài được nghiên cứu chủ yếu về
thực trạng GDHN và thực trạng quản lý GDHN các trường THPT trên địa bàn thị xã
Thuận An – Tỉnh Bình Dương trong 3 năm học từ 2012 – 2015, đề ra định hướng
hoạt động hướng nghiệp cho các năm học tiếp theo.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí luận: Sử dụng các phương pháp
phân tích và tổng hợp tài liệu, phân loại tài liệu nhằm xây dựng cơ sở lí luận của đề
tài nghiên cứu.
7.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn

7.2.1. Phương pháp quan sát: Phương pháp này được sử dụng nhằm quan sát
hoạt động quản lý của hiệu trưởng về GDHN và hoạt động GDHN của GV, GVCN.
7.2.2. Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi được dùng để trưng cầu ý kiến
của cán bộ quản lý, GV và học sinh các trường THPT ở thị xã Thuận An – Tỉnh
Bình Dương.
7.2.3. Phương pháp phỏng vấn: Đặt câu hỏi phỏng vấn cán bộ quản lý, GV
chủ nhiệm lớp, GV bộ môn và học sinh các trường THPT ở thị xã Thuận An– Tỉnh
Bình Dương về công tác GD hướng nghiệp và quản lý GDHN.
7.2.4. Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động được sử dụng để tìm hiểu
các văn bản, các hồ sơ lưu trữ về GDHN và về quản lý hoạt động GDHN của trường.
7.3. Phương pháp thống kê toán học: Nhằm xử lý kết quả đã thu thập được.
8. Cấu trúc luận văn: Luận văn gồm 3 phần:
I. MỞ ĐẦU
10

10


II. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU (gồm 3 chương)
Chương 1: Cơ sở lí luận về quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp ở trường THPT
Chương 2: Thực trạng quản lý công tác GDHN của hiệu trưởng ở các trường
THPT trên địa bàn thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.
Chương 3: Biện pháp quản lý công tác GDHN của hiệu trưởng ở các trường
THPT trên địa bàn thị xã.Thuận An, tỉnh Bình Dương.
III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC
GIÁO DỤC HƯỚNG NGHIỆP Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC
PHỔ THÔNG
1.1. Tổng quan lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trong tầm bao quát tư liệu của mình, chúng tôi nhận thấy một số tác giả có
những công trình nghiên cứu có liên quan đến công tác hướng nghiệp cho HS như sau:
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về hoạt động hướng nghiệp và quản lý giáo
dục hướng nghiệp ở nước ngoài
Từ sau Hội nghị quốc tế về hướng nghiệp tổ chức tại Bacelona (Tây Ban
Nha) năm 1921, hướng nghiệp và tư vấn nghề bắt đầu trở thành xu thế chung rộng
rãi trên thế giới.
Về giáo dục hướng nghiệp, quan điểm của UNESCO cũng cho rằng giáo dục
trung học là giai đoạn mà thế hệ trẻ lựa chọn cho mình con đường bước vào cuộc
sống lao động thực sự. Hướng nghiệp tạo điều kiện cho HS lựa chọn một trong
nhiều con đường khác nhau.
Trên thế giới, công tác GDHN đã được rất nhiều nước quan tâm và đầu tư
phát triển. Ở Nga, chương trình giáo dục công nghệ học trường phổ thông bao gồm
những nội dung có tính giáo dục kĩ thuật tổng hợp không nhằm đào tạo một nghề cụ
thể mà theo nhóm công nghệ học, gắn sản xuất với kinh doanh, mang tính hướng
nghiệp. Các nhà giáo dục Liên Bang Nga cho rằng, trong các tiêu chí đánh giá chất
lượng HS thì “sự thành đạt nắm vững nghề đã chọn là giá trị cao”.
Chương trình cải cách giáo dục ở Cộng hòa Pháp đã chú ý đặc biệt đến việc
chăm lo giảng dạy lao động và nghề nghiệp cho HS, khắc phục khuynh hướng và
quan niệm coi giáo dục lao động là một hoạt động giáo dục loại hai (tức là đứng sau
11

11


các môn học văn hóa). Để phát triển nhân cách toàn diện cho HS, nhà trường Pháp
đã đặt giáo dục lao động, thủ công và nghề nghiệp bình đẳng với các loại hình hoạt
động khác của nhà trường, đào tạo “tiền nghề nghiệp” là cơ sở cho việc học tập liên
tục về sau và chuẩn bị cho HS bước vào cuộc sống lao động. Hiện nay, nước Pháp
thực hiện công tác hướng nghiệp không những cho HS phổ thông mà còn cả với

người lớn theo những cách thức mới. Họ kết hợp các hướng cung cấp thông tin về
thế giới nghề nghiệp, về đặc điểm lao động của từng nghề, về các trường đào tạo
nghề, giúp người học có nhu cầu thông tin để so sánh lựa chọn. Mặt khác, nhà
trường tổ chức các phương pháp như GV quan sát, tìm hiểu nhiều mặt liên quan
đến nghề nghiệp tương lai của trò, còn các chuyên gia tâm lý hướng nghiệp, thầy
thuốc trường học tiến hành các kiểm tra về nhân học, tâm lý, y học đối với HS.
Trên cơ sở đó, nhà trường hay nhà tư vấn đưa ra những tư vấn tâm lý về việc chọn
nghề, để HS tự quyết định chọn nghề lần đầu hay điều chỉnh chọn nghề, thay đổi
nghề. Nhà trường căn cứ vào nhiệm vụ của từng loại cán bộ làm công tác
hướng nghiệp mà tổ chức đào tạo nhà giáo dục hay chuyên gia hướng nghiệp
khác nhau làm việc tại các loại trường, cơ quan quản lý giáo dục các cấp hay các
trung tâm thông tin và tư vấn nghề của nhà nước hoặc trong doanh nghiệp.
Yếu tố giáo dục hướng nghiệp còn được thể hiện ở việc lập kế hoạch và
quyết định, thực thi các quyết định và vượt qua những giai đoạn chuyển đổi. Như
vậy, bốn yếu tố của GDHN là học về bản thân trong công việc, học về thế giới công
việc, học về lập kế hoạch và quyết định thực thi các quyết định và vượt qua những
giai đoạn chuyển đổi được thực hiện liên tục lặp lại qua các cấp học. Điều này góp
phần quan trọng trong sự phân luồng học sinh một cách hợp lí. Australia có tỉ lệ
thanh niên học lớp 12 rất cao. Có khoảng 70% HS tốt nghiệp phổ thông tiếp tục học
lên đại học. Nhiều nguồn trong số này có nhu cầu vào học trong hệ thống giáo dục
và đào tạo nghề, tránh được tình trạng “thừa thầy thiếu thợ” khi công tác GDHN
không được làm tốt. Chương trình hướng nghiệp của Australia chú trọng vào các kết
quả rõ ràng của HS, đây là nền tảng để đánh giá và báo cáo [9, tr45].
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới như Anh, Mỹ, Nhật, Malaysia, Hàn
Quốc... rất coi trọng công tác GDHN. Điều này thể hiện trong mục tiêu giáo dục,
luật giáo dục và chương trình nội dung môn học từ bậc tiểu học trở đi [9, tr46].
Theo A.V.Petropxki, nguyên nhân hấp dẫn HS lựa chọn một nghề nào đó là do
tính chất sáng tạo của lao động, ý nghĩa xã hội của nghề và quy mô tiền lương. Trong
12


12


nghiên cứu của mình tác giả đưa ra nhận xét: HS trung học phổ thông quan tâm nhiều
nhất đến giá trị của nghề nghiệp và sau đó mới đến giá trị vật chất [9, tr46].
Tóm lại, hướng nghiệp và GDHN là vấn đề mới xuất hiện trên thế giới vào
thập niên 90 của thế kỉ XX. Tuy là lĩnh vực còn non trẻ với lịch sử phát triển chưa
dày nhưng nó lại có tầm quan trọng lớn và được quan tâm nghiên cứu trong hệ
thống giáo dục quốc dân và các hệ thống giáo dục khác tại nước ngoài. Những nước
có nền GD phát triển, tiên tiến trên thế giới đều tập trung, đầu tư vào nghiên cứu
mảng hướng nghiệp, GDHN để mang lại lợi ích tối đa cho HS và đáp ứng nhu cầu
nguồn lao động chất lượng cao của xã hội.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về hoạt động hướng nghiệp và quản lý giáo
dục hướng nghiệp ở Việt Nam
Tại Việt Nam, vấn đề hướng nghiệp và GDHN đã sớm được Chủ tịch Hồ Chí
Minh quan tâm nhắc đến. Trong bài báo “Học hay, cày giỏi”, Bác đã đề cập đến một
yếu tố mới của giáo dục, đó là “việc cung cấp cho học sinh những tri thức cơ bản về
kĩ thuật sản xuất công nghiệp và nông nghiệp” và “những ngành sản xuất chủ yếu”
trong xã hội. Đây cũng chính là những nội dung giáo dục kĩ thuật nghề nghiệp của
giáo dục nước ta thời bấy giờ.
Ngày 19/3/1981, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 126/CP về
“Công tác hướng nghiệp trong trường phổ thông và việc sử dụng học sinh các cấp
phổ thông cơ sở và phổ thông trung học tốt nghiệp ra trường”. Có thể coi quyết định
này là một mốc quan trọng đối với sự phát triển giáo dục trong hệ thống nhà trường
phổ thông, bởi từ thời điểm ấy, hướng nghiệp được chính thức coi như là một môn
học và đồng thời được coi như một hoạt động có trong các tiết dạy về GDHN, coi
hướng nghiệp là loại hoạt động của nhiều cơ quan khác nhau nhằm giúp người học
chọn nghề phù hợp với nhu cầu của xã hội và nguyện vọng, sở trường của cá nhân.
Năm 1989, trong cuốn “Giúp bạn chọn nghề”, tác giả Phạm Tất Dong đã đưa
ra những cơ sở khoa học giúp HS lựa chọn cho mình nghề nghiệp phù hợp, đó là

trước khi chọn nghề, HS phải trả lời đựoc 3 câu hỏi: Tôi thích làm nghề gì; Tôi làm
đựơc nghề gì; Tôi cần làm nghề gì, từ đó định hướng HS lựa chọn nghề nghiệp
tương lai cho bản thân một cách phù hợp và đúng đắn [10, tr23].
Trong những năm gần đây, công tác hướng nghiệp cho HS các trường trung
học phổ thông đã được đặt ra và triển khai trên cả nước. Các tài liệu liên quan cũng
13

13


khá phong phú và phổ biến. Có thể kể đến một vài công trình nghiên cứu gần đây
như: Định hướng giáo dục hướng nghiệp trong trường trung học phổ thông của tác
giả Phạm Tất Dong; Ở lĩnh vực dạy nghề, tác giả Bùi Văn Hưng có công trình
nghiên cứu “QL hoạt động GDHN trong các trường dạy nghề đáp ứng yêu cầu thị
trường lao động”. Đề tài đã giải quyết các vấn đề lí luận và thực tiễn về chương
trình GDHN và QL hoạt động GDHN trong các trường dạy nghề, từ đó đã đưa ra
được các biện pháp để nâng cao hiệu quả QL hoạt động GDHN trong các trường
dạy nghề hiện nay.
Năm 2003, tác giả Phan Thị Tố Oanh trong công trình nghiên cứu “Thực
trạng và biện pháp đẩy mạnh công tác hướng nghiệp tại các trường THPT ở các tỉnh
đồng bằng Sông Cửu Long ” đã chỉ ra rằng: Thực trạng công tác hướng nghiệp và
quản lý hướng nghiệp ở các trường THPT tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã
đạt được những kết quả nhất định như đã tổ chức sinh hoạt hướng nghiệp cho học
sinh, giảng dạy kết hợp với hướng nghiệp, tổ chức ngoại khóa về hướng nghiệp, kết
hợp với các trung tâm kĩ thuật thực hành- hướng nghiệp để tổ chức dạy nghề –
hướng nghiệp cho học sinh… Tuy nhiên, do nhận thức của CBQL, GV và các lực
lượng tham gia hướng nghiệp chưa đầy đủ và sâu sắc còn có phần coi nhẹ nên công
tác hướng nghiệp và quản lý hướng nghiệp chưa đạt được hiệu quả mong muốn,
chưa thật sự đáp ứng nhu cầu của người được hướng nghiệp cũng như yêu cầu của
xã hội, địa phương về nguồn nhân lực [22].

Nghiên cứu về quản lý GDHN có nhiều tác giả trong và ngoài nước nghiên
cứu, với khả năng tìm kiếm tài liệu còn hạn chế, tác giả điểm qua một số công trình
nghiên cứu sau. Ở một số địa phương cũng đã có một số tác giả đi sâu vào nghiên
cứu thực trạng QL hoạt động GDHN trong nhà trường phổ thông. Tiêu biểu có các đề
tài nghiên cứu như: “Các biện pháp quản lý công tác GDHN của hiệu trưởng trường
THPT tỉnh Đồng Tháp” (Luận văn thạc sĩ Giáo dục học của Lê Thanh Bình, Huế,
2007); “Biện pháp quản lý công tác GDHN của hiệu trưởng các trường THPT Thừa
Thiên Huế” (Luận văn thạc sĩ Quản lý Giáo dục của Đinh Kiền, Huế, 2011); “Các
biện pháp quản lý công tác GDHN cho học sinh các trường THPT huyện miền núi
Minh Hóa – Quảng Bình” (Luận văn thạc sĩ Quản lý Giáo dục của Trần Văn Đồng ,
Huế, 2011); “Thực trạng QL hoạt động GDHN của hiệu trưởng ở các trường THPT
14

14


huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh” (Luận văn thạc sĩ Quản lý Giáo dục của
Nguyễn Quốc Thanh Long, thành phố Hồ Chí Minh, 2011; Biện pháp quản lý công
tác giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông ở thành
phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu của tác giả Nguyễn Hữu Bách...
Tóm lại, hướng nghiệp và quản lý GDHN là một vấn đề được khá nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu. Trung tâm hướng nghiệp của Bộ Giáo dục và đào tạo
cũng đã triển khai công tác hướng nghiệp nghề ở các trung tâm kĩ thuật thực hànhhướng nghiệp từ năm 1992 nhưng hiệu quả mới đạt ở mức độ nhất định, gần đây
nội dung này tiếp tục được triển khai,chú ý nhiều hơn. Tuy nhiên, các tác giả chưa
đề cập hoặc có đề cập nhưng rất ít về công tác quản lý hoạt động hướng nghiệp như
thế nào để đạt hiệu quả, đặc biệt ở địa bàn tỉnh Bình Dương chưa có tác giả nào đi
sâu nghiên cứu vấn đề này. Vì vậy, kết quả nghiên cứu trên sẽ là cơ sở cho các công
trình nghiên cứu tiếp theo và cũng là cơ sở để giúp người nghiên cứu đưa ra được
các biện pháp quản lý công tác giáo dục hướng nghiệp cho phù hợp với tình hình
thực tiễn ở thị xã Thuận An – Bình Dương.

1.2. Lí luận về giáo dục hướng nghiệp ở trường trung học phổ thông
1.2.1. Khái niệm
Hướng nghiệp
Hướng nghiệp là các hoạt động nhằm hỗ trợ mọi cá nhân chọn lựa và phát
triển chuyên môn nghề nghiệp phù hợp nhất với khả năng của cá nhân, đồng thời
thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực nghề nghiệp (thị trường lao động)
ở cấp độ địa phương và quốc gia.
Lâu nay chúng ta vẫn tưởng rằng hướng nghiệp chỉ là sự lựa chọn một nghề
nghiệp mà mình yêu thích, chọn một trường đại học phù hợp với mình, tuy nhiên
đây chỉ là phần ngọn của một quá trình, một hoạt động trong số rất nhiều các hoạt
động của hướng nghiệp. Thuật ngữ hướng nghiệp (career mentoring) nếu được hiểu
chính xác nó là sự kết hợp của nhiều lĩnh vực như: đánh giá nghề nghiệp (career
assessment), quản lý nghề nghiệp (career management), phát triển nghề nghiệp
(career development)...Trong đó lựa chọn nghề nghiệp chỉ là một giai đoạn đầu
trong tiến trình hướng nghiệp của mỗi người. Hướng nghiệp là một quá trình liên
15

15


tục tác động từ khi người học còn ngồi học ở bậc phổ thông, qua quá trình trau dồi
chuyên môn nghề nghiệp và tìm được nơi lao động phù hợp.
Khi mỗi cá nhân đều có được chuyên môn nghề nghiệp vững vàng phù hợp,
họ sẽ có nhiều cơ hội có một nghề nghiệp ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống
cá nhân. Ở một góc độ khác, hướng nghiệp có hiệu quả tạo ra một lực lượng lao
động có định hướng rõ ràng, do vậy họ có năng lực nghề nghiệp tốt, làm tăng năng
suất lao động, góp phần cho sự phát triển về kinh tế xã hội.
Có nhiều lĩnh vực khoa học đề cập tới công tác hướng nghiệp. Vì vậy, để
hiểu được bản chất của khái niệm này, chúng ta cần làm quen với những định
nghĩa khác nhau.

Những nhà giáo dục quan niệm hướng nghiệp là một hệ thống các biện pháp
tác động của gia đình, nhà trường và xã hội. Trong đó nhà trường đóng vai trò chủ
đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao động ở các
ngành nghề, tại những nơi xã hội đang cần phát triển đồng thời phù hợp với hứng
thú, năng lực cá nhân.
Trong tâm lý học, hướng nghiệp được coi như một quá trình chuẩn bị cho thế
hệ trẻ sẵn sàng tâm lý đi vào lao động nghề nghiệp. Sự sẵn sàng tâm lý đó chính là
tâm thế lao động, một trạng thái tâm lý tích cực trước hoạt động lao động.
Công tác hướng nghiệp đạt được sự thành công cần phải thực hiện tốt ba
nhiệm vụ sau: Định hướng nghề - Tư vấn nghề - Tuyển chọn nghề. Cụ thể:
Định hướng nghề nghiệp
Trong trường phổ thông công việc chủ yếu của định hướng nghề nghiệp là
thông tin về sự phát triển của các nghề trong xã hội. Đặc biệt là những nghề đang có
nhu cầu nhân lực một cách cấp thiết, những yêu cầu tâm lý và sinh lý của các nghề
đang đặt ra, tình hình phân công lao động xã hội và hệ thống trường dạy nghề...Đối
tượng của sự định hướng đó chủ yếu là học sinh, nhưng đôi khi, nhà trường cũng
phải cung cấp những thông tin nói trên cho cha mẹ học sinh nhằm mục đích phối
hợp hướng nghiệp cho các em một cách thống nhất.
Tư vấn nghề
Tư vấn nghề là một hoạt động dựa vào những lời khuyên tâm lý, giáo dục và
y học nhằm đánh giá toàn diện năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên.
16

16


Trên cơ sở đối chiếu với những yêu cầu của nghề nghiệp đặt ra đối với người lao
động có tính đến nhu cầu của địa phương và xã hội, giúp các em chọn nghề phù
hợp, góp phần cho sự thành đạt sau này.
Tuyển chọn nghề

Tuyển chọn nghề nghiệp là căn cứ vào nhu cầu nhân lực của một nghề cụ thể
mà đi tìm những người, có đặc điểm nhân cách phù hợp tay nghề, trình độ. Trong
trường phổ thông, việc tư vấn và định hướng nghề nghiệp đều phải dựa trên các số liệu,
dữ liệu cần để tạo những điều kiện thuận lợi cho việc tuyển chọn nghề nghiệp (như số
liệu tuyển sinh hàng năm, số liệu học sinh tốt nghiệp THCS hàng năm, số liệu học sinh
vào các trường THPT, vào các trường nghề, số học sinh không học tiếp phổ thông, số
liệu về những đợt tập huấn, tham quan ngoại khóa về công tác hướng nghiệp...)
Bên cạnh các nhiệm vụ trên cần thực hiện phối hợp các biện pháp như: tổ
chức họp mặt cha mẹ học sinh để tuyên truyền, tư vấn nghề, thực hiện các phiếu
điều tra tham khảo trong học sinh và cha mẹ học sinh, tổ chức tham quan các nhà
máy, xí nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh, các khu công nghiệp, các khu chế xuất ở
các địa phương, gặp mặt trao đổi, báo cáo của các đơn vị trên về qui mô hoạt động
của từng đơn vị và nhu cầu sử dụng lao động hàng năm.
Vậy, hướng nghiệp là hệ thống các biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học,
sinh lý học, giáo dục học, xã hội học, y học và nhiều khoa học khác để giúp thế hệ
trẻ chọn được nghề trong tương lai phù hợp với nhu cầu xã hội. Đồng thời thỏa
mãn nguyện vọng, phù hợp với năng lực, sở trường và điều kiện tâm- sinh lý cá
nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nhất lực lượng lao
động của đất nước. [16]
Giáo dục hướng nghiệp
Hiện nay, trong khoa học quản lý giáo dục, khi đề cập đến GDHN có rất
nhiều quan điểm của các nhà quản lý; sau đây chúng tôi đưa ra một số quan điểm
mang tính phổ biến:
“GDHN là hệ thống các hoạt động dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, xã
hội học, giáo dục học, kinh tế học,… để giúp các học sinh (HS) chọn nghề phù hợp
với nhu cầu xã hội, thích hợp với năng lực bản thân và đảm bảo điều kiện khả thi
trong học tập nghề nghiệp” [15]
17

17



Trên bình diện trường phổ thông, hướng nghiệp là một hình thức hoạt động
dạy của thầy và hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy,
hướng nghiệp được coi như là công việc của tập thể GV, tập thể sư phạm có mục
đích giáo dục học sinh trong việc chọn nghề, giúp các em tự quyết định nghề tương
lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản thân và nhu cầu
nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội [16]
“GDHN là một hệ thống các biện pháp giáo dục của nhà trường, gia đình,
xã hội nhằm chuẩn bị cho thế hệ trẻ tư tưởng, tâm lý, tri thức, kĩ năng,… để họ có
thể sẵn sàng đi vào ngành nghề, vào lao động sản xuất và vào cuộc sống. GDHN
góp phần phát huy năng lực, sở trưởng của từng người, đồng thời cũng góp phần
điều chỉnh nguyện vọng của cá nhân, sao cho phù hợp với phân công lao động
trong xã hội. Có thể nói ngắn gọn rằng, GDHN là hướng dẫn HS ngay khi còn ngồi
trên ghế nhà trường sớm có ý thức về một nghề lao động mà sau này họ sẽ chọn”
[8,tr 16]. Trong đề tài này, chúng tôi lựa chọn khái niệm GDHN này làm cơ sở tiến
hành nghiên cứu thực tiễn.
1.2.2. Mục đích của công tác GDHN trong nhà trường phổ thông
Ở nước ta, ngày 19 tháng 3 năm 1981, Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định
số 126/CP về công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ thông và việc sử dụng
học sinh các cấp phổ thông sau khi ra trường. Quyết định 126/CP được coi là mốc
quan trọng đối với công tác GDHN ở trong nhà trường phổ thông; bởi lẽ, từ đây,
hướng nghiệp chính thức được coi như một nội dung giáo dục và là một đơn vị kiến
thức trong các tiết dạy các môn văn hóa cơ bản.
Việc xác định lại công tác GDHN trong nhà trường phổ thông hiện nay dựa
trên các yếu tố sau:
- Kinh tế thị trường đặt ra nhiều yêu cầu mới đối với việc đào tạo người lao
động cũng như đối với việc phát triển ngành nghề trong xã hội so với thời kì xây
dựng và phát triển kinh tế theo cơ chế bao cấp. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi cao
năng lực cạnh tranh của các sản phẩm. Người lao động không đáp ứng yêu cầu về

nguồn nhân lực trong thời kì mới sẽ bỏ mất những cơ hội tìm kiếm việc làm, không
duy trì và phát triển được công việc sản xuất hàng ngày của mình.
- Một trong những vấn đề quan trọng của công tác GDHN là phải gắn việc
18

18


chọn nghề của thanh niên với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động ở
từng địa phương và cả nước.
Luật giáo dục 2005, tại Điều 28 đã khẳng định: “Giáo dục THPT phải củng
cố, phát triển những nội dung đã học ở THCS, hoàn thành nội dung của giáo dục
phổ thông; ngoài nội dung chủ yếu nhằm bảo đảm kiến thức phổ thông, cơ bản, toàn
diện và hướng nghiệp cho HS còn có nội dung nâng cao ở một số môn học để phát
triển năng lực, đáp ứng nguyện vọng của HS”[20, khoản 1 điều 28].
Để đáp ứng những nhu cầu đó, công tác hướng nghiệp trong nhà trường phổ
thông nhằm giúp HS hiểu được những điều kiện cơ bản về thế giới nghề nghiệp,
việc làm trong xã hội, có năng lực phân tích lựa chọn, quyết định hướng nghiệp, có
kĩ năng lao động cần thiết để thực hiện việc lựa chọn nghề nghiệp, việc chuyển dịch
nghề nghiệp khi cần. Xa rời hướng nghiệp, coi nhẹ giáo dục lao động, không gắn
nhà trường với đời sống sản xuất… đó là một trong những nguyên nhân làm cho hệ
thống các trường phổ thông của nước ta lạc hậu so với nhà trường của những nước
có nền công nghiệp phát triển.
Chính từ những vấn đề trên, có thể khẳng định rằng GDHN là nhiệm vụ vừa
cơ bản vừa mang tính cấp bách của sự nghiệp giáo dục phổ thông ở nước ta hiện
nay. Mục đích của hoạt động GDHN được quy định như sau:
- Về kiến thức: HS biết được ý nghĩa, tầm quan trọng của việc lựa chọn nghề
trong tương lai; Một số kiến thức cơ bản về vấn đề chọn nghề; Một số thông tin cơ
bản về định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, đất nước và khu vực,
về thế giới nghề nghiệp, thị trường lao động, hệ thống giáo dục nghề nghiệp (trung

cấp chuyên nghiệp và dạy nghề), cao đẳng và đại học ở địa phương và cả nước; Biết
cách tìm kiếm thông tin nghề và cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân; Và biết cách
tự đánh giá năng lực bản thân, điều kiện gia đình và nhu cầu xã hội để định hướng
học tập và chọn nghề tương lai.
- Về kĩ năng: HS có khả năng tự đánh giá được năng lực bản thân và điều
kiện gia đình trong việc định hướng nghề nghiệp tương lai; Tìm kiếm được những
thông tin nghề và cơ sở đào tạo cần thiết cho bản thân trong việc chọn nghề; Định
hướng và lựa chọn được nghề nghiệp tương lai cho bản thân.
- Về thái độ: HS chủ động, tự tin trong việc chọn hướng đi, chọn nghề; Có
hứng thú và khuynh hướng chọn nghề đúng đắn.
19

19


1.2.3. Nhiệm vụ của công tác GDHN trong trường phổ thông
Nhiệm vụ xã hội cơ bản của hướng nghiệp là tìm một nghề phù hợp nhất với
những khả năng của cá nhân và thỏa mãn nhu cầu nhân lực cho tất cả các lĩnh vực
nghề nghiệp (thị trường lao động) ở cấp độ quốc gia còn đối với trường phổ thông
thì:
Nhiệm vụ đầu tiên là qua hướng nghiệp, các em được làm quen với những
nghề cơ bản trong xã hội, những nghề có vị trí then chốt trong nền kinh tế quốc dân,
những nghề cần thiết phải phát triển ở ngay địa phương mình. Nhiệm vụ này được
thể hiện trong suốt những năm còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhiệm vụ đó giúp các
em có điều kiện tìm hiểu nghề trong xã hội (đặc biệt là nghề của địa phương). Từ sự
làm quen này, sẽ giúp cho các bạn trẻ trả lời câu hỏi: Trong giai đoạn hiện nay,
những nghề nào đang cần phát triển nhất, thái độ đối với nghề như thế nào là đúng,
v.v.. Đồng thời, học sinh còn phải biết những yêu cầu tâm sinh lý mà nghề đặt ra,
những điều kiện vào học nghề v.v… Như vậy, nhiệm vụ thứ nhất là hình thành ở
học sinh những biểu tượng đúng đắn về những nghề cần phát triển.

Nhiệm vụ thứ hai của GDHN là hướng dẫn phát triển hứng thú nghề
nghiệp.Hứng thú là một động lực hết sức quan trọng để con người gắn bó với nghề.
Vì vậy, hứng thú được coi như một chỉ số quan trọng hàng đầu để xét sự phù hợp
nghề của con người. Ở một số nước, người ta đề ra nguyên tắc: Không bố trí vào
nghề nếu không có hứng thú với nghề. Trên quan điểm chủ nghĩa nhân đạo cũng
như quan điểm tâm lý học, nguyên tắc đó là đúng.
Song việc giáo dục đạo đức, giáo dục chính trị có ý nghĩa đối với sự hình
thành và phát triển hứng thú. Trong xã hội, không ít nghề ở ngoài sự định hướng
của học sinh. Nhưng khi thấy được hết tầm quan trọng của một nghề, có những học
sinh đã dứt khoát chọn nghề ấy, và cảm thấy thoải mái hoặc hài lòng với sự lựa
chọn của mình, từ đó nảy nở hứng thú với nghề.
Nhiệm vụ thứ ba là giúp học sinh hình thành năng lực nghề nghiệp tương
ứng. Người ta chỉ có thể yên tâm sống lâu dài với nghề nếu họ có năng lực chuyên
môn thực sự, đóng góp được sức lực, trí tuệ một cách hữu hiệu với nghề của mình.
Xét đến cùng, ai cũng muốn có năng suất lao động cao, có uy tín trong lao động
nghề nghiệp. Mặt khác, nghề nghiệp cũng không chấp nhận những người thiếu năng
lực. Vì vậy, trong quá trình hướng nghiệp, phải tạo điều kiện sao cho học sinh hình
20

20


thành năng lực tương ứng với hứng thú nghề nghiệp đã có.
Đối với học sinh phổ thông, con đường hình thành năng lực nghề nghiệp là
tổ chức lao động sản xuất kết hợp với dạy nghề, Học sinh sẽ đươc thử sức trong các
hình thức hoạt động nói trên, từ đó năng lực nghề nghiệp sẽ nảy nở và phát triển.
Nhiệm vụ cuối cùng của hướng nghiệp là giáo dục cho học sinh thái độ lao
động, ý thức tôn trọng người lao động thuộc các ngành nghề khác nhau, ý thức tiết
kiệm và bảo vệ của công… Đây là những phẩm chất nhân cách không thể thiếu
được ở người lao động trong xã hội của chúng ta. Có thể coi đây là nhiệm vụ giáo

dục đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, là nhiệm vụ chủ yếu đối với thế hệ trẻ.
Cùng với các nhiệm vụ trên, nhiệm vụ này góp phần vào việc làm cho những phẩm
chất nhân cách của người lao động được hài hòa và cân đối.
Tóm lại, hướng nghiệp có nhiệm vụ cơ bản là hướng dẫn và chuẩn bị cho thế
hệ trẻ sẵn sàng đi vào các ngành nghề mà đất nước hay ở từng địa phương đang cần.
Quá trình giáo dục hướng nghiệp phải làm cho học sinh có những hiểu biết cần thiết
về thị trường lao động, biết cách lựa chọn nghề nghiệp có cơ sở khoa học, được làm
quen với nghề để có hứng thú và thái độ đúng đắn, yêu quý nghề, và điều quan trọng là
học sinh có được tình cảm, thói quen lao động để tiến tới có thể biết làm một số nghề
truyền thống, nghề thông dụng đang cần duy trì và phát triển ở địa phương. [24]
1.2.4 Nội dung GDHN cho HS phổ thông
Giáo dục định hướng giá trị nghề nghiệp bao gồm các nội dung cơ bản sau:
Cung cấp cho học sinh những thông tin về thế giới nghề nghiệp: các kiểu

-

nghề, loại nghề, nhóm nghề trong xã hội; cung cấp thông tin về những mặt tích cực
và khó khăn của mỗi nghề nhằm giúp các em tìm hiểu về giá trị các nghề.
Để giúp các em học sinh tìm hiểu nghề, GV có thể xây dùng các bản các nội
dung nghề nghiệp, tức là những bản mô tả nghề nghiệp một cách ngắn gọn như sau:
+ Tên nghề và những chuyên môn thường gặp trong nghề, có thể đưa một
vài nét về lịch sử phát triển của nghề đó.
+ Nội dung và tính chất lao động của nghề.
+ Những điều kiện cần thiết phải có để tham gia lao động của nghề đó:
* Học vấn phổ thông trước khi học nghề, những môn học phải đạt trình độ
khá trở lên.
* Những kĩ năng, kĩ xảo về hoạt động trí tuệ, về sử dụng các công cụ lao
21

21



động thường dùng nhất.
+ Những chống chỉ định y học, bao gồm: Những điều kiện về sức khoẻ, về
đặc điểm sinh lí và bệnh lí không đảm bảo cho việc học nghề và làm nghề.
+ Những điều kiện bảo đảm cho người lao động làm việc trong nghề:
* Tiền lương tối thiểu và thang lương trong nghề.
* Những điều kiện nâng cao tay nghề, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ…
* Những phúc lợi mà người lao động được hưởng.
+ Những nơi có thể theo học nghề.
+ Những nơi có thể được bố trí để làm việc.
- Cung cấp những yêu cầu của nghề đòi hỏi cần phải có ở người lao động về
tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, yêu cầu tâm – sinh lí và sức khoẻ
Vậy, khi chọn nghề mỗi người chúng ta phải biết nghề có yêu cầu như thế
nào đối với người lao động. Không có đủ những phẩm chất tâm lý và sinh lý để đáp
ứng yêu cầu của một nghề cụ thể thì đừng chọn nghề đó. Ví dụ: Người phản ứng
chậm chạp không nên vào nghề lái xe, người tính quá hiếu động, không nên chọn
nghề điều độ thông tin giao thông, điện lực.....
- Kiến thức về giá trị riêng của từng nghề trong xã hội, những đặc điểm đặc
trưng của từng nghề.
- Cung cấp những thông tin về nhu cầu lao động, nhu cầu nhân lực của nền
sản xuất ở địa phương cũng như của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đồng thời dự báo
về triển vọng phát triển của nghề trước mắt và trong tương lai.
- Giáo dục và xây dựng thái độ, giá trị văn hoá nghề nghiệp mang tính
chuyên môn, kĩ thuật cao cho học sinh như: tinh thần trách nhiệm, bảo đảm sự
nghiêm túc về kỉ luật lao động và qui trình công nghệ; trung thực, không làm hàng
xấu, hàng giả; biết tiết kiệm nguyên, vật liệu, sức lao động và thì giờ; quan hệ hữu
nghị, tốt đẹp với đồng nghiệp. Bên cạnh đó phải xây dựng thái độ nhân văn, giá trị
sống, giá trị văn hoá, dân tộc và thời đại cho các em đó là những nội dung hết sức
quan trọng trong thời đại ngày nay.

1.2.5. Các hình thức GDHN trong trường phổ thông
“Giáo dục hướng nghiệp cho HS phổ thông bằng các hình thức: Tích hợp
nội dung hướng nghiệp vào các môn học, lao động sản xuất và học nghề phổ thông,
hoạt động sinh hoạt hướng nghiệp và các hoạt động ngoại khóa khác” [10]. Theo
22

22


chương trình giáo dục phổ thông hiện hành, có thể tóm tắt các hình thức hướng
nghiệp cho HS cấp trung học như sau:
Sơ đồ 1.1. Các hình thức giáo dục hướng nghiệp cho học sinh trung học

Mỗi hình thức có tác động tới một hoặc nhiều khía cạnh khác nhau trong hệ
thống các năng lực hướng nghiệp cần hình thành ở HS. Mỗi địa phương, nhà trường
cần thực hiện đầy đủ các hình thức giáo dục hướng nghiệp nhằm đảm bảo thực hiện
được mục tiêu hướng nghiệp.
1.2.5.1. Hướng nghiệp qua môn học:
Hoạt động GDHN (trước đây gọi là Sinh hoạt hướng nghiệp) được chính
thức đưa đưa vào kế hoạch dạy học của các trường THCS và THPT với tư cách là
một môn học, có chương trình dạy học, bao gồm mục tiêu, nội dung, chuẩn kiến
thức, kĩ năng và thái độ cho từng chủ đề hướng nghiệp của từng khối, lớp. Trước
năm học 2009-2010, thời lượng dành cho hoạt động GDHN ở lớp 9 là 36 tiết/ năm
học ( 4 tiết/ tháng); ở lớp 10, lớp 11, lớp 12 là 27 tiết/ năm học/ lớp (3 tiết/ tháng/
lớp). Nhưng từ năm học 2009-2010 trở đi, thời lượng dành cho hoạt động GDHN
rút xuống còn 9 tiết/năm học/ lớp do có sự tích hợp một số chủ đề hướng nghiệp
vào hoạt động NGLL và môn Công nghệ lớp 10.
1.2.5.2 Hướng nghiệp qua các môn văn hóa
Các môn văn hóa là những môn học được đưa vào kế hoạch dạy học trong
23


23


chương trình giáo dục phổ thông và là các môn học chính khóa trong các trường
phổ thông nhằm cung cấp cho HS những kiến thức, kĩ năng cơ bản, phổ thông và
cần thiết nhất trong các lĩnh vực như Toán học, Văn học, Vật lý, Hóa học, Sinh học,
Lịch sử, Địa lý, Nghệ thuật... Thời lượng dành cho các môn văn hóa rất nhiều
(khoảng 24- 25 tiết/ tuần). Nhiều môn học được thực hiện trong suốt 12 năm học
phổ thông. Do vậy, lồng ghép, tích hợp GDHN vào các môn văn hóa là hình thức
giáo dục hướng nghiệp có khả năng thực hiện lâu dài, thường xuyên và hiệu quả.
Qua các môn văn hóa, GV có thể giới thiệu cho HS các nghề cơ bản có liên quan
trực tiếp tới môn học, những khả năng và thành tựu cũng như sự phát triển của một
số ngành nghề chủ yếu trong lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và công
nghệ thông tin. Cũng qua các môn văn hóa, GV có thể giúp cho HS biết được những
yêu cầu về kiến thức và kĩ năng của một số ngành nghề trong các lĩnh vực liên quan
tới môn học như lĩnh vực sinh học, vật lý, hóa học, nghệ thuật, công nghệ... Từ đó,
HS có thêm thông tin cơ sở để lập kế hoạch chọn nghề tương lai sao cho vừa phù
hợp với khả năng, học lực của bản thân, vừa phù hợp với nhu cầu lao động của một
số ngành nghề chính trong xã hội.
Hình thức hướng nghiệp qua các môn văn hóa được thực hiện chủ yếu theo
phương thức lồng ghép nội dung giáo dục hướng nghiệp vào môn học để giáo viên
liên hệ thực tiễn chọn nghề phù hợp và hiệu quả hơn.
1.2.5.3. Hướng nghiệp qua hoạt động ngoại khóa, tham quan
Ngoại khóa là hoạt động được tổ chức cho HS học tập ngoài giờ học chính
khóa. Hoạt động này được tiến hành theo một kế hoạch nhất định dưới sự tổ chức,
hướng dẫn của GV nhằm phát hiện, bồi dưỡng, phát triển hứng thú, năng khiếu và
khả năng sáng tạo của HS trong một lĩnh vực nào đó như khoa học, kĩ thuật, nghệ
thuật hoặc tin học... Qua tham gia hoạt động ngoại khóa, HS có cơ hội để khám phá
khả năng, sở thích, cá tính và giá trị nghề nghiệp của bản thân.

Việc tổ chức cho HS tham quan các cơ sở sản xuất, các doanh nghiệp, các cơ
sở đào tạo nghề… nhằm tạo điều kiện cho HS được tận mắt quan sát cơ chế vận
hành máy móc trong sản xuất, các hoạt động của người lao động và các sản phẩm
của quá trình lao động. Nhờ đó, HS hiểu rõ hơn đối tượng lao động, yêu cầu lao
động của ngành nghề mà HS mới chỉ biết qua sách vở, đồng thời khơi dậy trong các
24

24


em hứng thú đối với nghề nghiệp.[11]
1.2.5.4. Hướng nghiệp qua hoạt động giáo dục nghề phổ thông và lao
động sản xuất
Nghề phổ thông (nghề phổ thông) được hiểu là những nghề phổ biến và
thông dụng đang cần phát triển ở địa phương. Nghề phổ thông có kĩ thuật khá đơn
giản, quá trình dạy nghề không đòi hỏi phải có trang thiết bị phức tạp. Nguyên liệu
dùng cho dạy nghề dễ kiếm, phù hợp với điều kiện kinh tế và khả năng đầu tư của
địa phương, nhà trường. Thời gian học nghề ngắn 37 tiết /năm học .
Mục đích chủ yếu của dạy nghề phổ thông là trang bị cho HS những kiến
thức, kĩ năng lao động cần thiết và tạo cơ hội cho HS củng cố nội dung lí thuyết,
vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học ở môn Công nghệ vào thực tiễn đời sống và sản
xuất trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ và tin học. Qua đó, giúp
HS làm quen với hoạt động lao động nghề nghiệp, chuẩn bị tích cực cho HS bước
vào cuộc sống lao động và định hướng nghề nghiệp cho các em.
Qua tham gia hoạt động GD nghề phổ thông và lao động sản xuất, HS không
những có cơ hội để thử sức mình trong một hoạt động lao động nghề nghiệp cụ thể
mà còn có điều kiện khám phá khả năng, sở thích, cá tính và giá trị nghề nghiệp của
bản thân, nâng cao các kĩ năng thiết yếu, nâng cao nhận thức nghề nghiệp và ý thức,
thái độ lao động, từ đó đưa ra quyết định chọn nghề tương lai sao cho phù hợp.
Tóm lại giáo dục hướng nghiệp chủ yếu là định hướng nghề nghiệp, là một

công việc đòi hỏi sự thường xuyên liên tục và luôn phải cập nhật với sự phát triển
của xã hội.Vì vậy, để công tác giáo dục hướng nghiệp đạt hiệu quả cao cần phải kết
hợp các nội dung đã nêu ở trên.
1.3. Lí luận về quản lý công tác hoạt động hướng nghiệp ở trường trung
học phổ thông
1.3.1. Khái niệm
1.3.1.1. Khái niệm quản lý
Quản lý là sự tác động giữa chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Trong đó
chủ thể quản lý là những tổ chức và cá nhân, những nhà quản lý cấp trên, đối tượng
quản lý hay còn gọi là khách thể quản lý là những cá nhân. Sự tác động trong mối
quan hệ quản lý mang tính hai chiều và được thực hiện thông qua các hoạt động tổ
chức, lãnh đạo, lập kế hoạch, kiểm tra điều chỉnh…
25

25


×