Tải bản đầy đủ (.doc) (120 trang)

Phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường trung học phổ thông (chương trình chuẩn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (695.06 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
----

NGUYỄN THÀNH TRUNG

PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC
VỚI SÁCH GIÁO KHOA CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ 1945 ĐẾN 2000
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
(CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)

Chuyên ngành: LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC BỘ MÔN LỊCH SỬ

Mã số: 60 14 01 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
THEO ĐỊNH HƯỚNG ỨNG DỤNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN VĨNH TƯỜNG

Thừa Thiên Huế, năm 2017
i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu ghi trong luận văn là trung thực, được các đồng tác giả cho
phép sử dụng và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác.
Họ và tên tác giả



Nguyễn Thành Trung

ii


Lôøi caûm ôn
Để hoàn thành luận văn này, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành
đến:
B an giám hiệu Trường Đại học Sư phạm Huế; Phòng Đào tạo Sau đại
học, Thư viện - Trường Đại học Sư phạm Huế.
Quý thầy cô trong Tổ Lý luận và Phương pháp dạy học bộ môn
Lịch sử, Khoa Lịch sử - Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế đã tạo
điều kiện cho tôi trong quá trình học tập, công tác và thực hiện đề tài.
Các trường: Trường THPT Xuân Thọ, Trường THPT Xuân Hưng,
Trường THPT Xuân Lộc (Huyện Xuân Lộc -Tỉnh Đồng Nai) đã giúp đỡ
tôi trong quá trình tiến hành thực nghiệm sư phạm.
Đặc biệt, xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy giáo PGS.TS.
Trần Vĩnh Tường đã trực tiếp, tận tình hướng dẫn, giúp đỡ để tôi có
thể hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình, bạn bè, học sinh và đồng nghiệp đã
luôn bên cạnh, quan tâm, giúp đỡ và ủng hộ tôi.

Huế, tháng 5 năm 2017
Nguyễn Thành Trung

iii
3



MỤC LỤC
Trang phụ bìa............................................................................................................ i
Lời cam đoan...........................................................................................................ii
Lời cảm ơn..............................................................................................................iii
Mục lục.....................................................................................................................1
Danh mục viết tắt.....................................................................................................4
MỞ ĐẦU..................................................................................................................8
1. Lí do chọn đề tài.............................................................................................................8
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................................10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................................13
4. Mục đích nghiên cứu....................................................................................................13
5. Giả thuyết khoa học......................................................................................................14
6. Nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................................................14
7. Phương pháp nghiên cứu..............................................................................................14
8. Đóng góp của đề tài......................................................................................................15
9. Cấu trúc của luận văn...................................................................................................16

NỘI DUNG............................................................................................................. 17
CHƯƠNG 1............................................................................................................17
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN......................................................................17
CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC VỚI SÁCH GIÁO KHOA. .17
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ................................................17
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG..........................................................17
1.1. Cơ sở lí luận..............................................................................................................17
1.1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài.........................................................17
1.1.2. Những năng lực tự học với sách giáo khoa cần hình thành và phát triển cho học
sinh trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông...........................................28
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học
sinh trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông...........................................33
1.2. Cơ sở thực tiễn..........................................................................................................35


4


1.2.1. Thực trạng phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh trong dạy
học lịch sử ở trường Trung học phổ thông...................................................................35
1.2.2. Nguyên nhân của thực trạng...............................................................................38

CHƯƠNG 2............................................................................................................41
NỘI DUNG LỊCH SỬ CẦN KHAI THÁC ĐỂ PHÁT TRIỂN...........................41
NĂNG LỰC TỰ HỌC VỚI SÁCH GIÁO KHOA CHO HỌC SINH.................41
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ 1945 ĐẾN 2000..........................41
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN).......41
2.1. Mục tiêu, cấu trúc chương trình lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000..........................41
2.1.1. Mục tiêu khoá trình lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000......................................41
2.1.2. Cấu trúc chương trình lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000...................................42
2.2. Những kiến thức lịch sử cơ bản cần khai thác để phát triển năng lực tự học với sách
giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường Trung
học phổ thông (Chương trình Chuẩn)..............................................................................43
2.3. Bảng tổng hợp các năng lực tự học với sách giáo khoa cần phát triển cho học sinh
trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường Trung học phổ thông (Chương
trình Chuẩn)......................................................................................................................46

CHƯƠNG 3............................................................................................................61
PHƯƠNG PHÁP PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC VỚI SÁCH GIÁO
KHOA..................................................................................................................... 61
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ THẾ GIỚI TỪ 1945 ĐẾN 2000
................................................................................................................................. 61
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN)......61
3.1. Một số yêu cầu để phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh trong

dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình
Chuẩn)..............................................................................................................................61
3.1.1. Phải đáp ứng mục tiêu dạy học và nhiệm vụ bộ môn.........................................61
3.1.2. Phải phù hợp với đối tượng và khả năng của học sinh.......................................61
3.1.3. Phải phù hợp với định hướng đổi mới phương pháp dạy học trên cơ sở tuân thủ
phương pháp bộ môn – con đường nhận thức lịch sử..................................................62
3.1.4. Phải đảm bảo hiệu quả việc kiểm tra, đánh giá thường xuyên năng lực tự học
với sách giáo khoa của học sinh trong quá trình dạy học lịch sử.................................63

5


3.2. Một số biện pháp phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh trong
dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình
Chuẩn)..............................................................................................................................64
3.2.1. Biện pháp chung phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh...64
3.2.2. Một số biện pháp riêng phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học
sinh...............................................................................................................................67
3.3. Thực nghiệm sư phạm...............................................................................................81
3.3.1. Mục đích thực nghiệm........................................................................................81
3.3.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm.....................................................................82
3.3.3. Nội dung thực nghiệm........................................................................................82
3.3.4. Phương pháp tiến hành thực nghiệm..................................................................83
3.3.5. Kết quả thực nghiệm sư phạm............................................................................84

KẾT LUẬN............................................................................................................86
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................89
PHỤ LỤC

6



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

LS

Lịch sử

LSTG

Lịch sử thế giới

NL

Năng lực

NLTH


Năng lực tự học

NXB

Nhà xuất bản

PPDH

Phương pháp dạy học

SGK

Sách giáo khoa

THPT

Trung học phổ thông

7


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Trong những thập niên gần đây, sự phát triển vũ bảo của khoa học công
nghệ, các phát minh… đã tạo ra một kho tàng kiến thức đồ sộ. So với giai đoạn
trước, lượng kiến thức mà ngày nay con người đang có là rất lớn. Đồng thời, sự phát
triển nhanh chóng và đa dạng của các phương tiện thông tin đại chúng toàn cầu,
sách và các loại tài liệu khác,... đã tạo ra sự bùng nổ về thông tin. Nhân loại ngày
càng tiếp thu nhiều nguồn thông tin đa chiều, kiến thức ngày càng phong phú, đa
dạng. Con đường dẫn đến kiến thức, cách tiếp cận kiến thức, các phương tiện tiếp

cận kiến thức của nhân loại ngày càng đa dạng, hiệu quả hơn. Vì lẽ đó mà yêu cầu
về nguồn nhân lực của mỗi quốc gia cũng ngày một cao hơn, đòi hỏi phải có đủ
năng lực tự giải quyết các vấn đề mới và luôn sáng tạo trong công việc.
Những vấn đề nêu trên đã có tác động không nhỏ đến nền giáo dục của mỗi
quốc gia, trong đó có Việt Nam. Nghị quyết lần thứ 8 của Ban chấp hành Trung
ương khóa XI về đổi mới căn bản và toàn diện về giáo dục đã chỉ rõ: “Tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại, phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối
truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ,
khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ
năng, phát triển năng lực” [5].
Khoản 2 Điều 28 Luật Giáo dục quy định “Phương pháp giáo dục phổ thông
phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với
đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, khả năng làm
việc theo nhóm; rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến
tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” [49, tr. 21].
Theo tiêu chuẩn của giáo dục thế hệ trẻ thế giới, khi bước vào thế kỉ XXI,
giới trẻ phải có nhiều kĩ năng, trong đó kĩ năng tự học, tự nâng cao trình độ cá nhân
trong mọi tình huống có tính chất bao trùm và rất quan trọng. Cùng với xu thế đó,
việc thay đổi phương pháp dạy học trong nhà trường hiện nay là một nhu cầu tất
8


yếu. Chính vì vậy, những năm gần đây “tự học”, “tự giáo dục”, “tự nghiên cứu” đã
trở thành nguyên lý cơ bản của tư tưởng giáo dục hiện đại.
1.2. Hiện nay, giáo dục của các nước đều chú ý hình thành, phát triển năng
lực cần cho việc học tập suốt đời, gắn với cuộc sống hằng ngày, trong đó chú trọng
năng lực chung như: Năng lực tự học, năng lực cá nhân, năng lực thông tin và
truyền thông… Cùng với xu thế chung đó, Luật Giáo dục 2005 tại Khoản 1 Điều 27
về mục tiêu của giáo dục phổ thông đã nêu “đào tạo con người Việt Nam phát triển

toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với
lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc” [49, tr.19].
Như vậy, có thể nói trong quá trình dạy học, giáo viên phải đề cao việc phát
huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, giáo viên cần
bồi dưỡng cho người học năng lực tự học. Năng lực tự học trở thành một trong
những năng lực cơ bản của con người trong “xã hội tri thức”. Việc dạy cho thế hệ
trẻ cách học, rèn kĩ năng học tập, đặc biệt là hình thành và phát triển cho học sinh
năng lực tự học, trong đó có năng lực tự học với sách giáo khoa là một trong những
nhiệm vụ cấp thiết.
1.3. Lịch sử là một bộ môn khoa học xã hội, quá trình hình thành và lĩnh hội
kiến thức gắn liền với các sự kiện – hiện tượng lịch sử, tuy vậy, đó lại là những sự
kiện – hiện tượng lịch sử của quá khứ và học sinh không thể tiếp cận một cách trực
tiếp được. Thông qua bài viết và cơ chế sư phạm, sách giáo khoa lịch sử không chỉ
cung cấp kiến thức cơ bản mà còn cung cấp những thông tin nhằm hỗ trợ cho người
học tiếp thu các kiến thức một cách hiệu quả và tương đối đầy đủ. Như vậy, việc
hình thành và phát triển cho học sinh năng lực tự học với sách giáo khoa trong dạy
học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là rất cần thiết.
Trong bộ môn Lịch sử, khoá trình lịch sử thế giới là một phần rất quan trọng,
ở lớp 12, học sinh được tìm hiểu về lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000. Đây là thời kì
lịch sử chứng kiến nhiều sự thay đổi của lịch sử nhân loại, có những tác động lớn
đến lịch sử Việt Nam. Nếu người học có năng lực tự học với sách giáo khoa thì sẽ
9


lĩnh hội tốt hơn kiến thức lịch sử. Từ đó dần hình thành và phát triển năng lực tự
học, tự nghiên cứu cho học sinh theo tinh thần Nghị quyết 29, kì họp lần thứ 8 Ban
chấp hành Trung ương đảng, khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế.

Với những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu vấn đề “Phát triển năng
lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945
đến 2000 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)” để làm đề tài
luận văn Thạc sĩ Khoa học Giáo dục, chuyên ngành Lí luận và Phương pháp dạy
học bộ môn Lịch sử, hy vọng góp một phần vào việc nâng cao hiệu quả bài học lịch
sử ở trường Trung học phổ thông.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong các giáo trình về phương pháp dạy học môn Lịch sử, các công trình
nghiên cứu về Khoa học giáo dục lịch sử ở nước ngoài và trong nước đã đề cập
nhiều đến việc sử dụng sách giáo khoa, vai trò, chức năng của Sách giáo khoa đối
với người học cũng như đề cập đến việc phát huy năng lực tự học, tự tìm hiểu, tự
nghiên cứu của người học.
2.1. Ở nước ngoài
Trong lịch sử giáo dục thế giới, phương pháp tổ chức cho người học tự học
đã có tiền đề từ rất sớm, đặc biệt đến những năm 60 của thế kỉ XX, phương pháp
dạy học này đã rất phát triển ở các nước tiên tiến như Anh, Đức, Pháp, Mỹ, Liên
Xô, Ba Lan,… Điển hình cho hướng nghiên cứu về phương pháp tổ chức dạy học
này là những tác giả:
N.A. Rubakin trong tác phẩm“Tự học như thế nào?” đã đề cập “Việc giáo
dục động cơ đúng đắn là điều kiện cơ bản để bạn tích cực, chủ động trong học tập”
[45, tr. 36]. Như vậy, để việc học tập đạt kết quả thì người học trước nhất phải biết
xác định được động cơ học tập đúng đắn, từ đó đề ra những biện pháp học tập phù
hợp, tối ưu nhất.
Trong cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào?”, I.F.
Kha-la-môp đã khẳng định “Tự học có vai trò rất quan trọng trong việc nâng cao
tính tích cực nhận thức và hiệu quả hoạt động trí tuệ của học sinh” [32, tr.10].

10



Đặc biệt, trong cuốn “Chuẩn bị giờ học Lịch sử như thế nào?” [47], Tiến sĩ
N.G. Đairi đã đề xuất cách sử dụng sách giáo khoa bằng sơ đồ mang tính khoa học
và thực tiễn cao.
Sơ đồ Đairi đặt ra yêu cầu về tính tích cực của học sinh trong việc sử dụng
sách giáo khoa lịch sử một cách chủ động, sáng tạo, khắc phục tình trạng “thầy đọc
– trò chép”, “học thuộc lòng sách giáo khoa” mà không hiểu lịch sử.
Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu những góc độ khác nhau của
việc dạy học phát triển năng lực tự học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của
người học như tác phẩm “Phát huy tư duy học sinh” của M. A-lếch-xi-ép; “Tư duy
của học sinh” của M. N. Sác-đa-cốp… Các công trình này đã nêu lên những vấn đề
mang tính lí luận về phát huy tính tích cực, tự học của học sinh.
Như vậy, có thể thấy xu thế giáo dục chung của thế giới là nhấn mạnh
phương pháp tự học, đặt người học vào vị trí trung tâm, xem cá nhân người học vừa
là chủ thể vừa là mục đích cuối cùng của quá trình tiếp nhận tri thức. Tuy có nhiều ý
kiến khác nhau nhưng các nhà nghiên cứu đều khẳng định vai trò to lớn của việc tự
học cùng với hoạt động nhận thức tích cực, độc lập, sáng tạo. Đồng thời đề xuất các
biện pháp để hình thành và phát triển năng lực tự học cho học sinh trong đó có năng
lực tự học với sách giáo khoa.
2.2. Ở trong nước
Ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về tự học, tuy nhiên ở mỗi thời
kì lịch sử khác nhau thì quan niệm về tự học cũng khác nhau.
Dưới thời phong kiến, nền giáo dục Việt Nam chịu ảnh hưởng của giáo dục
Trung Hoa, tự học được thực hiện một cách máy móc, tức chỉ cần thuộc thi, thư, lễ,
nghĩa, khiến người học bị động, mất tư duy độc lập.
Thời Pháp thuộc, với những thủ đoạn cai trị thâm độc của thực dân, nền giáo
dục nước ta bị kìm nén, trì trệ. Trước cách mạng Tháng Tám 1945, số người mù chữ
chiếm hơn 90% dân số, do đó vấn đề tự học ít được đề cập đến.
Đến những năm 60 của thế kỉ XX, tư tưởng tự đào tạo đã xuất hiện ở trường
Đại học Sư phạm Hà Nội với phong cách giảng dạy và học tập mới, mà cốt lõi là
khẩu hiệu “biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”.

11


Tại Hội nghị phong trào tổng kết thi đua “Dạy tốt – Học tốt” của ngành
Giáo dục năm 1963, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy “Về cách học phải lấy tự học
làm cốt… Phải tự nguyện, tự giác xem công việc học tập là nhiệm vụ cách mạng,
phải cố gắng hoàn thành cho được, do đó mà tích cực, tự động hoàn thành kế
hoạch học tập”. Có thể nói, Người chính là tấm gương sáng về tự học cho thế hệ
trẻ của Việt Nam.
Giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Thị Côi trong “Các con đường, biện pháp nâng
cao hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông” cho rằng “Hoạt động học tập là
một khâu của quá trình dạy học, trong việc học thì “lấy tự học làm cốt”. Tự học là
một vấn đề quan trọng. Bởi vì, đó là nhân tố nội lực quyết định chất lượng học tập,
còn hoạt động dạy là ngoại lực có tác dụng định hướng, kích thích, điều khiển và
chỉ đạo trực tiếp hoặc gián tiếp quá trình học” [16, tr.72]
Ngoài ra, khi đề cập về tầm quan trọng của sách giáo khoa, nhiều nhà nghiên
cứu lí luận dạy học trong nước đã khẳng định tầm quan trọng của sách giáo khoa.
Tác giả Thái Duy Tuyên trong cuốn “Giáo dục học hiện đại” đã khẳng định
“Sách giáo khoa là phương tiện quan trọng nhất và giữ vị trí trung tâm trong hệ
thống các phương tiện dạy học. Nó là nguồn tri thức cơ bản của học sinh, gắn bó
với các em suốt thời gian học” [60, tr.34]
Bên cạnh các công trình nghiên cứu đã nêu ở trên, còn có các bài viết chuyên
đề đăng trên các tạp chí chuyên ngành; các bài tham luận, phát biểu trong các hội
nghị, hội thảo khoa học cũng đề cập nhiều đến vấn đề tự học của học sinh, sinh
viên, đặc biệt là việc hình thành và phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu, rèn
luyện các kĩ năng vận dụng thực tiễn cho người học như: “Hệ thống phương pháp
dạy học lịch sử ở trường phổ thông” của Phan Ngọc Liên và Trịnh Đình Tùng,
“Một tiết học lịch sử theo hướng tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh”
của Nguyễn Hữu Chí (Nghiên cứu Giáo dục số 8, năm 1996),…
Những năm gần đây có nhiều luận văn thạc sĩ Khoa học giáo dục, chuyên

ngành Lí luận và Phương pháp dạy học bộ môn lịch sử của trường Đại học Sư phạm
Huế cũng đề cập đến vấn đề tự học như “Tổ chức hoạt động tự học cho học sinh
dân tộc thiểu số trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 ở trường
12


Phổ thông dân tộc nội trú tỉnh Kon Tum” của học viên Vũ Thị Hường (năm 2011),
“Sử dụng bài tập lịch sử nhằm rèn luyện kĩ năng tự học cho học sinh Trung học phổ
thông (vận dụng khóa trình lịch sử lớp 11, trường Trung học phổ thông, Chương
trình Chuẩn)” của học viên Phạm Thị Thủy (năm 2012), “Hướng dẫn học sinh tự
học theo hướng phát huy tính tích cực với sách giáo khoa lịch sử lớp 10 ở trường
Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn)” của học viên Trịnh Thị Thu Thủy
(năm 2014),…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều góc độ của
vấn đề tự học cũng như khẳng định vị trí, vai trò, ý nghĩa của việc tự học với sách
giáo khoa, giúp chúng tôi xác định được các biện pháp, con đường hình thành và
phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh và là cơ sở định hướng
để chúng tôi tiếp tục nghiên cứu.
Như vậy, vấn đề tự học và hướng dẫn học sinh tự học với sách giáo khoa đã
có nhiều công trình nghiên cứu dưới những hình thức, mức độ khác nhau. Tuy
nhiên, chưa có công trình cụ thể nào đi sâu nghiên cứu và đề xuất các biện pháp
phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử
thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
Chính vì vậy, đề tài của chúng tôi tập trung đi sâu nghiên cứu vấn đề này. Đó là
nhiệm vụ cơ bản mà luận văn cần giải quyết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quá trình phát triển năng lực tự học với
sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở
trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu việc phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học
sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường Trung học phổ thông
(Chương trình Chuẩn).
Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại một số trường Trung học phổ thông trên
địa bàn tỉnh Đồng Nai.
4. Mục đích nghiên cứu
13


Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung, hệ thống hóa những cơ sở lí
luận, thực tiễn của việc phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học sinh,
từ đó đề xuất các yêu cầu mang tính nguyên tắc, biện pháp phát triển năng lực tự
học với sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000
ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn), góp phần nâng cao hiệu quả
bài học lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
5. Giả thuyết khoa học
Nếu áp dụng đúng các yêu cầu và biện pháp phát triển năng lực tự học với
sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở
trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn) như luận văn đề xuất thì sẽ góp
phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử trên tất cả các mặt giáo dưỡng, giáo dục và
phát triển. Điều này góp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học lịch
sử ở trường phổ thông nói chung và rèn luyện kĩ năng tự học với sách giáo khoa
lịch sử cho học sinh nói riêng.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở xác định đối tượng nghiên cứu như trên, đề tài giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực tự học với
sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
- Điều tra thực trạng việc giáo viên phát triển năng lực tự học với sách giáo

khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường Trung
học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
- Nghiên cứu nội dung, chương trình, sách giáo khoa lớp 12 khoá trình lịch
sử thế giới (Chương trình Chuẩn) để phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa
cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000.
- Nghiên cứu, đề xuất một số yêu cầu và các biện pháp phát triển năng lực tự
học với sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000
ở trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
- Thực nghiệm sư phạm để kiểm định giả thuyết khoa học và tính khả thi của đề tài.
7. Phương pháp nghiên cứu
14


7.1. Phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về lịch sử và giáo
dục lịch sử trong trường phổ thông.
7.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Nghiên cứu các văn kiện Đảng, Nghị định, Thông tư, Pháp lệnh của chính
phủ; nghiên cứu Luật Giáo dục, Chính sách, Chiến lược, Chỉ thị… của Ngành Giáo
dục về đổi mới phương pháp dạy học.
+ Nghiên cứu cơ sở tâm lí học, giáo dục học, lí luận về phương pháp dạy học
theo hướng phát triển năng lực học sinh.
+ Nghiên cứu chương trình, nội dung lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở
trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
+ Nghiên cứu các sách, tạp chí, luận án, luận văn, các bài viết liên quan đến
lĩnh vực nghiên cứu của đề tài.
- Phương pháp điều tra xã hội học:
+ Điều tra thực trạng vấn đề phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa

cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở một số trường Trung
học phổ thông trên địa bàn tỉnh Đồng Nai bằng cách sử dụng phiếu điều tra.
+ Khảo sát ý kiến của một số giáo viên giảng dạy môn Lịch sử của một số
trường trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, nhằm nắm bắt tình hình về việc giáo viên phát
triển năng lực tự học với sách giáo khoa lịch sử cho học sinh.
+ Dự giờ một số tiết dạy môn Lịch sử lớp 12 nhằm tìm hiểu về các biện pháp
phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa lịch sử (Chương trình Chuẩn) cho học sinh.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Tiến hành thực nghiệm ở một số lớp
học cùng chương trình, có mức độ năng lực tự học với sách giáo khoa lịch sử tương
đương nhau… để kiểm tra tính hợp lí, tính hiệu quả và mứa độ khả thi của đề tài.
- Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phương pháp thống kê toán học
để xử lí, thống kê toán học các kết quả thực nghiệm sư phạm. Từ đó kiểm định giả
thuyết khoa học mà đề tài đã nêu ra để khẳng định tính khả thi của đề tài.
8. Đóng góp của đề tài
15


Đề tài nghiên cứu thành công sẽ có những đóng góp sau: Hệ thống hóa các
vấn đề lí luận về phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa lịch sử; đề xuất các
yêu cầu và một số biện pháp phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho học
sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 một cách hiệu quả; góp phần
nâng cao chất lượng bài học lịch sử lớp 12 ở trường Trung học phổ thông (Chương
trình Chuẩn).
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, Luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc phát triển năng lực tự học với
sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường Trung học phổ thông.
Chương 2: Nội dung lịch sử cần khai thác để phát triển năng lực tự học với
sách giáo khoa cho học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở

trường Trung học phổ thông (Chương trình Chuẩn).
Chương 3: Phương pháp phát triển năng lực tự học với sách giáo khoa cho
học sinh trong dạy học lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 ở trường Trung học phổ
thông (Chương trình Chuẩn).

16


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TỰ HỌC VỚI SÁCH GIÁO KHOA
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1.1. Khái niệm Sách giáo khoa và Sách giáo khoa lịch sử
+ Sách giáo khoa
Khoản 2 – điều 29 của Luật Giáo dục Việt Nam 2005 quy định “Sách giáo
khoa (SGK) cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong
chương trình giáo dục của môn học, của mỗi lớp, của giáo dục phổ thông, đáp ứng
yêu cầu về phương pháp giáo dục phổ thông” [49, tr.21]. Như vậy, SGK là cụ thể
hóa chương trình, tức là cụ thể hóa chuẩn về mục tiêu, phạm vi, số lượng và mức độ
của kiến thức, kĩ năng, thái độ.
Cũng theo Luật Giáo dục Việt Nam 2005, SGK trước hết là sách do Bộ Giáo
dục và Đào tạo tổ chức biên soạn và được ban hành trên cơ sở thẩm định của Hội đồng
quốc gia thẩm định SGK để sử dụng chính thức, thống nhất, ổn định trong giảng dạy,
học tập và đánh giá HS ở nhà trường và các cơ sở giáo dục phổ thông khác.
Trong quá trình dạy học, cả giáo viên (GV) và học sinh (HS) đều tương tác
trực tiếp với SGK. Căn cứ vào tác dụng của công cụ giúp HS nhận thức trực tiếp thế

giới hiện thực thì SGK là phương tiện dạy học quan trọng nhất. SGK cung cấp cho
HS hệ thống tri thức và những tình cảm lành mạnh, những phong cách và phương
pháp làm việc hiện đại.
Theo Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông tổng thể trong chương trình
giáo dục phổ thông mới của Bộ Giáo dục và Đào tạo (tháng 7/2015) thì “SGK là tài
liệu chính để dạy và học trong nhà trường, đáp ứng được những tiêu chí do Nhà

17


nước quy định, có tác dụng hướng dẫn hoạt động dạy và hoạt động học, chủ yếu về
nội dung và phương pháp dạy học” [13].
Theo Nguyễn Xuân Lạc, “SGK phải làm được chức năng hướng dẫn HS tự
học để giúp các em tự học tốt môn học ấy ở lớp và cấp học của mình…không làm
được chức năng hướng dẫn HS tự học thì không còn SGK nữa, mà tự nó đã chuyển
thành một loại sách khác như tham khảo, cung cấp kiến thức…” [35].
Như vậy, các quan niệm trên đều cho rằng SGK là cuốn sách trình bày hệ
thống kiến thức cơ sở của một khoa học, phản ánh các tư tưởng văn hóa của mỗi
dân tộc, cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong
chương trình giáo dục của quốc gia. SGK là một trong những yếu tố quyết định nhất
đến chất lượng dạy học, là tài liệu sử dụng chính thức trong giảng dạy và học tập.
SGK là phương tiện dạy học rất cần thiết trong quá trình tổ chức nhận thức cho HS
của GV, giúp định hướng quá trình tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới
và thực hành theo năng lực của người học, góp phần giáo dục nhân cách và bồi
dưỡng tâm hồn cho học sinh.
+ Sách giáo khoa lịch sử
SGK lịch sử (LS) là một phương tiện dạy học có đầy đủ các đặc điểm, chức
năng của SGK nói chung. LS là một môn học có đặc điểm riêng với hệ thống kiến
thức là những sự kiện – hiện tượng LS đã diễn ra trong quá khứ. Do đó, SGK lịch
sử vừa phải có khả năng tái hiện lại bức tranh quá khứ vừa phải cung cấp những

kiến thức LS cơ bản giúp học sinh hiểu rõ bản chất của các sự kiện – hiện tượng LS.
Quan niệm đúng về SGK lịch sử vừa có ý nghĩa lí luận vừa có ý nghĩa thực
tiễn, làm cơ sở cho GV và HS sử dụng, khai thác SGK một cách hiệu quả, góp phần
nâng cao chất lượng dạy học.
“SGK lịch sử là sự cụ thể hóa chương trình môn học, do Nhà nước quy định,
được biên soạn theo chương trình và quán triệt mục tiêu đào tạo đã được xác định,
trong đó phải thể hiện mục đích, yêu cầu, nội dung và phương pháp dạy học” [58, tr.87].
SGK lịch sử vừa cung cấp thông tin khoa học, vừa có tác dụng bồi dưỡng thế
giới quan khoa học và nhân sinh quan tiến bộ cho HS. Nội dung SGK lịch sử được
chọn lọc từ tri thức phong phú của khoa học LS, được sắp xếp theo một cấu trúc
18


phù hợp với quy luật nhận thức của HS và đảm bảo tính khoa học cần thiết. Vì vậy
SGK lịch sử là một phương tiện dạy học LS quan trọng ở trường phổ thông.
SGK lịch sử cung cấp hệ thống kiến thức LS phù hợp với chuẩn kiến thức, kĩ
năng theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc trình bày ở SGK lịch sử đảm
bảo tính khoa học, hiện đại, cập nhật, trực quan, logic và có liên hệ với các môn học
khác. SGK lịch sử thực hiện đồng thời hai chức năng: vừa là phương tiện học tập
của HS, vừa hỗ trợ GV hiểu và thực hiện chương trình dạy học theo quy định.
Vậy SGK lịch sử là sách dùng riêng cho giảng dạy LS. SGK lịch sử trình bày
hệ thống kiến thức cơ sở của bộ môn LS, cụ thể hóa các yêu cầu về nội dung kiến
thức, kĩ năng quy định trong chương trình LS, nó là phương tiện rất cần thiết trong
quá trình tổ chức các hoạt động nhận thức cho HS trong dạy học LS. SGK lịch sử
giúp định hướng quá trình tự học, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh tri thức mới và vận
dụng tri thức đó theo năng lực của người học, góp phần bồi dưỡng các phương
pháp nhận thức khoa học cho HS.
+ Chức năng sách giáo khoa lịch sử
SGK lịch sử là một phương tiện dạy học nên nó mang đầy đủ các chức năng
của một phương tiện dạy học. Cùng với chức năng chung nhất là giáo dục nhân văn

theo các chuẩn mực giá trị đạo đức đã được chấp nhận trong xã hội đương đại, SGK
lịch sử còn có các chức năng chủ yếu: cung cấp kiến thức LS cho HS, chức năng
dạy học và phát triển, tức là hướng dẫn phương pháp học tập, nghiên cứu trên cơ sở
củng cố và phát triển năng lực (NL) tư duy của các em, dẫn dắt HS nghiên cứu kiến
thức, rèn luyện kĩ năng, kích thích hứng thú học tập… Như vậy, SGK lịch sử có
chức năng quan trọng đối với người học và người dạy.
Đối với hoạt động dạy của GV, SGK lịch sử cung cấp các kiến thức LS phù
hợp với yêu cầu về chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục bộ môn. Từ
đó, GV xác định mục tiêu bài học, lựa chọn phương pháp dạy học (PPDH) để tổ
chức cho HS chiếm lĩnh tri thức và rèn luyện các kĩ năng cần thiết. SGK lịch sử
giúp GV định hướng tham khảo các tài liệu cần thiết, đặt câu hỏi, bài tập, gợi ý
nhiệm vụ học tập, giao nhiệm vụ nghiên cứu cho HS. Khi xác định rõ mục tiêu kiến
thức, GV sẽ tổ chức tốt cho HS, mỗi nhóm HS tương tác với kiến thức. Đây cũng
chính là bước quan trọng của việc rèn luyện và phát triển cho học sinh những kĩ
19


năng tự học (TH), tự làm việc với SGK lịch sử cần thiết. Đồng thời SGK lịch sử có
thể giúp GV khơi gợi và phát huy khả năng tự học lịch sử cho HS.
Dựa vào SGK lịch sử, GV có thể xác định được yêu cầu về nội dung kiểm
tra, đánh giá phù hợp mục tiêu và chương trình giáo dục. SGK lịch sử cung cấp kiến
thức theo chuẩn kiến thức, kĩ năng của chương trình giáo dục quốc gia, giúp GV
tham khảo để hiểu và xác định kiến thức của mỗi phần, mỗi chương, mỗi bài học cụ
thể. Do vậy GV có thể biết được yêu cầu về kiến thức và kĩ năng cần có của mỗi
bậc học, cấp học, lớp học, phần học, bài học.
Đối với quá trình tổ chức hoạt động nhận thức cho HS của GV, SGK lịch sử là
phương tiện trung gian cho sự tương tác của thầy và trò với kiến thức có hiệu quả và
quan trọng nhất trong dạy học LS. Thông qua SGK lịch sử, GV định hướng và tổ
chức các hoạt động nhận thức cho HS với nội dung kiến thức sẵn có, còn HS tiến
hành các hoạt động cần thiết để chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kĩ năng, phát huy tính

sáng tạo, kích thích hứng thú học tập, tăng chú ý và tạo động cơ học tập đúng đắn.
Đặc biệt SGK lịch sử còn giúp GV phát triển tối ưu nhân cách của HS – một
mục tiêu quan trọng của giáo dục phổ thông, tức là hình thành, phát triển ở HS khả
năng ứng xử, có hành vi văn minh, giúp các em ý thức được vị trí của mình trong
phạm vi gia đình, nhà trường và xã hội. Hơn nữa dựa vào quá trình làm việc với
SGK lịch sử, GV có phương án phân hóa HS rõ ràng giúp kịp thời điều chỉnh và
giáo dục toàn diện cho HS.
Đối với hoạt động học tập của HS, SGK là nguồn tri thức cơ bản, là phương
tiện có vị trí quan trọng trong học tập. SGK lịch sử giúp HS lĩnh hội kiến thức, kĩ
năng, phương pháp, củng cố điều đã học, đánh giá kiến thức, chức năng tham khảo và
chức năng tích hợp những điều đã học, chức năng giáo dục văn hóa – xã hội. SGK
lịch sử cung cấp cho HS những kiến thức, kĩ năng cơ bản, hiện đại, thiết thực và có
hệ thống theo những quy định trong chương trình của môn học. SGK lịch sử cung cấp
thông tin bao gồm những sự kiện, hiện tượng LS cụ thể, những khái niệm, quy luật…
SGK lịch sử góp phần hình thành và phát triển cho HS phương pháp học tập
tích cực, khả năng TH, tự nghiên cứu môn học. SGK lịch sử là tài liệu quan trọng
nhất có tác dụng hỗ trợ, tạo điều kiện cho HS tự học, tự tiếp thu tri thức LS cần thiết
cho bản thân. SGK lịch sử giúp HS tìm hiểu kiến thức mới, nghiên cứu và nghiền
20


ngẫm những điều chưa hiểu về kiến thức LS. SGK lịch sử giúp hình thành và phát
triển ở HS phương pháp học tập, nghiên cứu khoa học, thu thập và xử lí thông tin…
SGK lịch sử tạo điều kiện cho HS có thể tự kiểm tra, tự đánh giá kiến thức,
kĩ năng, tự khẳng định khả năng của mình đối với môn học. Từ đó HS sẽ có được
biện pháp cụ thể để bổ sung kiến thức và kĩ năng học tập LS cho bản thân. Qua đó,
HS tự điều chỉnh để hoàn thiện về đức, trí, thể, mĩ.
SGK lịch sử giúp HS liên kết những kiến thức, kĩ năng đã học với hành động
của HS trong hoạt động thực tiễn.
SGK lịch sử giúp HS tham khảo, tra cứu thông tin về LS, nó được coi là một

công cụ tin cậy, có tính thuyết phục cao đối với HS. SGK lịch sử giúp HS tìm kiếm
được những thông tin chính xác, phù hợp trình độ, lứa tuổi người học.
Về mặt văn hóa – xã hội: SGK lịch sử góp phần hình thành, phát triển ở HS
khả năng ứng xử, có hành vi văn minh, giúp học ý thức được vị trí của mình trong
phạm vi gia đình, nhà trường và xã hội.
SGK lịch sử còn là đối tượng tương tác tốt tạo môi trường cho HS phát triển
tư duy, phát triển các NL của cá nhân, góp phần bộc lộ khả năng, tính sáng tạo, tình
cảm và cảm xúc của mỗi người.
Đối với HS, SGK lịch sử có chức năng cơ bản là phương tiện dạy học cung
cấp kiến thức LS, thông tin khoa học bộ môn cho HS. SGK lịch sử giúp HS tự tìm
kiến thức mới, tự kiểm tra, đánh giá kiến thức LS của bản thân, tra cứu thông tin,
tạo điều kiện cho HS hiểu chính xác kiến thức LS. Từ đó, hình thành ở các em năng
lực tự học (NLTH), tự làm chủ kiến thức. Bên cạnh đó, nó góp phần phát triển NL
nhận thức và hình thành nhân cách cho HS.
HS có NLTH với SGK lịch sử sẽ góp phần xây dựng một xã hội học tập. Tuy
nhiên, điều này chỉ đạt hiệu quả tốt nhất khi GV nắm được những đặc điểm cơ bản
của SGK lịch sử và biết cách tổ chức cho HS các hoạt động tương tác với SGK một
cách hợp lí. GV phải quan tâm, đánh giá đúng trình độ, khả năng chiếm lĩnh cũng
như nhu cầu học tập của từng HS.
+ Cấu trúc của sách giáo khoa lịch sử
21


Hiện nay vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau về cấu tạo của SGK nói chung,
SGK lịch sử nói riêng. Tổng hợp lại có hai ý kiến cơ bản sau:
Một là, chia nội dung SGK ra hai phần: Kênh chữ và kênh hình. Kênh chữ là
những thông tin thành văn chủ yếu trong SGK dùng để trình bày nội dung môn học,
chỉ dẫn về phương pháp và kiểm tra, đánh giá kết quả học tập. Kênh hình bao gồm
những ảnh chụp, tranh vẽ, đồ thị…
Hai là, chia nội dung SGK thành hai phần: Bài viết và cơ chế sư phạm. Bài

viết là nội dung cơ bản của chương trình được trình bày ngắn gọn trong một số
trang, dành cho một tiết học, là bộ phận chủ yếu mà học sinh cần phải nghiên cứu,
nắm vững. Cơ chế sư phạm chỉ tất cả các thành tố còn lại ngoài bài viết trong SGK,
dành cho một tiết học, bao gồm câu hỏi, bài tập, tài liệu tham khảo, bài đọc thêm,
phần minh họa (tranh, ảnh, bản đồ, các loại đồ dùng trực quan quy ước khác như
niên biểu, sơ đồ, đồ thị…).
1.1.1.2. Tự học và tự học lịch sử
+ Tự học
Việc người học giành lấy tri thức bằng con đường tự khám phá, tự tìm tòi
luôn được các nhà giáo dục trên thế giới quan tâm và đề cao. Bác Hồ đã dạy “Về
cách học phải lấy tự học làm cốt”. Đảng ta cũng luôn khẳng định TH là một biện
pháp đề cao tính chủ động, tích cực để nâng cao chất lượng giáo dục. Liên quan đến
khái niệm TH có rất nhiều định nghĩa khác nhau:
Theo Nguyễn Cảnh Toàn trong cuốn “Quá trình dạy – tự học” thì “Tự học
là tự mình dùng các giác quan để thu nhận thông tin rồi tự mình động não, sử dụng
các năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp và cả cơ bắp khi phải
sử dụng công cụ) cùng với các phẩm chất của mình, rồi động cơ, tình cảm, cả nhân
sinh quan, thế giới quan để chiếm lĩnh cho được một lĩnh vực hiểu biết nào đó, một
số phẩm chất nào đó của nhân loại hay cộng đồng biến chúng thành sở hữu của
mình” [55, tr.68].
Thái Duy Tuyên thì khẳng định “Tự học là hoạt động độc lập chiếm lĩnh
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm LS – xã hội loài người nói chung của
chính bản thân người học” [60, tr.53].

22


Còn Nguyễn Kỳ cho rằng “Tự học là tự đặt mình vào tình huống học, vào vị
trí của người tự nghiên cứu, xử lí các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra cho
mình, nhận thức vấn đề, thu thập xử lí thông tin, tái hiện kiến thức cũ, xây dựng các

giải pháp, giải quyết vấn đề, xử lí tình huống, thử nghiệm các giải pháp” [27].
Qua những định nghĩa trên, có thể hiểu “Tự học là quá trình bao gồm những
hành động mang tính tự giác, tích cực của cá nhân được thúc đẩy bởi những mục
đích, động cơ tương ứng và diễn ra trong những điều kiện, những hoàn cảnh cụ thể
nhằm lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, giúp hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách người học”.
+ Tự học lịch sử
Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” do Phan Ngọc Liên chủ biên đã
nêu “Tự học lịch sử của HS là việc nắm vững kiến thức LS một cách chính xác,
vững chắc và có thể vận dụng một cách thành thạo. Việc tự học phải được tiến hành
với sự hứng thú, say mê, ý thức trách nhiệm, tinh thần lao động cần cù…độc lập
hoàn thành những nhiệm vụ được giao” [43, tr.107].
Trong luận án tiến sĩ của mình, Đoàn Nguyệt Linh đưa ra định nghĩa “Tự
học LS là việc HS chủ động trong việc tiếp thu kiến thức mới, ôn tập kiến thức đã
biết và luôn tìm tòi, khám phá những tri thức LS mới. Đây là hoạt động cơ bản để
đem lại thành công cho quá trình dạy – học và góp phần tạo hứng thú học tập LS
cho HS” [44, tr.30].
Như vậy có thể hiểu “Tự học LS là quá trình HS tự nắm vững kiến thức LS
thông qua những hoạt động mang tính tích cực, tự giác của bản thân và vận dụng
thành thạo kiến thức LS đó”.
1.1.1.3. Năng lực, năng lực tự học
+ Năng lực
Năng lực là một phạm trù từng được bàn đến trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống xã hội. Đã có nhiều định nghĩa khác nhau về
NL:

23


Theo từ điển Tiếng Việt: “NL là khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn

có để thực hiện một hành động nào đó. NL là phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con
người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”. [53, tr. 596]
F.E. Weinert thì “NL là các khả năng và kĩ năng nhận thức vốn có ở cá nhân
hay có thể học được…để giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. NL cũng
hàm chứa trong nó tính sẵn sàng hành động, động cơ, ý chí và trách nhiệm xã hội
để có thể sử dụng một cách thành công và có trách nhiệm các giải pháp…trong
những tình huống thay đổi” [Dẫn theo 12, tr.45].
Khi nói đến NL thì không phải là một thuộc tính tâm lí duy
nhất nào đó (ví dụ như khả năng tri giác, trí nhớ...) mà là sự tổng
hợp các thuộc tính tâm lí cá nhân (sự tổng hợp này không phải
phép cộng của các thuộc tính mà là sự thống nhất hữu cơ, giữa các
thuộc tính tâm lí này diễn ra mối quan hệ tương tác qua lại theo
một hệ thống nhất định và trong đó một thuộc tính nổi lên với tư
cách chủ đạo và những thuộc tính khác giữ vai trò phụ thuộc) đáp
ứng được những yêu cầu hoạt động và đảm bảo hoạt động đó đạt
được kết quả mong muốn.
Tóm lại “NL là khả năng thực hiện thành công hoạt động
trong một bối cảnh nhất định nhờ sự huy động tổng hợp các kiến
thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm
tin, ý chí… NL của cá nhân được đánh giá qua phương thức và khả
năng hoạt động của cá nhân đó khi giải quyết các vấn đề của cuộc
sống” [44, tr.32].
+ Năng lực tự học
Nguyễn Cảnh Toàn khái niệm “Năng lực tự học được hiểu là
một thuộc tính kĩ năng rất phức hợp. Nó bao gồm kĩ năng và kĩ xảo
cần gắn bó với động cơ và thói quen tương ứng, làm cho người học
có thể đáp ứng được những yêu cầu mà công việc đặt ra” [56,
tr.87]. NLTH gồm cách học, kĩ năng học và nội dung học, “NLTH là

24



sự tích hợp tổng thể cách học và kĩ năng tác động đến nội dung
trong hàng loạt tình huống – vấn đề khác nhau” [56, tr.88].
NLTH là khả năng, phẩm chất vốn tồn tại trong mỗi cá nhân.
Tuy nhiên, nó sẽ thay đổi tùy theo hoạt động của mỗi cá nhân
trong từng môi trường văn hóa – xã hội. NLTH là khả năng riêng
biệt của từng cá nhân, nhưng để nó có thể bộc lộ, phát huy những
ưu điểm giúp cá nhân phát triển thì đòi hỏi NLTH đó cần được đào
tạo, rèn luyện trong môi trường học tập cũng như trong các hoạt
động thực tiễn của cuộc sống hàng ngày. Có như vậy mới giúp
người học không ngừng phát triển về các mặt, đồng thời hình
thành thói quen tự học, tự nghiên cứu cho hành trình sau này khi
các em rời khỏi ghế nhà trường.
Như vậy, “NLTH là khả năng xác định được nhiệm vụ học tập
một cách tự giác, chủ động; tự đặt được mục tiêu học tập để đòi
hỏi sự nỗ lực phấn đấu thực hiện; thực hiện các phương pháp học
tập hiệu quả; điều chỉnh những sai sót, hạn chế của bản thân khi
thực hiện các nhiệm vụ học tập thông qua tự đánh giá và lời góp ý
của giáo viên, bạn bè; chủ động tìm kiếm sự hỗ trợ khi gặp khó
khăn trong học tập” [44, tr.34].
1.1.1.4. Năng lực tự học với sách giáo khoa lịch sử và phát
triển năng lực tự học với sách giáo khoa lịch sử
+ Năng lực tự học với sách giáo khoa lịch sử
SGK lịch sử là SGK dành riêng trong giảng dạy LS, trình bày
hệ thống kiến thức cơ sở của bộ môn LS, cụ thể hoá các yêu cầu
về nội dung kiến thức và kĩ năng quy định trong chương trình môn
LS. SGK lịch sử giúp định hướng quá trình tự học, tự chiếm lĩnh tri
thức mới theo NL của người học, góp phần bồi dưỡng các phương
pháp học tập bộ môn cho HS. Để tiếp nhận được kiến thức bộ môn

thông qua quá trình TH với SGK, HS cần sử dụng các thao tác tư
duy thích hợp, những thao tác đó cần được rèn luyện liên tục đến
25


×