Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Nghiên cứu đặc điểm sinh học và biện pháp quản lý sâu đục củ khoai lang nacoleia sp (lepidoptera crambidae) tại huyện bình tân, tỉnh vĩnh long tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (734.21 KB, 28 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Bảo vệ Thực vật
Mã ngành: 9 62 01 12

NGUYỄN THỊ HỒNG LĨNH

NGHIÊN CỨU ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ SÂU ĐỤC CỦ
KHOAI LANG Nacoleia sp. (Lepidoptera:
Crambidae) TẠI HUYỆN BÌNH TÂN
TỈNH VĨNH LONG

Cần Thơ, 2018
1


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

Người hướng dẫn chính: PGS.TS. Lê Văn Vàng
Người hướng dẫn phụ: PGS.TS. Lê Vĩnh Thúc
Luận án được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp trường
Họp tại: (Hội trường …………….., Trường Đại học Cần Thơ).
Vào lúc ….. giờ ….. ngày ….. tháng ….. năm …..

Phản biện 1: ………………………
Phản biện 2: ………………………


Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Trung tâm Học liệu, Trường Đại học Cần Thơ.
Thư viện Quốc gia Việt Nam.
2


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Nguyễn Thị Hồng Lĩnh, Nguyễn Minh
Luân Lê Vĩnh Thúc và Lê Văn Vàng.
2016. Điều tra và khảo sát tình hình gây
hại của sâu đục củ khoai lang (Nacoleia
sp.) tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.
Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần
Thơ. Số chuyên đề: Nông nghiệp (Tập
3): 111-119.
2. Nguyễn Thị Hồng Lĩnh, Nguyễn Minh
Luân, Lê Vĩnh Thúc và Lê Văn Vàng.
2016. Hiệu quả của một số chất xua đuổi
đối với trưởng thành sâu đục củ khoai lang
Nacoleia sp. (Lepidoptera: Crambidae)
trong điều kiện phòng thí nghiệm và nhà
lưới. Tạp chí Khoa học Trường Đại học
Cần Thơ. Số chuyên đề: Nông nghiệp (Tập
3): 107-110.
3. Nguyễn Thị Hồng Lĩnh, Nguyễn Minh
Luân, Nguyễn Ngọc Tuyết, Lê Vĩnh
Thúc và Lê Văn Vàng. 2017. Đặc điểm
hình thái và sinh học và triệu chứng gây
hại của sâu đục củ khoai lang Nacoleia
sp. (Lepidoptera: Crambidae) ở Đồng

Bằng Sông Cửu Long. Tạp chí Bảo vệ
Thực vật. Số tạp chí ISSN 2354 – 0710)
(2017): 71-76.

3


CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
1.1 Tính cấp thiết của đề tài
Sâu đục củ khoai lang (SĐCKL) được ghi nhận vào năm
2012 tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, chỉ riêng ở xã Tân
Thành diện tích khoai lang bị gây hại là 1.260 ha, chiếm 70%
diện tích canh tác khoai lang của xã, với mức độ gây hại làm ảnh
hưởng đến 50% sản lượng củ khoai lang thu hoạch. Sâu đục vào
ăn phần thịt bên ngoài củ làm thành những lổ nhỏ trên bề mặt củ
làm giảm đáng kể giá trị thương phẩm của củ. Vì vậy, nông dân
canh tác khoai lang gọi đối tượng gây hại này là “sâu đục củ”
hoặc “sùng đinh”. Mặc dù sự gây hại của SĐCKL trong thời gian
qua là có ảnh hưởng đến canh tác khoai lang nhưng cho đến nay
vẫn chưa có công trình nghiên cứu về loài sâu hại này, thông tin
về SĐCKL chủ yếu ở dạng tin tức, kiến thức cơ sở cần thiết cho
việc xây dựng các chương trình quản lý tổng hợp bền vững như
phân loại, đặc điểm sinh học và sinh thái của chúng chưa được
thiết lập. Để canh tác khoai lang được bền vững và sản phẩm
khoai lang có thể thâm nhập vào các thị trường khó tính hơn như
Châu Âu và Nhật, bên cạnh việc quản lý tốt dịch hại, trong đó có
SĐCKL, giải pháp quản lý cần phải an toàn, không để lại dư
lượng cũng như đáp ứng được yêu cầu canh tác theo tiêu chuẩn
GAP rất cần thiết.

1.2 Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định tình hình gây hại và mức độ thiệt hại do sâu
đục củ gây ra trên các địa bàn canh tác khoai lang tại Vĩnh Long.
- Xác định một số đặc điểm hình thái, sinh học và định
danh của sâu đục củ khoai lang.
- Xây dựng được biện pháp quản lý sâu đục củ khoai
lang theo hướng an toàn và thân thiện với môi trường.
1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là sâu đục củ khoai lang tại Vĩnh
Long.

4


Đối tượng khảo sát là những hộ nông dân trồng khoai
lang và ruộng bố trí thí nghiệm tại địa phương.
1.4 Giới hạn nghiên cứu
Biện pháp trãi màng phủ bạc trong canh tác khoai lang
giới hạn ở qui mô thí nghiệm chưa thực hiện trên pham vi mô
hình diện rộng.
1.5 Những điểm mới của luận án
Xác định được loài sâu đục củ khoai lang có tên khoa học
là Nacoleia sp. thuộc họ Crambidae, bộ cánh Vảy (Lepidoptera).
Trồng khoai lang sử dụng màng phủ bạc hạn chế sâu
đục củ tấn công và tăng năng suất khoai lang. Sử dụng tinh dầu
sả có tác dụng xua đuổi thành trùng cái Nacoleia sp. và giảm tỷ lệ
gây hại của sâu đục củ khoai lang và có hiệu quả đến 10 ngày sau
khi xử lý. Nấm Metarhizium anisopliae có hiệu quả làm giảm tỷ
lệ gây hại của sâu đục củ khoai lang đến 14 ngày sau khi phun.
Biện pháp quản lý tổng hợp sâu đục củ khoai lang được

xây dựng bao gồm: kỹ thuật canh tác, rải và phun nấm xanh,
trồng sả làm cây xua đuổi, đặt bẫy pheromone giới tính của sùng
khoai lang và sử dụng thuốc trừ sâu sinh học chọn lọc.
1.6 Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
-Ý nghĩa khoa học: Sâu đục củ khoai lang là loài côn
trùng gây hại mới tại các vùng trồng khoai lang ở đồng bằng sông
Cửu Long, đặc biệt tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, do đó
việc nghiên cứu xác định tình hình, mức độ gây hại, đặc điểm
sinh thái, sinh học của sâu đục củ khoai lang có ý nghĩa khoa học
rất lớn đây là cơ sở khoa học cho việc nghiên cứu, phát triển biện
pháp quản lý sâu đục củ khoai lang theo hướng hiệu quả và an
toàn. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu là nền tảng cơ bản cho các
nghiên cứu tiếp theo và là tài liệu quý giá trong công tác giảng
dạy.
- Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp
nông dân trồng khoai phòng trừ sâu đục củ có hiệu quả và an
toàn.

5


CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Bộ Lepidoptera
Côn trùng thuộc bộ cánh vảy được chia thành hai nhóm
gồm bướm (butterfly) và nhóm ngài (moth). Hầu hết các loài
bướm hoạt động vào ban ngày còn các loài ngài hoạt động ban
đêm. Phần lớn cơ thể, chân và cánh mang nhiều lông vảy nhỏ
(Nguyễn Đức Khiêm, 2005; Nguyễn Viết Tùng, 2006). Thuộc
nhóm biến thái hoàn toàn (trứng, ấu trùng, nhộng và thành trùng)

(Scoble, 1992; Nguyễn Viết Tùng, 2006). Các nhà côn trùng
chuyên nghiên cứu về bộ cánh vảy thường dùng các khóa phân
loại dựa trên hệ thống mạch cánh, các mạch cánh thường được ký
hiệu bởi các số: từ số một đến số 8 hoặc số 12, bắt đầu từ phía
sau lên phía trước. Tuy nhiên các con số này sau đó được thay
thế bởi việc sử dụng các tên gọi như: C, Sc, R, SR.... (Nguyễn
Thị Thu Cúc, 2009; Nguyễn Viết Tùng, 2006). Miệng thuộc dạng
vòi hút, hàm trên thoái hóa chỉ còn một chút dấu vết hoặc không
còn, môi dưới không có, râu môi dưới phát triển có ba đốt, râu
hàm dưới nhỏ hoặc không còn, một số ít loài có miệng thoái hóa
và không ăn vào giai đoạn thành trùng (Hà Công Tuấn và ctv.,
2006; Nguyễn Thị Thu Cúc, 2009). Hai cánh bằng chất màng phủ
đầy lông vảy nhỏ. Mạch cánh có mạch dọc và mạch ngang. Sự
phân nhánh của hệ thống mạch cánh tùy từng họ mà khác nhau.
Nhộng thuộc nhộng màng, có 1 số loài nhộng nằm trong kén tơ
(Hà Công Tuấn và ctv., 2006). Ấu trùng bộ cánh vảy có 5 đôi
chân ở các đốt bụng thứ 3, 4, 5, 6 và 10, có 6 mắt đơn ở 2 bên
đầu và một đôi râu rất ngắn (Nguyễn Đức Khiêm, 2005). Mỗi đốt
ngực mang một đôi chân ngực. Đôi chân ở đốt bụng thứ 10
thường được gọi là đôi chân mông. Phía cuối chân bụng có một
đến nhiều móng dạng móc câu, xếp thành từng kiểu khác nhau
tuỳ loài và đây là đặc điểm quan trọng để phân loài (Nguyễn Thị Thu
Cúc, 2009).
2.2 Tổng họ Pyraloidea
Pyraloidea là tổng họ (superfamily) lớn thứ ba trong bộ
cánh vảy với hơn 17.500 loài đã được mô tả với đặc điểm hình

6



thái cơ bản là gốc vòi hút phủ vảy, râu hàm (palpus) phát triển,
màng nhỉ bao gồm các buồng xếp thành cặp trên mặt bụng của
đốt bụng A2 (Powell, 2009), ngài cái mang đặc điểm điển hình
của nhóm Ditrysia với bộ phận sinh dục có hai khe mở, một để
giao phối và một để đẻ trứng (Solis, 2007). Năm 1980
superfamlily Pyrloidea có 8 họ và sau 1980 thêm 1 họ là
Crambidae. Gần đây, dựa trên đặc điểm của màng nhỉ và hình
thái của trưởng thành và ấu trùng các tổng họ Pyraloidea được
phân thành hai họ là Pyralidae và Crambidae (Minet, 1983; Solis,
2007).
2.3 Họ Crambidae (họ phụ Pyraustinae)
Họ phụ Pyraustinae gồm 1400 loài thuộc 239 họ (Solis
and Maes, 2003) với bộ phận sinh dục ngoài của con đực không
mang gnathos, trong khi bộ phận sinh dục ngoài của con cái có
sự hiện diện của bìu phụ (appendix bursae) (Powell, 2009). Bên
cạnh các đặc điểm hình thái chung của họ Crambidae, các loài
trong họ phụ Pyraustinae có vùng đỉnh đầu phủ vảy xù xì, trán
nhẵn, vòi hút phủ vảy; lông cảm xúc trên môi ngắn, mọc thành
chùm và mở rộng theo chiều ngang; râu đầu dạng hình sợi chỉ
(Traenkner et al., 2009). Có ít nhất gồm 3 loài thuộc họ
Pyralidae và 17 loài thuộc họ Crambidae được ghi nhận là đối
tượng gây hại trên nhiều loại cây trồng gồm cây ăn trái, rau màu
và cây công nghiệp tại ĐBSCL, trong đó, các loài sâu đục trái
bưởi (Citripestis sagittiferella Moore), sâu đục trái cây
(Conogethes punctiferalis Gueneé), sâu đục hột xoài (Deanolis
albizonalis Hampson), sâu kéo màng (Hellula undalis F.), sâu
xanh hai sọc trắng (Diaphania indica Saunders), sâu đục trái cà
(Leucinodes orbonalis Gueneé), sâu đục trái đậu (Maruca
testulalis Geyer) được xem là gây hại quan trọng (Lê Văn Vàng
và ctv., 2011; Nguyễn Văn Huỳnh và Lê Thị Sen, 2013; Nguyễn

Thị Thu Cúc, 2015).
2.4 Giống Nacoleia
Giống Nacoleia họ phụ Pyraustinae, họ Crambidae, với
hơn 400 loài đã được mô tả. Theo Kim et al. (2014) có 6 loài
Nacoleia spp. được nhận biết ở Hàn Quốc.

7


2.5 Côn trùng gây hại khoai lang
Theo Talekar (1992) có hơn 270 loài côn trùng và 17
loài nhện được ghi nhận là gây hại trên khoai lang, trong đó các
loài côn trùng gây hại trực tiếp trên củ được xem là đối tượng
quan trọng (Ames et al., 1997). Sự gây hại trên củ khoai được
chia làm hai nhóm: gây hại bên trong và gây hại bên ngoài. Tại
Việt Nam, ở ĐBSCL các loài côn trùng gây hại trên khoai lang
được ghi nhận gồm hai loài miểng kiếng (Cassida circumdata và
Aspidomorpha miliaris), hai loài sâu sừng (Agrius convolvuli và
Acherontia lachesis), một loài sùng khoai lang (Cylas
formicarius) và một loài sâu đục dây khoai lang (Omphisa
anastomosalis) (Lê Văn Vàng và ctv., 2011; Nguyễn Văn Huỳnh
và Lê Thị Sen, 2013). Triệu chứng gây hại trên củ khoai lang của
một số loài côn trùng đã được Reed et al., (2010) tập hợp và mô
tả như Hình 2.1.

Hình 2.1: Các triệu chứng côn trùng gây trên củ khoai lang (Reed
et al., 2010). A: Bọ nhảy Chaetocnema confinus Crotch; B: Bọ
nhảy Systena; C và D: Bọ cánh cứng lông trắng; E: Sùng Trắng;
F: Bọ Hung; G: Sâu khoang; H: Sâu thép; I và J: Bọ dưa;
K: Sùng khoai lang


8


2.6 Các biện pháp quản lý đối với côn trùng gây hại củ khoai
lang
Quản lý dịch hại cây trồng thân thiện môi trường: Từ
những năm 80 của thế kỷ trước đã có rất nhiều chương trình
nghiên cứu và ứng dụng các giải pháp quản lý dịch hại theo
hướng tổng hợp, bền vững, an toàn với sức khỏe của con người
và thân thiện với môi trường được thực hiện và ngày càng được
phát triển nhằm luân phiên hoặc thay thế cho thuốc BVTV hóa
học, sử dụng phối hợp và hài hòa nhiều biện pháp trong các mô
hình quản lý dịch hại IPM, ICM… đã và đang được áp dụng
thành công tại nhiều nước trên thế giới (Nguyễn Thị Thu Cúc và
Lê Văn Vàng, 2016). Để đạt được các mục tiêu đó, những giải
pháp quản lý dịch hại theo hướng tổng hợp được áp dụng như
sau: biện pháp canh tác (Phạm Văn Lầm, 1998; Nguyễn Văn
Toản và ctv., 1997; Dương Minh, 1999); biện pháp sinh học:
nấm M. anisopliae đang được sử dụng rộng rãi để phòng trừ côn
trùng hại trên nhiều loại cây trồng trong đó chủ yếu là lúa, khóm,
khoai lang, cây mắm (rừng ngập mặn),… (Nguyễn Xuân Niệm,
2010). Việc sử dụng các loại nấm ký sinh côn trùng trong phòng
trừ tổng hợp các loài sâu gây hại một cách hợp lý đã mang lại
hiệu quả khá cao (Butt and Copping, 2000). Nghiên cứu và ứng
dụng pheromone giới tính dưới hình thức bẫy tập hợp đã được
tiến hành trên 98 loài côn trùng gây hại, trong đó có 45 loài thuộc
bộ cánh vảy, 39 loài thuộc bộ cánh cứng và 4 loài thuộc các bộ
côn trùng khác (El-Sayed, 2009). Phòng trị côn trùng gây hại
bằng biện pháp quấy rối sự bắt cặp, pheromone giới tính đã được

nghiên cứu và ứng dụng dưới hình thức quấy rối bắt cặp trên 140
loài côn trùng gây hại gồm 121 loài thuộc bộ cánh vảy, 9 loài
thuộc bộ cánh cứng và 10 loài thuộc các bộ côn trùng khác (El
Sayed, 2016). Giải pháp “đẩy-kéo” làm tối đa hóa hiệu quả của
kích thích hành vi của côn trùng gây hại được xem là một công
cụ hữu ích cho các chương trình quản lý dịch hại tổng hợp làm
giảm đầu vào của thuốc trừ sâu (Cook et al., 2007). Nhân tố đẩy
thường là loại cây trồng (cây đẩy) hay vật liệu có tính chất xua
đuổi đối với côn trùng gây hại. Một trong loại cây trồng phổ biến

9


ở ĐBSCL có tính chất xua đuổi côn trùng là cây sả. Các tinh dầu
thiết yếu được ly trích từ sả được xem như các thuốc trừ sâu sinh
học trong quản lý côn trùng gây hại (Tripathi et al., 2009;
Pinheiro et al., 2013). Sự quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) đối với
các loài côn trùng hại khoai lang đã được thực hiện và đã cho
thấy hiệu quả và tiềm năng ứng dụng (Chalfant et al., 1990).
Màng phủ phủ nông nghiệp có hiệu quả trong việc đẩy lùi, làm
giảm mật số côn trùng gây hại như rầy mềm, bù lạch (George and
Kring, 1971; Lamont, 1990), giảm mật số bọ phấn trắng, ruồi đục
lá, bù lạch (Brown et al., 1999 và Scott et al., 1989). Đồng thời,
màng phủ xám bạc góp phần làm giảm tỷ lệ cây nhiễm bệnh do
virus (Trần Thị Ba, 2000).
CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: các thí nghiệm được thực hiện từ tháng 10/2014 đến
tháng 12 /2016.

Địa điểm: các thí nghiệm được thực hiện tại: Phòng thí
nghiệm phòng trừ sinh học, Bộ môn BVTV, khoa Nông Nghiệp
& SHƯD, trường Đại học Cần Thơ và các ruộng khoai lang tại
huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.
3.2 Vật liệu và phương tiện nghiên cứu
- Tinh dầu sả Cymbopogon winterianus nồng độ 30%,
tinh dầu tỏi Allium sativum (tên thương phẩm Dầu tỏi Tuệ Linh,
mỗi viên chứa 50 mg dầu tỏi tía nguyên chất), hợp chất (E)-10pentadecenal (có nguồn gốc được đem về từ Nhật Bản) là chất
xua đối với ngài của sâu đục trái cây Conogethes punctiferalix
(Lepidoptera: Pyralidae),, n-Hexan là loại dùng cho phân tích sắc
ký lỏng cao áp (HPLC) được mua từ công ty Mreck (Đức). Nấm
Trichoderma Tricô-ĐHCT, nấm xanh Metarhizium anisopliae
(MA) với nồng độ 108 bào tử, thuốc gốc Azadirachatin (Agiaza
4.5EC) với nồng độ 0,5%; Emamectin benzoate (Angun 5WG)
với nồng độ 0,1%, Chlorantraniliprole (Dupont Prevathon 5SC
với nồng độ 0,1%, pheromone sùng khoai lang,...

10


Nguồn sâu đục củ khoai lang: Ấu trùng của sâu đục củ
khoai lang được thu từ các ruộng khoai lang bị xâm nhiễm tại
huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long rồi chuyển về Trường Đại học
Cần Thơ. Trong điều kiện phòng thí nghiệm, sâu được thả nuôi
trong các hộp nhựa bên trong có lót một lớp đất mịn và mẫu
khoai lang tươi cho đến khi làm nhộng. Nhộng được chuyển vào
các hộp nhựa có lót giấy thấm, giữ ẩm, đặt ở điều kiện ánh sáng
và nhiệt độ của phòng. Ngài vũ hóa từ các nhộng này sẽ được sử
dụng để tạo nguồn ấu trùng SĐCKL cho các thí nghiệm.
3.3 Nội dung và phương pháp nghiên cứu

3.3.1 Khảo sát một số đặc điểm hình thái và sinh học của
SĐCKL
Xác định tên khoa học của SĐCKL: Tên khoa học của
ngài sâu đục của khoai lang sẽ được xác định dựa vào hình thái
của trưởng thành theo các khóa phân loại họ Crambidae
(Lepidoptera) và các mô tả về giống Nacoleia của Inoue et al.,
(1982), Kim et al., (2014) và Franzmann and Garrett (1978).
Đặc điểm hình thái và sinh học của SĐCKL được khảo
sát trong điều kiện phòng thí nghiệm (nhiệt độ trung bình 28,30C
và ẩm độ tương đối 54,8 %. Sau khi ngài đẻ trứng, 100 trứng từ
các ổ trứng trên giấy thấm sẽ được chuyển vào các hộp nuôi sâu
nhỏ (đường kính 7 cm, chiều cao 3,5 cm) có lót một lớp đất mịn
và đặt một miếng khoai lang tươi. Miếng khoai lang tươi được
thay mới 2 ngày/lần cho đến khi ấu trùng hóa nhộng. Ghi nhận
hình dạng, màu sắc, kích thước, số lượng trứng được đẻ bởi một
trưởng thành cái, tỷ lệ trứng nở và thời gian phát triển ở từng giai
đoạn phát triển của SĐCKL. Ghi nhận các hoạt động giao phối,
đẻ trứng, vị trí đẻ trứng và hoạt động của ấu trùng.
3.3.2 Khảo sát ảnh hưởng của một số chất quấy rối lên sự bắt
cặp và đẻ trứng của ngài SĐCKL
a) Trong điều kiện phòng thí nghiệm
Sự khảo sát được thực hiện theo hình thức hai lựa chọn
(Two choices) bằng một hệ thống đánh giá tương tự như một
khứu giác kế (Olfactometer) (Hình 3.1). Hệ thống gồm 3 hộp

11


nhựa (dung tích 5 kg) được kết nối lại với nhau. Sự khảo sát sẽ
chọn ra được chất quấy rối lên sự bắt cặp và đẻ trứng của ngài

SĐCKL

A
B
A
Hình 3.1: Hệ thống olfactometer. A) buồng chứa mẫu; B) buồng
thả ngài; mũi tên trong hình chỉ hướng đi của không khí.
Cách thực hiện: các giống khoai lang tím Nhật đang ở
giai đoạn mang củ (đường kính củ khoảng 1,5 cm) được thu cả củ
và một phần dây trên đồng ruộng rồi chuyển về trồng trong các
chậu nhựa nhỏ trong phòng thí nghiệm. Sau khi khoai trong chậu
ra lá mới thì đặt chậu khoai vào hai buồng chứa chậu khoai. Chất
xua đuổi được tẩm vào một miếng bông gòn nhỏ rồi đặt vào một
buồng chứa chậu khoai (buồng xử lý), buồng chứa chậu khoai
còn lại là buồng đối chứng (không xử lý chất xua đuổi). Ba cặp
ngài (3 ngài đực và 3 ngài cái) được thả vào buồng thả ngài của
hệ thống. Các chất quấy rối được khảo sát gồm: 1) Nghiệm thức
1: Tinh dầu sả (2 ml) được tẩm vào một miếng bông gòn và đựng
trong một túi nilon được cột miệng lại; 2) Nghiệm thức 2: Dầu tỏi
(2 ml) tương tự như tinh dầu sả; 3) Nghiệm thức 3: Hợp chất (E)10-pentadecenal (5 mg) đặt trong tuýp cao su Aldrich; 4) Đối
chứng (10 µl n-hexane) đặt trong tuýp cao su Aldrich. Mỗi chất
quấy rối tương ứng với một nghiệm thức sẽ được thực hiện với 5
lần lặp lại. Theo dõi sau khi ngài cái trong các buồng đã chết và
ghi nhận số lượng ngài cái di chuyển vào mỗi buồng chứa chậu
khoai lang, số lượng trứng được đẻ và tỷ lệ trứng nở. Ảnh hưởng

12


của tín hiệu hóa học lên tập tính tìm ký chủ của SĐCKL được qui

đổi sang chỉ số EPI (excess proportion index) theo công thức sau
(Hori et al., 2006):
EPI = (nt – nc)/(nt + nc) = 2PT – 1
PT = nt/(nt + nc)
Với:
- nt: tổng số ngài SĐCKL tiến về buồng chứa mẫu xử lý.
- nc: tổng số ngài SĐCKL tiến về buồng đối chứng.
- PT: tỉ lệ ngài SĐCKL tiến về buồng chứa mẫu xử lý.
Nếu:
- EPI > 0: hấp dẫn.
- EPI = 0: không ưa thích.
- EPI < 0: xua đuổi.
b) Ảnh hưởng của khoảng cách đặt túi tinh dầu sả đến sự gây
hại của SĐCKL trong điều kiện ngoài đồng
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức hoàn toàn ngẫu
nhiên, độc lập, một lựa chọn (one choice) với 3 nghiệm thức
(Quản lý bằng tinh dầu sả; thuốc BVTV và không phòng trị) là 3
ruộng riêng biệt. Định kỳ 10 ngày thay mới dầu sả. Khoảng cách
giữa hai túi dầu sả là 6 liếp khoai, tương đương 12 m, ruộng thí
nghiệm treo 12 túi dầu sả cho diện tích ruộng gần 1000 m2 (Hình
3.2: Sơ đồ bố trí thí nghiệm). Trong suốt vụ khoai (thí nghiệm)
không phun thuốc BVTV để phòng trừ sâu hại.
Ghi nhận số củ khoai bị gây hại do sâu đục củ trước và
sau khi bố trí thí nghiệm tại những vị trí treo túi tinh dầu.

Hình 3.2: Sơ đồ bố trí của thí nghiệm

13



Bên cạnh đó, chọn 2 ruộng khoai với thời gian canh tác
tương tự như ruộng quản lý bằng dầu sả để sử dụng làm nghiệm
thức đối chứng (với 1 ruộng tập quán canh tác phòng trị phun
thuốc BVTV theo nông dân làm đối chứng dương và 1 ruộng
canh tác theo nông dân nhưng không phun thuốc BVTV làm đối
chứng âm). Trên 2 ruộng này ghi nhận củ khoai bị gây hại ở các
vị trí tương tự như ruộng quản lý bằng dầu sả.
c) Đánh giá hiệu quả của mô hình trình diễn diện hẹp sử
dụng tinh dầu sả trong quản lý sự gây hại của SĐCKL
Sự đánh giá được thực hiện trên các ruộng khoai lang tại
xã Thành Đông, huyện Bình Tân theo hình thức so sánh như kiểu
đánh giá trên diện rộng.
Cách thực hiện: chọn hai ruộng khoai lang trồng giống
khoai lang Tím Nhật để thí nghiệm, một ruộng xử lý và một
ruộng làm ruộng đối chứng. Trên mỗi ruộng, chọn 1000 m2 để
làm lô thí nghiệm. Trên lô thí nghiệm, tinh dầu sả được đặt ở mật
độ 1,0 túi/4 m2 (2 ml/túi) ở giai đoạn khoai bắt đầu tạo củ và
được thay mới 10 ngày/lần. Trên các lô thí nghiệm hoàn toàn
không sử dụng thuốc trừ sâu trong suốt thời gian thí nghiệm.
Trên lô xử lý và đối chứng chọn 15 điểm ở 5 vị trí (3
điểm/vị trí) theo đường chéo góc, mỗi điểm là 1,0 m luống khoai.
Ở mỗi lần ghi nhận chỉ tiêu, đào và thu toàn bộ số củ trên một
điểm ở mỗi vị trí đưa về phòng thí nghiệm để rửa sạch và ghi
nhận tỷ lệ củ khoai bị sâu đục củ gây hại, số lổ đục/trên củ vào
thời điểm 10, 20 và 30 ngày sau khi đặt chất quấy rối.
3.3.3 Đánh giá hiệu quả của giải pháp trãi màng phủ nông
nghiệp đối với SĐCKL
Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu
nhiên gồm 3 nghiệm thức (NT), 4 lần lặp lại (mỗi lần lặp lại
tương ứng với diện tích là 52,5 m2, tổng diện tích cho thí nghiệm

là 630 m2. Các nghiệm thức trong thí nghiệm gồm: 1) không phủ
màng phủ (MP) (đối chứng), 2) phủ MP xám bạc và 3) phủ MP
nylon trắng. Sơ đồ bố trí thí nghiệm được trình bày trong Hình 3.3.

14


Hình 3.3: Sơ đồ bố trí thí nghiệm của các nghiệm thức trên cây
khoai lang tại huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long, 2014.
Các chỉ tiêu sinh trưởng được ghi nhận vào các thời điểm
14, 28, 40, 110, 118, 124 ngày sau khi trồng và lúc thu hoạch
(136 ngày sau khi trồng). Phân loại củ khoai lang (Theo Dương
Minh, 1999). Tỷ lệ củ bị bệnh, bị sâu, sùng đục củ (Data et al.,
1989)
3.3.4 Xây dựng mô hình áp dụng quy trình quản lý tổng hợp
đối với SĐCKL
Mô hình quản lý tổng hợp SĐCKL được xây dựng tại
huyện Bình Tân tỉnh Vĩnh Long. Quy trình quản lý tổng hợp
SĐCKL được áp dụng trong mô hình với các giải pháp kỹ thuật
gồm:
a) Chuẩn bị đất trồng
Đất được cày xới kỹ, tơi xốp, sạch cỏ và tàn dư thực vật
(nhất là thân, rễ, củ từ vụ trước) và phơi ải, sau đó được lên thành
luống rộng 80-90 cm, cao 40-50 cm, mương rộng 50-60 cm để dễ
thoát nước.
Trong quá trình lên luống kết hợp bón phân hữu cơ (500
kg/1.000 m2) và nấm Trichoderma (1 kg/1.000 m2). Bên cạnh
việc loại bỏ các mầm mống dịch hại còn tồn dư của vụ trước, tạo
điều kiện đất đai thích hợp cho khoai lang phát triển tốt, công tác
chuẩn bị đất kết hợp với bón phân hữu cơ và nấm Trichoderma

cũng nhằm để khống chế bệnh héo dây khoai lang. Đây là đối

15


tượng gây hại đang ngày càng trở nên phổ biến trên các ruộng
khoai lang mới trồng ở huyện Bình Tân, tỉnh Vĩnh Long.
b) Xử lý hom giống
Nhằm loại bỏ nguồn lưu tồn của SĐCKL và hạn chế sự
gây hại của bệnh héo dây, hom giống sẽ được xử lý bằng cách
ngâm trong dung dịch nấm Trichoderma 0,5%.
Cách tiến hành:
- Chuẩn bị dung dịch nấm Trichoderma 0,5%: pha loãng
0,5 kg nấm Trichoderma trong 100 lít nước, thêm vào chất bám
dính và khuấy đều dung dịch.
- Ngâm hom giống vào dung dịch trong 15 phút.
- Để hom giống trong mát cho ráo nước trong 24 giờ
trước đem khi trồng.
c) Xây dựng hệ thống công nghệ sinh thái
Giải pháp công nghệ sinh thái được áp dụng theo hệ
thống kéo (pull) và đẩy (push) nhằm quản lý đồng thời sự gây hại
của SĐCKL và sùng khoai lang.
Cách tiến hành: Trồng sả bên trong diện tích canh tác
của mô hình để làm nhân tố đẩy, xua đuổi SĐCKL, sâu đục dây
khoai lang và sùng khoai lang. Sả sẽ được trồng trên bờ bao ngay
sau khi đặt hom khoai lang và đặt túi tinh dầu sả rải rác trên các
luống khoai (4 m2/túi).
d) Đặt bẫy pheromone giới tính của sùng khoai lang để
làm nhân tố kéo đối với sùng khoai lang. Bẫy sẽ được đặt với mật
số là 120 bẫy/ha, xung quanh chu vi của mô hình ở thời điểm 20

ngày sau khi đặt hom. Bẫy được kiểm tra và thay nước xà phòng
một lần/tuần. Mồi pheromone trong bẫy sẽ được thay mới sau 1,5
tháng (Huỳnh Thị Ngọc Linh, 2012).
e) Xử lý ruộng khoai lang bằng nấm xanh
Nấm xanh sẽ được áp dụng 6 lần: rải ở liều lượng 2
kg/1.000m2 ở thời điểm 10 ngày sau khi đặt hom; phun ở liều
lượng 300 g/1.000m2 (48 lít dung dịch) ở các thời điểm 30, 50,
70, 90 và 110 sau khi đặt hom.
f) Xử lý nông dược

16


Bên cạnh các chế phẩm sinh học, trong những trường
hợp cần thiết (sự bộc phát của sâu bệnh) ruộng khoai lang sẽ
được xử lý bằng các loại nông dược chọn lọc, phù hợp với yêu
cầu của canh tác theo tiêu chuẩn VietGAP.
3.3.5 Đánh giá hiệu quả của mô hình
Hiệu quả (HQ) của mô hình đánh giá bằng hình thức so
sánh với các ruộng canh tác khoai lang theo nông dân ở vùng lân
cận. Trên mô hình và ruộng đối chứng (canh tác theo nông dân)
chọn 5 điểm theo đường chéo gốc, mỗi điểm là 5 m luống khoai
lang. Ở mỗi đợt lấy chỉ tiêu, thu toàn bộ số củ của 1,0 m luống
khoai lang, đưa về phòng thí nghiệm rửa sạch và ghi nhận tỷ lệ
củ bị hại (TLGH) và mức độ gây hại trên củ do SĐCKL. Củ có
triệu chứng gây hại của SĐCKL được ghi nhận là củ bị hại.
3.3.6 Xử lý số liệu
Số liệu ghi nhận được trong các thí nghiệm sẽ được xử
lý và phân tích bằng các chương trình MS Excel và SPSS 16.0
for window.

CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Đặc điểm hình thái và sinh học của SĐCKL
4.1.1 Tên khoa học của SĐCKL
Dựa vào hình thái của trưởng thành theo các khóa phân
loại họ Crambidae (Lepidoptera) và các mô tả về giống Nacoleia
của Inoue et al. (1982), Kim et al. (2014) và Franzmann and
Garrett (1978) đã xác định SĐCKL là loài Nacoleia sp. thuộc họ
Crambidae, bộ cánh vảy (Lepidoptera).
Một số mô tả loài Nacoleia sp.: Trưởng thành có sải
cánh rộng là 13,7 mm và chiều dài thân là 6,2 mm, khi đậu cánh
xòe ra hình bán nguyệt, không xếp dọc theo cơ thể hình mái nhà.
Thành trùng có mắt kép to màu nâu sậm, miệng dạng vòi hút
ngắn có nhiều vảy, bụng màu trắng đục. Mặt trên của thân có
màu đen xám, có vệt màu vàng kem nằm giữa phần bụng và phần
ngực. Con đực có thêm vệt màu vàng kem ở đốt bụng cuối nhưng
ở con cái không có (Hình 4.1).

17



Hình 4.1: Thành trùng Nacoleia sp. Mặt lưng (A, B) và mặt bụng
(C, D)
- Gân R trên cánh trước (Hình 4.9A) phân thành 5 nhánh
(R1 – R5), gân A hợp nhất (2A) đạt đến mép cánh. Cánh sau
(Hình 4.9B) gân Sc kết hợp với gân R tạo thành gân Sc+R 1và Rs
kết thúc gần đỉnh cánh. Gân 1A độc tách biệt, gân 3A và 2A hợp
nhau ở gần gốc cánh (Hình 4.2)


Hình 4.2: Sơ đồ gân cánh của Nacoleia sp. A) cánh trước; B)
cánh sau
Bộ phận sinh dục ngoài của ngài cái, bờ ngoài hậu môn
có nhiều lông mịn dài cong về phía sau gần tương đồng với bộ
phận sinh dục ngoài của loài Nacoleia inouei được mô tả bởi
Kim et al. (2014) (Hình 4.3).

18


Hình 4.3: Bộ phận sinh dục ngoài của ngài cái Nacoleia sp. (A)
và của Nacoleia inouei (B)
4.1.2 Đặc điểm sinh học của SĐCKL
Kết quả khảo sát vòng đời, thời gian và kích thước ở
từng pha phát triển của SĐCKL được trình bày trong Bảng 4.1
SĐCKL có vòng đời dài 42,1 ± 3,99 ngày, trải qua 4 giai đoạn
phát triển gồm trứng, ấu trùng có 4 tuổi, nhộng và thành trùng
(Hình 4.4).
Bảng 4.1: Thời gian và kích thước của các giai đoạn phát triển
của SĐCKL
T: 28,30C và RH: 54,8 %
Thời gian
Số
Kích thước (mm)
(ngày)
mẫu
Pha phát triển
quan
Trung
Biến

Dài
Rộng
sát
bình
thiên
Trứng
30
0,72±0,04
0,57±0,05
3,79±0,41
3- 4
Ấu trùng tuổi 1
30
6,16±0,53
5-7
1,02±0,12
0,14±0,02
Ấu trùng tuổi 2
30
5,53±0,05
5-6
2,60±0,65
0,36±0,03
Ấu trùng tuổi 3
30
5,56±0,76
0,54±0,06
6,50±1,28
5-10
Ấu trùng tuổi 4

30 10,38±1,92
0,96±0,13
7,07±1,02
5-9
Nhộng
30
4,9 ±0,49
1,41±0,15
9,20±1,86 6 -12
Vũ hóa-đẻ trứng

10

Trưởng thành

60

Thân (cái)
(đực)

30

2,90±0,32
6,50±0,03
5,80±0,04

19

2-5



Sải cánh (cái)
30
14,10±0,10
(đực)
13,40±0,07
Vòng đời
42,10±3,99
Một cách tổng quát, ấu trùng của Nacoleia sp. có 13 đốt
thân, 3 đôi chân ngực (chân thật), 5 đôi chân bụng (chân giả).
Bốn đôi chân bụng đầu tiên nằm ở đốt bụng thứ ba đến đốt bụng
thứ sáu, đôi chân bụng thứ 5 nằm ở đốt bụng thứ chín. Ấu trùng
có 4 tuổi, mỗi tuổi của ấu trùng có kích thước và màu sắc không
giống nhau.

Hình 4.4: Các pha phát triển của SĐCKL
A) trứng B) ấu trùng, C) nhộng, và D) thành trùng.
4.1.3 Khả năng đẻ và tỉ lệ trứng nở của trứng SĐCKL
Kết quả ghi nhận thấy mỗi ngày cái đẻ từ 28 - 158 trứng,
trung bình 90,0±46,9 trứng. Tỷ lệ trứng nở trung bình 83,3±2,8%.
Thời gian một ngài cái đẻ trứng 2 - 5 ngày, trung bình 4,10±0,99
ngày.
4.1.4 Tập quán hoạt động
Thành trùng hoạt động về ban đêm, bắt cặp ngay sau khi
vũ hóa và sau đó bắt đầu đẻ trứng. Trứng nở vào ban đêm, ấu
trùng sau khi nở nhả một sợi tơ để buông mình xuống đất, chui
vào trong đất và đục vào củ khoai để ăn phá. Ấu trùng không đục
sâu vào bên trong củ mà chỉ đục đến vành tạo mủ của củ khoai
lang, sau đó trở ra và di chuyển đến vị trí khác của củ để gây hại.
Trong suốt giai đoạn phát triển, một sâu có thể gây hại nhiều củ


20

30 - 54


khoai. Sâu hoá nhộng bên ngoài củ khoai, nhưng thường sâu làm
nhộng trong đất, cách mặt đất độ 3-5 cm, gần rễ khoai.
4.1.5 Triệu chứng gây hại
Triệu chứng gây hại điển hình của SĐCKL là các lổ đục
rải rác trên bề mặt củ, kích thước lổ đục lớn nhỏ khác nhau từ 0,3
mm - 2,0 mm, tùy thuộc vào độ tuổi và kích thước của sâu. Lổ
đục cũ trên củ khoai có hình dạng rất khác biệt so với lổ mới bị
đục, do sự biến đổi trong quá trình lớn lên của củ. Lổ đục thường
cạn chỉ sâu tới phần tạo mủ của củ (khoảng 5 mm).
4.2 Khảo sát ảnh hưởng của một số chất quấy rối lên sự bắt
cặp và đẻ trứng của ngài SĐCKL
4.2.1 Trong điều kiện phòng thí nghiệm
Theo kết quả trình bày trong Bảng 4.2 cho thấy hợp chất
E10-15:Ald có chỉ số EPI (-0,78) và tinh dầu sả có chỉ số EPI âm
(-1,0) trong khi tinh dầu tỏi là (0,67). Như vậy, hợp chất E1015:Ald và tinh dầu sả đã cho hiệu quả xua đuổi đối với thành
trùng Nacoleia sp., còn tinh dầu tỏi đã cho hiệu quả hấp dẫn.
Bảng 4.2: Chỉ số EPI của các chất thử nghiệm đối với trưởng thành
Nacoleia sp.
Nghiệm thức
Chỉ số EPI Kiểu tác động
E10-15:Ald
-0,78 Xua đuổi
Tinh dầu sả
-1,0 Xua đuổi

Tinh dầu tỏi
0, 67 Thu hút
Số liệu trình bày trong Bảng 4.3 cho thấy số lượng trứng
được đẻ ở các nghiệm thức n-Hexane, E10-15 và tinh dầu tỏi
không khác biệt có ý nghĩa giữa buồng xử lý và không xử lý.
Trong khi đó, ở nghiệm thức tinh dầu sả, ngài cái Nacoleia sp.
không đẻ trứng ở buồng xử lý và số lượng trứng được đẻ ở buồng
không xử lý (62 trứng) là cao hơn có ý nghĩa so với buồng xử lý.
Kết quả này cho thấy tinh dầu sả có ảnh hưởng bất lợi lên sự đẻ
trứng của trưởng thành Nacoleia sp.

21


Bảng 4.3: Số trứng đẻ ở buồng xử lý và buồng đối chứng của các
nghiệm thức
Hạng mục

Số lượng trứng đẻ*
n-Hexane
E10-15:Ald
Sả
Tỏi
Buồng xử lý
13,67
38,67
0
66
Đối chứng
65,67

48,33
62
49
Giá trị t
3,997
0,645
7,892
0,601
T-test
ns
ns
*
ns
* Trung bình qui đổi trở lại của log10 (số
trứng/buồng+1), ns: không khác biệt, ý nghĩa (*) có khác biệt ở
mức ý nghĩa 5% theo phép thử T-test.
Ở khía cạnh khác, tỷ lệ trứng nở trên các nghiệm thức
xử lý cũng đã được ghi nhận và trình bày trong Bảng 4.4. Tỷ lệ
trứng nở ở các nghiệm thức n-hexane, E10-15:Ald và tinh dầu tỏi
là không khác biệt có ý nghĩa giữa buồng xử lý và không xử lý. Ở
nghiệm thức tinh dầu sả, do ngài cái không đẻ trứng ở buồng xử
lý nên không so sánh được. Như vậy, kết quả nghiên cứu tinh dầu
sả đã cho hiệu quả xua đuổi và có ảnh hưởng bất lợi lên sự đẻ
trứng đối với thành trùng Nacoleia sp.
Bảng 4.4: Tỷ lệ trứng nở ở buồng xử lý và buồng đối chứng của các
nghiệm thức
Hạng mục
Buồng xử lý
Buồng đối chứng
Giá trị t

T-test

Tỷ lệ trứng nở trung bình* (%)
n-hexane
E10-15
Sả

Tỏi

27,27
63,03
1,70

57,1
78,8
0,69

0,0
75,2
-

61,93
43,33
0,70

ns

ns

-


ns

* Trong cùng 1 cột (ns) không khác biệt; (*) có khác biệt ở mức
ý nghĩa 5% theo phép thử T-test.
4.2.2 Ảnh hưởng của khoảng cách đặt túi tinh dầu sả đến sự
gây hại của SĐCKL Nacoleia sp. trong điều kiện ngoài đồng
Kết quả thí nghiệm ở Bảng 4.5 cho thấy, 6 khoảng cách
khảo sát để đánh giá ảnh hưởng của dầu sả đến đến sự gây hại

22


của Nacoleia sp. trong điều kiện ngoài đồng cho kết quả khác
biệt ý nghĩa thống kê. Kết quả này cho thấy, túi plastic quay kéo
chứa 2 ml tinh dầu sả mỗi 10 ngày thay mới một lần có hiệu quả
làm giảm sự gây hại của Nacoleia sp. ở các khoảng cách trên 2
m, trên 4 m, dưới 2 m, dưới 4 m và chưa có có hiệu quả làm giảm
sự gây hại của Nacoleia sp. ở khoảng cách trên 6 m và dưới 6 m
so với vị trí treo dầu sả.
Bảng 4.5: Ảnh hưởng của khoảng cách đặt túi tinh dầu sả đến sự
gây hại của SĐCKL Nacoleia sp. trong điều kiện ngoài đồng
Số củ khoai bị Nacoleia sp. gây hại
Khoảng cách
sau khi treo túi plastic dầu sả
so với túi
plastic dầu
Lần 1
Lần 2
Lần 3

Lần 4
Lần 5
sả
Cách trên 2 m
0,67 b
0,0 b
0,0 c
0,0 b
0,33 b
Cách dưới 2 m
1,0 ab
0,33ab
0,0 c
0,33 b
0,33 b
Cách trên 4 m
1,33ab
1,0 ab
0,33 c
1,33 a 1,67 ab
Cách dưới 4 m
1,33ab
1,3 ab
1,3 ab
1,67 a
0,67 b
Cách trên 6 m
2,0 a
1,67 a
1,67 a

2,0 a
2,67 a
Cách dưới 6 m
2,0 a
1,67 a
0,67bc
1,33 a 1,33 ab
Mức ý nghĩa
*
*
*
*
*
CV (%)
57,3
48,27
27,36
39,13
75,04
Ghi chú: (*): Khác biệt mức ý nghĩa 5%; Trong cùng một cột các
trung bình theo sau có cùng chữ cái giống nhau thì không khác
biệt qua kiểm định Ducan. Số liệu được chuyển đổi sang
Log(X+0,5) trước khi phân tích thống kê.
4.2.3 Đánh giá hiệu quả của mô hình trình diễn diện hẹp sử
dụng tinh dầu sả trong quản lý sự gây hại của SĐCKL
Kết quả trình bày trong Bảng 4.6 cho thấy ở thời điểm
trước xử lý thì tỷ lệ trung bình củ bị sâu đục ở ruộng thí nghiệm
xử lý tinh dầu sả là 4,48 % và ruộng đối chứng là 5,6 % không
khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ củ bị sâu đục củ vào thời
điểm 10 ngày sau xử lý ở ruộng xử lý tinh dầu sả là 0%, trong khi

ở ruộng đối chứng là 41,6 % khác biệt có ý nghĩa thống kê.

23

Lần 6
1,0 b
1,0 b
4,67
ab
5,0 a
6,0 a
8,0 a
*
47,84


Bảng 4.6: Ảnh hưởng của các chất xua đuổi lên tỷ lệ củ bị sâu
Nacoleia sp.
Nghiệm thức

Tỷ lệ % củ bị sâu đục củ ở các ngày sau khi xử
lý*Trước xử lý
10
20
30

Tinh dầu sả

4,8 (33)


Đối chứng

5,6 (50)

Giá trị t
T-test

5,4 (55)

0 (44)

18,5 (59)

1,9 (41)

0,108

0 (55)
41,6
(51)
3,959

1,144

1,0

Ns

*


ns

ns

* Các giá trị trong cùng một cột với (ns) không khác biệt; (*) có
khác biệt ở mức ý nghĩa 5% theo phép thử T-test. Số trong ngoặc
đơn ()biểu diễn số củ khoai quan sát.
4.3 Hiệu quả của giải pháp quản lý SĐCKL bằng màng phủ
4.3.1 Ảnh hưởng của các loại màng phủ lên tỷ lệ gây hại của
SĐCKL
Kết quả Hình 4.5 cho thấy tỷ lệ SĐCKL ở nghiệm thức đối
chứng là cao nhất ở tất cả các giai đoạn, còn nghiệm thức màng
phủ nylon trắng thì không thấy xuất hiện SĐCKL ở giai đoạn từ
103 ngày đến 125 ngày, tuy nhiên đến giai đoạn thu hoạch 136
ngày thì tỷ lệ SĐCKL của nghiệm thức màng phủ nylon trắng
(5,45) cao hơn màng phủ xám bạc (4,78). Còn đối với nghiệm
thức màng phủ xám bạc so với đối chứng thì có tỷ lệ SĐCKL
thấp hơn từ đầu vụ đến cuối vụ, đặc biệt ở giai đoạn thu hoạch thì
có tỷ lệ SĐCKL thấp nhất (4,78) so với hai nghiệm thức còn lại.

24


Hình 4.5: Tỷ lệ sâu đục củ gây hại trên khoai lang tại các thời điểm
quan sát khi sử dụng màng phủ khác nhau tại huyện Bình Tân, tỉnh
Vĩnh Long, 2014
4.3.2 Năng suất
Kết quả trình bày ở Hình 4.6 cho thấy năng suất thu
được từ nghiệm thức sử dụng màng phủ xám bạc cao hơn so
với nghiệm thức sử dụng màng phủ nylon trong và nghiệm

thức đối chứng không sử dụng màng phủ.

Hình 4.6: Năng suất thu được từ thí nghiệm trên cây khoai lang

25


×