Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

GIẢI PHÁP VƯỢT RÀO VIỆC MỸ ÁP DỤNG THUẾ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI NGÀNH THÉP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.6 KB, 23 trang )

Trường Đại học Thương mại
Khoa Kinh tế và Kinh doanh quốc tế
===***===

BÀI THẢO LUẬN
ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP VƯỢT RÀO VIỆC MỸ ÁP DỤNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ ĐỐI VỚI NGÀNH THÉP XUẤT
KHẨU CỦA VIỆT NAM

Nhóm thực hiện: 3
Mã lớp học phần: 1801FECO1811


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập và tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế
là xu thế tất yếu với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế của mình. Đối với các
nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là con đường tốt nhất để rút
ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước khác và có điều kiện phát huy hơn nữa những
lợi thế so sánh của mình trong phân công lao động vàhợp tác quốc tế. Nhận thức được
điều đó, Việt Nam đã thực hiện đường lối chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
Chúng ta đã thiết lập quan hệ thương mại - đầu tư với nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ,
tham gia vào nhiều tổ chức hợp tác kinh tế, thương mại của thế giới và khu vực, đã ký kết
nhiều hiệp định tự do thương mại song phương, đa phương (FTA Việt Nam - Hàn Quốc,
AFTA, FTA Việt Nam - EU, TPP…) và đang đàm phán một số hiệp định khác (RCEP…).
Điều này giúp kim ngạch thương mại của Việt Nam có những bước tăng trưởng vượt bậc,
đóng góp đáng kể vào GDP cả nước. Việc gia nhập WTO và hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế quốc tế đã mở ra cho các doanh nghiệp Việt Nam cơ hội lớn để xâm nhập những


thị trường mới, rộng lớn và hấp dẫn, đặc biệt là thị trường Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ đồng thời
cũng là thị trường đầy rủi ro, với các loại rào cản khác nhau, trong đó đặc biệt đáng chú ý
là biện pháp chống bán phá giá (CBPG). Theo thống kê của WTO, Mỹ nằm trong nhóm
các nước sử dụng nhiều nhất công cụ này đối với hàng hóa nước ngoài nhập khẩu. Đối
với nhiều doanh nghiệp Việt Nam, kiện CBPG ở thị trường này không chỉ còn là nguy cơ.
Tính từ vụ điều tra CBPG đầu tiên của Mỹ đối với hàng hóa Việt Nam năm 2002, đến nay
chúng ta đã vướng phải nhiều vụ điều tra CBPG ở Mỹ, trong đó có những vụ rất lớn, ảnh
hưởng nghiêm trọng đến các doanh nghiệp xuất khẩu, nhà cung cấp và người lao động ,
trong đó điển hình có thể kể đến ngành hàng xuất khẩu Thép của nước ta. Rõ ràng là các
biện pháp CBPG là một thách thức của tự do hoá thương mại nói chung và là một thực tế
khó phủ nhận ở thị trường Mỹ nói riêng. Tính công bằng, hợp lý của các kết quả điều tra
và các biện pháp CBPG, chống trợ cấp sẽ còn là câu chuyện dài, gây nhiều tranh cãi, nhất
là trong bối cảnh Việt Nam vẫn chưa được Mỹ công nhận là nước có nền kinh tế thị
trường. Trước mắt, các doanh nghiệp vẫn phải chấp nhận “sống chung” với nguy cơ kiện
CBPG khi xuất khẩu sang thị trường này. Nghiên cứu thực tiễn việc sử dụng công cụ
CBPG của Mỹ giúp các doanh nghiệp Việt Nam lường trước được những tác động, ảnh
hưởng đến hàng hóa xuất khẩu của mình, từ đó có biện pháp đối phó chủ động hơn. Vì
vậy, chúng tôi thực hiện đề tài thảo luận "Giải pháp vượt rào việc Mỹ áp dụng thuế
chống bán phá giá đối với ngành thép xuất khẩu của Việt Nam" để tìm ra những giải
pháp phù hợp nhất giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam xuất khẩu sang
thị trường Mỹ hạn chế được những ảnh hưởng tiêu cực từ chính sách CBPG


I: Cơ sở lý luận về rào cản thuế chống bán phá giá
1. Khái niệm rào cản thương mại
1.1 Sự ra đời của rào cản thương mại
Ban đầu, khi cung hàng hóa chưa đáp ứng đủ nhu cầu, thương mại quốc tế diễn ra
tự do, các rào cản hầu như không tồn tại. Khi cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra, cung
hàng hóa lớn hơn cầu hàng hóa thì bắt đầu xuất hiện các rào cản thương mại nhằm hạn
chế nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước.

1.2 Khái niệm
Thuật ngữ “rào cản” hay “hàng rào” trong thương mại chỉ được đề cập chính thức
trong một hiệp định của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đó là Hiệp định về các
hàng rào kỹ thuật đối với Thương mại ( Agreement on Technical Barries to Trade – TBT).
Tuy nhiên trong hiệp định này, khái niệm về hàng rào cũng không được rõ ràng mà chỉ
thừa nhận rằng “ không một nước nào có thể bị ngăn cản tiến hành các biện pháp cần
thiết để đảm bảo chất lượng hàng hóa xuất khẩu của mình, hoặc để bảo vệ cuộc sống hay
sức khỏe con người, động thực vật, bảo vệ môi trường hoặc để ngăn ngừa các hoạt động
có mục đích phá hoại khác, ở mức độ nhà nước đó cho là phù hợp và phải đảm bảo rằng
các biện pháp này không được tiến hành với cách thức có thể gây ra phân biệt đối xử một
cách tùy tiện hay không thể biện minh được giữa các nước, trong điều kiện giống nhau,
hoặc tạo ra các hạn chế trá hình đối với thương mại quốc tế, hay nói cách khác là phải
phù hợp với các quy định trong hiệp định này”. Trong các vòng đàm phán song phương,
đa phương và vòng đàm phán Uruguay đều xuất hiện các rào cản thương mại và hầu hết
các lĩnh vực, với các biện pháp rất đa dạng và tinh vi.
Cho tới nay, có thể nói rằng thuật ngữ “ rào cản” được dùng khá phổ biến, tuy
nhiên nó lại không phải là một thuật ngữ chính thống. Trong các văn bản của WTO thuật
ngữ này chỉ được sử dụng để đặt tên cho một hiệp định, đó là “ Hiệp định về hàng ào kỹ
thuật đối với thương mại” nhưng trong nội dung của Hiệp định thì thuật ngữ này cũng
không hề được nhắc lại. Vì vậy, chúng ta có thể hiểu một cách chung nhất về rào cản
thương mại như sau: Rào cản thương mại là bất kỳ biện pháp hay hành động nào có tác
động gây cản trở đối với các hoạt động thương mại quốc tế.
2. Khái niệm hiện tượng bán phá giá
2.1: Khái niệm hiện tượng bán phá giá
Trong Thương mại quốc tế, một sản phẩm được coi là bán phá giá nếu giá xuất
khẩu thấp hơn giá của sản phẩm tương tự ở nước xuất khẩu trong điều kiện thương mại


thông thường, hoặc nếu nó được bán với giá thấp hơn chi phí để sản xuất ra nó. Một sản
phẩm hàng hóa được coi là nhập khẩu với mức thấp hơn mức trị giá thông thường nếu giá

bán của sản phẩm đó thấp hơn.
Điều VI. 1 của GATT coi bán phá giá là việc “sản phẩm của một nước được đưa
vào kinh doanh trên thị trường của một nước khác với giá thấp hơn giá trị thông thường
của sản phẩm”[2]. Cụ thể hơn, điều 2.1 của Hiệp định ADP định nghĩa: “một sản phẩm bị
coi là bán phá giá... nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước này
sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương tự được
tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường”.
Như vậy, cốt lõi của việc xác định bán phá giá là sự so sánh biên độ chênh lệch
giữa giá xuất khẩu với giá thông thường của sản phẩm tại nước xuất khẩu. Việc tiến hành
so sánh giữa giá xuất khẩu và giá thông thường phải được tiến hành đối với cùng loại sản
phẩm hoặc đối với sản phẩm tương tự.
Giá có thể so sánh trong tiến trình thương mại thông thường với một sản phẩm
tương tự nhằm mục đích tiêu dùng tại thị trường một quốc gia khác (thông thường là giá
tại nơi xuất khẩu.); giá bán của sản phẩm trên thị trường nước thứ ba; hay giá thành sản
xuất ra sản phẩm tại nơi xuất xứ có cộng thêm một chi phí hợp lý bao gồm các khoản chi
phí vận chuyển, chi phí lưu kho, tiền công bán hàng và lợi nhuận.
2.2: Tác động bán phá giá đối với thương mại quốc tế
Hành vi bán phá giá đã phá vỡ sự cân bằng của thị trường hàng liên quan tại nước
nhập khẩu. Tuy nhiên, bán phá giá sẽ có ảnh hưởng tích cực nhất đến người tiêu dùng của
quốc gia nhập khẩu. Đánh giá hành vi bán phá giá trong sự cân bằng giữa những lợi ích
và thiệt hại mà nó mang lại cho nền kinh tế để tránh việc ngăn cản một cách tràn lan đối
với hàng hóa nhập khẩu được bán với giá rẻ.
Bán phá giá trong pháp luật thương mại quốc tế.
Trong hệ thống thương mại WTO và trong luật thương mại của hầu hết các quốc
gia trên thế giới, bán phá giá về cơ bản không phải là hành vi bất hợp pháp hoàn toàn.
GATT chỉ yêu cầu ngăn cản những hành vi bán phá giá gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt
hại về vật chất cho một ngành công nghiệp hay làm chậm trễ sự thành lập của một ngành
công nghiệp nội địa. Như vậy, quốc gia nhập khẩu sẽ chỉ áp dụng các biện pháp thương
mại chống ảnh hưởng bán phá giá khi hành vi này gây thiệt hại ở một mức độ nhất định
đối với các doanh nghiệp nội địa.

3: Các hình thức bán phá giá


Bán phá giá gồm 2 loại:
Bán phá giá chớp nhoáng:
Bán phá giá chớp nhoáng (bán phá giá độc quyền) là hình thức bán giá xuất khẩu
tạm thời thấp hơn giá nội địa để tăng sức cạnh tranh, loại trừ đối thủ. Khi đã đạt được
mục đích thì mức giá sẽ được nâng lên ở mức giá độc quyền. phá giá độc quyền là hành
vi vi phậm thô bạo nguyên tắc cạnh tranh vì bản chất của nó là hành vi nhằm độc quyền
hóa. Phá giá độc quyền làm hủy hoại cạnh tranh và là nguyên nhân trực tiếp gây ra những
bất ổn về kinh tế.
Bán phá giá độc quyền gồm 2 loại:
- Phá giá chiến lược là hành vi bán phá giá nằm trong một chiến lược cạnh tranh
tổng thể của nước xuất khẩu.
- Phá giá cướp đoạt là hành vi định giá thấp nhừm mục đích đẩy đối thủ cạnh tranh
vào tình tạng phá sản để giành vị trí độc quyền tại nước nhập khẩu.
Bán phá giá không độc quyền:
Biểu hiện ở các loại hình thức:
- Bán phá giá bền vững hay còn gọi là là chính sách phan biệt về giá cả.
- Bán phá giá không thường xuyên (phá giá chu kì) là bán giá xuất khẩu thấp để
tránh rủi ro của thị trường thế giới và giải quyết vấn đề khó khăn về tài chính mà công ty
đang cần giải quyết gấp. đây là hình thức phá giá mà nhiều doanh nghiệp sử dụng nhằm
giải quyết hậu quả của việc sản xuát quá dư thừa loại hàng hóa đó.
Ngoài ra, trên thực tế còn có 2 kiểu hình thức bán phá giá khác:
- Bán phá giá đảo ngược (bán phá giá mở rộng thị trường) là định giá đối với thị
trường nước ngoài cao hơn so với trong nước. đây là việc nhà sản xuất bán hàng hóa với
giá cao ở trong nước nhằm hỗ trợ cho giá thấp ở thị trường xuất khẩu.
- Bán phá giá qua lại: bán phá giá qua lại tạo ra sự chênh lệch về giá, từ đó thương
mại quốc tế xảy ra.
3: Khái niệm thuế chống bán phá giá

Thuế chống bán phá giá là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập thông thường,
đánh vào sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước nhập khẩu. Đây là loại thuế nhằm


chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt hại do việc hàng nhập khẩu bán phá giá
gây ra. Trên thực tế, thuế chống bán phá giá được nhiều nước sử dụng như một hình thức
"bảo hộ hợp pháp" đối với sản xuất nội địa của mình. Để ngăn chặn hiện tượng lạm dụng
biện pháp này, các nước thành viên WTO đã cùng thoả thuận về các quy định bắt buộc
phải tuân thủ liên quan đến việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá, tập trung trong
một Hiệp định về chống bán phá giá của WTO - Hiệp định ADA.
Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, nước nhập khẩu phải chứng minh
được sự tồn tại của hành vi bán phá giá hàng nhập khẩu vào thị trường của mình; hành vi
bán phá giá đó gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại vật chất cho ngành công nghiệp
trong nước.
5: Mục đích của thuế chống bán phá giá
Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ nghiêm trọng
nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của GATT trước đây và WTO
hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp có tính trả đũa, tự vệ thương mại.
Trong các biện pháp hạn chế thương mại như áp dụng hạn ngạch, hạn chế số lượng, tăng
thuế, các biện pháp hạn chế có tính kỹ thuật, phi thuế quan khác, để chống lại hành vi bán
phá giá, các quốc gia chỉ có quyền áp dụng biện pháp tăng thuế nhập khẩu. Nói cách
khác, quốc gia bị thiệt hại chỉ có thể áp dụng thuế bổ sung (thuế chống bán phá giá) đối
với hàng hóa nhập khẩu bị xác định là bán phá giá. Các biện pháp hạn chế số lượng hay
các biện pháp hạn chế phi thuế quan khác không được coi là hợp pháp. Quyền áp dụng
thuế bán phá giá của quốc gia bị thiệt hại thực chất là quyền có tính ngoại lệ đối với hai
nguyên tắc trong thương mại đa biên: Thứ nhất, đó là ngoại lệ đối với nguyên tắc Đối xử
tối huệ quốc (MFN). Thuế chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với hàng hóa cụ thể của
quốc gia xuất khẩu cụ thể, đã bị xác định là đối tượng của hành vi bán phá giá;
Thứ hai, áp dụng thuế bán phá giá cũng là ngoại lệ đối với nguyên tắc tôn trọng các cam
kết về cắt giảm thuế. Quốc gia bị thiệt hại không có nghĩa vụ tôn trọng giữ nguyên mức

thuế đã cam kết đối với các hàng hóa nhập khẩu là đối tượng của hành vi bán phá giá bị
cấm.
Việc xác định mức thuế chống bán phá giá phải dựa trên trên biên độ phá giá của
sản phẩm có liên quan. Biên độ phá giá chính là sự chênh lệch về giá giữa giá xuất khẩu
đang xem xét với giá thông thường của sản phẩm tại thị trường nội địa, hoặc giá xuất
khẩu sang nước thứ ba, hoặc giá cấu thành của sản phẩm. Về bản chất, thuế chống bán
phá giá là khoản thuế bổ sung, đánh vào hàng nhập khẩu nhằm triệt tiêu tác dụng hay
ngăn ngừa việc bán phá giá đối với sản phẩm đó (điều VI.2 của GATT). Mục đích cuối
cùng của thuế chống bán phá giá là tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng giữa sản phẩm
trong nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống lại các hành vi cạnh
tranh quốc tế không lành mạnh. Cũng chính vì mục đích này mà việc áp dụng mức thuế


chống bán phá giá được yêu cầu là không vượt quá biên độ bán phá giá, nhằm tránh tình
trạng lạm dụng thuế chống bán phá giá làm công cụ bảo hộ bất hợp pháp thị trường nội
địa.
4: Một số biện pháp chống bán phá
Hiệp định GATT 1947 không có các quy định về thủ tục áp dụng biện pháp chống
bán phá giá. Hiệp định mặc nhiên thừa nhận quyền tự do của các quốc gia trong việc xây
dựng các thủ tục để xác định hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán phá
giá đối với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình. Tình trạng này là nguyên nhân chủ yếu
để nhiều nước lợi dụng áp dụng pháp luật chống bán phá giá như là công cụ thực hiện
chính sách bảo hộ thái quá thị trường nội địa. Hiệp định ADP đã tiến một bước dài so với
GATT 1947 về điểm này. Bên cạnh việc đưa ra những tiêu chí cụ thể hơn để xác định
hành vi bán phá giá, có thể nói Hiệp định ADP đã có bước tiến dài trong việc hài hòa hóa
hoạt động tố tụng của các quốc gia từ việc điều tra xác định bán phá giá, đến việc áp dụng
và kiểm soát các biện pháp chống bán phá giá.
Để có thể áp dụng biện pháp chống bán phá giá, Hiệp định ADP yêu cầu nước
nhập khẩu hàng hóa phải tiến hành điều tra. Hoạt động điều tra này nhằm mục đích xác
định “có sự tồn tại việc bán phá giá không cũng như xác định mức độ và hậu quả của

trường hợp bị nghi ngờ là bán phá giá” (điều 5.1 Hiệp định ADP). Cuộc điều tra này
được tiến hành trên cơ sở đơn yêu cầu của ngành sản xuất trong nước hoặc của người đại
diện của ngành sản xuất trong nước chịu thiệt hại do hành vi bán phá giá gây ra. Đơn yêu
cầu phải đưa ra các bằng chứng về việc bán phá giá, sự tổn hại do hành vi đó gây ra, mối
quan hệ nhân quả giữa việc bán phá giá hàng nhập khẩu và thiệt hại mà ngành sản xuất
trong nước phải gánh chịu (điều 5.2 Hiệp định ADP). Ngoài ra, để đảm bảo việc điều tra
và áp dụng biện pháp chống bán phá giá được ủng hộ bởi số lớn các nhà sản xuất nội địa,
Hiệp định ADP còn đề ra hai tiêu chí bổ sung khác: Thứ nhất, đơn yêu cầu chỉ được coi là
đại diện cho ngành sản xuất trong nước nếu như được ủng hộ bởi các nhà sản xuất chiếm
tối thiểu 50% tổng sản lượng của sản phẩm tương tự làm bởi các nhà sản xuất đã bày tỏ ý
kiến phản đối hoặc tán thành đơn yêu cầu đó. Thứ hai, cuộc điều tra chỉ được tiến hành
khi các nhà sản xuất ủng hộ đơn yêu cầu chiếm ít nhất 12% tổng sản lượng của sản phẩm
tương tự được ngành sản xuất nội địa làm ra (điều 5.4 Hiệp định ADP). Quá trình điều tra
bán phá giá cũng phải tuân thủ những điều kiện cụ thể, được quy định trong Hiệp định
ADP: về thời hạn, một cuộc điều tra không kéo dài hơn 12 tháng. Trong trường hợp đặc
biệt, thời hạn này cũng không thể vượt quá 18 tháng; Hoạt động điều tra phải đảm bảo
quyền được trình bày ý kiến, quyền cung cấp chứng cứ của các bên đương sự; Cơ quan
tiến hành điều tra có thể tham khảo ý kiến của các bên có liên quan, bao gồm cả thông tin
và ý kiến từ phía người tiêu dùng.


Trong quá trình điều tra, nếu đã có kết luận ban đầu về việc bán phá giá và thiệt
hại do việc bán phá giá mang lại, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp tạm thời.
Các biện pháp tạm thời bao gồm áp đặt thuế chống phá giá tạm thời hoặc yêu cầu đảm
bảo bằng tiền mặt tương đương với mức thuế chống bán phá giá dự tính. Các biện pháp
này nhằm mục đích ngăn chặn các tổn hại diễn ra trong quá trình điều tra. Các biện pháp
tạm thời chỉ được áp dụng sớm nhất là 60 ngày kể từ khi cuộc điều tra chống bán phá giá
bắt đầu và tồn tại không quá 4 tháng. Trong trường hợp đặc biệt, biện pháp tạm thời có
thể được kéo dài đến 9 tháng (điều 7 Hiệp định ADP).
Hoạt động điều tra có thể bị đình chỉ hoặc chấm dứt mà không cần áp dụng bất cứ

biện pháp tạm thời hay thuế chống phá giá nếu các nhà xuất khẩu đưa ra cam kết về giá.
Đây là trường hợp nhà xuất khẩu cam kết tăng giá hàng xuất khẩu, xóa đi khoản chênh
lệch về giá tương đương với biên độ phá giá được sơ bộ xác định. Việc đưa ra cam kết về
giá của nhà xuất khẩu chỉ được chấp nhận khi cơ quan điều tra thấy rằng thiệt hại đối với
ngành sản xuất trong nước đã được loại bỏ và bản thân hành động cam kết về giá cũng
không đương nhiên chấm dứt hoạt động điều tra.
Theo quy định của Hiệp định ADP, cũng như thực tiễn của tất cả các nước, hoạt
động điều tra, áp dụng các biện pháp tạm thời và thuế chống bán phá giá thuộc thẩm
quyền của cơ quan hành pháp. Để đảm bảo tính công bằng của các hoạt động này, bên
cạnh việc quy định vấn đề chống bán phá giá có thể trở thành đối tượng của tranh chấp
thương mại theo thủ tục của WTO nói chung, Hiệp định ADP còn quy định tại điều 13 về
rà soát tư pháp. Theo quy định của Điều này, các quốc gia thành viên có nghĩa vụ đảm
bảo rằng các hoạt động về đánh giá hành vi bán phá giá, áp dụng các biện pháp chống
phá giá phải được kiểm soát bởi các cơ quan tư pháp, hoạt động độc lập với các cơ quan
đã đưa ra quyết định trong lĩnh vực chống bán phá giá. Bên cạnh đó, việc áp dụng biện
pháp chống bán phá giá cũng được đảm bảo bởi nhiều các quy định thủ tục khác: theo
quy định tại Điều 10 của Hiệp định ADP, thuế chống bán phá giá không có giá trị hồi tố;
thời hạn áp dụng thuế chống bán phá giá không vượt quá 5 năm, trừ trường hợp mở cuộc
điều tra mới (điều 11.3 Hiệp định ADP).
II: Thực trạng việc Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với ngành thép xuất
khẩu của Việt Nam
1.Tình hình xuất khẩu thép của Việt Nam sang Mỹ
Theo Hiệp hội Thép Việt Nam, trong năm 2017, Việt Nam chỉ xuất khẩu 567.000
tấn thép sang Mỹ (giảm 42,8%); bằng 12,1% tổng lượng thép xuất khẩu. Xuất khẩu thép
của Việt Nam vào Mỹ giảm mạnh so vỡi những năm trước là do Mỹ áp thuế chống bán
phá giá đối với sản phẩm tôn mạ vào năm ngoái. Việt Nam chủ yếu xuất khẩu tôn, ống
thép và thép cuộn được sử dụng trong nhiều ngành công nghiệp.


Tuy nhiên, số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan ghi nhận trong 2 tháng

đầu năm 2018, các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu sang thị trường Mỹ sắt thép các
loại với 124,6 nghìn tấn và trị giá 104,24 triệu USD, cao hơn hai lần về lượng và trị giá
so với cùng kỳ năm 2017.
Việt Nam cũng xuất khẩu sang Mỹ các sản phẩm từ sắt thép với trị giá 73,67 triệu
USD, tăng gần 40% so với cùng thời gian năm 2017. Hiện Việt Nam đứng thứ 12 trong
số 20 nguồn thép nhập khẩu lớn nhất của Mỹ và đứng thứ ba sau Canada và Mexico về
sản lượng nhôm thuộc hạng mục thanh, que và hình xuất khẩu sang Mỹ.
Mới đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump ra thông qua việ đánh thuế 25% tất cả các
sản phẩm thép và 10% đối với mặt hàng nhôm nhập khẩu từ tất cả các nước. Như vậy, với
quyết định mới của ông Trump, ngành thép Việt Nam sẽ nằm trong nhóm 12 nước bị ảnh
hưởng nhiều nhất.
Động thái này diễn ra trong bối cảnh các sản phẩm thép của Trung Quốc giảm
mạnh khi bị Mỹ áp 14 loại thuế chống bán phá giá và 10 loại thuế tự vệ trong hai năm
2016 và 2017; trong khi thép của Việt Nam xuất sang quốc gia này tăng lên nhanh chóng.
Do đó, Mỹ nghi ngờ Việt Nam nhập thép Trung Quốc và sau đó xuất khẩu sang thị trường
này.
Trong văn bản gửi tới Bộ Thương mại Hoa Kỳ, Hiệp hội Thép Việt Nam cho biết
Việt Nam có nhập nguyên liệu sản xuất từ Trung Quốc khi chưa có nhà máy sản xuất thép
cuộn cán nóng.
Tuy nhiên, các doanh nghiệp Việt Nam đã đầu tư hàng trăm triệu USD với dây
chuyền công nghệ hiện đại để sản xuất ra các sản phẩm thép cán nguội và tôn mạ có chất
lượng đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của Mỹ, Nhật Bản, tạo ra hàm lượng giá trị gia
tăng đáng kể trong quá trình sản xuất chứ không phải chỉ chế biến qua loa để xuất khẩu
sang Mỹ.
Đại diện Hiệp hội Thép Việt Nam cũng khẳng định, Việt Nam dễ dàng giải quyết
được vấn đề này vì từ năm nay đã có thể sản xuất đủ số lượng thép cuộn cán nóng để sản
xuất các sản phẩm thép khác, đảm bảo nguồn gốc xuất xứ 100% Việt Nam. Thêm vào đó,
mặc dù chắc chắn sẽ gặp khó khăn sau quyết định áp thuế của Mỹ nhưng điểm tích cực
của Việt Nam là Mỹ hiện chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 11% tổng giá trị xuất khẩu các mặt
hàng sắt thép của Việt Nam.

Nếu như xuất khẩu sang Mỹ bị ảnh hưởng do quyết định mới của Tổng thống
Trump, ngành thép Việt Nam có thể sẽ quay về dồn sức cạnh tranh trên thị trường chính
hiện nay là khối ASEAN, hiện chiếm 59,3%.


2: Thực trạng việc Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với ngành thép
xuất khẩu của Việt Nam
2.1: Lý do Mỹ áp dụng thuế cao đôi với ngành thép Việt Nam/ áp dụng thuế
chống bán phá giá
Theo lý giải của Bộ Thương mại Mỹ, việc áp thuế là vì "an ninh quốc gia". Mỹ
muốn đẩy mạnh ngành công nghiệp khai khoáng, không quá phụ thuộc vào nguồn
nguyên liệu nhập từ bên ngoài. Đây là biện pháp nhằm bảo hộ ngành sản xuất trong nước,
đáp ứng mong muốn tạo thêm nhiều việc làm như ông Trump đã hứa khi tranh cử. Đó
cũng là biện pháp mà chính quyền ông Donald Trump muốn gây sức ép lên các đối tác
thương mại vốn đang có đàm phán hoặc căng thẳng với Mỹ.
Năm 2017, Mỹ nhập khẩu thép từ hơn 100 quốc gia. Trong đó 3/4 số thép đến từ 8
nước là Canada, Brazil, Hàn Quốc, Mexico, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật và Đức.Trung Quốc
không nằm trong danh sách 8 nước này nhưng lại là quốc gia sản xuất thép lớn nhất thế
giới. Phía Mỹ cho rằng, thép của Trung Quốc đã qua nước thứ 3 trước khi tới Mỹ. Trước
kia, Mỹ áp thuế nhập thép ở từng nước nhưng với đề xuất mới, tất cả thép các nước có
thể chịu thuế 25%, nhôm 10% khi tới đất Mỹ.
Vào ngày 5.12, Bộ Thương mại Mỹ ra phán quyết áp các mức thuế cực cao dành
cho thép nhập khẩu của Việt Nam có xuất xứ từ Trung Quốc, sau khi phát hiện các nhà
sản xuất thép Trung Quốc đã trốn tránh các lệnh chống bán phá giá và chống trợ cấp của
Mỹ.
Quyết định trên là một thắng lợi dành cho các nhà sản xuất thép Mỹ, những người
đã thành công khi yêu cầu thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với thép Trung
Quốc trong năm 2015 và 2016... Hiệp hội Thép Mỹ đã lập luận rằng các sản phẩm của
Trung Quốc đang bị chuyển hướng sang các nước thứ ba để né các nghĩa vụ thuế.
Bộ Thương mại Mỹ cho biết sẽ áp dụng thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp

của Trung Quốc đối với thép chống ăn mòn và cán nguội từ Việt Nam có nguồn gốc từ
thép cuộn cán nóng của Trung Quốc.
Mặc dù sản phẩm được chế biến ở Việt Nam để làm thép chống ăn mòn và théo
cán nguội, sử dụng trong xe hơi và các thiết bị khác, Bộ Thương mại Mỹ đồng ý với quan
điểm của các nhà sản xuất Mỹ rằng 90% sản phẩm bắt nguồn từ Trung Quốc.
Ngành công nghiệp thép toàn cầu đang phải vật lộn với sự dư thừa năng lực sản
xuất, phần lớn là ở Trung Quốc, điều này khiến giá thép giảm xuống. Một diễn đàn G20
tuần rồi đã không đạt được tiến bộ đáng kể trong việc đưa ra một giải pháp cho những bất


đồng giữa Bắc Kinh và Washington. Sơ bộ, sản phẩm thép cán nguội xuất khẩu từ Việt
Nam sẽ phải chịu thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp là 531%, trong khi thép chống
ăn mòn sẽ phải đối mặt với mức thuế 238%.
Trước đó, Liên minh Châu Âu cũng phát hiện rằng thép nhập khẩu từ Việt Nam
vào cũng nhằm để né thuế.
2.2: Sự kiện tiêu biểu: Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá thép vào ăm 2015
Cơ quan thương mại Việt Nam (thuộc Bộ Công Thương) thông báo rằng vào ngày
23 tháng 6 năm 2015, sau khi bắt đầu bán phá giá điều tra trên cùng một sản phẩm từ
Trung Quốc và các nước khác, Hoa Kỳ áp đặt mức thuế chống bán phá giá là 199,4% và
chống thuế bổ trợ 241,4%.
Sau khi phán quyết, khối lượng xuất khẩu sản phẩm từ Trung Quốc sang Hoa Kỳ
đã giảm nhanh chóng, ngược lại, khối lượng xuất khẩu từ Việt Nam đã tăng lên một cách
tỉ mỉ.
Do nghi ngờ về thép của Trung Quốc đang được nhập lậu vào Việt Nam để xuất
khẩu sang Mỹ, hai nhà sản xuất Mỹ - California Steel Industry và Steel Dynamic Inc đã
yêu cầu DOC đầu tư các sản phẩm thép mạ kẽm của Việt Nam và yêu cầu gửi tiền cho
các lô hàng bằng thuế chống bán phá giá và trợ cấp thuế đối với các sản phẩm của Trung
Quốc.
Vào ngày 3 tháng 10 năm 2016, Cơ quan Cạnh tranh Việt Nam thông báo rằng các
nhà sản xuất thép của Mỹ đã kiện Cơ quan Hải quan quốc tế (DOC) về thuế chống bán

phá giá và thuế chống trợ cấp đối với thép cán nguội nhập khẩu từ Việt Nam.
Theo DOC, nó sẽ xem xét và đưa ra kết luận cuối cùng để điều tra hay không
trong vòng 45 ngày kể từ khi nhận được đơn kiến nghị (dự kiến vào ngày 22 tháng 10
năm 2016 đối với sản phẩm thép mạ kẽm và ngày 10 tháng 11 năm 2016 đối với thép cán
nguội) trong vòng 300 ngày.
Dựa trên luật của Hoa Kỳ, để bổ sung sản phẩm của nước thứ ba vào nhiệm vụ
hiện tại (đầu tư vào thuế chống bán phá giá), DOC phải xem xét một số yếu tố: sản phẩm
nhập khẩu từ nước thứ ba là sản phẩm asthe tương tự. trước khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ,
các sản phẩm đã được hoàn thành hoặc sản xuất từ các sản phẩm của quốc gia hùng vĩ,
quá trình sản xuất ở nước thứ ba là "nhỏ hoặc không đáng kể"; giá trị của các sản phẩm
được xuất khẩu từ quốc gia áp đặt chiếm hơn một nửa giá trị của các sản phẩm được nhập
của Hoa Kỳ; DOC quyết định rằng điều tra là cần thiết để ngăn chặn sự trốn tránh.


Bên cạnh đó, DOC cần xem xét các yếu tố sau: xu hướng giao dịch, cho dù nhà
sản xuất và nhà xuất khẩu có được nguyên liệu liên quan đến bên thứ ba sử dụng nguyên
liệu thô hoặc sản xuất các sản phẩm nhập khẩu của Hoa Kỳ hay không. quốc gia sau khi
DOC bắt đầu điều tra và áp đặt nghĩa vụ.
2.3: Một số hướng giải quyết của Việt Nam trước tình hình Mỹ áp thuế chống bán
phá giá với ngành thép
Hiệp hội Thép Việt Nam (VSA) đã kiến nghị Cục Phòng vệ Thương mại (Bộ Công
Thương) hỗ trợ doanh nghiệp sản xuất thép sau khi Bộ Thương mại Hoa Kỳ liên tiếp khởi
xướng điều tra chống lẩn tránh thuế đối với thép tôn mạ và thép cán nguội của Việt Nam,
thậm chí còn điều tra đánh giá tác động của các mặt hàng thép từ Việt Nam đối với an
ninh quốc gia Mỹ.
Trong văn bản kiến nghị gửi Bộ Công thương, VSA đã đề nghị Bộ Công Thương
có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp thép thông qua việc phản đối các hành vi
không phù hợp với pháp luật quốc tế của Hoa Kỳ.
Đồng thời, đề nghị Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) tuân thủ các quy định của
WTO cũng như luật pháp Hoa Kỳ trong giai đoạn cuối trước khi ban hành quyết định

chính thức về vụ điều tra chống lẩn tránh thuế.
Trong trường hợp Hoa Kỳ không thay đổi quan điểm trong kết luận cuối cùng về
vụ việc này, VSA kiến nghị Bộ Công Thương báo cáo Chính phủ xem xét khởi kiện Hoa
Kỳ ra WTO.
Ông Hồ Nghĩa Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Thép nhận định, các doanh nghiệp Việt
Nam đã đầu tư hàng trăm triệu USD với dây chuyền công nghệ hiện đại để sản xuất ra
các sản phẩm thép cán nguội và tôn mạ có chất lượng đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe
của Mỹ, Nhật Bản, tạo ra hàm lượng giá trị gia tăng đáng kể trong quá trình sản xuất chứ
không phải chỉ gia công sơ bộ rồi xuất khẩu sang Hoa Kỳ.
VSA dẫn bằng chứng của một số doanh nghiệp Việt Nam là bị đơn bắt buộc trong
cuộc điều tra đã đưa ra các bằng chứng cho thấy tôn mạ kẽm của Việt Nam có mức
chuyển đổi lớn (khoảng 30-50%) so với thép cán nóng của Trung Quốc. Tỷ lệ này phù
hợp với quy định trong Hiệp định của WTO và thông lệ quốc tế cũng như của Mỹ khi xác
định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm đối với vụ việc của Argentina trước đó.
Ngoài ra, Hiệp định Chống bán phá giá, Chống trợ cấp, Hiệp định về nguồn gốc
xuất xứ và Báo cáo của Ban công tác Việt Nam khi gia nhập WTO không có điều khoản


nào cho phép Hoa Kỳ sử dụng giá trị thay thế của nước thứ 3 trong điều tra chống lẩn
tránh thuế.
Tuy nhiên, trong kết luận sơ bộ của mình, phía Hoa Kỳ đã sử dụng giá trị thay thế
của Mexico để tính giá trị thép cán nóng của Trung Quốc và sử dụng giá trị thay thế của
Indonesia để tính giá trị tôn mạ kẽm của Việt Nam…
Quan trọng hơn, kết luận trong vụ điều tra này sẽ tạo tiền lệ bởi hiện nay nguồn
thép cán nóng của Việt Nam chủ yếu được nhập khẩu từ một số quốc gia và vùng lãnh thổ
đang bị Hoa Kỳ áp thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với thép cán nguội và tôn
mạ kẽm như Đài Loan (Trung Quốc), Hàn Quốc.
Do đó, trong trường hợp ngành thép Hoa Kỳ tiếp tục khởi kiện các vụ việc lẩn
tránh khác, nó sẽ tạo ra áp lực tìm nguồn cung thép cán nóng đối với các doanh nghiệp
thép Việt Nam.

Nếu quyết định áp thuế được giữ nguyên, các doanh nghiệp thép Việt Nam đã xuất
khẩu tôn mạ kẽm sản xuất từ thép cán nóng và cán nguội Trung Quốc kể từ 4/11/2016 sẽ
phải nộp thay các nhà nhập khẩu Hoa Kỳ một khoản thuế rất lớn tương đương 238,48%
giá trị xuất khẩu nhằm giữ khách hàng và thị trường.
“Kết luận lẩn tránh thuế của Bộ Thương mại Mỹ có thể khiến Việt Nam đứng
trước nguy cơ mất hoàn toàn thị trường của hai sản phẩm nói trên tại Mỹ, do tâm lý e
ngại các cuộc điều tra lẩn tránh thuế khác đối với các sản phẩm được sản xuất tại Việt
Nam khi sử dụng nguyên liệu HRC được nhập khẩu từ các nước khác” - VSA cho hay.
VSA cho rằng hành động này không chỉ nhằm bảo vệ doanh nghiệp thép mà còn
phát đi thông điệp với Hoa Kỳ rằng Việt Nam sẽ tiếp tục đấu tranh mạnh mẽ với những
hành vi vi phạm cam kết quốc tế trong các cuộc điều tra chống phòng vệ thương mại
trong tương lai của nước này, thông qua các thiết chế quốc tế để bảo vệ lợi ích hợp pháp
và chính đáng của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Bộ Thương mại Mỹ đã tiến hành các vụ điều tra về chống bán phá giá (AD) và
thuế chống trợ cấp (CVD) đối với mặt hàng thép nêu trên được Bộ Thương mại Mỹ vào
ngày 4/11/2016 và khởi xướng điều tra đánh giá tác động của thép nhập khẩu đối với an
ninh quốc gia theo Mục 232 (điều tra 232) vào ngày 19/4/2017.
Vào ngày 11/12/2017, Bộ Thương mại Mỹ đã ban hành kết luận sơ bộ vụ điều tra
lẩn tránh thuế đối với sản phẩm thép cán nguội và tôn mạ của Việt Nam sử dụng thép cán
nóng của Trung Quốc lẩn tránh thuế chống bán phá giá (AD) và thuế chống trợ cấp
(CVD) mà Mỹ đã áp dụng với sản phẩm tương tự của Trung Quốc.


Theo báo cáo từ Hiệp hội Thép Việt Nam, trong những năm qua, ngành thép Việt
Nam đã có những bước phát triển thuận lợi. Năm 2016, Việt Nam đã xuất khẩu hơn 4
triệu tấn sản phẩm thép các loại với trên 3 tỷ USD.
Sản phẩm thép cán nguội, tôn mạ kim loại và sơn phủ màu nói riêng của Việt Nam
sang Hoa Kỳ đạt mức tăng trưởng mạnh mẽ, lần lượt 530% và 658% so với năm 2015.
Điều này một phần là do trước đó Hoa Kỳ đã áp thuế chống bán phá giá và chống
trợ cấp đối với 2 sản phẩm trên của Trung Quốc.

Do đó, các doanh nghiệp thương mại của Hoa Kỳ đã tìm kiếm những nhà cung cấp
mới, các doanh nghiệp Việt Nam đã rất năng động chiếm lĩnh thị trường này nên số lượng
tăng đột biến so với trước đây.
Tuy nhiên, mức tăng trưởng này đang đứng trước nhiều thách thức khó khăn do
Hoa Kỳ tăng cường điều tra và áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại để bảo hộ
ngành thép trong nước.
3. Đánh giá thực trạng
Với việc Mỹ áp lệnh chống bán phá giá với thép nhập khẩu từ hàng loạt quốc gia
đang tạo lên nguy cơ trả đũa, chiến tranh thương mại giữa các nước. Sản xuất thép tại
Việt Nam dự kiến sẽ đối mặt những khó khăn nếu thuế chống bán phá giá kéo dài.
3.1: Tác động trực tiếp
Ngày 8/3/2017, Tổng thống Mỹ Donald Trump ra quyết định áp các hình thức
trừng phạt đối với thép và nhôm nhập khẩu vào nước này với mức thuế 25% đối với thép
nhập khẩu nước ngoài và 10% đối với nhôm. Thép Việt Nam chịu mức thuế ít nhất, ở
mức 7,7%.
Thông tin ngay lập tức kéo giá cổ phiếu của nhiều doanh nghiệp sản xuất thép tên
tuổi thế giới và các doanh nghiệp sản xuất thép tại Việt Nam liên tục giảm giá trong vài
ngày qua. Nhiều mã cổ phiếu chứng kiến tình trạng bán ra mạnh của nhà đầu tư trong
nước cũng như các quỹ đầu tư nước ngoài. Như với cổ phiếu HSG của Công ty Cổ phần
Tập đoàn Hoa Sen giảm giá 3 phiên liên tiếp. Cổ phiếu HPG của Công ty Cổ phần Tập
đoàn Hòa Phát cũng qua một phiên giảm giá nhẹ trước khi quay đầu tăng nhẹ trở lại vào
chốt phiên ngày 12/3. Trong khi NKG của Công ty Cổ phần Thép Nam Kim giảm hai
phiên liên tiếp.
Theo đánh giá của các chuyên gia, thực tế việc đánh thuế nhập khẩu nhôm, thép
của Mỹ sẽ không ảnh hưởng quá nhiều tới các doanh nghiệp Việt Nam dù Việt Nam đứng
thứ 12 trong số 20 nước xuất khẩu thép, tôn mạ nhiều nhất vào Mỹ. Theo thống kê của


Hiệp hội thép, hiện sản lượng xuất khẩu các sản phẩm thép, tôn mạ của Việt Nam sang thị
trường Mỹ là khoảng 200.000 tấn/năm. Trong đó chủ yếu là sản phẩm từ 3 doanh nghiệp

là Tôn Hoa Sen, Tôn Đông Á và Hòa Phát. Với mặt hàng nhôm xuất khẩu vào Mỹ, Việt
Nam đứng thứ 3 thế giới chỉ sau Canada và Mexico.
Trong báo cáo của mình, Công ty Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định, với
tỷ lệ xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước hiện nay, việc áp thuế chống bán phá giá
của Mỹ sẽ không ảnh hưởng quá tiêu cực lên các nhà xuất khẩu thép niêm yết. Theo đó,
các doanh nghiệp thép Việt vẫn còn nhiều cách tiếp cận thị trường Mỹ, bởi mục tiêu của
chính phủ nước này là chặn các mặt hàng có nguồn gốc Trung Quốc được gia công hoặc
tạm nhập tại các nước khác để né thuế. Bằng việc sản xuất từ thượng nguồn hoặc sử dụng
bán thành phẩm được sản xuất trong nước, các doanh nghiệp vẫn có thể chứng minh xuất
xứ Việt Nam để bán hàng tại thị trường khắt khe như Mỹ, khối EU và Úc.
3.2: Tác động dài hạn
3.2.1: Tác dông tiêu cực
Ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu thép của Việt Nam vào Mỹ
Mỹ kiện Việt Nam bán phá giá các mặt hàng mắc áo thép, ống thép không gỉ chịu
lực, tuabin điện gió, ống thép dẫn dầu và đinh thép. Kim ngạch xuất khẩu của các mặt
hàng này so với tổng kim ngạch của nhóm hàng chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, do đó không ảnh
hưởng quá lớn đến kim ngạch xuất khẩu của cả nhóm hàng. Như vậy, việc Mỹ áp thuế
chống bán phá giá hầu hết đều có tác động tiêu cực, làm giảm kim ngạch xuất khẩu của
các mặt hàng bị áp thuế, thậm chí có mặt hàng ngừng hoàn toàn việc xuất khẩu vào thị
trường này.
Ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp xuất khẩu
thép Việt Nam
Việc bị điều tra và áp thuế chống bán phá giá tại Mỹ khiến doanh thu xuất khẩu
của các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thép vào thị trường này sụt giảm rất mạnh, từ
đó làm giảm doanh thu chung của doanh nghiệp.
Thời gian áp thuế kéo dài và mức thuế liên tục thay đổi qua các đợt rà soát hành
chính hàng năm
Theo luật pháp về chống bán phá giá của Mỹ, hàng nhập khẩu nước ngoài bị áp
thuế chống bán phá giá sẽ trải qua các đợt rà soát hành chính hàng năm (POR) để xác
định mức thuế phải nộp và rà soát hoàng hôn theo chu kỳ 5 năm để quyết định có tiếp tục

gia hạn thời gian áp thuế chống bán phá giá hay không. Tuy nhiên, chưa có sản phẩm nào


của Việt Nam đã bị áp thuế chống bán phá giá mà thoát khỏi thuế đó trong các đợt rà soát
hoàng hôn của Mỹ. Ngoài ra, các đợt rà soát hành chính hàng năm của Mỹ với mức thuế
đưa ra rất thất thường khiến các doanh nghiệpthép Việt Nam gặp nhiều khó khăn trong
chủ động lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh.
3.2.2: Tác động tích cực
Bên cạnh những mặt tiêu cực, việc Mỹ áp thuế chống bán phá giá đối với ngành
thép của Việt Nam cũng có có một số mặt tích cực. Chẳng hạn:
Mỹ đánh thuế nhập khẩu là tin vui và động lực của ngành thép Việt Nam
Công ty Cổ phần Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cũng có cùng quan điểm rằng
việc áp thuế nếu xảy ra sẽ không ảnh hưởng quá tiêu cực lên các nhà xuất khẩu thép niêm
yết. Thậm chí, việc Mỹ đánh thuế nhập khẩu cho thép Trung Quốc có thể là tin vui và là
động lực cho sự phát triển theo chiều sâu của ngành thép nội địa. Từ đó, các doanh
nghiệp thép nội địa sẽ có động lực phát triển, cải thiện chất lượng sản phẩm, giảm sự phụ
thuộc vào ngành thép Trung Quốc. Bên cạnh đó, đây cũng là cơ hội giúp ngành thép Việt
Nam có thể cạnh tranh với Trung Quốc hơn.
III: Giải pháp vượt rào việc Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với ngành thép
xuất khẩu của Việt Nam
Theo các cam kết về thuế quan của các FTA đã ký kết, thuế suất nhập khẩu trung
bình của thép và các sản phẩm thép vào Việt Nam sẽ chỉ dao động ở mức 0,69% - 7,55%
trong giai đoạn 2015-2018 và sẽ tiếp tục giảm trong giai đoạn tiếp theo. Do đó, áp lực
cạnh tranh đối với các doanh nghiệp thép Việt Nam sẽ ngày càng lớn, để tiếp tục tồn tại
và phát triển cần phải không ngừng nâng cao tính cạnh tranh.
Đại diện Hiệp hội Thép Việt Nam cũng cho rằng, lượng thép xuất khẩu vào khu
vực ASEAN trong năm vừa qua chiếm khoảng 60% tổng lượng thép xuất khẩu. Các
doanh nghiệp như Hòa Phát, Hoa Sen hay Nam Kim đều có tỷ trọng xuất sang Mỹ không
quá 5%. Vì vậy trong ngắn hạn, việc áp thuế sẽ không ảnh hưởng quá tiêu cực đến các
doanh nghiệp xuất khẩu tôn thép của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu về dài hạn, tác động chắc

chắn sẽ có.
Vậy nên chính phủ và các doanh nghiệp cần có các giải pháp để đối phó với việc
này:
1. Giải từ chính phủ:
Về việc Mỹ áp thuế chống bán phá giá, Bộ Công Thương cho hay đang theo dõi
sát vụ việc. Cơ quan này cho rằng, các sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu từ Việt Nam
chỉ nhằm mục đích sử dụng là xây dựng dân dụng không phải xây dựng cơ sở hạ tầng hay


an ninh quốc phòng và không cạnh tranh trực tiếp với các nhà sản xuất của Mỹ. Hơn nữa,
lượng nhất khẩu sản phẩm thép và nhôm từ Việt Nam chỉ chiếm một tỷ trọng không đáng
kể trong tổng nhập khẩu thép và nhôm của Mỹ, do đó không thể gây ra hoặc đe dọa gây
ra thiệt hại cho ngành sản xuất thép và nhôm của Hoa Kỳ. VSA dẫn bằng chứng của một
số doanh nghiệp Việt Nam là bị đơn bắt buộc trong cuộc điều tra đã đưa ra các bằng
chứng cho thấy tôn mạ kẽm của Việt Nam có mức chuyển đổi lớn (khoảng 30-50%) so
với thép cán nóng của Trung Quốc. Tỷ lệ này phù hợp với quy định trong Hiệp định của
WTO và thông lệ quốc tế cũng như của Mỹ khi xác định nguồn gốc xuất xứ của sản phẩm
đối với vụ việc của Argentina trước đó.
Bộ Công Thương cho hay đã đề nghị Chính phủ Hoa Kỳ xem xét, cân nhắc loại
trừ các sản phẩm thép và nhôm nhập khẩu từ Việt Nam ra khỏi phạm vi áp dụng của biện
pháp do các sản phẩm này không ảnh hưởng đến mục tiêu đảm bảo an ninh. Hiệp hội
khuyến cáo tới các doanh nghiệp thành viên cần nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua
nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí sản xuất, cải tiến công nghệ sản xuất…
Hiệp hội cùng các doanh nghiệp phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước để đấu
tranh theo đúng quy định quốc tế trước khởi xướng điều tra chống bán phá giá từ Mỹ đối
với sản phẩm thép cán nguội nhập khẩu từ Việt Nam.
Trong tình hình hiện nay, những mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ có
nguyên liệu đầu vào nhập khẩu lớn từ Trung Quốc sẽ dễ bị phía Mỹ áp dụng chống bán
phá giá, vì thế không chỉ ngành thép mà rất nhiều ngành mặt hàng xuất khẩu khác cũng bị
ảnh hưởng đáng kể.

Bộ Công Thương cũng đề nghị phía Hoa Kỳ xem xét, điều chỉnh lại cách xác định
mức thuế đối với các công ty liên quan của Việt Nam trên nguyên tắc khách quan, tuân
thủ quy định của WTO, công bằng cho tất cả các bên liên quan.
Trong văn bản kiến nghị gửi Bộ Công thương, VSA đã đề nghị Bộ Công Thương
có những biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp thép thông qua việc phản đối các hành vi
không phù hợp với pháp luật quốc tế của Hoa Kỳ.
Đồng thời, đề nghị Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) tuân thủ các quy định của
WTO cũng như luật pháp Hoa Kỳ trong giai đoạn cuối trước khi ban hành quyết định
chính thức về vụ điều tra chống lẩn tránh thuế.
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc mới đây đã chỉ đạo các bộ, ngành theo
dõi phản ứng chính sách của các nước trên thế giới khi Mỹ thực hiện luật cải cách thuế
mới, đánh giá tác động đến Việt Nam để kịp thời có phản ứng thích hợp.
Thủ tướng cũng chỉ đạo Bộ Công thương chủ trì phối hợp với các bộ, ngành rà
soát các sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ, nhất là các sản phẩm có hàm lượng


nguyên liệu, linh kiện nhập khẩu từ Trung Quốc để có cảnh báo, khuyến nghị các doanh
nghiệp khi Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm này.
Trong trường hợp Hoa Kỳ không thay đổi quan điểm trong kết luận cuối cùng về
vụ việc này, VSA kiến nghị Bộ Công Thương báo cáo Chính phủ xem xét khởi kiện Hoa
Kỳ ra WTO.
2. Giải pháp của nhóm
- Đứng trước việc Mỹ áp thuế chống bán phá giá đối với ngành thép xuất khẩu của
Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam trước hết phải trao đổi thông tin và nêu ý kiến với
cơ quan chức năng của Hoa Kỳ.
- Các doanh nghiệp cũng cần lên tiếng cho rằng việc áp dụng mức thuế trên sẽ ảnh
hưởng rất lớn tới tình hình sản xuất của mình.
- Vì lượng xuất khẩu thép chiếm thị phần không đáng kể trong tổng nhập khẩu
thép vào Mỹ, do đó, không thể gây ra hoặc đe dọa thiệt hại cho ngành sản xuất thép của
Mỹ. Vậy nên, Việt Nam vẫn còn có cơ hội được Mỹ miễn giảm thuế.

- Đồng thời các doanh nghiệp sản xuất thép cũng nên xây dựng quy trình làm việc
và lưu trữ hồ sơ chuẩn, đoàn kết phối hợp chặt chẽ với hiệp hội và các doanh nghiệp
trong ngành, hợp tác tích cực với các cơ quan điều tra để có được kết quả tốt nhất trong
việc bảo vệ thị trường.
- Chuẩn bị sẵn tâm lý có thể mất thị trường Mỹ nếu như vẫn bị đánh thuế quá cao,
chuyển hướng sang các thị trường lân cận. Mở rộng thị trường,tập trung vào các thị
trường khác như ASEAN, Singapore,…thay vì quá tập trung vào thị trường Mỹ.
3. Giải pháp từ phía ngành thép Việt Nam
- Ở lĩnh vực khác, Hiệp hội Thép Việt Nam cũng vừa cho biết, Hiệp hội đã tổng
hợp và đang tiếp tục có kiến nghị lên các bộ, ngành về việc Mỹ quyết định áp dụng thuế
nhập khẩu 25% đối với mặt hàng thép của Việt Nam.
- Trên nhiều tờ báo, các doanh nghiệp thép cũng lên tiếng cho rằng việc áp dụng
mức thuế trên sẽ ảnh hưởng rất lớn tới tình hình sản xuất của các doanh nghiệp.
- Đại diện Công ty cổ phần Tập đoàn Hoa Sen, ông Vũ Văn Thanh, Phó Tổng
giám đốc Công ty cho biết, đã đề nghị Hiệp hội Thép Việt Nam đứng ra làm đầu mối cho
các doanh nghiệp có tiếng nói, văn bản tác động đến Chính phủ/Bộ Công Thương/Cục
Phòng vệ thương mại và nhanh chóng có giải pháp giúp đỡ ngành thép Việt Nam bảo vệ
được thị trường Mỹ.
- Về phía đại diện Công ty cổ phần Tôn Đông Á thì cho rằng, trong vấn đề sản
xuất, cần sử dụng nguồn nguyên liệu chất lượng cao từ nhà máy cấp 1, chuẩn bị đầy đủ
các tài liệu-chứng cứ gồm nguyên liệu đầu vào, quá trình sản xuất, sản phẩm đầu ra...


- Đồng thời xây dựng quy trình làm việc và lưu trữ hồ sơ chuẩn, đoàn kết phối hợp
chặt chẽ với hiệp hội và các doanh nghiệp trong ngành, hợp tác tích cực với các cơ quan
điều tra... để có được kết quả tốt nhất trong việc bảo vệ thị trường.


KẾT LUẬN
Như vậy, ngành xuất khẩu thép của Việt Nam đứng trước rất nhiều rào cản về việc

Mỹ áp dụng thuế chống bán phá giá. Sản xuất thép là lĩnh vực đặc thù, sử dụng nhiều loại
nguyên liệu, nhiên liệu, nhất là các hóa chất độc hại có khả năng tác động tiêu cực đến
môi trường nếu không bảo đảm các yêu cầu về công nghệ, kỹ thuật. Mặc dù nước ta đang
“thừa thép”, nhưng thực tế chỉ thừa các chủng loại thép xây dựng, tôn mạ,… thông
thường, vẫn phải nhập siêu thép với giá trị hàng tỷ USD để phục vụ sản xuất. Vì thế,
chúng ta vẫn phải đầu tư sản xuất thép, nhưng vấn đề là tính toán, cân nhắc đầu tư ở giai
đoạn nào, thời điểm nào, quy mô và công nghệ ra sao để kiểm soát môi trường và bảo
đảm tính cạnh tranh khi sản phẩm ra thị trường. Việc đầu tư mới hoặc mở rộng sản xuất
là cần thiết, tuy nhiên, các doanh nghiệp chỉ nên đầu tư sản xuất những dòng sản phẩm
mà Việt Nam chưa sản xuất được, như phôi thép hoặc sản phẩm thép tấm cán nóng, thép
chế tạo,... để hình thành dây chuyền sản xuất khép kín. Còn với các sản phẩm tốp cuối
như tôn mạ, thép xây dựng,... các doanh nghiệp cần hết sức thận trọng. Thép là đầu vào
quan trọng của nhiều ngành công nghiệp, xây dựng, cho nên cần giữ được vai trò chủ
đạo, tự chủ đối với ngành này. Không ngoại trừ khả năng việc một số doanh nghiệp nước
ngoài đầu tư nhà máy sản xuất thép ở Việt Nam với mục đích “mượn thị trường” Việt
Nam để tiêu thụ sản phẩm, tránh thuế chống bán phá giá của Việt Nam, đồng thời tránh
thuế chống bán phá giá khi xuất sang các thị trường khác.


BẢNG ĐIỂM THÀNH VIÊN
Nhóm 4 – LHP 1801FECO1811

TT

Họ và tên

Lớp

Điểm


B

1

Trần Thúy Hằng

K51E4

2

Trịnh Thu Hằng

K50E6

B

3

Nguyễn Thu Hoài

K51E3

B

4

Phạm Huy Hoàng

K51E3


A

5

Trần Thị Thúy Hồng

K51E6

A

6

Lại Quỳnh Hương

K51E3

B

7

Lê Thị Thu Hương

K51E4

B

8

Nguyễn Thị Hương


K51E5

B

9 Nguyễn Thị Thu Hương

K51E1

B

1

K51E6

B

1
2
3
4
5
6
7
8
9
Vũ Thị Hường

10
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Nhóm trưởng


Chữ ký
thành
viên

Nhận xét
của giáo
viên

Ghi chú




×