Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Phan khôi với quá trình hiện đại hóa văn học việt nam nửa đầu thế kỷ XX tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.92 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HOÀNG THỊ HƯỜNG

PHAN KHÔI VỚI QUÁ TRÌNH HIỆN ĐẠI
HÓA VĂN HỌC VIỆT NAM NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XX

Ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 9 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp
2. TS. Phạm Thị Thu Hương

Phản biện 1: PGS.TS. Nguyễn Thị Bích Thu

Phản biện 2: PGS.TS. Hà Văn Đức

Phản biện 3: PGS.TS. Hoàng Minh Lường

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp


Học viện họp tại Học viện khoa học xã hội
vào hồi….giờ…phút, ngày…tháng….năm…..

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện:
Thư viện Quốc gia Việt Nam
Thư viện Học viện Khoa học xã hội


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Trong cảnh quan đời sống văn hóa, xã hội Việt Nam nửa
đầu thế kỷ XX, Phan Khôi (1887-1959) là một trong những người
tiên phong và quyết liệt chọn hướng đi canh tân. Ngoài việc khẳng
định vị trí bậc thầy trong lĩnh vực báo chí, ông còn được định vị là
người mở đường cho loại hình phê bình văn học ở nước ta theo
hướng dân chủ hóa và hội nhập Đông–Tây. Vai trò của ông trong
trong việc tìm hướng đi mới cho thơ Việt hiện đại cũng đã được
khẳng định. Tuy nhiên, vì nhiều lí do, suốt thời gian dài, Phan Khôi
chưa được nhìn nhận một cách đúng mức.
1.2. Trước nay, (theo Lại Nguyên Ân nhận định) Phan Khôi
hiện diện trước xã hội, cuộc đời chỉ với tư cách nhà báo nhưng qua
báo chí ông đã thể hiện cách nhìn nhận đầy chiều sâu và tâm huyết
với văn chương, luôn chủ trương đổi mới, thậm chí hình thành riêng
cho mình quan niệm hiện đại về văn học, đem lại cú hích, góp phần
tạo tiền đề cho văn học Việt Nam hiện đại.
1.3. Hiện đại hóa là một vấn đề mang tính qui luật, nhưng ở
trường hợp Việt Nam, nó còn là sản phẩm của quá trình thực dân
hóa, là quá trình nhiều thế hệ trí thức kiếm tìm và kiến tạo bản sắc
dân tộc trong tình cảnh vong quốc. Hơn nữa, Việt Nam đi về phía

hiện đại, nhập vào quỹ đạo chung của cả thế giới từ truyền thống văn
hóa vùng Đông Á trong tình thế bị áp đặt. Tình huống đó khiến cho
tiến tình hiện đại hóa của Việt Nam trở thành một bước chuyển bất
thường, và ở đó nhiều giá trị truyền thống buộc phải bị phán xét,
thậm chí chối bỏ trong khi nhiều giá trị ngoại lai khác được thừa
nhận, cổ súy du nhập vào đời sống tinh thần dân tộc. Trạng thái phức


2
tạp này được hiện hữu trong nhiều trường hợp mà Phan Khôi là đại
diện tiêu biểu. Vì vậy, khảo sát, tìm hiểu Phan Khôi với quá trình
hiện đại hóa văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX là một công việc
cần thiết để đánh giá đúng vị trí, vai trò của Phan Khôi trong lịch sử
văn học dân tộc; đồng thời, cung cấp một cách nhìn khách quan, toàn
diện hơn về một hiện tượng văn hóa – văn học Việt Nam, để Phan
Khôi không còn là “người xa lạ”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu: Luận án xác lập vị trí văn học sử
và đóng góp của ông đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt Nam
ở nửa đầu thế kỷ XX.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Khảo sát hiện tượng Phan Khôi từ
cái nhìn đồng đại và lịch đại đặt trong tọa độ văn hóa để khẳng định
đóng góp của Phan Khôi đối với quá trình hiện đại hóa văn học đầu
thế kỷ XX.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận án chú trọng vào các hoạt
động văn hóa gồm báo chí và sáng tác văn học trong mối quan hệ
hữu cơ với toàn bộ đời sống văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát các sáng tác văn học của
Phan Khôi bao gồm: truyện ngắn, tiểu thuyết, thơ (những năm đầu

thế kỷ XX, đặc biệt từ 1918 đến 1940); các tác phẩm báo chí trực tiếp
bàn đến vấn đề cách tân (tư tưởng, hình thức viết, quan niệm viết),
các dịch phẩm của Phan Khôi.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận: Vấn đề hiện đại hóa ở Phan Khôi
được soi sáng từ quan niệm về sự thay đổi hệ hình và diễn giải như
một hoạt động diễn ngôn trong thời kỳ thực dân của Việt Nam. Luận


3
án cũng nhìn nhận lối viết của Phan Khôi theo hướng nghiên cứu thi
pháp học (thi pháp lịch sử hoặc thi pháp thể loại) và lý thuyết tự sự
học. Bên cạnh đó, tác giả đề tài tiếp cận vấn đề từ góc nhìn văn hóa
học.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận án kết hợp sử dụng các
phương pháp nghiên cứu đặc thù: văn học sử, loại hình, nghiên cứu
liên ngành. Ngoài ra trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài,
chúng tôi cũng cụ thể hóa các phương pháp trên bằng một số thao tác
như: so sánh, tổng hợp và phân tích.
5. Đóng góp khoa học của luận án: Định vị hiện tượng Phan
Khôi trong diễn trình văn học Việt Nam; Cung cấp nguồn tài liệu
tham khảo về văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX và tác giả Phan
Khôi.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận: Góp phần đánh giá đầy đủ hơn con đường
hiện đại hóa văn chương dân tộc, bổ sung thêm một tiếng nói vào
việc tìm hiểu tính quy luật và tính cụ thể của lịch sử phát triển một
giai đoạn; Khẳng định tính tích cực cho việc dẫn nhập các lý thuyết
hệ hình, quan niệm diễn ngôn vào thực tiễn văn học sử Việt Nam,
đồng thời có những đề xuất hoặc điều chỉnh nhất định với bộ khung

của các lý thuyết đó.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần minh định lại một số nhận
xét, đánh giá hoặc chưa đúng, hoặc quá khe khắt về Phan Khôi. Kết
quả nghiên cứu đạt được sẽ là nguồn tham khảo trên tinh thần “phục
chế” những tác giả bị lãng quên của văn học Việt Nam, cho hoàn
cảnh toàn cầu hóa hiện tại của Việt Nam.


4
7. Cơ cấu của luận án: Luận án gồm có 150 trang chính văn và
18 trang Tài liệu tham khảo. Ngoài phần Mở đầu (7 trang), Kết luận
(3 trang), luận án được triển khai trong 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu (27 trang)
Chương 2: Phan Khôi – từ khát vọng canh tân xã hội đến hoạt
động văn hóa, văn chương (39 trang)
Chương 3: Phan Khôi và việc canh tân thơ Việt (30 trang),
Chương 4: Văn xuôi tự sự Phan Khôi giữa các hình thức tự sự
Việt Nam những năm nửa đầu thế kỷ XX (43 trang).
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình sưu tập, phục chế di sản Phan Khôi: Trước
tác của Phan Khôi khá đa dạng, phong phú. Trước 1945, do nhiều lí
do, phần lớn chúng bị lãng quên trong đời sống văn nghệ, đặc biệt là
ở miền Bắc. Có thể điểm lại những ấn phẩm của Phan Khôi được
xuất bản gồm: Chương Dân thi thoại (1936), Trở vỏ lửa ra (1939,
Tìm tòi trong tiếng Việt (1950) và sau đó đã sửa đổi, bổ sung thêm
một số nội dung vào đổi tên thành Việt ngữ nghiên cứu (1955),
Tuyển tập tạp văn Lỗ Tấn; Thi thiên, Châm ngôn, Nhã ca (1956.
Ngoài ra Thanh Lãng là người có đóng góp bước đầu trong việc phục
chế một phần di sản báo chí của Phan Khôi trong hai công trình Phê
bình văn học thế hệ 1932 (năm 1967) và Mười ba năm tranh luận

văn học 1932 -1945 (năm 1972).
Năm 1998, tạp chí Tao Đàn (trọn bộ 2 tập) do Nguyễn Ngọc
Thiện và Lữ Huy Nguyên sưu tầm, tuyển chọn cũng đã đưa vào 6 bài
viết của Phan Khôi viết năm 1939. Những bài này đã được Lại
Nguyên Ân đưa vào trong công trình sưu tập Phan Khôi - Tác phẩm
đăng báo 1938-1942 (2017). Khi Lại Nguyên Ân công bố hàng loạt
kết quả sưu tầm, công cuộc “phục chế” di sản Phan Khôi mới thực sự


5
bắt đầu. Đó là bộ sách gồm 10 cuốn (hơn 1000 bài báo có giá trị trong
sự nghiệp làm báo của Phan Khôi) từ năm 1928 đến năm 1942 – thời kỳ
sung sức nhất của Phan Khôi trên diễn đàn báo chí. Cho đến thời điểm
hiện tại, tình hình văn bản của Phan Khôi, đặc biệt là những tác phẩm
đăng báo đã được sưu tập, phục chế tương đối đầy đủ.
1.2. Phan Khôi trong các bài nghiên cứu, đánh giá
1.2.1. Những đánh giá, nghiên cứu khái quát về thân thế và
sự nghiệp Phan Khôi. Chúng tôi tập hợp được nguồn tài liệu hiện có
và chia thành 2 nhóm chính, gồm:
* Tình hình nghiên cứu về Phan Khôi ở nước ngoài: Phan
Khôi được nhắc đến trong Historical Dictionary of Vietnam (Từ điển
lịch sử Việt Nam) của William J. Duiker; chương trình phát thanh
tiếng Việt của đài Radio France Internationale (RFI); Hồ sơ Nhân
văn giai phẩm trên website Thụy Khuê; Tạp
chí Hợp lưu số 33 tháng 2 & 3 năm 1997 của người Việt ở Mỹ với
một chuyên đề về Phan Khôi; Đỗ Ngọc Thạch trên Việt văn mới, địa
chỉ website .
* Tình hình nghiên cứu về Phan Khôi ở trong nước:
Ở miền Nam: Nguyễn Vỹ, Hoàng Châu Thịnh đã nhấn mạnh
vai trò của tác động xã hội của Phan Khôi.

Ở miền Bắc: Có những ý kiến của Phan Thị Nga, Phan Thị Mỹ
Khanh, Phan An, Phạm Thị Thành, Ngô Quang Huy đã đưa ra những
suy ngẫm, nhận định của mình về tác phẩm Phan Khôi đánh giá
chung những đóng góp của Phan Khôi, đặc biệt đối với báo chí. Đã
phần các ý kiến đều cho rằng Phan Khôi là một nhà Nho có tinh thần
duy tân và ý thức cách tân mạnh mẽ.


6
1.2.2. Các công trình nghiên cứu trực tiếp về những đóng
góp của Phan Khôi đối với quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XX
1.2.2.1. Những đánh giá, nghiên cứu về tác động của Phan
Khôi với canh tân tư tưởng, sinh hoạt xã hội: Luận án tiếp thu quan
điểm của các nhà nghiên cứu trong các công trình của Trần Trọng
Kim (Mấy lời bàn với Phan tiên sinh về Khổng giáo); Phạm Thế Ngũ
(Việt Nam văn học sử giản ước tân biên); Thanh Lãng (Phê bình văn
học thế hệ 1932), Thiếu Sơn (Nghệ thuật và nhân sinh); Đỗ Lai Thúy
(Phan Khôi luôn dám đặt ra vấn đề tranh luận, Vẫy vào vô tận); Đào
Duy Hiệp (việc tiếp nhận và ứng dụng phương pháp phê bình văn
học phương Tây), Hồ Khánh Vân (Ý thức nữ quyền và sự phát triển
của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình HĐH...), Nguyễn Đăng Điệp
(Phan Khôi, ngự sử văn đàn)...
1.2.2.2. Những đánh giá, nghiên cứu về ảnh hưởng của Phan
Khôi đối với ngôn ngữ dân tộc: Văn Tân (Vài ý kiến về quyển Việt
ngữ nghiên cứu của Phan Khôi), Đoàn Xuân Kiên (Phan Khôi nghiên
cứu Việt ngữ), Bùi Vĩnh Phúc (Nhận xét về Việt ngữ nghiên cứu),
Nguyễn Văn Khang (Học giả Phan Khôi với Việt ngữ nghiên cứu),
Nguyễn Trung Tín (Học giả Phan Khôi – yêu tiếng Việt, yêu nước
Việt)

1.2.2.3. Những đánh giá, nghiên cứu về vai trò của Phan Khôi
với các hình thức văn chương hiện đại (Thơ mới, tiểu thuyết,
phê bình...)
* Những đánh giá về vai trò của Phan Khôi đối với vấn đề
canh tân thơ Việt Nam hiện đại: Năm 1960 các ý kiến cho rằng Tình
già không phải là thơ mới (Minh Kha, Phượng Hải, Nguyễn Vỹ), các
ý kiến đề cao vai trò cách tân thơ Việt (Hoài Thanh, Huỳnh Văn Hoa,


7
Vu Gia, Nguyễn Q.Thắng, Lê Minh Quốc, Nguyễn Hữu Sơn, Lại
Nguyên Ân, các bài tham luận tại Hội thảo tổ chức ở Quảng Nam,
tháng 10.2014).
* Những ý kiến đánh giá Phan Khôi như một nhà phê bình:
Khởi đầu là Lưu Trọng Lư, sau đó là Thanh Lãng, (thành công nghệ
thuật bình thơ lẫn cách dùng từ ngữ); Nguyễn Văn Xuân (để củng cố
tu duy mới Phan Khôi đã dấn thân vào con đường luận lý học khúc
mắc, xa lạ nhưng thích hợp với bản tính Quảng Nam hay cãi);
Nguyễn Đăng Mạnh (ủng hộ tân học, hướng hẳn về phương Tây hiện
đại là đặc trưng ngòi bút Phan Khôi); Nguyễn Ngọc Thiện (phong
cách phê bình thiên về lý, rất thẳng thắn, cầu thị của Phan Khôi);
Nguyễn Thị Thanh Xuân (thường xuyên cổ vũ tinh thần tự do, khai
phóng và dân chủ)
* Đánh giá Phan Khôi trên phương diện đề xuất lý thuyết và
thực hành sáng tác tiểu thuyết: Chất Hằng (văn Phan Khôi có xu
hướng hiện đại nhưng vì có óc thực nghiệm nên văn xuôi khắc khổ,
nhạt nhẽo vô duyên); Phan Mạnh Hùng (ngôn ngữ Trở vỏ lửa ra gần
với khẩu ngữ...có tinh thần hiện đại cổ súy nữ quyền), Hoàng Thị
Huế (ngôn ngữ trần thuật Phan Khôi có đóng góp cho quá trình hiện
đại hóa văn học), Hà Ngọc Hòa (có lối viết mang cốt cách phương

Tây thích lập luận, thuyết phục).
* Tiểu kết chương 1: Nhìn lại tình hình nghiên cứu Phan Khôi, theo
chúng tôi Thanh Lãng là người có công đầu trong việc cung cấp các
bài báo mà tại thời điểm trước đây đều bị thời gian và thiên kiến che
lấp. Thanh Lãng cũng là người đầu tiên nhận diện hiện tượng Phan
Khôi và định vị Phan Khôi trong lịch sử văn học dân tộc. Kế tiếp đó
là Nguyễn Ngọc Thiện và các cộng sự tiếp tục việc sưu tầm các bài
báo của Phan Khôi. Tuy nhiên người có công hoàn thiện quá trình


8
sưu tập này là Lại Nguyên Ân. Từ việc sưu tầm, công bố lượng lớn
các bài báo Phan Khôi, hành loạt những nghiên cứu về ông được tiến
hành. Trong tất cả các công trình nghiên cứu về Phan Khôi, ngoại trừ
công trình của Vu Gia, vai trò của Phan Khôi đối với thơ mới, phong
cách viết văn xuôi và lối phê bình cũng như đóng góp của ông cho
công cuộc canh tân văn hóa, văn học đầu thế kỷ là những chủ đề
được quan tâm nhưng không hệ thống. Lần đầu đặt vấn đề nghiên
cứu đóng góp của Phan Khôi với quá trình hiện đại hóa văn học Việt
Nam, luận án của chúng tôi may mắn được kế thừa tất cả những kết
quả tìm tòi nói trên và sẽ bàn luận, phân tích tác phẩm Phan Khôi
một cách toàn diện và hệ thống, cho phép nhìn nhận ông như một chủ
thể can dự, kiến tạo các xu thế và trào lưu văn hóa dân tộc.
CHƯƠNG 2: PHAN KHÔI - TỪ KHÁT VỌNG CANH TÂN
XÃ HỘI ĐẾN HOẠT ĐỘNG VĂN HÓA, VĂN HỌC
2.1. Hiện đại hóa (HĐH) và sự xuất hiện của mẫu hình trí
thức duy tân
2.1.1. Quá trình HĐH ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX:
Từ khi có sự hiện diện của người Pháp, xã hội Việt Nam có
những biến chuyển sâu sắc trên mọi phương diện. Thực chất ban đầu

văn hóa phương Tây vào Việt Nam như một cưỡng chế nhưng sau đó
dần dần chuyển sang chấp nhận và tự nguyện. Bên cạnh văn hóa
Pháp, ảnh hưởng của Tân thư Trung Hoa, tinh thần Minh Trị Nhật
Bản đến Việt Nam. Lúc này các nhà nho thức thời, đặc biệt là trí thức
Tây học nhận thức rằng HĐH là một quy luật không chỉ diễn ra ở
Việt Nam mà đều khắp các nước trong khu vực. Bắt nguồn từ hoàn
cảnh văn hóa xã hội với những biến chuyển mạnh mẽ của buổi giao
thời, mẫu hình trí thức duy tân được hình hành, trong đó Phan Khôi
là gương mặt tiêu biểu.


9
2.1.2. Sự xuất hiện của mẫu hình trí thức duy tân: Đã có một
sự chuyển giao âm thầm giữa các thế hệ trí thức Việt đầu thế kỉ, dù
khác nhau về quan niệm và cách ứng xử văn hóa nhưng vẫn có điểm
tương đồng là ý thức, tinh thần dân tộc. Trước hết phải nhắc đến sự
đóng góp đáng kể của thế hệ các nhà nho - sĩ phu, thủ lĩnh phong trào
Duy tân ở Việt Nam lúc này như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Nguyễn Thượng Hiền, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng... Sau thế
hệ các sĩ phu khởi xướng sự nghiệp canh tân đất nước là một đội ngũ
khá đông những người cầm bút với tư cách trí thức tự do như Nguyễn
Bá Học, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng Thuật,
Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim, Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Khắc
Hiếu, Phan Khôi.... Thời điểm này, mạng lưới báo chí phát triển
mạnh và có vai trò rất lớn đối với quá trình hiện đại hóa văn học. Báo
chí trở thành mảnh đất màu mỡ, kiểu nhà văn chuyên nghiệp xuất
hiện sẵn sàng đáp ứng nhu cầu tinh thần của xã hội đương thời.
2.1.3. Hoạt động báo chí – con đường nhập thế, dấn thân
của Phan Khôi
2.1.3.1. Viết cho “Đăng cổ tùng báo” – dấn thân vào cuộc vận

động canh tân xã hội của phong trào duy tân yêu nước
Đăng cổ tùng báo (1907) là tờ báo đầu tiên mà Phan Khôi
tham gia viết bài với bút hiệu Tout seul (cô đơn) khi xác định sứ
mệnh của mình là dấn thân vào cuộc vận động canh tân đất nước
nhằm phục quốc. Sự lựa chọn này ở Phan Khôi đã bị ngăn cản bởi sự
khủng bố của thực dân Pháp. Sau tất cả những biến cố thời cuộc,
Phan Khôi đã có một thức nhận mới giúp ông có bước chuyển, đó là
hướng tới hoạt động tri thức chuyên nghiệp với tư cách một nhà ngôn
luận, tác động xã hội bằng ngôn luận.


10
1.1.3.2. Viết cho “Nam Phong tạp chí” và “Lục tỉnh tân văn”
(từ 1918 đến những năm 1920) – dấn thân vào con đường viết báo
chuyên nghiệp: Phan Khôi chính thức bước vào nghề báo năm 1918
khi được giới thiệu vào làm cho Nam Phong tạp chí. Đây là bước
quyết định để Phan Khôi thành một trí thức Tây học, nhà văn hiện
đại. Năm 1919, vào Nam làm việc cho Lục tỉnh tân văn, Phan Khôi
sớm thể hiện tinh thần phản biện xã hội tích cực. Trở ra lại Hà Nội
vào năm 1920 sau khi thôi cộng tác với Lục tỉnh tân văn, Phan Khôi
cộng tác với Thực nghiệp dân báo và tạp chí Hữu Thanh.
2.1.3.3. Viết cho “Phụ nữ tân văn”, “Phụ nữ thời đàm” (những
năm 30 thế kỷ XX) - giai đoạn đỉnh cao, định hình tên tuổi Phan
Khôi: Năm 1928 Phan Khôi tham gia viết bài cho các tờ báo Đông
Pháp thời báo, Thần chung, Phụ nữ tân văn, Trung lập, Quần báo
hoặc Hoa kiều nhật báo chữ Hán ở Chợ Lớn. Đây là thời gian sung
sức nhất trong nghề báo của ông và đã hình thành dấu ấn phong cách.
2.2. Những vấn đề cơ bản trong canh tân tư tưởng, xã hội,
văn hóa của Phan Khôi
2.2.1. Công kích cái cũ (Nho giáo): Đề cập đến vấn đề Nho

giáo, Phan Khôi có điểm nhìn khá toàn diện vừa từ bên trong (nhà
cựu học) vừa từ bên ngoài (nhà tân học). Thứ nhất, Phan Khôi đã chỉ
rõ sự lỗi thời và lạc hậu của Nho giáo trong xu thế phát triển của các
quốc gia phương Đông ở đầu thế kỷ XX; Thứ hai, với Nho học, Phan
Khôi phản đối tư tưởng học cốt để thuộc nhiều sách, học để làm bài
thi cho hay, để đỗ đạt, để thành danh chứ không cốt để vận dụng kiến
thức vào thực tế đời sống; Thứ ba, chỉ ra sự bất hợp lý về sự “khinh
nông; Thứ tư, Phan Khôi đã chỉ ra tác hại của thuyết tam cang và luật
cấm cải giá. Như vậy, khi đặt vấn đề phân biệt Tống nho với Hán nho
hay Nho nguyên thủy (của Khổng Tử), Phan Khôi đã thể hiện tinh


11
thần khách quan khi luận bàn về học thuyết có sức ảnh hưởng sâu
rộng đối với các nước phong kiến phương Đông, trong đó có Việt
Nam.
2.2.2. Khẳng định cái mới của văn minh phương Tây: Phan
Khôi có nhiều chia sẻ với quan điểm duy tân: (1) chỉ ra sự khác biệt
giữa Đông phương và Tây phương; (2) chỉ ra sự liên hệ của chủ
nghĩa cá nhân với tư tưởng dân chủ; (3) cho rằng hai khái niệm văn
minh vật chất và văn minh tinh thần phản ánh cùng một thực thể chúng gắn liền nhau. Như vậy, qua việc so sánh sự khác nhau căn
bản về tư tưởng của hai nền văn hóa Đông–Tây, Phan Khôi đã nhìn
nhận, khẳng định tính ưu việt của tư tưởng Tây phương.
2.2.3. Đề cao tư tưởng bình đẳng giới và nữ quyền ở Việt
Nam: Những nội dung cơ bản về vấn đề nữ quyền được Phan Khôi
đề cập ở các bài báo là: (1) tư tưởng bình đẳng giới, xóa bỏ định kiến
cổ hủ coi thường phụ nữ, trọng nam khinh nữ; (2), khẳng định vai trò
của người phụ nữ trong gia đình và xã hội; (3) nhấn mạnh khả năng
tri thức của phụ nữ và khẳng định họ có thể tham gia, thậm chí rất
thành công ở các vấn đề văn hóa – xã hội. Đây thực chất là một phần

của việc thúc đẩy văn hóa và văn học dân tộc tiến vào con đường
hiện đại hóa. Hiệu ứng tích cực của nó có thể quan sát qua sự lan
truyền nhanh chóng của cuộc đấu tranh đòi nữ quyền, qua việc trở
thành đề tài văn học hấp dẫn cho nhiều cây bút, trong đó có nhóm Tự
lực văn đoàn.
2.3. Hoạt động văn hóa, văn chương của Phan Khôi: Từ khi
cầm bút Phan Khôi đã có ý thức viết về những vấn đề có tác động
đến xã hội, trong đó có sinh hoạt văn chương. Ảnh hưởng từ hoạt
động báo chí của Phan Khôi đến văn hoa, văn chương Việt Nam có
thể được nhìn nhận qua những vấn đề sau.


12
2.3.1. Thúc đẩy sự phát triển của ngôn ngữ Việt: Thứ nhất,
Phan Khôi, qua hoạt động báo chí đã cổ động mạnh mẽ cho việc
dùng chữ quốc ngữ; Thứ hai, Phan Khôi cũng đặc biệt quan tâm đến
việc chỉnh đốn chính tả, nghiên cứu so sánh với tiếng Pháp, chữ
Nôm, chữ Hán chỉ ra những chỗ khả thủ, khắc phục những vấn đề
còn tồn tại với ý thức trách nhiệm “làm cho tiếng ta tiến đến bậc hoàn
mĩ”; Thứ ba, Phan Khôi nhận ra được những vấn đề mang tính
nguyên tắc của ngôn ngữ và chỉ rõ đặc điểm của ngôn ngữ tiếng Việt,
nghĩa là vấn đề thuộc về ngữ pháp.
2.3.2. Giới thiệu văn học nước ngoài qua dịch thuật: Phan
Khôi đã tạo ra nguồn tư liệu đáng lưu ý về văn học Nga, Pháp và
Trung Quốc, Kinh thánh. Toàn bộ hoạt động dịch thuật của Phan
Khôi bộc lộ rất rõ tiêu chí chọn dịch của ông là những tác giả, tác
phẩm có giá trị về mặt tư tưởng và coi trọng lối dịch sát nghĩa, khúc
chiết, dễ hiểu. Việc làm này không chỉ đáp ứng nhu cầu thưởng thức
văn chương, mà còn góp phần mở rộng tầm nhìn, tạo chất chất xúc
tác, kích thích những ý tưởng sáng tạo mới cho văn học trong nước,

đưa văn chương và độc giả văn chương nước nhà hòa nhập vào dòng
chảy văn minh nhân loại.
2.3.3. Tạo ra các tranh luận về văn chương và bằng văn
chương (hay là đóng góp của Phan Khôi cho đời sống phê bình
văn học): Phan Khôi đã tạo ra được một kiểu phê bình thực chứng,
đã khuấy động môi trường học thuật truyền thống vốn tĩnh ở VN
(tranh luận về truyện Kiều, quyền phụ nữ, về Nho giáo, quốc học, thơ
cũ, thơ mới, duy tâm và duy vật...). Ông thành công trong tư cách
một nhà báo, nhà phê bình chuyên nghiệp với lập luận sắc sảo, tiêu
điểm là các bài viết khẳng định quyền lợi của người phụ nữ, cổ súy
dùng chữ quốc ngữ... Bằng cách đưa ra quan điểm để kích thích đối


13
thoại với các học giả cùng thời, Phan Khôi đã phần nào xác lập cơ sở
lý thuyết để rồi những thực hành sáng tác (thơ và tiểu thuyết) viết
theo khuynh hướng hiện đại ra đời sau đó và được đánh giá cao.
* Tiểu kết chương 2: Hoạt động báo chí, văn chương, học thuật của
Phan Khôi cho thấy được những bước chuyển quyết liệt của ông: bắt
đầu từ khát vọng canh tân xã hội đến hoạt động canh tân văn hóa, văn
chương. Hoạt động này được thể hiện qua: 1) tiêu điểm là các bài viết
khẳng định nữ quyền; 2) cổ súy dùng chữ quốc ngữ, thống nhất qui
ước chính tả cho văn tự, kêu gọi dùng lối viết ngắn gọn, dễ hiểu; 3)
dấy lên cuộc tranh luận về văn chương và bằng văn chương. Qua đây,
chúng ta nhận ra sự ràng buộc chặt chẽ giữa môi trường xã hội với
các sáng tác văn học nghệ thuật cũng như mối quan hệ giữa các vấn
đề xã hội với văn chương trong tinh thần canh tân của Phan Khôi.
Ông đã giải quyết triệt để mối quan hệ giữa “truyền thống” với cuộc
canh tân (tức hiện đại hoá) về văn hoá, văn chương như thế nào? Hai
chương tiếp theo của luận án sẽ lý giải cụ thể vấn đề này.

CHƯƠNG 3: PHAN KHÔI VÀ VIỆC CANH TÂN THƠ VIỆT
3.1. Những thi thoại của Phan Khôi – thẩm định lại và
thẩm định mới về thơ
3.1.1. Từ “Nam âm thi thoại” (NÂTT): NÂTT là một mục báo
viết những bài nói chuyện về thơ của Phan Khôi ở các tờ báo khác
nhau (sau này tập hợp thành Chương Dân thi thoại). Hình thức bình
điểm thơ ở NÂTT căn bản không mới nhưng việc Phan Khôi dùng nó
trong các mục thường kỳ trên một vài tờ báo lại có tác dụng dân chủ
hóa một sinh hoạt văn chương vốn diễn ra trong một không gian giao
tiếp hạn hẹp. Với sự phổ biến chữ quốc ngữ, lượng độc giả đã tăng
lên, đồng thời qua phương tiện báo chí điều kiện giao tiếp nói trên đã
thay đổi đáng kể. Nhờ đó, NÂTT đã đưa tác phẩm và những câu


14
chuyện văn chương ra khỏi môi trường hạn định, đưa di sản văn
chương dân tộc đến đông đảo công chúng đọc.
Hơn nữa, trong di sản thơ ca dân tộc có hai mảng thơ chữ Hán
và thơ Nôm, nhưng Phan Khôi, mặc dù không phủ định các hình
thức, giá trị của thi ca chữ Hán, lại chỉ chọn thơ “Nam âm” để bình
phẩm ở mục thi thoại trên báo chí công khai đã thể hiện một ý thức,
quan niệm về bản sắc văn hóa dân tộc.
3.1.2. ... đến “Chương Dân thi thoại” (CDTT): Được xuất
bản tại thời điểm mà Thơ mới đã thắng thế trên thi đàn (1936), công
trình CDTT càng khẳng định thêm giá trị của việc “kiểm kê” thi ca
cổ điển - chặng đường suy ngẫm, chọn lựa thấu đáo của Phan Khôi
trong hai mươi năm. Đây cũng là một tác phẩm chuyên về phê bình
thơ có trước cả Thi nhân Việt Nam, là khúc dạo đầu nói về sự gò bó
của thơ luật, đòi hỏi làm cho thơ chân thật, tự nhiên diễn đạt tâm tình
(tánh linh). Bên cạnh đó, CDTT còn là sự khai phóng tư duy đổi mới

thơ ca đương thời mà sau này được tuyên ngôn trong “Một lối thơ
mới trình chánh giữa làng thơ” (1932), “Vận ngữ với thơ” (1939).
Về giá trị văn học sử, CDTT đã sưu tập được rất nhiều sáng
tác của các tác giả mà tên tuổi chưa hề được nhắc đến trong các tuyển
tập thơ Việt. Việc làm này của Phan Khôi rõ ràng mang ý nghĩa sưu
tầm, giới thiệu để các tác phẩm văn chương mang tính chất “ngoại
biên” đến gần hơn với công chúng trong thời kỳ sách báo còn khá
khiêm tốn.
Xét từ góc độ lý luận (tư tưởng thi học) đây cũng là một công
trình nhiều ý nghĩa: Thứ nhất, nó đặt ra vấn đề mang tính phương
pháp luận: trước khi thẩm bình thơ thì cần xác định rõ thơ như thế
nào là thơ hay? Phan Khôi đã nhấn mạnh chữ “chân” (một kiểu tả
thực trong thơ) hơn là kỹ xảo, câu chữ; Thứ hai, đặt ra vấn đề nghề


15
làm thi (kỹ thuật, “thi pháp” sáng tác thi); Thứ ba, là cách bình thơ.
Bình mà như đang nói chuyện phiếm, rất tự nhiên. Mặt khác, khi
bình, Phan Khôi còn làm công việc biên khảo, chỉ xuất xứ của bài thơ
nhắc đến để làm thỏa mãn trí tò mò và tạo cảm giác thú vị của cho
người đọc.
CDTT đã cung cấp những gợi dẫn về nguyên tắc đối với thi
học Việt Nam hiện đại, thể hiện một lối viết rất độc đáo, duy lý mà
không giáo điều.
3.2. Tuyên ngôn về Thơ mới của Phan Khôi
3.2.1. Phan Khôi và việc đề xuất quan niệm mới về thơ: Trên
thực tế, từ năm 1918, Phan Khôi đã nhìn thấy những vấn đề tồn tại
cần thay đổi của thơ cũ. Theo ông, việc không thể tiếp tục làm thơ cũ
nữa xuất phát từ hai nguyên nhân, một vì nội dung nghèo nàn, hai vì
hình thức bó buộc. Song ông cũng không ảo tưởng thái quá về thay

đổi của mình mà chỉ như là một đề xuất nhằm hướng đến cái khác
hơn, tìm hướng đi mới, thoát khỏi những ràng buộc cho thơ mà thôi.
3.2.2. Phan Khôi “trình chánh” một lối thơ mới: Năm 1928,
có lẽ vì muốn thể nghiệm về một lối thơ khác trước Phan Khôi đã
làm một bài thơ không tuân luật cũ là Dân quạ đình công. Bài thơ
mới về cảm hứng đề tài, về cách gieo vần, giọng điệu, lời thơ và cả
cách đặt tiêu đề. Sau đó, Phan Khôi còn tích cực sáng tác thơ ca quốc
ngữ, các bài vè, diễn ca đậm chất khẩu ngữ, mang phong vị bình dân.
Hầu hết những sáng tác này chỉ mang tính chất tuyên truyền cho xu
hướng cải cách xã hội nên không chú trọng lắm đến yếu tố nghệ
thuật. Tuy vậy cũng có thể xem là sự chuẩn bị về tư duy hình thức để
Phan Khôi trình chánh giữa làng thơ Tình già. Lần đầu tiên, trên Tập
văn mùa xuân (một ấn phẩm phụ trương của báo Đông Tây, ở Hà
Nội, ra mắt vào nhịp tết Nhâm Thân 1932, bài báo Một lối thơ mới


16
trình chánh giữa làng thơ cùng bài thơ Tình già xuất hiện. Rồi sau
đó một tháng (ngày 10 tháng 05 năm 1932) đăng lại trên Phụ nữ tân
văn (số 22). Với bài báo cùng bài thơ minh họa này, Phan Khôi đã
chính thức đưa ra “tuyên ngôn thơ mới”, và nhờ đó, trở thành người
tiên phong phát động cuộc cách mạng trong lịch sử thơ ca Việt Nam.
3.3. Những hiệu ứng từ quan niệm mới về thơ của Phan Khôi
3.3.1. Khơi mào cho những cuộc bút chiến về thơ: Bằng cách
công bố bài thơ Tình già, Phan Khôi đã nổ phát súng đầu tiên công
kích vào thành trì vững chắc, trì trệ của thơ Việt. Đề xuất “tuyên
ngôn thơ mới” của Phan Khôi cũng đã tạo ra những hiệu ứng xã hội
và thẩm mĩ hết sức mạnh mẽ; gây chấn động làng văn, làng báo, tạo
ra những cuộc bút chiến sôi nổi, giằng co quyết liệt về thơ cũ và thơ
mới với nhiều ý kiến trái ngược nhau.

3.3.2. Xác lập hướng đi khác của thơ Việt: Để cổ súy cho
việc cần làm mới thơ, Phan Khôi đã có những bước chuyển khá rõ và
sắc nét về hình thức, mỹ cảm, nội dung. Chủ đích của ông khá rành
mạch và nhất quán.
Về hình thức, Tình già mà Phan Khôi “trình chánh” giữa làng
thơ ấy đã phá vỡ những định lệ đã thành rào cản, thành sự trói buộc
sự phát triển của thơ Việt của tác phẩm.
Về nội dung, Tình già thể hiện sự hiện đại trong quan niệm
yêu và sống. Giãi bày cảm xúc yêu đương nam nữ vốn là một đề tài
bị tiết chế trong văn học viết thời trung đại.
Xét từ hiệu ứng thẩm mỹ, Tình già đánh dấu bước chuyển, xác
lập hướng đi khác cho thơ Việt...
* Tiểu kết chương 3: Đường đến thơ mới của Phan Khôi là hành
trình dài có chủ đích. Khởi đầu từ việc thẩm định, kiểm duyệt thơ cổ
của dân tộc cho đến khi quyết định trình chánh một lối thơ mới, Phan


17
Khôi đã hoàn thành sứ mệnh của người “mở đường” và tạo hiệu ứng
tích cực để thơ mới thắng thế và đạt thành tựu rực rỡ về sau.
CHƯƠNG 4: VĂN XUÔI TỰ SỰ PHAN KHÔI
GIỮA CÁC HÌNH THỨC TỰ SỰ VIỆT NAM
NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XX
4.1. Tả thực trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi: Là một
biểu hiện tất yếu của quá trình hiện đại hóa văn học, thuật ngữ tả
thực được đề xuất bởi chính các nhà văn, nhà phê bình giai đoạn văn
học những năm đầu thế kỷ XX. Tả thực được biểu hiện qua phương
diện nội dung: quan tâm đến hiện thực xã hội và tâm lí con người
đương thời, miêu tả con người bình thường với những trải nghiệm
nhân sinh phổ biến; về nghệ thuật: sử dụng ngôn ngữ sinh hoạt đời

thường, chống lại lối văn khuôn sáo và giáo huấn truyền thống,
hướng tới học tập kỹ thuật miêu tả trong văn học phương Tây.
Ở phương diện lý thuyết, Phan Khôi đã có rất nhiều những bài
viết đề cập đến vấn đề tả thực trong văn xuôi tự sự. Chẳng hạn: Tiểu
thuyết thế nào là hay? (1931), ông trình lí luận Shòsetsu Shinzui
(Tiểu thuyết thần tủy) của Bình Nội Tiêu Diêu (Tsubouchi Shoyo),
giúp người đọc nhận ra tả thực như là một phạm trù thẩm mỹ trọng
tâm của Việt Nam hiện đại. Hàng loạt các bài viết khác như khi dịch
Trò miệng (Lâm Khiết Nhai), giới thiệu Người vợ hiền (Nguyễn Thới
Xuyên), cảm tưởng khi đọc Cay đắng mùi đời (Hồ Biểu Chánh), Một
cô lưu lạc đời này (Trần Thiện Thành), Phan Khôi đều đề cao xu
hướng tả thực trong tiểu thuyết.
Xuất phát từ cơ sở lí luận này, trên phương diện thực hành, hai
truyện ngắn (Hoạn hải ba đào, Mộng trung mộng) và một tiểu
thuyết (Trở vỏ lửa ra) đã tái hiện khá chân thực bức tranh xã hội thực
dân phong kiến buổi giao thời, phản ánh sự trì trệ ngưng đọng, đầy


18
những chìm nổi của phận người, đặc biệt là tình cảnh của lớp nho sĩ
cuối mùa, số phận bị tước đoạt mọi quyền lợi chính đáng của người
phụ nữ. Tuy nhiên, vì không vượt qua giới hạn bản thân khi bị chi
phối bởi trạng thái lưỡng lự Phan Khôi đã không thành công với văn
xuôi tự sự (chỉ góp phần đưa mô hình tự sự theo định hướng tả thực
trên phương diện đề xuất lý thuyết, gợi dẫn, định hình tư tưởng hiện
đại cho văn học).
4.2. Xu hướng luận đề trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi
4.2.1. Khái niệm “tiểu thuyết luận đề” và thực tế văn xuôi
Việt Nam
Khái niệm tiểu thuyết luận đề (thesis novel) hiện có rất nhiều

cách hiểu khác nhau, thậm chí trái ngược. Qua tổng hợp các ý kiến
chúng tôi thống nhất với cách hiểu: Tiểu thuyết luận đề là những tác
phẩm được viết ra nhằm khẳng định một luận đề dường như có sẵn,
một ý đồ tư tưởng về triết lý nhân sinh thông qua cốt truyện, nhân vật
cho đến các chi tiết. Luận đề là một hình thức viết của cả hai truyền
thống văn chương Đông - Tây. Ở Việt Nam, từ thế kỷ XVI xuất hiện
một số truyện có tính luận đề viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ sang
đầu thế kỷ XX là Phan Bội Châu. Đến những năm 1930, luận đề
được xem là một hình thức nổi trội của tiểu thuyết Tự lực văn đoàn.
Điểm phân biệt giữa hai lối viết luận đề này là Đạo, Lý, Tâm, Chí
của truyền thống đã được thay thế bằng các vấn đề xã hội hiện đại.
4.2.2. Tính luận đề trong tác phẩm tự sự của Phan Khôi
Luận đề Phan Khôi là sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại.
Các tác phẩm tự sự của Phan Khôi là một bước nối các chủ đề mà
ông hết sức quan tâm và đã đề cập trên báo chí trước đó như vấn đề
quốc học, nho học, nữ quyền, đặc biệt là quyền tự do, dân chủ. Luận
đề trong tác phẩm Phan Khôi đã quan tâm đến các vấn đề xã hội


19
đương thời (quan lộ, thi cử và nữ quyền) song vẫn còn khô cứng,
thiếu sinh động.
4.3. Trạng thái lưỡng lự trong văn xuôi tự sự của Phan Khôi
“Lưỡng lự” là khái niệm phản ánh bản chất của giai đoạn giao
thời của hệ hình văn chương Việt Nam đầu thế kỷ XX và liên quan
đến trạng thái của xã hội thực dân của Việt Nam đương thời. Sự
lưỡng lự ở đây có ba phạm vi thể hiện chính là: lưỡng lự tâm lý (giữa
thích và không thích), lưỡng lự hoàn cảnh xã hội (cụ thể ở đây là bối
cảnh thực dân của Việt Nam đầu thế kỷ XX), và lưỡng lự của cá
nhân người cầm bút (lực bất tòng tâm). Việt Nam là một quốc gia

không có truyền thống tự sự nên những mở đường của truyện ngắn,
tiểu thuyết bao giờ cũng gặp phải những lực cản của truyền thống mà
Phan Khôi không nằm ngoài qui luật này. Ngoài ra, còn có sự lưỡng
lự giữa Phan Khôi với tư cách một nhà lý luận và Phan Khôi với tư
cách một nhà sáng tác. Một bên là ưu thế vượt trội của tư duy logic,
một bên là ưu thế vượt trội của tư duy hư cấu. Tư duy logic lấn át nên
ông chưa có cái bay bổng và tinh tế như những nhà văn khác. Tuy
vậy, tình trạng lưỡng lự ở Phan Khôi cũng là câu chuyện của tự sự
Việt Nam trong khoảng ba mươi năm đầu thế kỷ XX, với ba vấn đề
chính: văn tự (sử dụng chữ Hán, Nôm hay Quốc ngữ), diễn đạt bằng
thơ hay văn xuôi và lối viết (đề cao luân lý, nêu gương hay là hướng
đến tả chân, tả thực).
4.3.1. Văn xuôi tự sự Phan Khôi trong bước chuyển từ chữ
Hán sang chữ Quốc ngữ: Xét về văn tự, hai truyện ngắn Hoạn hải
ba đào và Mộng trung mộng được in trên Nam Phong tạp chí vào
năm 1918 bằng chữ Hán. Câu hỏi đặt ra là vì sao cả hai truyện ngắn
này đều được Phan Khôi viết bằng chữ Hán? Tại thời điểm mới ra
đời, Nam Phong tạp chí dành riêng một mảng cho chữ Hán vì xã hội


20
còn tồn tại một bộ phận trí thức cựu học. Với chủ đề quan lộ và thi
cử mang tính thời sự, Phan Khôi nhắm thẳng vào bộ phận cựu học để
thức tỉnh họ. Ngoài ra, có giả thuyết về sự hạn chế của tác giả về
năng lực ngôn ngữ khi sáng tác văn xuôi. Mặt khác, qua câu chuyện
về văn tự, Phan Khôi đã bộc lộ sự lưỡng lự bước chuyển từ chữ Hán
sang chữ quốc ngữ để sáng tác văn xuôi tự sự. Sự lưỡng lự này được
nhìn nhận ở cả hai khả năng: (1) chủ động (dùng chữ Hán để trực tiếp
tác động đến bộ phận cựu học) hoặc (2) bị động (vì chưa có khả năng
sáng tác văn xuôi tự sự bằng chữ quốc ngữ) của Phan Khôi và nhiều

người cầm bút cựu học lúc bấy giờ.
Nhận định trên có cơ sở hơn khi Phan Khôi in tiểu thuyết Trở
vỏ lửa ra viết bằng chữ quốc ngữ ở Phổ thông bán nguyệt san
(1939). Đây là một bước chuyển dài của tác giả trong sáng tác văn
xuôi tự sự. Nhìn từ góc độ ngôn ngữ, Trở vỏ lửa ra rất thành công
khi sử dụng phương ngữ, giúp độc giả có thêm những hiểu biết thú vị
về văn hóa miền Nam Trung Bộ, cụ thể là vùng đất Quảng Nam.
Những phân tích trên cho thấy, Phan Khôi đã đạt được thành
công nhất định trong việc sử dụng văn tự ở những hình thức tự sự.
Điều khác biệt ở Phan Khôi là ông luôn ý thức rõ tính mục đích khi
sử dụng ngôn ngữ.
4.3.2. Văn xuôi tự sự của Phan Khôi trong sự lưỡng lự giữa
tả thực và luận đề: Trong thể loại văn xuôi tự sự, thành công đáng kể
nhất ở Phan Khôi là phản ánh khá chân xác hiện thực. Trong Hoạn
hải ba đào và Mộng trung mộng, Phan Khôi đã đan cài tính luận đề
vào quá trình chuyển tải hiện thực. Tiểu thuyết Trở vỏ lửa ra cho
thấy sự lưỡng lự giữa tả thực và luận đề của cuốn tiểu thuyết này đã
xảy ra ở sự khác biệt giữa nhan đề Trở vỏ lửa ra (mang tính hiện
thực) với nội dung đấu tranh nữ quyền (mang tính luận đề).


21
4.3.3. Tự sự của Phan Khôi trong bước chuyển từ kết cấu
chương hồi sang kết cấu tâm lý: Khảo sát trong sáng tác, chúng tôi
nhận ra sự dùng dằng ở nghệ thuật trần thuật hay cụ thể hơn là ở kết
cấu truyện. Hoạn hải ba đào sử dụng lối kết cấu đóng/mở tạo sự
cuốn hút xuất phát từ nhu cầu đổi mới. Khi viết Mộng trung mộng,
cách trần thuật này trở lại đã kích thích sự tò mò cho người đọc vì
diễn biến câu chuyện bị xáo trộn. Về hạn chế, Mộng trong mộng vẫn
chưa thoát được kiểu biện giải dài dòng của lối viết cũ. Ở Trỏ vỏ lửa

ra, cơ bản vẫn là lối viết truyền thống, người kể chuyện - tác giả - ở
vị thế người ngoài cuộc có khả năng toàn tri, áp đặt cái nhìn chủ quan
với độc giả, tước đoạt quyền đồng sáng tạo. Trở vỏ lửa ra được công
bố năm 1939 nhưng vẫn bộc lộ rõ sự dùng dằng giữa truyền thống và
hiện đại. Phải chăng do rào cản tất yếu của một nhà cựu học, dù đã
hết sức nỗ lực cách tân theo hướng hiện đại nhưng đôi khi Phan Khôi
chưa vượt thoát khỏi chính mình.
* Tiểu kết chương 4: Tự sự Việt Nam trong thời điểm những năm
đầu thế kỷ XX luôn loay hoay với các vấn đề: văn tự (sử dụng chữ
Hán, Nôm hay Quốc ngữ), diễn đạt bằng thơ hay bằng văn xuôi và
viết theo kiểu luân lý, nêu gương hay thiên về tả thực, tả chân. Làm
thể nào để tiếp thu một cách có chọn lọc những mặt tích cực của văn
hóa phương Tây, đồng thời kế thừa những giá trị truyền thống để tạo
diện mạo mới cho văn học là những trăn trở khó khăn. Phan Khôi
cũng như một số học giả duy tân cùng thời đã tích cực phát hiện, cổ
súy cho những tác phẩm tự sự có xu hướng đổi mới theo phương
Tây, tức Âu hóa. Những ý kiến này đã tạo nền tảng lập luận chỉ dẫn,
kích thích sự ra đời những tác phẩm tự sự càng về sau càng đạt được
thành công cả trên hai phương diện nội dung tư tưởng và lối viết.


22
KẾT LUẬN
1. Hiện đại hóa là quá trình tất yếu của một nền văn học khi gia
nhập vào quỹ đạo các nền văn học tiên tiến trên thế giới. Quá trình
này diễn ra trong sự giao lưu văn hóa giữa các quốc gia và xuất phát
từ nhu cầu khao khát đổi mới của cả công chúng và chủ thể sáng tạo.
Ở Việt Nam, do hoàn cảnh đặc biệt của lịch sử, quá trình hiện đại hóa
đồng thời là quá trình tiếp biến ảnh hưởng phương Tây. Quá trình thu
nhận này diễn ra không hề dễ dàng mà luôn có những dằng co quyết

liệt trong sự lựa chọn giữa cái cũ và cái mới, dân tộc và ngoại lai, áp
đặt và tự nguyện. Chính vì vậy, kẻ sĩ hay trí thức dân tộc đã trở thành
những “chủ thể” can dự và kiến tạo nên các xu thế và trào lưu văn
hóa của quốc gia (dẫn ý Trần Hải Yến). Phan Khôi là một gương mặt
tiêu biểu mang đặc điểm của chủ thể can dự và kiến tạo văn hóa văn
minh ấy. Với mong muốn đưa đất nước thoát khỏi những rào cản chật
chội phương Đông, hướng đến chân trời rộng mở phương Tây, hầu
hết mọi hoạt động của Phan Khôi gồm báo chí, sáng tác, dịch thuật
đều mang mục tiêu truyền bá tư tưởng mới, cổ súy cho những đổi
mới trong sáng tạo văn học, đặt những nền móng cho quá trình hiện
đại hóa văn hóa, văn học dân tộc.
2. Trên phương diện định hình tư tưởng và lựa chọn hành
động, Phan Khôi đã có một bước chuyển “từ chính trị sang văn hóa”
(dẫn ý Đỗ Lai Thúy). Sự chuyển hướng từ canh tân xã hội sang canh
tân văn hóa, văn chương của Phan Khôi là minh chứng rõ ràng cho
bước chuyển đầy chủ động của một trí thức bản lĩnh, nhạy bén và
luôn mang trên mình nhiệm vụ kiến tạo những giá trị mới mẻ cho dân
tộc. Phan Khôi đã có hàng loạt bài báo đề cập đến các vấn đề mang
tính thời sự của xã hội Việt Nam giai đoạn giao thời, trong đó Nho
giáo là chủ đề mấu chốt. Không phải người duy nhất quan tâm đến


23
vấn đề này, nhưng Phan Khôi mang đầy “chất nội sinh” vì được đào
tạo theo lối cổ - lại là người có tác phẩm quyết định sự sụp đổ của
Khổng giáo. Chính nhờ thành công này, các bài viết khác của Phan
Khôi về văn tự, nữ quyền, duy tâm – duy vật... đã có những tác động
mạnh mẽ đối với đội ngũ cầm bút. Không chỉ công kích những tư
tưởng lỗi thời, cổ súy cho những tư tưởng tiến bộ, các bài viết còn tạo
không khí tranh luận dân chủ trong sinh hoạt văn hoá - xã hội đương

thời. Những thành tựu của văn chương hiện đại như phong trào Thơ
mới, tiểu thuyết Tự lực văn đoàn sau đó chắc chắn không thể thiếu
những đóng góp có tính định hình, đặt nền móng tư tưởng ở những
bài báo “dữ dội” của một nhà báo có tài, “cây bút chiến đáng gờm”
này.
Trong văn hóa, văn học, Phan Khôi là người thống nhất trong
ý thức xây dựng một sinh hoạt văn hoá dân tộc, vì vậy ông xông xáo
trong các tranh luận cũng như thực hành, từ quốc ngữ đến quốc học,
quốc văn.
3. Đường đến thơ mới của Phan Khôi cũng là một hành trình
đầy chủ động, quyết liệt như cá tính của ông. Với bút danh Chương
Dân, ông đã khẳng định cá tính của mình trong chuyên mục Nam âm
thi thoại (giới thiệu thơ, bình thơ). Tại thời điểm thơ Việt đang
không có lối thoát, bị cột chặt vào những niêm, luật cùng hệ thống
ước lệ, chuyên mục giới thiệu thơ, bình thơ, chia sẻ quan điểm cá
nhân, điểm duyệt thơ cũ... xuất hiện thường xuyên trên báo chí đã tạo
cơ sở cho việc đưa ra đề xuất một hướng đi mới cho thơ. Vì thế, có
thể xem Nam âm thi thoại (sau này tập hợp in sách đổi tên thành
Chương Dân thi thoại) là tiền khởi của hoạt động phê bình văn học
– dấu hiệu của văn học hiện đại.


×