Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

ĐƯƠNG sự TRONG vụ án dân sự một số vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (597.18 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG

ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN DÂN SỰ - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG NGỌC THỈNH

HÀ NỘI - 2005


nh÷ng tõ viÕt t¾t
®­îc sö dông trong luËn v¨n
BLDS

:

Bé LuËt D©n sù n¨m 1995

BLTTDS


:

Bé LuËt Tè tông d©n sù n¨m 2004

PLTTGQCVADS

:

Ph¸p lÖnh Thñ tôc gi¶i quyÕt c¸c vô ¸n d©n sù n¨m 1989

PLTTGQCVAKT

:

Ph¸p lÖnh Thñ tôc gi¶i quyÕt c¸c vô ¸n kinh tÕ n¨m 1994

PLTTGQCTCL§

:

Ph¸p lÖnh Thñ tôc gi¶i quyÕt c¸c tranh chÊp lao ®éng n¨m

1996


Mục lục
Lời nói đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đương sự trong
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự


1
4

1.1. Khái niệm chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

4

1.1.1. Khái niệm

4

1.1.2. Thành phần chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự

5

1.2. Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự

7

1.2.1. Khái niệm đương sự

7

1.2.2. Nguyên đơn

8

1.2.3. Bị đơn

10


1.2.4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

10

1.2.5. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự
của đương sự

12

1.3. Lược sử các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về đương sự trong vụ án dân sự

15

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989

15

1.3.2. Giai đoạn từ 1989 đến nay

22

1.4. Một số quy định của pháp luật nước ngoài về đương sự

25

1.4.1. Qui định về đương sự trong Bộ Luật Tố tụng dân sự
Trung Quốc


25

1.4.2. Qui định về đương sự trong Bộ Luật Tố tụng dân sự nước
cộng hoà Pháp

26

1.4.3. Qui định về đương sự trong Bộ Luật Tố tụng dân sự Liên
bang Nga

28

Chương 2: Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong pháp
luật tố tụng dân sự hiện hành

31


2.1. Quyền, nghĩa vụ chung của đương sự

31

2.1.1. Các quyền thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự

32

2.1.2. Các quyền, nghĩa vụ của đương sự trong hoạt động cung
cấp chứng cứ, chứng minh

36


2.1.3. Các quyền, nghĩa vụ khác của đương sự

39

2.2. Quyền, nghĩa vụ của nguyên đơn

46

2.3. Quyền, nghĩa vụ của bị đơn

50

2.4. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan

51

2.4.1. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập

52

2.4.2. Quyền, nghĩa vụ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn

52

2.5. Kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các
quy định của pháp luật về đương sự trong vụ án dân sự

3.1. Thực trạng pháp luật về đương sự

52
56
56

3.2. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về đương
sự trong vụ án dân sự

62

3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về đương sự trong vụ án dân sự

72

Kết luận

76

Danh mục tài liệu tham khảo

78


1

Lời nói đầu
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đương sự trong vụ án dân sự là chủ thể đặc biệt quan trọng- nếu thiếu chủ thể

này thì không thể phát sinh vụ án dân sự. Việc xác định thành phần, tư cách đương
sự trong vụ án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ
tố tụng của họ. Đây là cơ sở quan trọng giúp cho quá trình giải quyết vụ án dân sự
một cách chính xác, khách quan.
Để bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức
trong các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh tế, lao động, đáp ứng yêu cầu
phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với xu
thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, trong thời gian qua Nhà nước ta đã ban
hành nhiều văn bản pháp luật về tố tụng dân sự như: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các
vụ án dân sự (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (1994), Pháp
lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996) v.v... Các pháp lệnh này đã
phát huy hiệu quả cao trong quá trình Toà án giải quyết các vụ án dân sự, nhưng
nhìn chung nhiều quy định của các văn bản pháp luật này đã không còn phù hợp,
thiếu những quy định cần thiết, trong đó phải kể đến những hạn chế, bất cập của các
quy định về đương sự trong vụ án dân sự.
Kế thừa, phát triển và pháp điển hóa những quy định của văn bản pháp luật tố
tụng dân sự trước đây, BLTTDS đã được Quốc hội khóa XI kỳ họp thứ năm thông
qua ngày 15 tháng 6 năm 2004. BLTTDS quy định về đương sự trong vụ án dân sự
tại Mục 1 Chương VI (từ Điều 56 đến Điều 62). Các quy định trong Bộ luật này đã
khắc phục được đáng kể những hạn chế, bất cập của các quy định về đương sự trong
vụ án dân sự của các văn bản pháp luật trước đó. Tuy nhiên, một số các quy định về
đương sự trong BLTTDS còn chưa đầy đủ, thiếu cụ thể, thậm chí còn mâu thuẫn...
cần được nghiên cứu nhằm góp phần hoàn thiện, tạo điều kiện cho việc giải quyết
các vụ án dân sự của Toà án được nhanh chóng và chính xác.
Thực tiễn giải quyết các tranh chấp dân sự, kinh tế, lao động trong thời gian
qua cho thấy không ít các Toà án đã xác định sai thành phần và tư cách của đương
sự, từ đó đã dẫn đến hậu quả pháp lý đó là quyền và nghĩa vụ của các đương sự
không được xác định một cách chính xác, do đó quyền và lợi ích hợp pháp của họ
không được bảo đảm. Vì vậy đã dẫn tới hậu quả là nhiều bản án, quyết định của Toà
án đã bị huỷ.



2

Xuất phát từ thực trạng trên, việc tìm hiểu đương sự trong vụ án dân sự là vấn
đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng. Thông qua việc tìm hiểu
đương sự trong vụ án dân sự cũng như quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ giúp cho
chúng ta có cách nhìn tổng quan hơn về đương sự trong vụ án dân sự, đồng thời có ý
nghĩa thực tiễn quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
2. Tình hình nghiên cứu
Có thể thấy, trong thời gian qua chưa có một công trình khoa học nào nghiên
cứu đầy đủ và chi tiết về đương sự trong vụ án dân sự. Việc nghiên cứu, tìm hiểu
đương sự trong vụ án dân sự mới chỉ dừng lại ở một số đề tài mang tính nhỏ, hẹp
như khoá luận của sinh viên, một số bài viết trên tạp chí chuyên ngành luật khi đề
cập đến những tình huống pháp lý cụ thể.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề tài không tập trung phân tích
toàn bộ các khía cạnh về đương sự trong vụ việc dân sự mà chỉ đề cập, nghiên cứu,
làm rõ một số vấn đề xung quanh việc xác định thành phần, tư cách đương sự, quyền
và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong vụ án dân sự và thực tiễn áp dụng.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác- Lê nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ngoài ra, việc nghiên
cứu đề tài luận văn cũng được sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học
chuyên nghành như: phân tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy diễn
logic...
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm rõ khái niệm đương sự cũng như
việc xác định tư cách đương sự, quyền và nghĩa vụ của đương sự trong vụ án dân sự.
Để đạt được mục đích này, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên những khía

cạnh sau: Làm rõ các khái niệm về đương sự trong vụ án dân sự; Phân tích lịch sử
phát triển của các qui định trong pháp luật về đương sự trong vụ án dân sự; Phân tích
các quyền và nghĩa vụ của đương sự theo qui định của pháp luật tố tụng dân sự hiện
hành; Tìm hiểu thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng các qui định của pháp luật về
đương sự trong vụ án dân sự và đưa ra một số kiến nghị.


3

6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn đã khái quát những nét cơ bản về đương sự trong vụ án dân sự, qua
đó phân tích những bất cập của các quy định pháp luật tố tụng hiện hành về đương
sự và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về đương sự để
góp phần hoàn thiện các qui định của pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Trên cơ sở
đó, luận văn là tài liệu quan trọng giúp cho cán bộ nghiên cứu, cán bộ làm công tác
thực tiễn hiểu rõ và xác định chính xác thành phần và tư cách đương sự trong vụ án
dân sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn cao học với đề tài: Đương sự trong vụ án dân sự - một số vấn đề
lý luận và thực tiễn thuộc chuyên ngành Luật dân sự, mã số 60 38 30 được kết cấu
bởi ba chương ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo.
Lời nói đầu
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về đương sự trong quan hệ pháp
luật tố tụng dân sự
Chương 2: Quyền và nghĩa vụ của đương sự trong pháp luật tố tụng dân sự
hiện hành
Chương 3: Thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự về đương sự trong vụ án dân sự
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo



4

Chương 1

Những vấn đề lý luận cơ bản về đương sự
trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
1.1. Khái niệm chủ thể trong quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm
Chủ thể hiểu một cách chung nhất là bộ phận chính, giữ vai trò chủ yếu; Là
con người với tư cách là một sinh vật có ý thức và ý chí, trong quan hệ đối lập với
thế giới bên ngoài; Là đối tượng gây ra hành động, trong quan hệ với đối tượng bị sự
chi phối của hành động, gọi là khách thể [24, Tr 173]. Để sống, để tồn tại con người
không thể tồn tại một cách đơn lẻ mà buộc phải có quan hệ với những người khác.
Quan hệ giữa người này với người khác là quan hệ xã hội và luôn được chi phối bởi
các lợi ích. Để điều hoà lợi ích giữa các chủ thể, pháp luật được coi là công cụ hữu
hiệu. Khi các quan hệ xã hội được các quy phạm pháp luật điều chỉnh thì các chủ
thể của các quan hệ xã hội đó trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật.
Chủ thể pháp luật là người hay cơ quan, tổ chức được pháp luật quy định có
năng lực pháp luật, được hưởng quyền, phải làm nghĩa vụ và phải chịu trách nhiệm
pháp lý [25].
Lý luận Mác - Lê nin về Nhà nước và pháp luật đã chỉ ra rằng chủ thể của
một quan hệ pháp luật nói chung đó chính là tổ chức, cá nhân thoả mãn được những
điều kiện do Nhà nước quy định cho mỗi loại quan hệ pháp luật. Tổ chức, cá nhân
đó được coi là có năng lực chủ thể pháp luật ( bao gồm năng lực pháp luật và năng
lực hành vi) [23, Tr 444]. Phạm vi chủ thể của mỗi ngành luật là khác nhau, điều đó
phụ thuộc vào đối tượng điều chỉnh của ngành luật đó. Mỗi ngành luật trong hệ
thống pháp luật điều chỉnh một hoặc nhiều nhóm các quan hệ xã hội cùng loại, có

những đặc điểm tương đồng và có cùng tính chất.
Luật Tố tụng dân sự Việt Nam điều chỉnh các quan hệ xã hội giữa Toà án,
Viện kiểm sát, cơ quan thi hành án, những người tham gia tố tụng và những người
liên quan, phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
Những quan hệ xã hội do Luật Tố tụng dân sự điều chỉnh luôn gắn liền với hoạt
động giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự. Các quan hệ xã hội này rất
phong phú và đa dạng, đan xen giữa các cơ quan tiến hành tố tụng với nhau, giữa cơ


5

quan tiến hành tố tụng với những người tham gia tố tụng và người liên quan, giữa
đương sự với nhau và với người liên quan. Sự phong phú, đa dạng của các quan hệ
xã hội mà Luật Tố tụng dân sự điều chỉnh đã dẫn đến tính đa dạng về mặt chủ thể
của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Tuy nhiên, không phải bất kỳ cá nhân, cơ quan, tổ chức nào cũng trở thành
chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự mà để trở thành chủ thể của quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự, các chủ thể phải đáp ứng được những điều kiện do pháp
luật tố tụng dân sự quy định. Khi cá nhân, cơ quan, tổ chức trở thành chủ thể của
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thì họ sẽ có các quyền và nghĩa vụ pháp lý do Luật
Tố tụng dân sự quy định.
Như vậy, chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các cá nhân, cơ
quan, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp luật nhất định.
1.1.2. Thành phần chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự nảy sinh
nhiều quan hệ khác nhau giữa các chủ thể: Toà án, Viện kiểm sát, cơ quan thi hành
án, những người tham gia tố tụng và những người liên quan. Các chủ thể này tham
gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự với những động cơ và mục đích khác nhau,
tuy nhiên hành vi của họ lại liên quan mật thiết với nhau tạo thành một chỉnh thể

thống nhất. Các chủ thể này là các chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự bao gồm: Toà án, Viện kiểm
sát, những người tham gia tố tụng, người liên quan, căn cứ vào mục đích tham gia tố
tụng và địa vị pháp lý của các chủ thể trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có thể
chia chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự làm các nhóm sau:
- Cơ quan tiến hành tố tụng: Khoản 1 Điều 39 BLTTDS quy định cơ quan tiến
hành tố tụng gồm có Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân.
Toà án nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng dân sự duy nhất có nhiệm vụ,
quyền hạn giải quyết các vụ việc dân sự. Theo đó, Toà án nhân dân có nhiệm vụ
quyền hạn như: thụ lý vụ việc dân sự; lập hồ sơ vụ việc dân sự; hoà giải vụ án dân sự;
quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời; tổ chức các phiên toà, phiên họp;
cấp, tống đạt các văn bản tố tụng v.v..Vì vậy, trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự
Toà án là chủ thể đặc biệt, là chủ thể chủ yếu, chủ thể có quyền lực, các quyết định
của Toà án buộc các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan phải thi hành.


6

Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng kiểm
sát các hoạt động tố tụng bảo đảm cho việc giải quyết vụ án và thi hành án được đúng
đắn và kịp thời. Để thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của toà án, cơ
quan thi hành án trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án, pháp luật tố tụng
dân sự quy định cho Viện kiểm sát có các quyền như: kiểm sát việc thụ lý, lập hồ sơ,
hoà giải vụ án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các đương sự và các chủ thể tố
tụng khác; yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị các bản án, quyết định của Toà án theo quy
định của pháp luật; tham gia phiên toà xét xử vụ án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của đương sự, cơ quan thi hành án và chấp hành viên, cá nhân, tổ chức liên quan đến
việc thi hành án; kháng nghị các quyết định về thi hành án; kiểm sát việc giải quyết
khiếu nại của toà án, cơ quan thi hành án và những người có thẩm quyền trong việc giải
quyết các khiếu nại phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án

dân sự v.v.. Khi thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đó Viện kiểm sát nhân dân là
chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự với các chủ thể khác như:
Toà án, đương sự, đại diện của đương sự...
Mặc dù Điều 39 BLTTDS không quy định cơ quan thi hành án dân sự là cơ
quan tiến hành tố tụng dân sự, nhưng theo chúng tôi thì cơ quan thi hành án cũng là
cơ quan tiến hành tố tụng. Bởi vì, việc thi hành án mang tính tài sản, dựa trên bản án,
quyết định của toà án, nó gắn liền với việc giải quyết vụ án, thi hành án là một giai
đoạn tiếp theo của giai đoạn xét xử. Mặt khác, BLTTDS mới ban hành cũng đã dành
toàn bộ Chương XXXI quy định về thủ tục thi hành bản án, quyết định của toà án.
- Những người tham gia tố tụng dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình hoặc của người khác bao gồm: đương sự, người đại diện của đương sự,
người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự.
Đương sự là chủ thể khá phổ biến trong các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đương sự phải thiết lập các quan
hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng và các chủ thể khác. Khi tham gia vào các quan
hệ pháp luật tố tụng dân sự, đương sự mặc dù ở các vị trí tố tụng khác nhau nhưng
đều bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng. Trong quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự, các đương sự thực hiện các quyền chủ quan, thể hiện ý chí của một bên
chủ thể như là quyền khởi kiện, quyền yêu cầu, quyền rút đơn khởi kiện, rút yêu
cầu, quyền kháng cáo, quyền rút đơn kháng cáo v.v.


7

Người đại diện của đương sự là người thay mặt đương sự để thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự. Người đại diện của đương sự tham gia vào
các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc
người đại diện theo uỷ quyền. Người đại diện theo quy định của pháp luật bao gồm
đại diện đương nhiên và đại diện do Toà án chỉ định. Khi tham gia vào các quan hệ
tố tụng dân sự người đại diện theo pháp luật thực hiện các quyền và nghĩa vụ của

đương sự mà người đó đại diện, còn người đại diện theo uỷ quyền chỉ thực hiện các
quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự trong phạm vi uỷ quyền.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người có đủ các điều
kiện do pháp luật quy định được đương sự yêu cầu tham gia tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ và được Toà án chấp nhận. Khi tham gia vào quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có vị
trí pháp lý độc lập với đương sự, không phải thay mặt đương sự mà tham gia tố tụng
để giúp đỡ, trợ giúp đương sự về mặt pháp lý bằng việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của mình.
- Những người tham gia tố tụng khác để hỗ trợ Toà án trong việc giải quyết
vụ việc dân sự bao gồm: người làm chứng, người giám định, người phiên dịch, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp chứng cứ cho Toà án, đương sự; cơ
quan, tổ chức có trách nhiệm chuyển giao tài liệu giấy tờ cho toà án.
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, để việc giải quyết vụ án được đúng
đắn, khách quan, toàn diện thì trong một số trường hợp cần có sự tham gia của
những người tham gia tố tụng khác mà hoạt động tố tụng của họ có tính chất hỗ trợ
cho quá trình giải quyết vụ án như hoạt động cung cấp chứng cứ của người làm
chứng, hoạt động giám định của người giám định v.v..
Như vậy, chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự rất phong phú, đa dạng
và có địa vị pháp lý khác nhau. Tuy nhiên trong số các chủ thể đó thì đương sự là
một chủ thể đặc biệt quan trọng.
1.2. Khái niệm đương sự trong vụ án dân sự
1.2.1. Khái niệm đương sự
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự thì việc xác định thành phần đương
sự, tư cách của đương sự có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Việc xác định đúng thành
phần và tư cách của đương sự là một bảo đảm để các đương sự thực hiện được các
quyền, nghĩa vụ tố tụng, bảo đảm việc giải quyết vụ án đúng đắn. Toà án giải quyết


8


vụ án dân sự thực chất là việc giải quyết các quan hệ pháp luật nội dung giữa các
đương sự, xác định quyền và nghĩa vụ trên cơ sở bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự là các bên trong quan hệ pháp luật nội dung. Vì vậy không có
đương sự thì cũng không có vụ án dân sự.
Theo Từ điển tiếng Việt [24, Tr 346]: Đương sự là người, là đối tượng trong
một vụ việc nào đó được đưa ra giải quyết. Như vậy, theo nghĩa chung nhất thì
đương sự chỉ là người, là đối tượng trong bất kỳ một vụ việc nào đó được đưa ra giải
quyết trong cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng cách định nghĩa về
đương sự như trên mới chỉ dừng lại ở phạm vi chủ thể có thể được xác định là đương
sự, là con người mà chưa xem xét đến các chủ thể khác trong thực tế cuộc sống có
thể là đương sự như: Pháp nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác.
Vụ án dân sự là những việc phát sinh tại Toà án do cá nhân, cơ quan, tổ chức
khởi kiện để yêu cầu Toà án nhân dân bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi
ích công cộng, lợi ích của nhà nước hay quyền, lợi ích hợp pháp của người khác đang
bị tranh chấp. Trong các vụ án dân sự, có một số chủ thể tham gia có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan đến việc giải quyết các vụ án dân sự, các chủ thể này tham gia vào quá
trình giải quyết vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích của mình và một số chủ thể
tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực
được giao phụ trách. Các chủ thể này được gọi là đương sự trong vụ án dân sự.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 56 BLTTDS: Đương sự trong vụ án dân sự
là cá nhân, cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan. Do vậy, các chủ thể có thể trở thành đương sự trong các vụ án dân sự
khá phong phú, đa dạng bao gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức (tổ chức có tư cách pháp
nhân và tổ chức không có tư cách pháp nhân).
Như vậy, đương sự trong vụ án dân sự là các cá nhân, cơ quan, tổ chức tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, bảo vệ lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước.
Đương sự trong các vụ án dân sự bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

1.2.2. Nguyên đơn
Nguyên đơn là một trong những đương sự quan trọng của vụ án dân sự. Việc
nguyên đơn khởi kiện hoặc các chủ thể theo quy định của pháp luật tố tụng khởi
kiện để bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn là một trong những điều kiện tiên quyết để


9

có vụ án dân sự phát sinh tại Toà án, đồng thời là cơ sở để bắt đầu quá trình giải
quyết vụ án dân sự.
Theo quy định tại khoản 2, Điều 56 BLTTDS: Nguyên đơn trong vụ án dân
sự là người khởi điện, người được cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy
định khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi
ích hợp pháp của người đó bị xâm phạm.
Cơ quan, tổ chức do Bộ luật này quy định khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu
Toà án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách
cũng là nguyên đơn.
Như vậy, trong vụ án dân sự để trở thành nguyên đơn thì cá nhân, cơ quan, tổ
chức phải đáp ứng đầy đủ hai điều kiện sau:
- Các chủ thể này cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.
Thực chất trên cơ sở bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa quyền, lợi ích của các chủ
thể này có bị xâm phạm hay không thì phải được khẳng định trong các bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật. Khi chưa có bản án quyết định của Toà án
có hiệu lực pháp luật khẳng định vấn đề đó, thì quyền và lợi ích hợp pháp của
nguyên đơn mới chỉ dừng lại là giả thiết bị xâm phạm. Về nguyên tắc, quyền lợi chỉ
có thể có được hoặc bị xâm phạm khi các chủ thể tham gia vào các quan hệ pháp
luật nội dung (quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh - thương mại, lao
động) mà nguyên đơn là một bên chủ thể.
- Ngoài điều kiện nêu trên thì cá nhân, cơ quan, tổ chức chỉ trở thành nguyên
đơn khi có việc khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình

hoặc lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách.
Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự hoặc cơ quan, tổ chức thông
qua người đại điện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự và được Toà án thụ lý vụ án thì cá
nhân, cơ quan, tổ chức đó được xác định là nguyên đơn. Trong trường hợp cá nhân là
người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự mà được người đại điện, cơ quan, tổ
chức khác theo quy định của pháp luật khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích của người
này thì người được bảo vệ quyền lợi cũng được xác định là nguyên đơn.
Bên cạnh đó, cơ quan, tổ chức do BLTTDS quy định khởi kiện vụ án dân sự
để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách
cũng được xác định là nguyên đơn.


10

Trong trường hợp cả hai bên chủ thể của một quan hệ pháp luật nội dung
đang tranh chấp mà cùng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết quan hệ nội dung
tranh chấp đó thì Toà án thụ lý đơn khởi kiện bên nào trước thì bên đó được xác
định là nguyên đơn.
1.2.3. Bị đơn
Bị đơn là chủ thể không thể thiếu trong quá trình Toà án giải quyết vụ án dân
sự. Bị đơn là chủ thể bao giờ cũng đi kèm với nguyên đơn. Khi đã xác định tư cách
nguyên đơn thì cũng đồng thời với việc xác định tư cách bị đơn. Việc tham gia tố
tụng của nguyên đơn mang tính chất chủ động, còn việc tham gia tố tụng của bị đơn
mang tính chất bị động, do bị bắt buộc tham gia tố tụng.
Khoản 3, Điều 56 BLTTDS quy định: Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị
nguyên đơn khởi kiện hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức khác do Bộ luật này quy định
khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự khi cho rằng quyền và lợi ích
hợp pháp của nguyên đơn bị người đó xâm phạm.
Như vậy, cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xác định là bị đơn trong vụ án dân sự
khi đáp ứng hai điều kiện sau:

- Là người bị nguyên đơn hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền theo
quy định của BLTTDS khởi kiện.
- Đối với nguyên đơn là người giả thiết cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp
của mình bị xâm phạm, bị tranh chấp. Vì vậy, bị đơn cũng chỉ là người được giả
thiết là có tranh chấp hay vi phạm đến quyền lợi của nguyên đơn.
Trong đa số các trường hợp thì bị đơn chính là chủ thể trực tiếp phía bên kia
trong mối quan hệ pháp luật nội dung với nguyên đơn. Ví dụ: A cho B mượn một
chiếc xe đạp, B làm mất chiếc xe đó A kiện B đòi bồi thường số tiền tương đương
với giá trị xe. A là nguyên đơn, B là bị đơn trong vụ án dân sự. Tuy nhiên trong một
số trường hợp thì để xác định bị đơn chúng ta cần phải căn cứ vào các quy định của
pháp luật nội dung để xác định trong mỗi trường hợp cụ thể ai mới là chủ thể trong
quan hệ pháp luật nội dung với nguyên đơn.
1.2.4. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
Đương sự trong vụ án dân sự không chỉ bao gồm nguyên đơn, bị đơn mà bao
gồm cả người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Bởi vì, khi giải quyết vụ án dân sự để
giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn thì có thể ảnh hưởng tới quyền, lợi


11

ích của người thứ ba. Để giải quyết vụ án toàn diện, triệt để đòi hỏi cần thiết có sự
tham gia của người thứ ba này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan hiểu một cách chung nhất là người
tham gia tố tụng vào vụ án đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khác với nguyên đơn và bị đơn. Họ
không phải là người khởi kiện, cũng không phải là người bị kiện. Việc tham gia tố
tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ
động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của Toà án. Như vậy,
để có thể xác định là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án thì các chủ

thể này phải có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự mà Toà án đang giải
quyết, đồng thời phải được Toà án đưa họ vào tham gia tố tụng do thấy cần thiết
hoặc theo yêu cầu của chính họ.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thường xuất hiện trong các vụ án khi
xuất hiện quyền đòi bồi hoàn, như: Quyền của chủ phương tiện đối với người lái xe của
họ trong trường hợp chủ phương tiện phải bồi thường cho người bị hại do người lái xe
gây ra; Quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng khi các cơ quan này đã bồi thường cho
người bị hại do hành vi trái pháp luật của người tiến hành tố tụng gây ra; Quyền, nghĩa
vụ của người thứ ba liên quan khi giải quyết chia tài sản chung với vợ chồng...
Trong khoa học pháp lý, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có hai loại:
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu độc lập hay còn gọi là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào vụ án dân sự đã xảy ra giữa nguyên đơn,
bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình việc tham gia tố tụng của họ độc
lập với nguyên đơn, bị đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập cho rằng đối tượng, phần đối tượng tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là
thuộc về họ, chứ không phải thuộc về nguyên đơn hay bị đơn, do vậy yêu cầu của họ
có thể chống lại cả nguyên đơn, bị đơn hoặc trong một số trường hợp yêu cầu của họ
chỉ chống nguyên đơn hoặc chỉ chống lại bị đơn. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp
yêu cầu của họ đều độc lập với yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn và không phụ thuộc
vào yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn. Vì có yêu cầu độc lập với cả nguyên đơn và bị


12

đơn, do vậy thông thường người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
có đủ điều kiện pháp lý để khởi kiện vụ án dân sự để Toà án giải quyết yêu cầu của
mình, nhưng do vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn, nên họ phải

tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nếu không tham gia
ngay vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn mà khởi kiện thành
vụ án dân sự khác để bảo vệ quyền lợi cho mình thì việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của họ sau đó sẽ gặp khó khăn, phức tạp hơn.
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía
nguyên đơn hoặc bị đơn là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia vào vụ
án đã xảy ra giữa nguyên đơn, bị đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình,
việc tham gia tố tụng của họ luôn phụ thuộc vào việc tham gia tố tụng của nguyên
đơn hoặc bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên
đơn hoặc bị đơn do có quyền, lợi ích luôn phụ thuộc và gắn liền với quyền, lợi ích
của nguyên đơn hoặc bị đơn nên họ không thể đưa ra yêu cầu độc lập với yêu cầu
của nguyên đơn, bị đơn mà yêu cầu của họ bao giờ cũng đi kèm và phụ thuộc vào
yêu cầu của nguyên đơn hoặc yêu cầu của bị đơn. Vì vậy, họ không thể khởi kiện để
Toà án giải quyết, mà quyền lợi của họ sẽ được giải quyết ngay trong vụ án đã phát
sinh giữa nguyên đơn và bị đơn.
1.2.5. Năng lực pháp luật và năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự
Theo lý luận Mác - Lê nin về Nhà nước và pháp luật thì hai yếu tố cấu thành
năng lực chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là năng lực pháp luật và năng
lực hành vi tố tụng dân sự [23, Tr 445]. Đương sự là một loại chủ thể tham gia vào
quá trình tố tụng, vì vậy để tham gia vào quá trình này thì đương sự phải có năng lực
pháp luật tố tụng dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự là khả năng pháp luật quy
định cho các cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có các quyền và nghĩa
vụ tố tụng dân sự.
Giữa năng lực pháp luật tố tụng dân sự và năng lực pháp luật dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Trong đó năng lực pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình... là cơ sở của năng
lực pháp luật tố tụng dân sự, hay nói cách khác thì năng lực pháp luật tố tụng dân sự



13

là biểu hiện quyền năng của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự trong việc
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Toà án.
Nội dung của năng lực pháp luật tố tụng dân sự của đương sự là toàn bộ các
quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự mà đương sự có được theo quy định của pháp luật.
Đặc trưng cơ bản của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là các chủ thể có quyền bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ. Vì vậy để việc giải quyết vụ án được đúng đắn và khách
quan pháp luật tố tụng dân sự quy định: Mọi cá nhân, tổ chức có năng lực pháp luật
tố tụng dân sự như nhau trong việc yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình (khoản 1, Điều 57 BLTTDS).
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân là khả năng pháp luật quy định
cho cá nhân có các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự, do đó năng lực pháp luật tố
tụng dân sự của cá nhân bao giờ cũng gắn liền với sự tồn tại của cá nhân. Năng lực
pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi cá
nhân đó chết. Như vậy, năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân chính là thuộc
tính gắn liền với cá nhân suốt đời và không bị ảnh hưởng bởi trạng thái tinh thần,
tuổi tác, hoàn cảnh, tài sản... mọi cá nhân đều bình đẳng về năng lực pháp luật tố
tụng dân sự.
Năng lực pháp luật tố tụng dân sự của tổ chức xuất hiện khi tổ chức đó được
thành lập và chấm dứt khi tổ chức đó không còn tồn tại. Năng lực pháp luật tố tụng
dân sự của tổ chức và năng lực pháp luật tố tụng dân sự của cá nhân với tư cách là
đương sự là như nhau, bình đẳng với nhau trong việc hưởng quyền và gánh chịu
nghĩa vụ tố tụng dân sự.
Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự là khả năng bằng hành vi của
mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân
sự khác với năng lực pháp luật tố tụng dân sự. Trong khi năng lực pháp luật tố tụng
của các đương sự là bình đẳng ngang nhau, thì năng lực hành vi là yếu tố luôn có sự
biến động và được xác định ở các mức độ khác nhau.

Năng lực hành vi tố tụng dân sự có mối liên hệ mật thiết với năng lực hành vi
dân sự, hôn nhân - gia đình, kinh doanh - thương mại, lao động, trong đó thông
thường một chủ thể chỉ được xác định là có năng lực hành vi tố tụng dân sự nếu chủ
thể đó đã có năng lực hành vi dân sự, hôn nhân - gia đình, kinh doanh - thương mại,
lao động. Tuy nhiên năng lực hành vi dân sự chỉ là một trong các điều kiện để có
năng lực hành vi tố tụng dân sự.


14

Đối với cá nhân thì năng lực hành vi tố tụng dân sự của họ được xác định dựa
trên cơ sở khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân đó và
trên cơ sở tính chất, yêu cầu của việc tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án dân sự là một quá trình phức tạp bao gồm nhiều thủ tục,
nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau, trong đó đương sự có thể tham gia ở tất cả các
giai đoạn khác nhau của quá trình đó để thực hiện những quyền và nghĩa vụ tố tụng.
Vì vậy, muốn bảo vệ được quyền và lợi ích của mình trước Toà án, thì đương sự phải
có khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình như việc tham gia vào các
quan hệ pháp luật nội dung, đồng thời đương sự phải có sự hiểu biết sâu sắc về pháp
luật nội dung và pháp luật tố tụng và ít nhiều phải có những kinh nghiệm nhất định.
Mặt khác, khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền,
nghĩa vụ dân sự có thể xác định ở các mức độ khác nhau tuỳ thuộc vào tính chất,
hành vi, mức độ các quyền và nghĩa vụ dân sự mà họ thực hiện, còn để có thể bằng
hành vi của mình tự mình thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự đòi hỏi ở khả
năng đầy đủ, toàn diện, hoàn thiện. Do vậy, thông thường cá nhân chỉ được coi là có
năng lực hành vi tố tụng dân sự khi đã đủ mười tám tuổi trở lên, không bị mất năng
lực hành vi dân sự (khoản 3, Điều 57 BLTTDS). Đối với người chưa đủ mười tám
tuổi, người bị mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng dân
sự, trường hợp này người đại diện hợp pháp của họ là người thay mặt họ để thực hiện
những quyền và nghĩa vụ tố tụng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương

sự trước Toà án ( khoản 4, 5, 6 Điều 57 BLTTDS).
Tuy nhiên, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam cũng có quy định một số
trường hợp ngoại lệ, như trường hợp người vợ từ đủ mười bảy tuổi nhưng chưa đủ
mười tám tuổi trong vụ án xin ly hôn hoặc trong trường hợp đương sự là người từ đủ
mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đã tham gia lao động theo hợp đồng lao
động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình. Đối với những trường hợp
này, mặc dù người vợ từ đủ mười bảy tuổi nhưng chưa đủ mười tám tuổi hoặc người
từ đủ mười lăm tuổi nhưng chưa đủ mười tám tuổi vẫn được coi là có năng lực hành
vi tố tụng dân sự về việc ly hôn, việc có liên quan đến quan hệ lao động hoặc quan
hệ dân sự đó (khoản 6 Điều 57 BLTTDS).


15

1.3. Lược sử các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về đương sự trong vụ án dân sự
Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam được hình thành và phát triển ngay sau khi
Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời. Qua các giai đoạn lịch sử khác nhau,
các quy định pháp luật của luật tố tụng đã có những bước phát triển đáng kể và
không ngừng hoàn thiện để phù hợp tình hình đất nước qua từng thời kỳ. Các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về đương sự trong vụ án dân sự cũng
không ngừng được thay đổi, hoàn thiện. Có thể xem xét quá trình hình thành và phát
triển của các quy định về đương sự trong hệ thống pháp luật nước ta qua hai giai
đoạn sau:
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà ra đời, ngay sau đó ngày 10/10/1945 Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh
47/SL cho giữ tạm thời các luật lệ hiện hành của chế độ cũ (Sắc lệnh này cho phép
áp dụng nội dung pháp luật của chế độ cũ nhưng lại không đề cập đến việc cho phép
áp dụng pháp luật tố tụng). Ngoài ra, nhà nước ta còn ban hành hàng loạt các Sắc

lệnh trong đó cho phép Toà án áp dụng thủ tục tố tụng để giải quyết tranh chấp dân
sự như: Sắc lệnh 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Toà án và các ngạch Thẩm
phán; Sắc lệnh 51/SL ngày 17/04/1946 quy định thẩm quyền của các Toà án; Sắc
lệnh 112/SL ngày 28/06/1946 bổ sung Sắc lệnh 51/SL; Sắc lệnh 130/SL ngày
19/07/1946 quy định thể thức thi hành án; Sắc lệnh 85/SL ngày 22/05/1950 cải cách
bộ máy tư pháp và luật tố tụng; Sắc lệnh 159/SL ngày 07/11/1950 quy định vấn đề ly
hôn [16].
Nhìn chung trong giai đoạn 1945 đến 1954 trong điều kiện kháng chiến, các
Sắc lệnh nêu trên chủ yếu quy định chung về thủ tục tố tụng dân sự mà không quy
định cụ thể về đương sự trong vụ án dân sự. Sau khi kháng chiến thắng lợi, năm
1954 Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản tố tụng quy định về các vấn đề như: Tư
cách đương sự trong vụ án dân sự; năng lực hành vi tố tụng dân sự của đương sự;
quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự.
* Về tư cách đương sự trong vụ án dân sự
Nhìn chung, các văn bản pháp luật tố tụng trong thời kỳ này đều quy định
đương sự trong vụ án dân sự bao gồm: Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan.


16

- Về nguyên đơn: Tại Công văn số 05/NCPL ngày 29/06/2966 của Toà án
nhân dân Tối cao về tư cách bị đơn có nêu: Địa vị tố tụng của mỗi đương sự trong
một vụ kiện phản ánh quan hệ giữa các đương sự với nhau trong một quan hệ pháp
luật nhất định nào đó: Người có quyền lợi bị xâm phạm ra trước Toà án với tư cách
là nguyên đơn. Sau đó tại Công văn số 546/DS ngày 07/07/1967 đã nêu: Thông
thường khi Viện kiểm sát nhân dân khởi tố một vụ kiện về dân sự đòi bồi thường,
bồi hoàn cho một cơ quan nhà nước hay một hợp tác xã thì Toà án cần đưa cơ quan
nhà nước hay hợp tác xã vào đứng là nguyên đơn trong vụ kiện...vì họ là đương sự
chính trong vụ kiện. Ngoài ra tại Công văn số 125/NCPL ngày 12/07/1989 của Toà

án nhân dân Tối cao trả lời về tố tụng dân sự có hướng dẫn: Đối với vụ kiện dân sự
đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà hai bên đều phải bồi thường cho nhau
thì việc xác định tư cách đương sự cũng giống như đối với các vụ kiện khác là: Toà
án căn cứ vào việc bên nào khởi tố trước là nguyên đơn[16].
Như vậy, chúng ta có thể thấy những văn bản nêu trên đã xác định điều kiện
để trở thành nguyên đơn trong vụ kiện dân sự là cá nhân, pháp nhân có quyền lợi bị
xâm phạm, đã khởi kiện hoặc được Viện kiểm sát khởi tố.
- Về bị đơn: Cũng tại Công văn số 05/NCPL ngày 29/06/1986 của Toà án
nhân dân Tối cao về tư cách bị đơn trong vụ kiện dân sự, đã khẳng định: ...người có
nghĩa vụ hoặc phải chịu trách nhiệm tham gia vụ kiện ở vị trí bị đơn, đồng thời
Công văn này cũng xác định: Cha mẹ là người phải chịu trách nhiệm dân sự về
hành vi của con cái vị thành niên là bị đơn trong vụ kiện đòi bồi thường thiệt hại do
người vị thành niên gây lên. Khi ấy người vị thành niên (không phải là đương sự)
tham gia vụ kiện chỉ để khai về hành vi của mình đã gây thiệt hại cho người khác.
Ngoài ra trường hợp một vị thành niên học việc ở một công xưởng gây thiệt hại cho
người khác trong khi làm việc ở xưởng khi ấy công xưởng là bị đơn. Tuy nhiên
trong trường hợp vị thành niên có công ăn việc làm sống độc lập về kinh tế đối với
cha mẹ và Toà án xét thấy người này có khả năng bồi thường thì người này phải tự
mình bồi thường, trong trường hợp này người vị thành niên là bị đơn. Trường hợp họ
không có đủ tài sản để bồi thường, thì cha mẹ(hay người giám hộ) phải bù phần còn
thiếu, trường hợp này cha mẹ hay(người giám hộ) của người chưa thành niên phải
tham gia vụ kiện ở vị trí bị đơn cùng với người vị thành niên.
Theo hướng dẫn tại Công văn số 96/NCPL ngày 08/02/1977 của Toà án nhân
dân Tối cao thì: Người chưa thành niên từ mười sáu đến mười tám tuổi đã gây thiệt


17

hại cho người khác phải chịu trách nhiêm về dân sự theo nguyên tắc chung. Do đó,
nếu họ đã có tiền lương, thu nhập trong hợp tác xã hoặc đã có tài sản riêng(được

thừa kế, được tặng cho...) thì họ phải bồi thường bằng tài sản của họ. Nếu họ không
có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải
bồi thường hoặc bồi thường bổ sung. Do đó, tuỳ từng trường hợp, cha mẹ hoặc người
giám hộ tham gia tố tụng là đại diện bị đơn hoặc đồng bị đơn(nếu phải bồi thường
hoặc bồi thường bổ sung).
Người chưa thành niên dưới mười sáu tuổi không có năng lực về tố tụng dân
sự cho nên trong trường hợp phải bênh vực những quyền lợi của họ, cha mẹ hoặc
người giám hộ là người đại diện cho họ trong vụ kiện. Nếu người chưa thành niên
dưới 16 tuổi gây thiệt hại cho người khác thì cha mẹ hoặc người giám hộ phải bồi
thường thiệt hại bằng tài sản của mình kể cả trường hợp người chưa thành niên đã có
tài sản riêng. Trong trường hợp này cha mẹ hoặc người giám hộ là bị đơn và nếu cần
phải gọi người chưa thành niên để xét hỏi thì họ là người gây thiệt hại nhưng
không phải là bị đơn và họ không có những quyền tố tụng của đương sự.
Cách xác định tư cách bị đơn của người vị thành niên nêu trên đã được qui
định cụ thể tại Nghị quyết 01/NQ/HĐTP của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân
Tối cao ngày 20/01/1988 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và
Gia đình 1986. Nghị quyết này đã quy định: Người chưa thành niên dưới mười sáu
tuổi gây thiệt hại cho người khác thì cha mẹ là bị đơn...người chưa thành niên từ
mười sáu đến dưới tám tuổi chịu trách nhiệm bồi thường bằng tài sản riêng của mình
thì họ là bị đơn, nhưng cha mẹ phải được tham gia tố tụng với tư cách là đại diện
hợp pháp của bị đơn. Nếu tài sản của con không đủ để bồi thường thì cha mẹ là đồng
bị đơn, nếu con không có tài sản thì cha mẹ là bị đơn[16].
- Về người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Theo hướng tại Công văn
1111/NCPL ngày 13/07/1963 của Toà án nhân dân Tối cao về thủ tục xử chia tài sản
trong ly hôn giữa vợ chồng còn ăn ở chung với bố mẹ chồng thì khi: Xử chia tài sản
giữa vợ chồng...mà ngay từ sơ thẩm không mời bố mẹ chồng tham gia vụ kiện với tư
cách là người dự sự là không đảm bảo quyền tố tụng của những người này và không
thể xét xử đúng đắn được.... Người dự sự ở đây được hiểu là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án. Mặt khác, tại Thông tư số 03/NCPL ngày
03/03/1966 của Toà án nhân dân Tối cao về trình tự giải quyết việc ly hôn có nêu:

... nếu là tài sản chung của vợ, chồng đương sự và của cả người khác thì khi xử Toà


18

án phải mời những người khác này ra với tư cách là người có quyền lợi liên quan.
Tiếp đó, Báo cáo tổng kết công tác năm 1967 của Toà Dân sự Toà án nhân dân Tối
cao cũng đề cập: Về thủ tục xét xử thì về loại việc ly hôn đối với một bên đi công
tác xa là thuộc quyền của Toà án nhân dân tỉnh, thành và khi xử cần báo cho Viện
kiểm sát nhân dân cử đại diện đến tham gia, mời gia đình của người đi công tác xa
đến dự phiên toà và đưa họ vào dự sự trong trường hợp người vợ có xin đòi bồi
thường công sức...[16].
* Về việc xác định năng lực hành vi tố tụng dân sự;
Theo quy định tại Công văn số 07/NCPL ngày 30/09/1966 của Toà án nhân
dân Tối cao về thủ tục xét xử việc ly hôn đối với người mất trí thì: Khi xét xử tại
phiên toà, người mất trí sẽ do người đại diện thay mặt.... Ngoài ra, Báo cáo tổng kết
công tác năm 1967 của ngành Toà án nhân dân có đề cập: Theo một nguyên tắc
thông thường về thủ tục tố tụng thì trẻ vị thành niên do không có năng lực hành vi,
nên không thể tham gia vụ kiện với tư cách là nguyên đơn, hay bị đơn hay người dự
sự.... Tại Thông tư số 39/NCPL ngày 21/01/1972 của Toà án nhân dân Tối cao hướng
dẫn việc thụ lý, xếp và tạm xếp những việc kiện về hôn nhân và gia đình và tranh chấp
về dân sự có nêu: Người vị thành niên không có năng lực hành vi. Vì vậy, nếu quyền
lợi của họ bị xâm phạm, người giám hộ có quyền đi kiện thay cho họ. Cơ quan, xí
nghiệp, hợp tác xã, đoàn thể nhân dân đi kiện phải có tư cách pháp nhân.
Sau đó, Công văn số 96/NCPL ngày 08/02/1977 của Toà án nhân dân Tối
cao hướng dẫn trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự có hướng dẫn khá cụ thể, chi tiết về
năng lực hành vi của đương sự. Theo Công văn này thì nguyên tắc chung có thể xác
định: Chỉ có người thành niên (từ đủ mười tám tuổi trở lên) mới có năng lực hành vi
về tố tụng dân sự, còn những người chưa thành niên (dưới mười tám tuổi) thì nói
chung chưa có năng lực hành vi về tố tụng dân sự, do đó họ phải có người đại diện

tham gia tố tụng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, những người chưa thành niên
từ mười sáu đến mười tám tuổi cũng đã có năng lực hành vi hạn chế về tố tụng dân
sự. Cụ thể:
- Đối với người chưa thành niên từ mười sáu đến mười tám tuổi đã vào hợp
tác xã, hoặc đã lao động học nghề, sản xuất trong xí nghiệp, họ đã có nhu cầu riêng,
thì có quyền là đương sự độc lập trong những vụ kiện có liên quan đến quan hệ lao
động của họ. Nếu xét thấy cần thiết thì Toà án nhân dân mới triệu tập cha mẹ hoặc


19

người giám hộ của họ tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện cho đương sự
chưa thành niên để giúp đỡ bênh vực quyền lợi của họ.
- Với các việc khác, khi cần phải bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên
từ mười sáu đến mười tám tuổi, họ không có quyền tham gia tố tụng một cách độc
lập mà phải có người đại diện tham gia tố tụng, trường hợp này họ được xác định là
đương sự.
Người chưa thành niên, người mất trí là người không có năng lực hành vi tố
tụng dân sự. Tuy nhiên, khi giải quyết các vụ án dân sự liên quan đến quyền lợi của
những người này thì họ là đương sự, còn trong các vụ án mà họ là người gây ra thiệt
hại thì họ không được coi là đương sự, mà người có trách nhiệm bồi thường mới
được gọi là đương sự [16].
* Về quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự
Các văn bản tố tụng trong giai đoạn này đã quy định đương sự có các quyền
tố tụng: Quyền khởi kiện ...Đương sự có quyền đưa đơn trực tiếp đến Toà án, mặc
dù việc bất hoà trong gia đình chưa được tổ hoà giải hoặc uỷ ban hành chính xã giải
quyết. Khi nhận đơn Toà án phải thụ lý để giải quyết hoặc trực tiếp điều tra, hoà giải
hoặc giao lại cho uỷ ban hành chính xã cùng với tổ hoà giải tiến hành trước công
tác hoà giải với sự theo dõi và hướng dẫn của Toà án (Mục 3, phần III Thông tư số
03/NCPL ngày 3/3/1966 của Toà án nhân dân Tối cao về trình tự giải quyết việc ly

hôn); Quyền thay đổi yêu cầu khởi kiện Đương sự cũng có quyền thay đổi trước
khi Toà án quyết định (Thông tư số 614/DS ngày 24/04/1963 của Toà án nhân dân
Tối cao hướng dẫn một số thủ tục cho Toà án địa phương) hay Nếu đương sự tự
nguyện giảm hoặc không đòi những quyền lợi của mình (như đòi nợ, bồi thường
thiệt hại...) mà việc đó không có xâm phạm lợi ích chung thì Toà án nhân dân phải
tôn trọng ý kiến của họ (Mục A phần thứ nhất Công văn số 96/NCPL ngày
08/2/1977 của Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân
sự); Quyền hoà giải được hướng dẫn trong các văn bản như: Công văn số 439/NCPL
ngày 10/4/1964 của Toà án nhân dân Tối cao thể thức chấp nhận sự thoả thuận của
đôi bên đương sự khi việc đã đến cấp phúc thẩm có hướng dẫn: ... Nếu đến giai
đoạn xét xử phúc thẩm các bên đương sự tỏ ý muốn thoả thuận với nhau để chấm
dứt vụ tranh chấp bằng hoà giải, thì toà phúc thẩm sẽ cho họ trình bày nội dung việc
thoả thuận trước Toà án. Sau khi đã nghe lời trình bày của các đương sự và lời phát
biểu của đại diện Viện kiểm sát, nếu thấy việc thoả thuận phù hợp với pháp luật,


20

chính sách, thì toà phúc thẩm sẽ ra bản án phúc thẩm, chấp nhận sự thoả thuận đó và
chấm dứt vụ kiện...
Nếu xét thấy việc thoả thuận của đương sự không phù hợp với pháp luật,
chính sách, thì toà phúc thẩm không chấp nhận sự thoả thuận đó và tiến hành xét
việc kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục chung.... Thông tư số 03/NCPL ngày
3/3/1966 của Toà án nhân dân Tối cao về trình tự giải quyết việc ly hôn hướng dẫn:
Để chia đồ vật cho bên nào (chia tài sản chung) Toà án căn cứ vào sự thoả thuận
của đôi bên và Trường hợp bản án sơ thẩm xử cho ly hôn, nhưng khi việc đến Toà
án cấp trên mà người bị kiện lại xin thuận tình ly hôn thì Toà án phúc thẩm sẽ công
nhận bằng bản án phúc thẩm sự tự nguyện ly hôn nếu xét họ thực sự tự nguyện có
căn cứ và sự thoả thuận là hợp lý, hợp tình về các vấn đề phụ thuộc..; Quyền yêu
cầu Toà án nhân dân làm sáng sỏ sự thật ...Bên bị cũng như bên nguyên có quyền

yêu cầu Toà án thi hành mọi phương sách cần thiết để chứng tỏ sự thật... (Điều 20
Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 ấn định thẩm quyền của Toà án và sự phân công giữa
các nhân viên trong toà); Quyền cáo tỵ của đương sự Đương sự có quyền yêu cầu
Toà án thay đổi Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân dân, nếu thấy người này có quan hệ
với vụ án có thể làm cho việc xét xử vụ án không được công bằng. Việc thay đổi này
do Chánh án Toà án nhân dân xét và quyết định... (Điều 14 Luật Tổ chức Toà án
nhân dân ngày 14/7/1960); Quyền yêu cầu Toà án áp dụng những biện pháp khẩn
cấp tạm thời được hướng dẫn trong các văn bản: Thông tư số 39/NCPL ngày
21/1/1972 của Toà án nhân dân Tối cao: ...Nếu xét thấy cần thiết, sau khi đã được
sự thoả thuận của Chánh án Toà án nhân dân, Thẩm phán phụ trách điều tra, hoà
giải vụ kiện, có thể ra quyết định về những biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo đảm
những quyền lợi chính đáng của đương sự. Tuỳ trường hợp, thẩm phán có thể áp
dụng những biện pháp khẩn cấp tạm thời ngay khi có yêu cầu của một bên đương sự
hoặc có thể triệu tập hai bên để nghe lời những khai của họ rồi mới quyết định...,
Thông tư số 03/NCPL ngày 3/3/1966 của Toà án nhân dân tối cao: ...Toà án chỉ áp
dụng một hoặc nhiều biện pháp khẩn cấp tạm thời khi đương sự có yêu cầu và khi
Toà án xét là cần thiết, trừ đối với vấn đề chịu phí tổn nuôi con thì Toà án được
quyết định khi xét thấy cần thiết ...; Quyền xin hoãn phiên toà nếu có lý do chính
đáng được hướng dẫn tại Công văn số 669/HĐTP ngày 8/4/1958 của Bộ Tư pháp:
... nếu bị can hay đương sự xin hoãn phiên toà để cung cấp thêm bằng chứng hoặc
yêu cầu Toà án điều tra thêm thì lời yêu cầu của họ cũng cần xem xét ...; Quyền


21

kháng cáo được quy định tại Điều 6, Luật T chức Toà án nhân dân ngày 14/7/1960:
Toà án nhân dân thực hành chế độ hai cấp xét xử. Đương sự có quyền chống bản án
hoặc quyết định của Toà án nhân dân xử sơ thẩm lên Toà án nhân dân trên một
cấp..., Điều 1 Sắc lệnh số 112/SL ngày 28/6/1946 quy định: Trong những trường
hợp mà theo pháp luật hiện hành các người đương sự có quyền kháng cáo....

Để khái quát, tập hợp và chi tiết các quyền của đương sự quy định trong các
văn bản nêu trên, tại Thông tư số 96/NCPL ngày 8/2/1977 của Toà án nhân dân Tối
cao đã hướng dẫn: Nguyên đơn, bị đơn, người dự sự có những quyền sau đây:
- Được Toà án nhân dân cho xem hoặc sao chép đơn từ, tài liệu của các
đương sự khác, nhân chứng, giám định viên ... nếu nhận thấy cần thiết cho đương sự
chuẩn bị chứng cứ, lý lẽ để bảo vệ những quyền lợi của họ và việc đó không gây khó
khăn cho việc điều tra, hoà giải...
- Được đề xuất yêu cầu, bổ sung yêu cầu hoặc thay đổi yêu cầu của việc kiện.
- Được đề xuất chứng cứ và những yêu cầu về điều tra hoặc về biện pháp
khẩn cấp tạm thời cần được Toà án nhân dân giải quyết.
- Được xin cáo tỵ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân hoặc người phiên dịch.
- Được đề xuất những câu hỏi trong khi Toà án nhân dân thẩm vấn tại phiên
toà và được tham gia cuộc tranh luận.
- Được rút đơn kiện hoặc hoà giải với nhau.
- Được kháng cáo, kháng án theo những quy định của pháp luật, những người
dự sự chỉ được kháng cáo những vấn đề liên quan đến quyền lợi của họ.
Nếu một bên đương sự chết thì người thừa kế của họ có quyền yêu cầu tham
gia tố tụng thay thế cho người đã chết, hoặc Toà án nhân dân có quyền tự mình
quyết định người thừa kế tham gia tố tụng thay thế cho người đã chết, trừ trường hợp
người được gọi thay thế đó không nhận thừa kế.
Như vậy, có thể thấy các văn bản pháp luật tố tụng trong giai đoạn này tuy
còn rất tản mạn, thiếu tính tập trung, cụ thể, nhưng cũng đã bước đầu quy định được
khá đầy đủ các quyền tố tụng cơ bản của đương sự trong vụ án dân sự.
Bên cạnh quy định quyền tố tụng của đương sự, các văn bản tố tụng trong
giai đoạn này còn xác định nghĩa vụ pháp lý của đương sự. Cụ thể:
- Nghĩa vụ chứng minh: Trong Đề án năm 1964 của Toà án nhân dân Tối cao
về chuyển hướng tổ chức Toà án địa phương có nêu: ...Trong các vụ kiện về dân sự,
các bên đương sự có trách nhiệm chứng minh các yêu cầu của mình và đề xuất các



×