Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

VI PHẠM QUYỀN sở hữu KIỂU DÁNG CÔNG NGHIỆP THỰC TRẠNG và BIỆN PHÁP xử lý ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (996.55 KB, 84 trang )

BỘ TƢ P HÁP

BỘ GIÁO DỤC VA ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

DƢƠNG THỊ MAI HOA

VI PHẠM QUYỀN SỞ HỮU KIỂU DÁNG
CÔNG NGHIỆP- THỰC TRẠNG VÀ
BIỆN PHÁP XỬ LÝ Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NG ÀNH : LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60.38.50

LUẬN VĂN TH ẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS. PHẠM DUY NGHĨA

HÀ NỘI, NĂM 2006


LỜI CẢM Ơ N

Tôi xin trân trọng cảm ơn Phó Giáo sư, Tiến sỹ Phạm Duy Nghĩa – nguời đã
định hướng về mặt khoa học và chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt quá trình nghiên
cứu đề tài và hoàn chỉnh luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Sau Đại học – Trường
đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong thời gian học tập,
nghiên cứu tại Trườn g. Tôi xin cảm ơn một số chuyên viên của Cục Sở hữu trí tuệ và


Cục Quản lý thị trường đã cho tôi nhiều thông tin hữu ích, ý kiến đóng góp quý báu
để hoàn thành đề tài nghiên cứu này.

Tác giả

Dương Thị Mai Hoa


MỤC LỤC

Trang
Lời nói đầu

1

Chƣơng 1. một số vấn đề lý luận về bảo hộ quyền sở

6

hữu kiểu dáng công nghiệp, nhận diện vi
phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp
và biện pháp xử lý
1.1

Khái quát về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp

6

1.2


M ột số vấn đề lý luận về kiểu dáng công nghiệp và bảo hộ quyền sở

8

hữu kiểu dáng công nghiệp
1.3

Nhận diện vi phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp và xử lý vi

16

phạm
Chƣơng 2. Thực trạng vi phạm quyền sở hữu kiểu dán g

26

công nghiệp và biện pháp xử lý ở việt nam
2.1

Thực trạng vi phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp

26

2.2

Thực trạng xử lý các vi phạm về quyền sở hữu kiểu dáng công

33

nghiệp ở Việt Nam

Chƣơng 3. phƣơng hƣớng và mộ t số giải pháp hoàn

54

thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu
kiểu dáng công nghiệp
3.1

Những đòi hỏi khách quan của việc hoàn thiện pháp luật về bảo hộ và

54

thực thi quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở hữu kiểu dáng công
nghiệp
3.2

Phương hướng hoàn thiện

57

3.3

M ột số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu kiểu

59

dáng công nghiệp
Kết luận

67


Danh mục tài liệu tham khảo

69

Phụ lục


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS 1995

Bộ Luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 1995

BLDS 2005

Bộ Luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2005

Công ước Paris

Công ước Paris về bảo hộ sở hữu công nghiệp được ký kết tháng
3/1883 tại Paris, được xem xét lại Brussels năm 1900, tại
Washington năm 1991, tại Lahay năm 1925, tại London năm
1934, tại Lisbon năm 1958, tại Stockholm năm 1967 và được sửa
đổi vào năm 1979.

ĐUQT

Điều ước quốc tế

EU


Liên minh C hâu Âu

Hiệp định thương

Hiệp định giữa CHXHCN Việt Nam và Hợp chủng quốc H oa Kỳ

mại Việt Nam-Hoa

về quan hệ thương mại, có hiệu lực từ 10/12/2001

kỳ
KDCN

Kiểu dáng công nghiệp

Nghị định 63/CP

Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ quy định
chi tiết về SHCN

NHHH

Nhãn hiệu hàng hóa

SHCN

Sở hữu công nghiệp

SHTT


Sở hữu trí tuệ

Thông tư 29

Thông tư số 29/2003/TT - BKHCN ngày 05/11/2003 của Bộ
Khoa học và Công nghệ hướng dẫn thực hiện các thủ tục xác lập
quyền SHCN đối với KDCN.

Thỏa ước La Hay

Thỏa ước La Hay về đăng ký quốc tế KDCN, được thông qua
trong khuôn khổ Công ước Paris vào ngày 6/11/1925 và bắt đầu
có hiệu lực từ ngày 01/6/1928.

TRIPS

Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền
SHTT.

WIPO

Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới

WTO

Tổ chức Thương mại thế giới


LỜI NÓI ĐẦU


1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong nền kinh tế tri thức hiện nay, sở hữu trí tuệ (intellectual property) là yếu
tố rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nói chung và của doanh
nghiệp nói riêng. Các sản phẩm trí tuệ là kết quả của sự đổi mới và sáng tạo không
ngừng của con người, nó mang lại giá trị vô cùng to lớn đối với mỗi quốc gia. Việc
các sản phẩm tài sản trí tuệ bị chiếm đoạt là nguy cơ có tính chất tự nhiên, thường
xuyên và ngày càng gia tăng ở mức độ báo động trong nền kinh tế thị trường. Một cơ
chế pháp luật hữu hiệu nhằm bảo hộ quyền SHTT và thúc đẩy sáng tạo trở thành đòi
hỏi tất yếu của quá trình phát triển.
ở Việt Nam, với mong muốn thúc đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế và gia
nhập WTO, trong những năm qua Chính phủ Việt Nam đã chú trọng phát triển hệ
thống pháp luật về SHTT, đặc biệt là hoàn thiện các văn bản pháp luật, từng bước đổi
mới tổ chức, cơ chế bảo hộ thực thi quyền SHTT theo hướng SHTT của Việt Nam
phù hợp, đảm bảo tính đầy đủ và có hiệu quả. Việt Nam đã bảo hộ gần như tất cả các
đối tượng SHTT mà Hiệp định TRIPS yêu cầu “sáng chế, giải pháp hữu ích, KDCN,
NHHH và các đối tượng khác do pháp luật quy định” (Điều 781 - BLDS 1995). Cơ
chế đảm bảo thực thi quyền SHTT đã được xây dựng tương đối đầy đủ, các cơ quan
thực thi hoạt động đã bước đầu phát hu y hiệu quả.
Tuy nhiên, tình trạng vi phạm quyền SHTT ở Việt Nam hiện nay đã và đang trở
thành một vấn đề nhức nhối đối với các nhà sản xuất, các cơ quan quản lý Nhà nước
cũng như toàn xã hội. Sự nỗ lực trong cuộc đấu tranh chống lại các hành vi vi phạm
quyền SHTT của các cơ quan, các ngành và toàn xã hội trong thời gian qua là rất lớn
nhưng hiệu quả đạt được còn rất hạn chế. Xâm phạm quyền SHTT đã trở thành vấn
nạn, đặc biệt là các vi phạm đối với các đối tượng SHCN - một bộ phận quan trọng
của quyền SHTT.
Bên cạnh rất nhiều sản phẩm hàng hoá bị vi phạm về nhãn hiệu, vi phạm về
KDCN là một trong những vi phạm có tính chất điển hình trong thời gian gần đây và
có ảnh hưởng tiêu cực đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
Trong cuộc sống hiện đại, mọi hoạt động của con người từ ăn, ngủ, mặc, đi lại

đến môi trường làm việc, vui chơi giải trí đều có sự tham gia của kiểu dáng và
KDCN.
1


Có thể nói, kiểu dáng, KDCN bao trùm toàn bộ cuộc sống, phục vụ cuộc sống ngày
một tiện ích hơn và tốt đẹp hơn. Đặc biệt, trong nền kin h tế thị trường với sự cạnh
tranh gay gắt để tồn tại thì vấn đề kiểu dáng của sản phẩm càng được chú trọng hơn
bao giờ hết. Đó là vấn đề sống còn của một sản phẩm, của một ngành, thậm chí quyết
định số phận của một doanh nghiệp. Trước sự lựa chọn phong phú của các sản phẩm
hiện nay, người tiêu dùng phải đắn đo, cân nhắc và sự lựa chọn cuối cùng sẽ dành cho
các sản phẩm có chất lượng tốt và mẫu mã đẹp, nói một cách khác là chất lượng và
kiểu dáng là hai tiêu chí quyết định. Vì vậy, về mặt hình thức, kiểu dán g chính là yếu
tố đầu tiên hấp dẫn người tiêu dùng, dễ dàng được nhận biết và do đó, cũng dễ dàng
bị sao chép, bị làm giả.
Từ trước đến nay, chúng ta mới chỉ nhìn nhận tác động tiêu cực của hành vi
xâm phạm quyền SHCN nói chung và xâm phạm quyền sở hữu đối với KDCN nói
riêng dưới góc độ tác hại của nó đối với sức khoẻ, lợi ích của người tiêu dùng và đối
với hoạt động kinh doanh của từng chủ thể mà chưa nhận thấy những tác hại, ảnh
hưởng mang tính vĩ mô đến sự phát triển của nền kinh tế. Đó là làm thụt lùi s áng tạo,
tiến bộ kỹ thuật.
M ột ảnh hưởng nữa cũng không kém phần quan trọng là tình trạng vi phạm đã
gián tiếp làm giảm uy tín của Việt Nam trên thị trường quốc tế, tạo ra một hình ảnh
xấu về Việt Nam, mất niềm tin của các nhà đầu tư của nước ngoài vào Việ t Nam
thông qua việc nhìn nhận và đánh giá môi trường đầu tư và chuyển giao công nghệ.
Như vậy, tác động tiêu cực của tình trạng vi phạm quyền SHCN, trong đó có quyền
sở hữu KDCN không chỉ dừng lại ở phạm vi trong một quốc gia hay một lãnh thổ, mà
trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hoá, sự tác động đó đã được
nâng lên ở tầm vĩ mô và mang tính quốc tế.
Xuất phát từ thực tiễn trong nước cũng như đòi hỏi từ phía quốc tế, việc đấu

tranh để ngăn chặn một cách hiệu quả tình trạng vi phạm quyền S HTT nói chung,
quyền SHCN nói riêng và đặc biệt là vi phạm quyền sở hữu KDCN ngày càng đặt ra
cấp thiết hơn bao giờ hết.
Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Vi phạm quyền sở
hữu kiểu dáng công nghiệp- thực trạng và biện pháp xử lý ở V iệt Nam” với
mong muốn góp phần phản ánh đầy đủ và toàn diện hơn tình trạng vi phạm quyền sở
hữu KDCN ở nước ta hiện nay, làm phong phú hơn về mặt lý luận và kinh nghiệm
thực tiễn trong việc bảo hộ và thực thi quyền SHCN ở Việt Nam.

2


2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Trên thế giới
Pháp luật về SHTT trên thế giới đã có lịch sử phát triển hàng trăm năm, với bề
dày kinh nghiệm nhiều quốc gia đã có sự quan tâm, đầu tư thích đáng và có nhiều
công trình nghiên cứu về các khía cạnh liên quan của quyền SHTT, tr ong đó có các
đối tượng thuộc quyền SHCN. Tổ chức WIPO hàng năm đã có nhiều hoạt động như:
tổ chức hội nghị, tọa đàm, trao đổi thông tin và xuất bản những ấn phẩm về lĩnh vực
SHTT và SHCN.
Tuy nhiên, các nghiên cứu và hoạt động nói trên chủ yếu tập trung v ào vấn đề
pháp luật các nước, nghiên cứu những vấn đề mang tính chất hệ thống tổng quan mà
không chuyên sâu vào từng đối tượng cụ thể như: sáng chế, giải pháp hữu ích,
NHHH, KDC N v.v.
2.2. ở Việt Nam
Trong vòng 5 năm trở lại đây ở Việt Nam, các vấn đề li ên quan đến SHTT
thường xuyên được đề cập đến tại rất nhiều diễn đàn, hoạt động nghiên cứu khoa học,
lồng ghép vào nhiều hoạt động kinh doanh, thương mại.
Cho đến nay, rất nhiều hội thảo quốc gia và quốc tế đã được Cục SHTT (Bộ
Khoa học và Công nghệ) chủ trì hoặc phối hợp tổ chức. Các công trình nghiên cứu

khoa học ở trong nước, tại nước ngoài về lĩnh vực SHTT và SHCN đã tăng lên đáng
kể, đến nay đã có hàng chục luận án tiến sỹ và luận văn thạc sỹ.
Bên cạnh đó, phải kể đến các đề án, chuyên đề nghiên cứu củ a Cục SHTT (Bộ
Khoa học và Công nghệ) phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về SHCN, đề tài
nghiên cứu cấp bộ của Viện Nghiên cứu Khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp): “Pháp luật
về SHTT- Thực trạng và xu hướng hoàn thiện trong những năm đầu của thế kỷ
XXI’’; đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm “ Cơ chế thực thi pháp luật về bảo hộ
quyền SHTT trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam’’ của Trường Đại học
Quốc gia; nhiều bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tin tức hoạt
động SHCN (nay là Tin tức hoạt động SHTT), Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Tạp
chí Luật học...
Tuy vậy, phần lớn các nghiên cứu nói trên tiếp cận về quyền SHTT và SHCN
mang tính chất khái quát, một số ít công trình nghiên cứu về các đối tượng SHCN cụ
thể nhưng chủ yếu tập trung vào các đối tượng như sáng chế, giải pháp hữu ích và
NHHH ... Gần đây, trong khoảng thời gian bảo vệ đề cương của đề tài, chúng tôi đã
3


cập nhật được duy nhất một công trình nghiên cứu khoa học được xuất bản thành
sách
chuyên khảo về vấn đề “Bảo hộ KDCN ở Việt Nam, pháp luật và thực tiễn’’ của tác
giả Nguyễn Bá Bình (Nhà xuất bản Tư pháp năm 2005). Tác giả của cuốn sách đã
tiếp cận, nghiên cứu vấn đề bảo hộ KDCN ở Việt Nam dưới góc độ nhằm đưa ra một
định nghĩa chuẩn về KDCN và những tiêu chí bảo hộ KDCN. Việc phản ánh, phân
tích, đánh giá một cách có hệ thống, cụ thể về thực trạng vi phạm quyền sở hữu
KDCN, cũng như các biện pháp xử lý đối với các hành vi xâm phạm quyền sở hữu
KDCN ở Việt Nam hiện vẫn chưa có công trình nào đề cập.
Trước tình hình nghiên cứu của thế giới cũng như trong nước về các vấn đề
liên quan đến SHTT nói chung, SHCN nói riêng và đặc biệt là về KDCN như đã nêu
là một thách thức lớn đối với người viết. Với sự lựa chọn, nghiên cứu về vấn đề “Vi

phạm quyền sở hữu KDCN - thực trạng và biện pháp xử lý ở Việt Nam’’, chúng tôi
hy vọng đề tài sẽ có những đóng góp nhất định về mặt lý luận và thực tiễn, góp phần
phác họa bức tranh bảo hộ và thực thi quyền SHTT thêm sinh động và phong phú
màu sắc.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với tên gọi của đề tài là “Vi phạm quyền sở hữu KDCN - thực trạng và biện
pháp xử lý ở Việt Nam’’ có rất nhiều vấn đề cần phân tích và làm sáng tỏ. Tuy nhiên,
trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận
của pháp luật về KDCN và bảo hộ quyền sở hữu KDCN; phản ánh, đánh giá thực
trạng vi phạm quyền sở hữu KDCN ở Việt Nam hiện nay, phân tích các biện pháp xử
lý đối với loại vi phạm này, trên cơ sở đó đưa ra phương hướng và một số giải pháp
nhằm tiếp tục hoàn thiện pháp luật về bảo hộ qu yền sở hữu KDCN trong mối quan hệ
tổng thể của cơ chế bảo hộ quyền SHCN, SHTT.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đạt được kết quả nghiên cứu khoa học trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng, phương pháp luận duy vật lịch sử của triết học M ác - Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí M inh về Nhà nước và Pháp luật, cũng như quan điểm, đường lối của
Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước trong lĩnh vực SHTT. Trong quá trình
nghiên cứu, chúng tôi sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể
như: khảo sát, điều tra xã hội học, thống kê, phân tích, tổng hợp, áp dụng so sánh
4


nhìn tương đối đa ngành (interdisciplinary): quản lý thị trường, hình sự, bảo vệ quyền
tài sản, cạnh tranh...
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
M ục đích của luận văn là làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về KDCN,
bảo hộ quyền sở hữu KDCN; phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm quyền sở hữu
KDCN và những biện pháp xử lý ở Việt Nam để đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn
thiện việc bảo hộ và thực thi có hiệu quả quyền sở hữu KDCN ở Việt Nam, góp phần

bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức đối với tài sản trí tuệ, thúc
đẩy hoạt động sáng tạo, phòng ngừa và xử lý hiệu quả các vi phạm pháp luật đối với
quyền sở hữu KDCN và đối với các đối tượng khác của q uyền SHCN.
Để đạt được mục tiêu này, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể:
-

Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận của pháp luật về bảo
hộ quyền sở hữu KDCN.

-

Nhận diện, phân tích, đánh giá thực trạng vi phạm quyền sở h ữu KDCN hiện
nay và biện pháp xử lý các vi phạm quyền sở hữu KDCN.

-

Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng và một số giải pháp góp phần hoàn thiện
pháp luật về bảo hộ quyền SHCN và quyền sở hữu KDCN.

6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hộ quyền sở hữu kiểu dáng công
nghiệp, nhận diện vi phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp và biện pháp
xử lý
- Chương 2: Thực trạng vi phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp và biện
pháp xử lý ở Việt Nam
- Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo
hộ quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp


5


CHƢ ƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢ O H Ộ QUYỀN SỞ HỮU K IỂU DÁNG C ÔN G
NGHIỆP, N HẬN DIỆN VI PHẠM QUYỀN SỞ HỮU K IỂU DÁNG C ÔNG N GHIỆP
VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ

1.1 . Khái quát về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Cùng với sự phát triển của khoa học, công nghệ hiện đại, các hoạt động SHTT
ngày càng đa dạng, phong phú và được triển khai trên phạm vi rộng lớ n không còn
hạn hẹp trong một quốc gia nào. Việc pháp luật bảo hộ các sản phẩm trí tuệ xuất phát
từ sự cần thiết bảo vệ các quyền của con người đã sáng tạo ra các sáng chế, giải pháp
hữu ích, KDCN, tác phẩm văn học...Pháp luật về quyền SHCN tạo môi trường pháp
lý thuận lợi nhằm khuyến khích, đảm bảo sự tự do sáng tạo trong việc nghiên cứu
khoa học và triển khai các hoạt động kỹ thuật, ứng dụng vào đời sống của con người.
Việc quy định khung pháp lý để bảo hộ quyền SHTT nói chung, quyền SHCN
trong đó có quyền sở hữu KDCN nói riêng không còn là vấn đề của quốc gia mà là
vấn đề có tính chất toàn cầu, không những có ý nghĩa đối với khía cạnh nâng cao giá
trị của những sản phẩm trí tuệ mà còn bảo vệ sản phẩm trí tuệ của con người khỏi sự
xâm hại trái phép.
1.1.1.Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
SHCN là một bộ phận quan trọng của SHTT, được ghi nhận trong Công ước
Paris với các “đối tượng SHCN’’ bao gồm: sáng chế (patent), mẫu hữu ích (utility
models), KDCN (industrial designs), NHHH (trade -mark), nhãn hiệu dịch vụ, tên
thương mại (trade name), chỉ dẫn nguồn gốc hoặc tên gọi xuất xứ (appellation of
origin/ geographical indications) và chống cạnh tranh không lành mạnh (anti -unfair
competition) (Điều 1(1) của Công ước Paris (1883)).
Thuật ngữ SHCN trong tiếng Việt thực ra chưa bao quát hết nội hàm của nó,
không nên hiểu một cách máy móc đó là loại hình sở hữu động sản hay bất động sản

được sử dụng trong sản xuất công nghiệp theo nghĩa hẹp như nhà xưởng, máy móc
thiết bị sản xuất. SHCN được hiểu theo nghĩa rộn g nhất, không những chỉ áp dụng
cho công nghiệp và thương mại theo đúng nghĩa của chúng mà cho các ngành sản
xuất nông nghiệp, công nghiệp khai thác và tất cả các sản phẩm công nghiệp và sản
phẩm tự nhiên như rượu, ngũ cốc, lá thuốc lá, hoa quả, gia súc, k hoáng sản, nước
khoáng, bia, hoa và bột (Điều 1(3) của Công ước Paris (1883)).
6


Quyền SHCN là một dạng quyền tài sản, cụ thể đó là quyền đối với loại tài sản
vô hình, có giá trị thương mại và được pháp luật bảo hộ. Mặc dù, pháp luật về quyền
SHCN của mỗi quốc gia có quy định khác nhau về phạm vi, tính chất đối tượng
SHCN được bảo hộ, thời hạn và mức độ bảo hộ nhưng đều có mục đích chung là
nhằm khai thác tính chất thương mại hoặc khai thác tính chất hữu ích về mặt công
nghiệp của các sản phẩm trí tuệ.
Theo nghĩa chung nhất, bảo hộ SHCN là sự ghi nhận về mặt pháp lý tổng thể
các quyền SHCN, quy định những biện pháp, cách thức để thể hiện các quyền đó trên
thực tế và việc ngăn chặn, xử lý những hành vi xâm phạm các quyền đó.
Về bản chất, bảo hộ SHCN là việc nhà nước xác lập quyền pháp lý của các chủ
thể (cá nhân, pháp nhân, tổ chức) đối với các đối tượng SHCN tương ứng và có cơ
chế bảo đảm quyền đó nhằm chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của bên thứ ba.
Pháp luật Việt Nam quy định “quyền SHCN là quyền của tổ c hức, cá nhân đối
với sáng chế, KDCN, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhãn hiệu tên thương
mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu và quyền
chống cạnh tranh không lành mạnh’’(Điều 4 Luật SHTT 2005). So sánh với phạm vi
của khái niệm quyền SHCN theo Hiệp định TRIPS, thì phạm vi khái niệm quyền
SHCN theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay là đầy đủ và phù hợp, đó cũng
là điểm tiến bộ trong việc hoàn thiện khung pháp luật về SHTT của Việt Nam.
Về nội dung của quyền SHCN, các văn bản pháp luật hiện hành không đề cập
trực tiếp tới các khía cạnh “chiếm hữu’’,“sử dụng’’ và “định đoạt’’ như đối với quyền

sở hữu tài sản mà liệt kê cụ thể nội dung của các quyền sở hữu đối với từng đối tượng
khác nhau. Do đặc thù của đối tượng SHCN nên quyền SHCN khác biệt cơ bản so
với quyền sở hữu tài sản về nội dung chiếm giữ đối tượng. Chủ sở hữu không thể
chiếm giữ chúng như đối với các tài sản vật chất thông thường, do vậy quyền năng
“chiếm hữu’’ không có ý nghĩa quyết định mà quan trọng nhất trong nội dung quyền
SHCN là quyền “sử dụng’’. Chủ sở hữu có độc quyền sử dụng, chuyển giao quyền sử
dụng đối tượng SHCN cho các cá nhân, tổ chức khác, quyền ngăn cấm bên thứ ba khi
có hành vi xâm phạm. Các quyền nói trên của chủ sở hữu có thể được t hừa kế hoặc
chuyển nhượng cho người khác.
1.1.2. Đặc trưng của bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Khác với các quyền tài sản khác, quyền SHCN có đặc điểm là bị giới hạn về
thời gian và gắn liền với yếu tố lãnh thổ. Do đó, việc bảo hộ quyền SHCN cũng có
một số đặc trưng nhất định như sau:
7


a. Cơ chế bảo hộ quyền SHCN phải thông qua những trình tự, thủ tục nhất định tùy
theo từng đối tượng được bảo hộ, ví dụ: nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ; nộp lệ
phí; xét nghiệm nội dung đơn; cấp văn bằng độc quyền cho người có sáng chế;
cấp giấy chứng nhận NHHH cho chủ nhãn hiệu hàng hóa....
b. Bên cạnh việc ghi nhận các quyền của chủ sở hữu, pháp luật về SHCN còn quy
định các thiết chế tương ứng nhằm bảo đảm thực thi và bảo vệ các quyền đó, ví
dụ: cơ quan quản lý nhà nước (Cục Sở hữu trí tuệ thuộc Bộ Khoa học và Công
nghệ, Cục quản lý thị trường thuộc Bộ Thương M ại); xử lý vi phạm hành chính
(thanh tra chuyên ngành SHCN, công an, quản lý thị trường, hải quan), xét xử vi
phạm theo trình tự tố tụng (hệ thống tòa án nhân dân các cấp).
c. Phạm vi bảo hộ bị giới hạn về không gian và thời gian: Quyền SHCN được bảo
hộ trên phạm vi lãnh thổ của quốc gia mà văn bằng bảo hộ đã được cấp; nếu muốn
được bảo hộ ở nhiều nước thì chủ thể phải nộp đơn xin cấp văn bằng bảo hộ ở
từng nước đó hoặc thông qua văn phòng đăng ký đơn quốc tế của WIPO. T rong

thời hạn văn bằng bảo hộ còn hiệu lực, việc bảo hộ đối với chủ thể quyền và đối
tượng SHCN được thực hiện đầy đủ theo luật định. Trong trường hợp văn bằng
bảo hộ bị đình chỉ, hủy bỏ hiệu lực hoặc không đượ c gia hạn, thì cũng không tồn
tại quyền SHCN được bảo hộ. Do đó, cần nhận thức rằng mọi độc quyền được bảo
hộ có thể bị mất hoặc bị khai thác hết. Khi đó đối tượng SHCN không phải là sở
hữu riêng của một chủ thể nào đó mà chúng thuộc về cộng đồng, xã hội t ự do sử
dụng và chúng được bảo hộ dưới các hình thức pháp lý khác.
d. M ục tiêu cơ bản của việc bảo hộ quyền SHCN là nhằm khuyến khích các hoạt
động sáng tạo “góp phần thúc đẩy việc cải tiến, chuyển giao và phổ biến công
nghệ, góp phần đem lại lợi ích chung n gười sáng tạo và người sử dụng kiến thức
công nghệ, đem lại lợi ích xã hội và lợi ích kinh tế, tạo sự cân bằng giữa quyền và
nghĩa vụ’’(Điều 7 Hiệp định TRIPS). Việc thúc đẩy bảo hộ một cách có hiệu quả
và toàn diện các quyền SHCN là cần thiết, tuy nhiên, cần bảo đảm các biện pháp
và thủ tục thực thi các quyền đó không trở thành trở ngại cho hoạt động thương
mại hợp pháp.
1.2. Một số vấn đề lý luận về kiểu dáng công nghiệp và bảo hộ quyền sở hữu kiểu
dáng công nghiệp
1.2.1. Các quan điểm về kiểu dáng công nghiệp

8


Là một trong các đối tượng của quyền SHTT (Điều 2 Công ước Stockholm
1967), KDCN mang những đặc tính chung của tài sản trí tuệ - sản phẩm của sự sáng
tạo, có tính chất vô hình, dễ bị phổ biến, lan truyền. Hiện nay, quan niệm về KDCN
vẫn đang tồn tại nhiều cách hiểu với các tiêu chí khác nhau, để có thể hiểu rõ hơn về
KDCN xin được dẫn chiếu một số định nghĩa về KDCN sau đây:
a. Quan niệm về kiểu dáng công nghiệp trong các điều ước quốc tế
Hầu hết các điều ước quốc tế đa phương có liên quan về SHCN như Công ước
Paris, Thỏa ước La Hay... đều không đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh hay một tiêu

chí nào về KDCN, mà dành việc đó cho các quốc gia thành viên quy định. Trong
Hiệp định TRIPS, dù không đưa ra một định nghĩa cụ thể về KDCN, nhưng Hiệp
định là văn bản đầu tiên xác định các tiêu chí cần thiết đối với một KDCN (để được
bảo hộ) đó là tính mới và tính nguyên gốc (Khoản 1 Điều 25 Hiệp định TRIPS).
Theo quan niệm của WIPO: “ KDCN là các khía cạnh mang tính chất trang trí
hay thẩm mỹ của sản phẩm. Kiểu dáng có thể bao hàm các khía cạnh 3 chiều, ví dụ
như hình dạng hoặc bề mặt của sản phẩm hoặc các khía cạnh 2 chiều, ví dụ như mẫu
hoa văn, đường nét hoặc màu sắc’’. Đây là một định nghĩa mở, cho phép hiểu về
KDCN theo một nghĩa rộng, KDCN có thể được xác định ở tính chất trang trí hay
thẩm mỹ của nó và cũng được xác định là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm (có thể
là ở trên mặt phẳng hai chiều hoặc dạng không gian ba chiều).
Tại điều 2 Luật mẫu (1964) của WIPO quy định về KDCN dành cho các nước
đang phát triển: “KDCN là bất kỳ kiểu dáng đường nét hoặc màu sắc của khối ba
chiều tạo ra vẻ bề ngoài của sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp có thể dùng
làm mẫu để sản xuất sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp ’’. Theo định nghĩa
này, điều kiện cần đối v ới một KDCN là được biểu hiện dưới các “đường nét hoặc
màu sắc của khối ba chiều’’ của sản phẩm, và điều kiện đủ là phải có tính khác biệt,
có khả năng áp dụng vào lĩnh vực công nghiệp hoặc thủ công nghiệp.
b. Quan niệm về kiểu dáng công nghiệp của Liên mi nh Châu Âu
Khác với WIPO, đối với KDCN, Liên minh Châu Âu không đề cập đến tính chất
thẩm mỹ mà chỉ xác định KDCN là biểu hiện bên ngoài của sản phẩm và liệt kê một
số yếu tố hợp thành KDCN: “Kiểu dáng là hình dạng bên ngoài của một sản phẩm
hay của một số bộ phận của sản phẩm. Kiểu dáng có thể được cấu tạo thành từ các
đường nét, màu, hình, bố cục, hay trang trí’’.
c. Quan niệm về kiểu dáng công nghiệp của một số nước Châu á
 Nhật Bản
9


Đối với người Nhật, một KDCN không chỉ là những yếu tố biểu hiện bên ngo ài

của sản phẩm mà kiểu dáng còn phải đạt đến độ thẩm mỹ cao, để có thể “là cái thông
qua thị giác gợi lên một cảm xúc mỹ học’’ và “phải có sức hấp dẫn đối với thị giác’’.
Điều 2.1 Luật Kiểu dáng Nhật bản (luật số 125) ngày 13/4/1959, sửa đổi bởi Luật số
220, ngày 22/12/1999 quy định:“Kiểu dáng là hình dáng, kiểu mẫu, hay màu sắc, hay
sự kết hợp của các nhân tố đó của một sản phẩm, là cái thông qua thị giác gợi lên một
cảm xúc mỹ học. Vì vậy, kiểu dáng phải có sức hấp dẫn đối với thị giác’’, quy định
của người Nhật khá tương đồng với quan niệm về KDCN của Canada ở tính thẩm mỹ
và cảm nhận kiểu dáng bằng thị giác [7].
 Trung Quốc
Theo pháp luật Trung Quốc: “Kiểu dáng là bất kỳ nét mới nào của hình dáng,
kiểu mẫu, hay màu sắc, hay sự kết hợp của các yếu tố đó với nhau, của một sản phẩm
là những cái tạo ra một ấn tượng mang tính thẩm mỹ và thích hợp với việc áp dụng
công nghiệp’’.Tương tự như Nhật Bản, Trung Quốc cũng liệt kê các dạng biểu hiện
của một KDCN như “hình dáng, kiểu mẫu hay màu sắc’’, sự phối hợp của các yếu tố
đó và yêu cầu về tính thẩm mỹ [7]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Trung quốc đã đưa thêm
một yêu cầu nữa đó là KDCN phải có khả năng áp dụng vào lĩnh vực sản xuất công
nghiệp.
d. Quan niệm về kiểu dáng công nghiệp theo pháp luật Việt Nam
Theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 784 BLDS 1995) KDCN “là hình
dáng bên ngoài của sản phẩm, được thể hiện bằng đường nét, hình khối, màu sắc
hoặc sự kết hợp của những yếu tố đó, có tính mới đối với thế giới và dùng làm mẫu
để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc thủ công nghiệp’’. Với định nghĩa này, KDCN
được hiểu không chỉ bao gồm những đặc điểm mang tính bản chất, mà còn bao gồm
cả những tiêu chí bảo hộ.
Tuy nhiên, đến Luật SHTT 2005 (có hiệu lực vào ngày 1/7/2006), quan niệm
về KDCN của Việt Nam đã có sự đổi mới đáng kể, tại Điều 4 Luật SHTT 2005 quy
định: “KDCN là hình dáng bên ngoài của sản phẩm được thể hiện bằng hình khối,
đường nét, màu sắc hoặc sự kết hợp những yếu tố này’’, định nghĩa này khá tương
đồng với quan điểm về KDCN của các nước trên thế giới.
Từ những quan niệm về KDCN của pháp luật các nước, một KDCN được xác

định dựa trên hai yếu tố: KDCN phải là biểu hiện bên ngoài của một sản phẩm (hình
dáng, hình khối, hoa văn, mẫu trang trí hoặc bất kỳ sự kết hợp nào của các yếu tố
đó...); KDCN có khả năng áp dụng vào lĩnh vực sản xuất công nghiệp hoặc thủ công
10


nghiệp (theo quan điểm của rất nhiều nước như: M ỹ, EU, Indonesia, M alaysia...). Các
đặc điểm khác như “tính mới, tính khác biệt, tính nguyên gốc chỉ là các tiêu chí để
một KDCN được bảo hộ, không phải là đặc điểm của KDCN’’ [1, tr. 23]. Một sản
phẩm có đủ hai đặc điểm nêu trên, cho dù có hay không tính mới, tính khác biệt, tính
nguyên gốc thì nó vẫn được coi là một KDCN. Tuy nhiên, để chủ sở hữu KDCN có
được bảo hộ về quyền và lợi ích hay không thì tùy theo pháp luật của mỗi quốc gia
mà KDCN đó yêu cầu phải có tính mới, tính khác biệt hay tính nguyên gốc.
Luật SHTT 2005 đã có những quy định rõ ràng, tách biệt những yếu tố thuộc
về bản chất của một KDCN với những tiêu chí bảo hộ một KDCN (về tiêu chí bảo hộ
KDCN sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau).
Như vậy, tuy quan niệm về KDCN theo pháp luật mỗi nước còn có điểm khác
biệt, song đều đề cập đến một số đặc điểm cơ bản của một KDCN, làm cơ sở xây
dựng các tiêu chí cho việc bảo hộ cũng như việc thực th i quyền sở hữu KDCN trên
thực tế.
1.2.2. Bảo hộ quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp
a. Khái niệm bảo hộ quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp
Bảo hộ quyền sở hữu KDCN là một bộ phận quan trọng của bảo hộ quyền
SHCN, nhưng cách hiểu về vấn đề bảo hộ quyền sở hữu KDCN hiện nay còn chưa
thống nhất. Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, bảo hộ quyền sở hữu KDCN được
tiếp cận dưới góc độ là việc thực hiện một số hoạt động của các cá nhân, tổ chức có
thẩm quyền để ngăn chặn, xử lý bất kỳ sự vi phạm nào nhằm bảo đảm các quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu KDCN được pháp luật bảo hộ, để tập
trung giải quyết những khía cạnh sau: các quy định của nhà nước về việc xác lập
quyền sở hữu KDCN và các biện pháp pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của chủ sở hữu, người sử dụng hợp pháp KDCN.
b. Bảo hộ quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam
 Sơ lược lịch sử phát triển của pháp luật bảo hộ quyền sở hữu kiểu dáng
công
nghiệp ở Việt Nam
Trên thế giới, pháp luật về SHTT nói chung và pháp luật về KDC N nói riêng
đã có một bề dày lịch sử phát triển, nhưng ở Việt Nam đây vẫn còn là một lĩnh vực
tương đối mới.

11


Cơ sở pháp lý đầu tiên về KDCN được thiết lập khi đất nước thống nhất, bằng
việc ban hành Nghị định số 85/HĐBT ngày 13/5/1988 về KDCN, kèm theo l à Điều lệ
về KDCN, tiếp đó là Điều lệ về mua bán quyền sử dụng sáng chế, giải pháp hữu ích,
KDCN, NHHH và bí quyết kỹ thuật ban hành kèm theo Nghị định số 201 -HĐBT
ngày 28/12/1988 của Hội đồng Bộ trưởng. Tuy nhiên, hiệu lực của các văn bản này
mới chỉ dừng ở các văn bản dưới luật. M ột bước ngoặt trong việc điều chỉnh hoạt
động bảo hộ quyền SHCN, đó là việc ban hành Pháp lệnh bảo hộ quyền SHCN năm
1989 của Hội đồng Nhà nước. Cho đến khi Bộ luật Dân sự 1995 chính thức ra đời thì
lĩnh vực bảo hộ quyền SHCN tro ng đó có bảo hộ KDCN mới được điều chỉnh bởi
một văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao và được hướng dẫn thi hành bởi nhiều
văn bản dưới luật (xem Phụ lục 4).
Sự ra đời của Luật Sở hữu trí tuệ 2005, có hiệu lực từ 1/7/2006, đã đánh dấu
một bước tiến quan trọng của Việt Nam trong việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về
SHTT.
Ngoài ra, Việt Nam đã tham gia các Công ước quốc tế cơ bản về bảo hộ SHCN
nói chung và bảo hộ KDCN nói riêng như: Công ước Stockholm 1967 về việc thành
lập WIPO; Công ước Paris năm 18 83 về bảo hộ quyền SHCN... Bên cạnh đó, Việt
Nam cũng đã và đang xúc tiến việc ký kết các hiệp định song phương với các nước

trong lĩnh vực thương mại. Năm 2001, Chính phủ Việt Nam đã ký kết Hiệp định
Thương mại song phương với Chính phủ Hoa Kỳ, đây là Hiệ p định được lập và ký
kết phù hợp với quy chuẩn của WTO và một trong những nội dung được các bên
quan tâm và thể hiện khá cụ thể trong Hiệp định là vấn đề bảo hộ SHTT nói chung,
trong đó có bảo hộ KDCN.
Nhìn chung, hệ thống pháp luật bảo hộ SHCN nói chu ng và KDCN nói riêng
hiện nay đã có bước phát triển hoàn thiện và đầy đủ hơn so với trước đây. Tuy nhiên,
một số quy phạm pháp luật điều chỉnh về bảo hộ KDCN còn chưa cụ thể, chưa rõ
ràng, đầy đủ. Điển hình là về phương diện xác lập quyền sở hữu đối với KD CN, thủ
tục đăng ký KDCN tại Cục SHCN còn thiếu rất nhiều các văn bản hướng dẫn, giải
thích cụ thể gây khó khăn cho các cá nhân, tổ chức trong việc xác lập quyền của chủ
sở hữu, sử dụng đối với KDCN [1, tr.74].
 Tiêu chí bảo hộ kiểu dáng công nghiệp ở Việt Nam
Điều 784 BLDS 1995 và Điều 5 Nghị định 63/CP quy định tiêu chí bảo hộ
KDCN là “tính mới’’ và được “dùng làm mẫu để chế tạo sản phẩm công nghiệp hoặc
thủ công nghiệp’’. Tại Điều 63 Luật SHTT 2005 đã ghi nhận 3 tiêu chí để một
12


KDCN được bảo hộ, đó là: “tính mới’’, “tính sáng tạo’’ và “có khả năng áp dụng
công nghiệp’’. Luật SHTT 2005 sẽ có hiệu lực thi hành vào ngày 1/7/2006 nên trong
phạm vi đề tài này, chúng tôi đi sâu phân tích các tiêu chí bảo hộ theo quy định của
Luật này.
-

Tính mới

Trên cơ sở các tiêu chí Hiệp định TRIPS đưa ra để một KDCN được bảo hộ là
“tính mới’’ hoặc “tính nguyên gốc’’, pháp luật của các quốc gia trong quá trình xây
dựng các tiêu chí bảo hộ KDCN của nước mình đều ghi nhận “ tính mới’’ là một tiêu

chuẩn để bảo hộ KDCN. Ngoài ra, c ũng có nước đưa thêm một số tiêu chí bảo hộ
khác như tính độc đáo về thẩm mỹ và tính nguyên gốc. Nhưng, hiểu thế nào là “tính
mới’’ thực sự vẫn là vấn đề đang còn nhiều tranh luận.
Khác với M alaysia chỉ quy định tính mới trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, Vi ệt
Nam giống như phần lớn các nước, đặc biệt là các nước có hệ thống SHTT hiện đại
như Hoa Kỳ, Anh , Đức, Nhật Bản đều quy định và yêu cầu tính mới mang tính chất
tuyệt đối (mới đối với thế giới). Pháp luật Việt Nam quy định: “KDCN được coi là có
tính mới nếu KDCN đó khác biệt đáng kể với những KDCN đã bị bộc lộ công khai
dưới hình thức sử dụng, mô tả bằng văn bản hoặc bất kỳ hình thức nào khác ở trong
nước hoặc ở nước ngoài trước ngày nộp đơn hoặc trước ngày ưu tiên nếu đơn đăng
ký KDCN được hưởng quyền ưu tiên’’ (Điều 65 Luật SHTT 2005). Theo đó, “hai
KDCN không được coi là khác biệt đáng kể với nhau nếu chỉ khác biệt về những đặc
điểm tạo dáng không dễ dàng nhận biết, ghi nhớ và không thể dùng để phân biệt tổng
thể hai KDCN đó’’(Điều 65 Luật SHTT 2005). Phần lớn pháp luật các nước cũng
quy định hai KDCN được coi là tương tự hoặc không khác biệt cơ bản với nhau nếu
chỉ khác biệt với nhau ở những đặc điểm không dễ dàng nhận biết và căn cứ vào các
đặc điểm đó không thể phân biệt tổng thể hai kiểu dáng với nha u.
Như vậy, tiêu chí “tính mới’’ được pháp luật Việt Nam quy định trong BLDS
1995, Nghị định số 63/CP cho đến Luật SHTT 2005 khá tương thích với quy định của
nhiều nước trên thế giới.
-

Tính sáng tạo

Điều 66 Luật SHTT 2005 quy định một KDCN được đánh giá là có tính sáng tạo
nếu “KDCN đó không thể được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có hiểu biết
trung bình về lĩnh vực tương ứng’’. Điều này có nghĩa, trường hợp “hình dáng bên
ngoài của sản phẩm được tạo ra một cách dễ dàng đối với người có trình độ chuyê n
môn trung bình trong lĩnh vực tương ứng’’ không được bảo hộ với tư cách KDCN
13



(Khoản 3, Điều 5, Nghị định 63/CP). Đây không phải là một quy định mới về tiêu chí
bảo hộ KDCN của Luật SHTT 2005 so với các văn bản trước đây, đó là bước chuyển
đổi từ các đối tượng không được nhà nước bảo hộ với danh nghĩa là KDCN thành
một tiêu chí bắt buộc phải có để một KDCN được bảo hộ ở một văn bản có hiệu lực
pháp lý cao hơn và được coi là “sự bổ sung cho tiêu chí tính mới’’ [1, tr.37].
-

Khả năng áp dụng công nghiệp của kiểu dáng công nghiệp

Khả năng áp dụng công nghiệp của KDCN được hiểu là KDCN phải có khả
năng dùng làm mẫu để sản xuất ra các sản phẩm bằng phương pháp công nghiệp hoặc
thủ công nghiệp và các sản phẩm đó phải có khả năng tái tạo bằng các phương tiện
công nghiệp, điều này đã được ghi nhận tại các điều 784 BLDS 1995, khoản 2 Điều 5
Nghị định 63/CP và Điều 67 Luật SHTT 2005.
 Các đối tượng không được pháp luật bảo hộ với danh nghĩa là kiểu dáng công
nghiệp
M ột KDCN đáp ứng đầy đủ các thuộc tính bản chất của n ó và các tiêu chí mà
pháp luật quy định sẽ được bảo hộ. Từ đó sẽ dẫn đến một loạt trường hợp các kiểu
dáng sẽ không được pháp luật bảo hộ với danh nghĩa là KDCN. Ngoại trừ trường hợp
pháp luật quy định áp dụng chung cho tất cả các đối tượng SHTT với nội du ng
“không bảo hộ các đối tượng SHTT trái với đạo đức xã hội, trật tự công cộng, có hại
cho an ninh quốc phòng’’, theo khoản 3 Điều 5 Nghị định 63/CP, các đối tượng
không được nhà nước bảo hộ với danh nghĩa KDCN bao gồm:
-

Hình dáng bên ngoài của sản phẩm được tạo ra một cách dễ dàng đối với người
có trình độ trung bình thuộc lĩnh vực tương ứng (ví dụ; hình dáng của chiếc cút
3 nhánh);


-

Hình dáng bên ngoài do đặc tính kỹ thuật của sản phẩm bắt buộc phải có hoặc
chỉ mang đặc tính kỹ thuật (ví dụ: hình dáng của m ũi khoan, ốc vít);

-

Hình dáng bên ngoài của các công trình xây dựng dân dụng hoặc công nghiệp
(ví dụ: hình dáng bên ngoài, hay kiến trúc của ngôi nhà);

-

Hình dáng của sản phẩm không nhìn thấy được trong quá trình sử dụng (ví dụ:
hình dáng của động cơ đốt tro ng);

-

Kiểu dáng của các sản phẩm chỉ có giá trị thẩm mỹ (ví dụ: bức tranh phong
cảnh);
Thêm vào đó, quy định tại điểm 33.5 Thông tư 29 có ý nghĩa loại trừ tính mới

cũng nên được xem xét là trường hợp không được bảo hộ với danh nghĩa KDCN, đó
là:
14


KDCN không phải là hình dáng bên ngoài của sản phẩm đã được biết đến một
cách rộng rãi (không phải là sự thay đổi vị trí hoặc lắp ghép, kết hợp các đặc điểm
của kiểu dáng công nghiệp đã biết hoặc mang hình dáng tự nhiên vốn có của cây

cối, hoa quả, các loài động vật..., hình dáng của các hình hình học đã được biết rộng
rãi (ví dụ: hình tròn, hình elip, hình tam giác, hình vuông, hình chữ nhật, hình đa
giác...) hình dáng của các sản phẩm, công trình đã nổi tiếng ở Việt Nam và trên thế
giới (ví dụ: tháp Rùa, tượng ông Phúc-Lộc-Thọ, tháp Ep-phen...), kiểu dáng chỉ có
giá trị thẩm mỹ như các tác phẩm điêu khắc, các loại tranh, tượng,...).
c. So sánh với pháp luật một số nước về bảo hộ quyền sở hữu KDCN
Về cơ bản, các quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền sở hữ u KDCN
là tương đối phù hợp so với thông lệ quốc tế. Hầu hết các nước đều có quy định
chung là KDCN được bảo hộ qua đăng ký. Tương tự như Việt Nam, nhiều nước đòi
hỏi KDCN phải có tính mới và phạm vi tính mới bị ảnh hưởng trong phạm vi quốc
gia (M alaysia) hay phạm vi quốc tế (M ỹ, Anh, Nhật Bản). M ột điểm then chốt của
khả năng áp dụng KDCN vào sản xuất công nghiệp là nó có thể lặp lại với quy mô
thương mại trong một quốc gia và nhiều quốc gia. Khác với Việt Nam, một số nước
coi sản phẩm thủ công – mỹ nghệ không thuộc phạm vi được bảo hộ là KDCN và quy
định các sản phẩm này được bảo hộ theo luật quyền tác giả. M ột số nước khác lại quy
định một sản phẩm có thể được bảo hộ theo cả quyền tác giả và KDCN [2, tr. 58]. Từ
đó, có thể thấy rằng hoạt động bảo hộ SHCN nói chung và sở hữu KDCN nói riêng ở
mỗi nước gắn chặt với các điều kiện kinh tế – xã hội cũng như quan điểm luật pháp
của quốc gia đó.
1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của việc bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và quyền sở
hữu kiểu dáng công nghiệp
Từ nhiều năm nay, vấn đề thực hiện bảo hộ quyền SHCN đã trở thành một trong
những vấn đề chính trên bàn đàm phán về mậu dịch, thương mại giữa các nước trên
thế giới. Các nước công nghiệp phát triển thường gây áp lực đối với nước đang phát
triển, buộc các nước này phải sửa đổi luật lệ có quy định quyền SHCN nói riêng và
SHTT nói chung một cách nghiêm ngặt hơn. Tính chất quan trọng của vấn đề bảo hộ
quyền SHCN ngày càng trở thành vấn đề thời sự và xu hướng xã hội hóa của nó ngày
càng tăng.
ở Việt Nam, cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế-xã hội, nhu cầu của
người dân không chỉ còn dừng ở mức “ăn no, mặc ấm’’ mà đã được nâng cao rất

15


nhiều. Người tiêu dùng không chỉ quan tâm đến chất lượng sản phẩm mà đã đặc biệt
chú trọng đến hình thức, kiểu dáng, mẫu mã của sản phẩm , vì lẽ đó các doanh nghiệp
đều mong muốn thỏa mãn được thị hiếu của người tiêu dùng với những sản phẩm có
KDCN tối ưu và giá trị thẩm mỹ cao. Vì vậy, KDCN đã trở thành một trong những
lợi thế cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Để đảm bảo có một môi trường cạnh tranh lành mạnh, một sự phát triển kinh tế
bền vững, cần thiết phải có một cơ chế bảo hộ KDCN đầy đủ và hiệu quả nhằm bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp
KDCN, bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng và hơn n ữa là đảm bảo mục tiêu
khuyến khích, thúc đẩy sức sáng tạo của con người.
1.3. Nhận diện vi phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp và xử lý vi phạm
1.3.1. Xác lập quyền sở hữu đối với kiểu dáng công nghiệp
a. Xác lập quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp
Quyền sở hữu KDCN bao gồm hai nội dung: quyền sở hữu đối với KDCN và
quyền của tác giả KDCN, trong một số trường hợp, hai nội dung này là đồng nhất với
nhau (khi tác giả cũng đồng thời là chủ sở hữu KDCN). Điều 86 Luật SHTT 2005;
Điều 788, Điều 794 BLDS 19 95 và Điều 8, Điều 9 Nghị định số 63/CP quy định
quyền sở hữu KDCN và quyền của tác giả KDCN phát sinh trên cơ sở văn bằng bảo
hộ do cơ quan có thẩm quyền cấp (Cục SHTT thuộc Bộ Khoa học và Công nghệ). Để
xác lập quyền sở hữu KDCN có thể thực hiện thông qu a hai con đường: đăng ký
KDCN (áp dụng cho chủ sở hữu đầu tiên) và nhận chuyển giao quyền sở hữu KDCN
(áp dụng cho người không phải là chủ sở hữu đầu tiên).
Việc xác lập quyền sở hữu KDCN được thực hiện thông qua trình tự, thủ tục như
sau: nộp và tiếp nhận đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ; xét nghiệm hình thức đơn;
công bố đơn; xét nghiệm nội dung đơn; cấp văn bằng bảo hộ.
Trong phạm vi hẹp của đề tài, chúng tôi tập trung vào một số nội dung cơ bản
của quy trình xác lập quyền sở hữu đối với KDCN như sau:

 Nộp và tiếp nhận đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ
Đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ KDCN là tập hợp các tài liệu thể hiện yêu cầu
của người nộp đơn về việc cấp văn bằng bảo hộ KDCN với nội dung, phạm vi bảo hộ
tương ứng. Luật SHTT 2005, BLDS 1995, Nghị định s ố 63/CP, Thông tư 29 quy định
rất chi tiết về vấn đề này. Đặc biệt Thông tư 29 đã chi tiết hoá các yêu cầu về hình

16


thức của đơn (Mục 5 Chương 2 Thông tư 29) và nội dung đơn (Mục 6 Chương 2
Thông tư 29).
Yêu cầu chung về nội dung của đơn đăng ký KDCN là đơ n phải bộc lộ hoàn
toàn bản chất của đối tượng nêu trong đơn. M ột số nước (Anh, Indonesia) còn quy
định có thể nộp mẫu sản phẩm mang KDCN yêu cầu bảo hộ. Trừ Thoả ước La Hay
có quy định cụ thể về hình thức của đơn đăng ký KDCN (Điều 5) theo hướng đơn
giản hoá thủ tục hành chính, các điều ước quốc tế như Công ước Paris, Hiệp định
TRIPS và Hiệp Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ không quy định cụ thể về đơn yêu
cầu cấp bằng độc quyền KDCN. Như vậy, có thể thấy quy định hiện hành của Việt
Nam về đơn yêu cầu cấp bằng độc quyền KDCN có điểm chung với pháp luật của các
nước trên thế giới và phù hợp với Thoả ước La Hay.
Đơn có thể nộp tại Cục SHTT hoặc tại bất kỳ địa điểm tiếp nhận đơn nào khác
do Cục SHTT thiết lập. Đơn cũng có thể được gửi bằng hình thức bảo đảm qua b ưu
điện tới các điểm tiếp nhận đơn nói trên.
Về nguyên tắc chấp nhận đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ, vấn đề xảy ra khi
có hai hay nhiều chủ thể cùng nộp đơn xin đăng ký cùng một KDCN hay các KDCN
tương tự nhau, có khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùn g dẫn đến việc cơ quan
đăng ký sẽ phải xem xét cấp cho ai. Quyền sở hữu đối với KDCN là “độc quyền’’,
trường hợp có từ hai chủ thể trở lên cùng xin cấp một văn bằng bảo hộ cho một
KDCN thì một bằng độc quyền sẽ được cấp và đơn kia sẽ bị từ chối. Theo quy đ ịnh
của pháp luật Việt Nam, nguyên tắc chấp nhận đơn về cơ bản là hợp lý và tương đồng

với pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới. Đó là áp dụng nguyên tắc “người
nộp đơn đầu tiên (first-to-file)’’ theo đó, cơ quan có thẩm quyền sẽ xem xét việc cấp
văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn sớm nhất. Tuy nhiên, việc áp dụng nguyên tắc
với cách xác định thời điểm là theo ngày (không phải theo giờ, phút) sẽ dẫn đến
trường hợp có hai chủ thể trở lên trong một ngày cùng nộp đơn độc lập về cùng một
KDCN. Để giải quyết tình huống này, pháp luật Việt Nam quy định Cục SHTT đề
nghị các chủ thể đó cùng đứng tên nộp một đơn duy nhất và khi được cấp, văn bằng
bảo hộ được cấp chung cho các chủ thể với danh nghĩa là các đồng sở hữu. Nếu một
trong những người nộp đơn không đồng ý thì văn bằng bảo hộ sẽ không được cấp.
 Xét nghiệm hình thức đơn
Trên cơ sở đơn yêu cầu cấp văn bằng bảo hộ KDCN, Cục SHTT sẽ tiến hành
công việc đầu tiên đó là kiểm tra đơn xin cấp bằng độc quyền KDCN có đáp ứng yêu
cầu về mặt hình thức hay không. N ếu đáp ứng, thông báo chấp nhận đơn yêu cầu cấp
bằng độc quyền KDCN sẽ được đưa ra để xác nhận ngày nộp đơn hợp lệ và số đơn
17


hợp lệ, ngày ưu tiên. Nếu không đáp ứng, Cục SHTT có thể yêu cầu người nộp đơn
sửa chữa các thiếu sót hoặc từ chối chấp nhận đơn. T hông tư 29 đã quy định rất chi
tiết về vấn đề này, đồng thời cũng quy định thời hạn xét nghiệm hình thức đơn là 01
tháng tính từ ngày nộp đơn, thời hạn này đã giảm xuống so với quy định trước đây tại
Thông tư 3055/TT-SHCN là 03 tháng nhằm đảm bảo tốt hơn q uyền lợi của chủ
KDCN. Đối với những nước không quy định việc xét nghiệm đơn nội dung (Đức,
Anh, ý, Pháp...) thì đều quy định thủ tục xét nghiệm hình thức đơn là một thủ tục
mang tính chất bắt buộc. Công ước Paris, Hiệp định TRIPS và Hiệp định Thương mại
Việt Nam- Hoa Kỳ cũng không có quy định cụ thể về việc xét nghiệm hình thức đơn
đăng ký KDCN mà hoàn toàn dành quyền cho pháp luật quốc gia quy định.
 Công bố đơn hợp lệ
Việc công bố đơn hợp lệ được hầu hết các nước trên thế giới quy định. Công ước
Paris, Hiệp định TRIPS và Hiệp định Thương M ại Việt Nam – Hoa Kỳ đều yêu cầu

các đối tượng được bảo hộ nhất thiết phải được công bố trong một công báo định kỳ
chính thức, nhưng không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, công bố đơn (Hiệp định
TRIPS, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ) và yêu cầu Chính phủ hoặc cơ
quan của Chính phủ có nghĩa vụ bảo vệ bí mật các dữ liệu được đệ trình nhằm đảm
bảo chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh một cách hữu hiệu.
Nghị định số 63/CP (khoản 2 Điều 18), Thông tư 29 ( M ục 4) quy định: đơn đã
được chấp nhận hợp lệ đều được Cục SHCN công bố trên Công báo SHCN. M ục đích
của việc công bố đơn là thông báo cho công chúng biết về tất cả các thông tin liên
quan đến đơn được chấp nhận hợp lệ và quan trọng hơn là tạo điều kiện để người thứ
ba có quyền và lợi ích liên quan tới việc nộp đơn có ý kiến phản đối. Việc công bố
đơn còn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với những nước theo hệ thống bảo hộ
KDCN theo cơ chế bắt buộc đăng ký (M ỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc...) khi việc
đánh giá các tiêu chuẩn bảo hộ của cơ quan SHTT chỉ dựa trên những nguồn tin
không thể đầy đủ do cơ quan lưu giữ cung cấp thì việc công bố đơn chính là quá trình
tham gia xét nghiệm của công chúng góp phần đảm bảo cao hơn tính chính xác và
hiệu lực của đăng ký KDCN.
 Xét nghiệm nội dung đơn:
Xét nghiệm nội dung đơn nhằm mục đích đánh giá khả năng được bảo hộ của
đối tượng nêu trong đơn theo các tiêu chuẩn bảo hộ và xác định phạm vi bảo hộ
tương ứng. Vấn đề này đã được quy định chi tiết tại Điều 784 BLDS 1995, Điều 5 và
Điều 18 Nghị định 63/CP, M ục 5 Thông tư 29.

18


Để xét nghiệm nội dung đơn, các nước thuộc hệ thống xét nghiệm nội dung đơn
đăng ký KDCN (M ỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc...) đều quy định cơ quan SHTT chỉ
có trách nhiệm tra cứu và kiểm tra các thông tin về KD CN đã được nộp đơn, đã được
cấp bằng độc quyền ở các quốc gia và quốc tế, các tài liệu công bố về KDCN được cơ
quan thu thập, lưu giữ và các tài liệu khác (nếu có) nhằm đánh giá khả năng được bảo

hộ dưới danh nghĩa KDCN của đối tượng nêu trong đơn theo các tiêu chí bảo hộ: tính
mới, tính độc đáo, sáng tạo, khả năng áp dụng công nghiệp. Nếu không tìm thấy lý do
nào để kết luận rằng đối tượng không đáp ứng một tiêu chuẩn bảo hộ nào, người nộp
đơn sẽ được cấp bằng độc quyền. Nhìn chung các quy định hiện hành c ủa pháp luật
Việt Nam về xét nghiệm nội dung là phù hợp với thông lệ của các nước trên thế giới
theo hệ thống xét nghiệm nội dung.
 Cấp Văn bằng bảo hộ KDCN
Quyền SHCN đối với KDCN theo quy định của pháp luật Việt Nam được xác
lập theo văn bằng bảo hộ do c ơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp (Cục SHTT) chính là bằng độc quyền KDCN, văn bằng duy nhất của nhà nước xác nhận quyền
của chủ sở hữu KDCN.
Nếu đối tượng nêu trong đơn đáp ứng các tiêu chuẩn bảo hộ và người nộp đơn
nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản phí, lệ phí quy định tại điểm 28.4 Thông tư 29, Cục
SHTT sẽ ra quyết định cấp văn bằng bảo hộ KDCN cho người nộp đơn. “Văn bằng
bảo hộ KDCN có hiệu lực trên toàn lãnh thổ Việt Nam, có hiệu lực kể từ ngày cấp
đến hết 5 năm tính từ ngày nộp đơn hợp lệ, có thể đượ c gia hạn liên tiếp 2 lần, mỗi
lần 5 năm’’ (Điều 9 Nghị định 63/CP). Thời hạn bảo hộ đối với KDCN của Việt Nam
khá tương thích với phần lớn các nước trên thế giới - tối đa là 15 năm kể từ ngày nộp
đơn với các kỳ hạn hiệu lực 5 năm (ý, Nga, Nhật Bản, M alays ia, Philippines...). M ột
số nước khác quy định thời hạn bảo hộ KDCN tối đa là 10 năm kể từ ngày nộp đơn
(Indonesia), hoặc tối đa là 14 năm kể từ ngày được đăng ký (Mỹ), hoặc nhiều kỳ hạn
5 năm (Thỏa ước La Hay)... Tuy nhiên, theo quy định của Hiệp định TRI PS và Hiệp
định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ thì thời hạn bảo hộ KDCN ít nhất là 10 năm.
b. Nội dung quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp
Điều 796 BLDS 1995 quy định chủ sở hữu KDCN có quyền :
- Độc quyền sử dụng KDCN;
- Chuyển giao quyền sử dụng KDCN cho người khác;
- Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền buộc người có hành vi vi phạm
quyền sở hữu của mình phải chất dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt
hại;
19



- Để thừa kế hoặc chuyển giao cho người khác.
Theo quy định tại Điều 123 Luật SHTT 2005, quyền của chủ sở hữu KDCN
bao gồm: sử dụng, cho phép người khác sử dụng KDCN, ngăn cấm người khác sử
dụng KDCN, định đoạt KDCN.
 Quyền sử dụng kiểu dáng công nghiệp
Chủ sở hữu KDCN có quyền (độc quyền) sử dụng KDCN, theo đó, chủ sở hữu
vừa có quyền sử dụng vừa có quyền ng ăn cấm người khác sử dụng KDCN. Hầu hết
các nước đều quy định độc quyền sử dụng hoặc khai thác là việc chủ sở hữu KDCN
thực hiện các hành vi sản xuất, lưu thông, chào bán, tàng trữ để bán, cho thuê, nhập
khẩu, xuất khẩu các sản phẩm mang KDCN được bảo hộ.
Phù hợp với các điều ước quốc tế, pháp luật Việt Nam quy định quyền sử dụng
của chủ sở hữu KDCN bao gồm các hành vi nhằm mục đích kinh doanh:
-

Sản xuất;

-

Đưa vào lưu thông, quảng cáo nhằm để bán, chào bán, tàng trữ để bán;

-

Nhập khẩu sản phẩm có hình dáng b ên ngoài được bảo hộ với danh nghĩa
KDCN.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định những trường hợp hạn chế quyền đối với

KDCN, gồm: những trường hợp sử dụng KDCN không phải xin phép, không phải trả
thù lao cho chủ sở hữu và trường hợp áp dụng cho người sử dụ ng trước KDCN.

 Quyền yêu cầu xử lý người thứ ba xâm phạm quyền sở hữu kiểu dáng công
nghiệp của mình
Theo Hiệp định TRIPS và Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa kỳ, các nước
thành viên hoặc nước ký kết phải có quy định về việc chủ sở hữu KDCN được bảo hộ
phải có quyền cấm những người không được phép của mình sản xuất (chế tạo), bán
(lưu thông) hoặc nhập khẩu những sản phẩm mang hoặc thể hiện một kiểu dáng là
bản sao hoặc về cơ bản là bản sao của kiểu dáng được bảo hộ đó, nếu các hành vi đó
được thực hiện nhằm mục đích thương mại.
Trừ các trường hợp quy định tại Điều 801, Điều 803 BLDS 1995, theo quy
định tại Điều 804 BLDS 1995, người nào sử dụng KDCN của người khác trong thời
hạn bảo hộ mà không xin phép chủ sở hữu thì bị coi là xâm phạm quyền SHCN nói
chung và KDCN nói riêng. Để bảo vệ quyền và lợi ích của mình, chủ sở hữu có
quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hoặc khởi kiện tại tòa án có
thẩm quyền. Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, chủ văn bằng độc quyền KDCN
(cũng như chủ văn bằng các đối tượng SHCN khác) không chỉ có các quyền sản xuất,
sử dụng và tổ chức tiêu thụ các sản phẩm được bảo hộ mà còn có đặc quyền nhập
20


khẩu các sản phẩm đó vào Việt Nam (Điều 34 (1) Nghị định số 63/CP). Đặc quyền
nhập khẩu đó được hiểu rộng đến mức, bất kỳ một người thứ ba nào, nếu không được
phép của chủ văn bằng, thì không được nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam. Hành vi
nhập khẩu không được phép của chủ văn bằng được xem là hành vi xâm phạm quyền
và có thể kéo theo các chế tài dân sự, hành chính và hình sự tùy theo mức độ vi phạm
[14, tr.14].
 Quyền định đoạt đối với KDCN
Quyền SHCN đối với KDCN là một loại quyền tài sản (Điều 123 Luật SHTT
2005), vì vậy, cũng như pháp luật của các nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam
thừa nhận quyền tự định đoạt quyền sở hữu KDCN. Chủ sở hữu có quyền chuyển
giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng KDCN cho người khác thông qua hợp đồng

giữa các chủ thể đó (có thể là hợp đồng mua bán, hợp đồng tặng cho, hợp đồng góp
vốn, hợp đồng cho thuê tài sản...), có quyền để lại thừa kế q uyền sở hữu KDCN của
mình cho người khác.
Chuyển giao quyền sở hữu KDCN là một trong những quyền định đoạt rất
quan trọng của chủ sở hữu. Pháp luật Việt Nam hiện hành quy định vấn đề này tại
khoản 2 Điều 796 BLDS 1995, Điều 37 đến Điều 43 Nghị 63/CP và đượ c cụ thể hóa
tại Thông tư số 3055/TT-SHCN.
Chuyển giao quyền sử dụng KDCN (hợp đồng Li -xăng): chủ sở hữu có quyền
chuyển giao một phần hoặc toàn bộ quyền sử dụng KDCN của mình cho chủ thể
khác. Việc chuyển giao quyền sử dụng KDCN được thực hiện thông qua h ợp đồng
chuyển giao quyền sử dụng KDCN, gọi là hợp đồng Li -xăng. Về bản chất, hợp đồng
Li-xăng KDCN là một hợp đồng cho thuê tài sản, nhưng trong trường hợp mà bên
nhận chuyển giao Li-xăng không phải trả tiền thì đó lại là hợp đồng mượn tài sản.
Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định chuyển giao quyền sử dụng KDCN là
một trong các quyền cơ bản của chủ sở hữu KDCN (Điều 796 BLDS 1995, Mục 2
Luật SHTT 2005) và được cụ thể hóa tại Nghị định 63/CP và Thông tư số 3055/TT SHCN.
1.3.2. Xác định vi phạm quyền sở hữu kiểu dáng công nghiệp
a. Căn cứ xác định
 Khái niệm
Xác định vi phạm quyền SHCN nói chung và quyền sở hữu KDCN nói riêng
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xác định phạm vi quyền của các chủ thể và
là cơ sở cho việc áp dụng cơ chế xử lý vi phạm. Đồng thời việc xác định vi phạm
21


×