Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

VỊ TRÍ, VAI TRÒ của LUẬT sư TRONG GIAI đoạn điều TRA vụ án HÌNH sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.75 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG THỊ PHƯƠNG THU

VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

Chuyên ngành: Luật Hình sự
Mã số: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Minh Sơn

HÀ NỘI - 2007


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT

5


VIỆT NAM VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1

Cơ sở lý luận

5

1.2

Quy định của pháp luật Việt Nam về vị trí, vai trò của luật sư
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

25

1.2.1 Vị trí của luật sư

25

1.2.2 Vai trò của luật sư

33

1.2.3 Mối quan hệ giữa luật sư với người bị tạm giữ, bị can và các
đương sự; Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát khi tham gia tố
tụng trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự

41


Chương 2: THỰC TIỄN HOẠT ĐỘNG CỦA LUẬT SƯ TRONG

49

GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ Ở VIỆT
NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

2.1

Thực tiễn hoạt động của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự ở Việt Nam

49

2.1.1 Thành tựu

49

2.1.2 Những tồn tại của hoạt động luật sư

56

2.1.3 Nguyên nhân

59

2.2

66


Một số kiến nghị

2.2.1 Hoàn thiện quy định pháp luật

66

2.2.2 Nâng cao năng lực của đội ngũ luật sư

68

2.2.3 Nâng cao hiệu quả của một số biện pháp nhằm bảo đảm cho
luật sư thực hiện được vai trò của mình

71

2.2.4 Nâng cao vai trò kiểm sát và giám sát trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự

73

KẾT LUẬN

75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

77


1


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Để thực hiện nhiệm vụ phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý
công minh, kịp thời đối với tất cả các hành vi phạm tội, không để lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội, việc giải quyết vụ án hình sự phải
tuân theo trình tự hợp pháp gọi là tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là trình
tự tiến hành giải quyết vụ án hình sự bao gồm toàn bộ hoạt động của cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng và
cá nhân, cơ quan, tổ chức góp phần vào việc giải quyết vụ án theo quy định
của pháp luật tố tụng hình sự.
Song song với phát hiện và xử lý tội phạm thì bảo vệ quyền lợi chính
đáng của người có hành vi phạm tội, những người có quyền và nghĩa vụ
liên quan trong vụ án hình sự là một yêu cầu không thể thiếu, không thể coi
nhẹ.
Bảo vệ quyền lợi của công dân trong vụ việc dân sự đã là một điều
khó nhưng bảo vệ quyền lợi của công dân trong vụ án hình sự lại là một
điều khó hơn bởi quan hệ pháp luật hình sự vốn là quan hệ không bình
đẳng, đặc biệt việc bảo vệ quyền lợi của công dân từ thời điểm tạm giữ
người là một quy định hoàn toàn mới của Bộ luật Tố tụng hình sự hiện
hành. Bộ luật Tố tụng hình sự mới ban hành năm 2003 đi vào đời sống
pháp lý chưa được lâu, thậm chí nhiều cơ quan tiến hành tố tụng còn xa lạ
với việc có luật sư tham gia bảo vệ từ giai đoạn điều tra.
Trên thực tế, vị trí, vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự chưa được nhìn nhận, đánh giá đúng mức, luật sư chưa phát huy
được hiệu quả hoạt động của mình trong giai đoạn rất quan trọng mà kết
quả của nó ảnh hưởng trực tiếp đến số phận pháp lý thậm chí là số phận
thực tế của con người.



2

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay có khá nhiều đề tài nghiên cứu về vị trí, vai trò của luật sư
như: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự” Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Hoàng Thị Sơn, “Vai trò của luật sư
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo trong tố tụng
hình sự” - Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lương Văn Tròn, “Bảo
đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội” - Tiến sĩ Phạm Hồng Hải, “Vai
trò của luật sư trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị
cáo trong tố tụng hình sự” - Tiến sĩ Nguyễn Văn Tuân, “Cần đảm bảo các
quyền và nghĩa vụ của người bào chữa” - Phạm Thanh Bình, “Tìm hiểu
một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 về bào chữa” - Tiến
sĩ Đặng Quang Phương, “Hoàn thiện các quy định pháp luật về sự tham gia
của luật sư từ giai đoạn điều tra và quyết định truy tố” - Tiến sĩ - Luật sư
Phan Trung Hoài hay “Chế định người bào chữa” - Đinh Văn Quế… Tuy
nhiên đa số các đề tài chỉ tập trung nghiên cứu về vị trí vai trò của luật sư
trong giai đoạn xét xử hay trong tố tụng hình sự nói chung, còn đề tài
nghiên cứu riêng về vị trí, vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra thì hầu
như chưa có.
3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Mục đích:
Về lý luận: nghiên cứu nhằm làm rõ vị trí, vai trò của luật sư nói
chung và luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự nói riêng.
Về thực tiễn: tuyên truyền pháp luật, khẳng định và nâng cao vị trí,
vai trò của luật sư đặc biệt là trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự theo
hướng dân chủ, tiến bộ.
- Nhiệm vụ:
Bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trước sự xâm hại
của tội phạm; bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ,



3

bị can, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trước những vi phạm pháp luật từ phía các
cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện công bằng xã hội.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Nghiên cứu các quy định pháp luật của Việt Nam và có so sánh với
một số quốc gia khác trên thế giới về vị trí, vai trò của luật sư trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự. Đối với các quy định pháp luật của Việt Nam
thì người thực hiện đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu các quy định của
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và một số văn bản pháp luật có liên quan
khác về luật sư, điều tra hình sự...
- Tìm hiểu thực tiễn hoạt động của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự ở Việt Nam để thấy vị trí, vai trò của luật sư từ quy định pháp
luật đến thực tiễn có sự cách biệt không? Nguyên nhân chủ yếu của sự cách
biệt để từ đó có thể đề ra một số kiến nghị phù hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn sử dụng quan điểm duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin làm phương pháp luận trong giải quyết các vấn đề thuộc phạm vi
nghiên cứu của đề tài.
Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù như:
Phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, lịch sử, thống kê tội phạm...
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Đây là đề tài nghiên cứu đầu tiên có tính chuyên biệt và hệ thống
về vị trí, vai trò của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
- Trên cơ sở thực tiễn hoạt động của luật sư, luận văn đã tổng hợp đề
xuất một số kiến nghị nhằm nâng cao vị trí, vai trò của luật sư.
7. Cơ cấu của luận văn

Luận văn có kết cấu bao gồm:
- Phần mở đầu;


4

- Chương I. Cơ sở lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam về vị trí, vai
trò của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự;
- Chương II. Thực tiễn hoạt động của luật sư trong giai đoạn điều tra vụ án
hình sự ở Việt Nam và một số kiến nghị;
- Phần kết luận.


5

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA LUẬT SƯ
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Khái niệm luật sư
Quyền bào chữa có lịch sử phát triển từ lâu đời, xuất hiện đầu tiên ở
Châu Âu gắn liền với sự ra đời của Tòa án, theo đó người biện hộ xuất hiện
đồng thời với thẩm phán. Khi tổ chức Tòa án hình thành ở nhà nước Hy
Lạp cổ, nguyên cáo hoặc bị cáo được phép nhờ người thân bào chữa cho
mình trước Tòa án.
Hoạt động bào chữa bắt đầu phát triển vào giai đoạn cuối của nền
cộng hòa thứ IV trước công nguyên bằng việc người đi kiện biết nhờ người
thân bào chữa cho mình. Vì hoạt động bào chữa này nhằm minh oan cho
những người bị giai cấp thống trị bắt giam vô cớ và trừng phạt một cách

độc đoán, bảo vệ quyền lợi của nhân dân bị áp bức nên nhận được sự đồng
tình ủng hộ rất lớn từ phía nhân dân, thu hút được nhiều người tham gia
bào chữa tại Tòa án [32, trang 9].
Chế độ La Mã tan rã, châu Âu chìm trong “đêm trường trung cổ”, lúc
này Tòa án và hoạt động biện hộ chủ yếu phục vụ tôn giáo và chế độ phong
kiến. Nghề biện hộ không còn giữ nguyên giá trị ban đầu, những người
hành nghề chịu ảnh hưởng của thế lực đồng tiền và áp lực của chế độ
phong kiến đã không còn là những “hiệp sỹ” bảo vệ công lý chân chính.
Đến thời kỳ tư bản, nghề luật sư trở thành nghề kiếm tiền, có hình
thức tổ chức chặt chẽ hơn với những điều kiện khắt khe hơn mà chỉ một số
ít người xuất thân từ giai cấp thống trị, tầng lớp giàu có mới có thể đáp ứng
được.


6

Cùng với sự tiến lên của xã hội, nghề luật sư ngày càng phát triển trở
thành một nghề tự do và được điều chỉnh bởi pháp luật của nhà nước. Lịch
sử nghề biện hộ ở mỗi quốc gia gắn liền với chế độ chính trị đồng thời phục
vụ quyền lợi của chính giai cấp thống trị ở quốc gia này. Trên thế giới, ở
một số nước, xuất phát chủ yếu từ thông lệ, phong tục tập quán mà luật sư
được chia thành luật sư biện hộ và luật sư tư vấn (điển hình là Anh, Úc). Sự
phân chia này tạo điều kiện để luật sư tư vấn thực hiện nhiều công việc
theo yêu cầu của khách hàng không liên quan đến những công việc tại Tòa
án và giúp cho luật sư biện hộ giữ vị trí vững vàng, ổn định tại Tòa án, tập
trung được vào công việc tại Tòa án.
Tuy nhiên, đa số các nước không phân chia như vậy, một số nước sáp
nhập hai loại luật sư (đặc trưng là Pháp, Đức) hoặc nếu có sự phân chia thì
sự phân chia đó không rõ ràng, một người đồng thời vừa là luật sư tư vấn
vừa là luật sư biện hộ (tiêu biểu như Mỹ, Singapore).

Trong cơ chế thị trường, hoạt động luật sư được coi là một loại dịch
vụ nghề nghiệp được điều chỉnh bởi các đạo luật về hành nghề luật sư, về
kinh doanh. Các nước theo hệ thống án lệ coi luật sư là một nghề kinh
doanh đặc biệt còn các nước theo hệ thống luật thực định lại coi đây là một
nghề tự do.
Hệ thống pháp luật Pháp, Đức điển hình cho mô hình đa ngành nghề
tư pháp của các nước theo hệ thống Châu Âu lục địa, hoạt động luật sư ở
hai nước này có rất nhiều điểm tương đồng như điều kiện trở thành luật sư,
luật sư phải đăng ký ghi tên vào một Đoàn luật sư, luật sư có thể hành nghề
độc lập hoặc theo nhóm, hội hoặc có thể ký hợp đồng lao động với các văn
phòng luật sư, công ty luật hợp danh (luật sư làm thuê)...
Là một nước tiêu biểu của hệ thống pháp luật án lệ, ở Anh, nghề luật
sư bào chữa chiếm số lượng ít, có chức năng bảo vệ quyền lợi của thân chủ
tại các Tòa án cấp cao tồn tại song song với nghề luật sư tư vấn chuyên


7

soạn thảo văn bản, tư vấn pháp luật, đại diện và bảo vệ quyền lợi của thân
chủ tại các Tòa án cấp thấp. Ở Anh chỉ có một Đoàn luật sư duy nhất là
Đoàn luật sư Luân - đôn.
Mặc dù cũng là một nước thuộc hệ thống pháp luật án lệ nhưng do
đặc điểm riêng biệt như chế độ liên bang, sự đa dạng sắc tộc, sự cường
thịnh kinh tế... nên ở Mỹ lại hình thành mô hình một nghề luật sư thống
nhất. Luật sư hành nghề tự do, có thể hoạt động trong mọi lĩnh vực pháp
luật và đây là độc quyền của luật sư, chỉ có sự cạnh tranh duy nhất giữa các
luật sư với nhau nên hiệu quả các hoạt động pháp luật của luật sư Mỹ được
đánh giá rất cao.
Việt Nam thời kỳ thực dân phong kiến trước năm 1930, người Pháp
gần như chiếm độc quyền hành nghề luật sư. Bằng Sắc lệnh ngày

25/5/1930, người Pháp thành lập Hội đồng luật sư ở Hà Nội và Sài Gòn cho
phép người Việt tham gia biện hộ với một số điều kiện như: tốt nghiệp đại
học luật khoa, có thời gian tập sự năm năm tại một văn phòng biện hộ của
luật sư, phải qua sát hạch của Hội đồng luật sư để được trở thành luật sư
chính thức... [32, trang 20].
Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
ra đời, với Sắc lệnh ngày 10/10/1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức
Đoàn thể luật sư, tổ chức luật sư cũ được duy trì với một số điểm sửa đổi
cho phù hợp với tình hình mới. Tiếp đến là Sắc lệnh 69/SL ngày 18/6/1949
mở rộng tổ chức bào chữa, cho phép công dân không phải là luật sư có thể
bào chữa cho đương sự tại Tòa án về các việc hộ và thương mại, bào chữa
cho bị cáo trước tòa xét xử về hình.
Ngày 18/12/1987, Pháp lệnh Tổ chức luật sư được ban hành cụ thể
hóa Hiến pháp năm 1980 tạo cơ sở cho sự hình thành và phát triển đội ngũ
luật sư Việt Nam trong hoàn cảnh mới của đất nước, đã quy định tương đối
hoàn chỉnh về tổ chức và hoạt động của luật sư. Điều kiện gia nhập Đoàn


8

luật sư phải là công dân Việt Nam có phẩm chất đạo đức tốt, tốt nghiệp đại
học pháp lý hoặc có trình độ pháp lý tương đương. Những người đang công
tác tại các cơ quan như Tòa án, Viện kiểm sát, cơ quan công an, cơ quan tư
pháp, cơ quan thanh tra nhà nước, trọng tài kinh tế, hải quan và các cơ quan
nội chính của Đảng (không bao gồm những người làm công tác nghiên cứu,
giảng dạy pháp luật tại các viện nghiên cứu, các trường thuộc các cơ quan
đó) không được gia nhập Đoàn luật sư. Hoạt động tích cực của đội ngũ luật
sư thời kỳ này đã giúp Tòa án và các cơ quan tiến hành tố tụng khác làm rõ
sự thật khách quan, bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương

sự khác, bảo vệ và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thông qua các
Đoàn luật sư, luật sư đã thực hiện chức năng giúp đỡ pháp lý cho các công
dân, tổ chức; tham gia các vụ án theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố
tụng; giúp đỡ miễn phí hoặc giảm phí cho người nghèo, đối tượng chính
sách.
Bước sang thời kỳ mở rộng hợp tác quốc tế, luật sư nước ngoài đã
được phép hành nghề tại Việt Nam, đặt ra yêu cầu đối với chế định luật sư
phải được thay đổi cho phù hợp với cơ chế thị trường theo hướng “đổi mới
quản lý nhà nước đối với các hoạt động luật sư... phù hợp với chủ trương
xã hội hóa, kết hợp quản lý nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức
nghề nghiệp. Đào tạo và phát triển độ ngũ luật sư có phẩm chất đạo đức
nghề nghiệp, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phát huy vai trò của họ
trong tư vấn pháp luật và trong tố tụng” [1]. Pháp lệnh Luật sư năm 2001 ra
đời tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự phát triển của đội ngũ luật sư chuyên
nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội trong tình hình mới. Từ đây hoạt động
luật sư chính thức được coi là một nghề cung cấp dịch vụ. Ngoài những
điều kiện như Pháp lệnh Tổ chức luật sư 1987 đã quy định thì một người
muốn trở thành luật sư phải không được là cán bộ, công chức, phải tốt


9

nghiệp khóa đào tạo nghề luật sư ở Việt Nam hoặc ở nước ngoài được pháp
luật Việt Nam công nhận (trừ trường hợp được miễn đào tạo nghề) thể hiện
sự chuyên nghiệp hóa đội ngũ luật sư. Luật sư có quyền lựa chọn lĩnh vực
hành nghề, được hành nghề trên toàn quốc và ở nước ngoài, được phép
thỏa thuận thù lao khi ký kết hợp đồng dịch vụ pháp lý với khách hàng (trừ
vụ án hình sự). Luật sư nước ngoài, chi nhánh văn phòng luật sư nước
ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Tuy nhiên, luật sư nước ngoài
không được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người đại diện

cho khách hàng tại Tòa án Việt Nam mà chỉ được tư vấn pháp luật của
nước nơi họ được cấp chứng chỉ hành nghề luật sư, tư vấn pháp luật quốc tế
trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại và không được tư vấn pháp
luật Việt Nam.
Cùng với sự tăng trưởng kinh tế xã hội vượt bậc, sự mở rộng hợp tác
quốc tế toàn diện lại một lần nữa đặt ra yêu cầu đổi mới chế định luật sư
của Việt Nam.
Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI ngày 16/5 - 29/6/2006 thông qua
Luật Luật sư có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2007 thay thế Pháp lệnh Luật
sư là một bước tiến quan trọng trong quá trình đổi mới và hoàn thiện thể
chế về luật sư ở nước ta. Luật Luật sư kế thừa nội dung cơ bản của Pháp
lệnh Luật sư năm 2001 đồng thời có những điểm mới rất quan trọng. Về
hành nghề của luật sư, ngoài việc tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật và các
dịch vụ pháp lý khác, Luật Luật sư còn cho phép luật sư được đại diện
ngoài tố tụng cho khách hàng để thực hiện các công việc liên quan đến
pháp luật. Quy định này phù hợp với xu hướng mở rộng dân chủ, tạo cơ sở
pháp lý cho người dân thực hiện quyền dân chủ, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình.
Pháp lệnh Luật sư năm 1987 quy định Đoàn luật sư vừa là tổ chức
nghề nghiệp vừa là nơi hành nghề của luật sư chưa tạo điều kiện thuận lợi


10

cho công tác quản lý nhà nước, hoạt động hành nghề của luật sư cũng như
sự lựa chọn của khách hàng. Đến Pháp lệnh Luật sư năm 2001 đã có sự
phân biệt rõ hình thức tổ chức hành nghề luật sư là các văn phòng luật sư
và công ty luật hợp danh còn các Đoàn luật sư chỉ là tổ chức xã hội nghề
nghiệp của luật sư. Với Luật Luật sư thì luật sư không chỉ hành nghề trong
tổ chức hành nghề luật sư mà còn được phép hành nghề với tư cách cá nhân

dưới hình thức tự mình nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng
theo hợp đồng dịch vụ pháp lý hoặc làm việc cho cơ quan, tổ chức trên cơ
sở hợp đồng lao động. Luật sư hành nghề với tư cách cá nhân phải chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về hoạt động hành nghề và hoạt
động theo mô hình hộ kinh doanh cá thể. Các tổ chức hành nghề luật sư
xích lại gần với các loại hình doanh nghiệp: văn phòng luật sư là tổ chức
hành nghề luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức, hoạt động theo
loại hình doanh nghiệp tư nhân; công ty luật bao gồm công ty luật hợp danh
và công ty luật trách nhiệm hữu hạn (một thành viên hoặc hai thành viên
trở lên). Tổ chức xã hội - nghề nghiệp của luật sư được quy định hoàn
chỉnh hệ thống từ trung ương đến các địa phương, tăng cường vai trò tự
quản của tổ chức luật sư: tổ chức luật sư toàn quốc và các Đoàn luật sư ở
các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Xét tổng quát, luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề
theo quy định của pháp luật mỗi quốc gia, thực hiện dịch vụ pháp lý theo
yêu cầu của khách hàng. Dưới góc độ lý luận, luật sư là người có trình độ
chuyên môn và kiến thức pháp lý sâu rộng, được đào tạo kỹ năng hành
nghề luật sư, có phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, gia nhập tổ chức của luật
sư, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức,
góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế xã hội và xây dựng xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.


11

Lịch sử hành nghề biện hộ đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm
nhưng vẫn tồn tại và phát triển cho đến ngày nay khẳng định vai trò của
luật sư trong sứ mệnh bảo vệ quyền con người. Dù còn nhiều quan điểm
khi xác định thời điểm hình thành nghề luật sư song nguồn gốc sâu xa của
việc hình thành đó xuất phát từ những áp bức, bất công trong xã hội “người

nô lệ lúc ấy không được coi là người; không những không được coi là công
dân mà còn không được coi là người nữa. Luật pháp La Mã coi họ là các đồ
vật. Không nói đến các luật lệ khác để bảo vệ cá nhân con người ngay cả
luật lệ về tội giết người cũng không áp dụng cho người nô lệ” [38]. Xuất
hiện trong lòng xã hội đầy bất công ấy, hình ảnh luật sư - người biện hộ hiệp sỹ là hiện thân của lòng nghĩa hiệp. Tinh thần nghĩa hiệp cao thượng
ấy không chỉ phản ánh ước vọng ngàn đời của nhân dân về một xã hội công
bằng mà còn phản ánh nhu cầu tự thân của xã hội xuyên suốt trong quá
trình phát triển của loài người.
Tuyên ngôn thế giới về quyền con người do Đại Hội đồng Liên hợp
quốc thông qua và công bố ngày 10/12/2948 khẳng định: “tất cả mọi người
đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ một cách
bình đẳng mà không có bất kỳ sự phân biệt nào”. Theo đó “không ai bị bắt
bớ, giam cầm, đày ải một cách vô cớ”, “mỗi người bị buộc tội là đã phạm
một tội hình sự đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi được chứng
minh là phạm tội theo luật pháp, tại một phiên tòa xử công khai với tất cả
các đảm bảo biện hộ cần thiết”, “không ai phải chịu sự can thiệp vô cớ đến
đời tư, gia đình, nhà cửa hay thư tín... mọi người đều có quyền được pháp
luật bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy”.
Điều 71 Hiến pháp 1992 Việt Nam cũng quy định “công dân có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính mạng,
sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt nếu không có quyết định
của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân


12

dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt và giam giữ người phải
đúng pháp luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của công dân”. Bảo đảm quyền bào chữa là nguyên tắc
Hiến định và tiếp tục được ghi nhận, cụ thể hóa trong Bộ luật Tố tụng hình

sự.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tôn
trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một trong các nguyên tắc
cơ bản của tố tụng hình sự được quy định cụ thể tại Điều 4, Điều 11 Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 2003. Việc ghi nhận quyền bào chữa của người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo nhằm đảm bảo cho họ được bày tỏ thái độ, đưa ra quan
điểm của mình đối với người buộc tội, về những chứng cứ, tình tiết minh
oan hay giảm nhẹ tội của họ và các cơ quan tiến hành tố tụng cần xem xét,
cân nhắc khi đưa ra các quyết định của mình nhằm xử lý vụ án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
Bảo đảm quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là một
trong những biểu hiện dân chủ, nhân đạo của pháp luật, là bảo đảm quan
trọng cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử được tiến hành khách quan,
công bằng. Quyền bào chữa được thực hiện trong mọi giai đoạn tố tụng
hình sự bởi người bị tạm giữ, bị can, bị cáo hoặc người khác được họ nhờ
bào chữa.
Thời kỳ cổ đại, để bào chữa cho mình, nghi phạm phải chịu trói tay,
trói chân rồi quẳng xuống nước nếu không chìm thì được coi là vô tội hoặc
phải nhúng tay vào nước sôi nếu không bỏng mới được coi là vô tội. Cách
bào chữa may ít rủi nhiều đó giống như một bản án kết tội được tuyên
trước với nghi phạm [31].
Ở Việt Nam, quyền bào chữa được hình thành, phát triển sớm và
không ngừng hoàn thiện phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của


13

nước ta ở từng giai đoạn, từng thời kỳ lịch sử góp phần bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp cho công dân trong tố tụng hình sự.
Khi tự bào chữa cho mình, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo được sử

dụng các quyền mà pháp luật quy định để chứng minh mình vô tội, giảm
nhẹ tội... Trong trường hợp nhờ người khác bào chữa thì người khác đó có
thể là người đại diện hợp pháp của họ, luật sư, bào chữa viên nhân dân.
Nếu bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình
được quy định trong Bộ luật Hình sự; bị can, bị cáo là người chưa thành
niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất thì Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật
sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên
của tổ chức mình.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho
người bị tạm giữ, bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ.
Hoạt động tố tụng hình sự liên quan trực tiếp đến các quyền cơ bản
của công dân như quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện thoại,
điện tín...
Quyền uy là một phương pháp điều chỉnh đặc thù của luật tố tụng
hình sự, trong quan hệ pháp luật này mọi quyết định, yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng có tính chất bắt buộc đối với các cơ quan, tổ chức, và mọi
công dân. Các cơ quan, tổ chức, công dân có quyền khiếu nại những quyết
định, yêu cầu đó nhưng trước khi được cơ quan có thẩm quyền giải quyết
thì các chủ thể này vẫn phải thực hiện những quyết định, yêu cầu đó của cơ
quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, người tiến hành tố tụng có trách nhiệm tôn
trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và công dân có


14

quyền yêu cầu người tiến hành tố tụng phải tôn trọng và bảo vệ các quyền,

lợi ích hợp pháp đó của mình. Người tiến hành tố tụng chỉ áp dụng các biện
pháp tố tụng trong trường hợp cần thiết và theo đúng quy định của pháp
luật, thường xuyên kiểm tra tính hợp pháp và sự cần thiết của các biện pháp
đã áp dụng; kịp thời hủy bỏ hoặc thay đổi những biện pháp tố tụng nếu có
sự vi phạm pháp luật hoặc không còn cần thiết áp dụng nữa.
Việc bảo đảm các quyền cơ bản của công dân không chỉ tăng cường
dân chủ trong tố tụng mà còn góp phần bảo đảm pháp chế, xác định sự thật
của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ. Để áp dụng được
nguyên tắc này triệt để, hiệu quả phải có cơ sở pháp lý rõ ràng xác định các
quyền cơ bản của công dân, những điều kiện áp dụng biện pháp tố tụng,
trách nhiệm khi người tiến hành tố tụng vi phạm... Ngoài ra, chuyên môn
và đạo đức nghề nghiệp của người tiến hành tố tụng, ý thức pháp luật của
nhân dân, công tác tổ chức thực hiện... cũng là những yếu tố ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả của nguyên tắc này.
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được xây dựng trên
cơ sở nhà nước dân chủ, của dân, do dân và vì dân, việc bảo đảm quyền
bào chữa, bảo vệ quyền cơ bản của công dân không chỉ là một nhiệm vụ
của pháp luật tố tụng hình sự mà còn là nhiệm vụ trung tâm của pháp luật
nói chung. Điều đó cũng hoàn toàn phù hợp với pháp luật quốc tế và xu thế
phát triển chung trên thế giới vì sự tiến bộ của loài người.
1.1.2. Một số quan điểm về vị trí, vai trò của luật sư trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự
Nghề luật sư trên thế giới được tổ chức dưới nhiều hình thức đa dạng
xuất phát từ đặc trưng văn hóa, lịch sử, quan niệm, truyền thống pháp luật...
ở từng quốc gia. Tùy thuộc vào điều kiện của mỗi nước mà có sự nhận thức
khác nhau về vị trí, vai trò của luật sư, tất nhiên những quan điểm này cũng
thay đổi tương ứng với sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.


15


Luật sư là một nghề xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhưng lại mới
được đề cập trong luật quốc tế. Văn kiện pháp lý quốc tế đầu tiên nói đến
vai trò của luật sư một cách gián tiếp là Hiến chương Liên hợp quốc năm
1945 thông qua những nguyên tắc về quyền con người. Tiếp tục sự ghi
nhận đó là Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 và được cụ
thể hóa trong Công ước Quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966
tại khoản 3 Điều 14: “Trong các vụ hình sự, tất cả các bị cáo đều được
hưởng đồng đều những bảo đảm tối thiểu sau đây:
b, Quyền có đủ thời gian và phương tiện để chuẩn bị sự biện hộ và
được quyền liên lạc với luật sư do mình lựa chọn;
d, Được hiện diện trong phiên xử để tự biện hộ hay nhờ luật sư biện
hộ do mình lựa chọn; được thông báo về quyền này trong trường hợp tự
biện hộ; và được quyền có luật sư biện hộ miễn phí vì nhu cầu công lý nếu
bị cáo không có phương tiện mướn luật sư”.
Mặc dù các văn kiện trên không có một điều khoản nào trực tiếp đề
cập đến vai trò của luật sư song những nguyên tắc và quyền con người liên
quan đến tố tụng hình sự được ghi nhận trong các văn kiện đó tạo cơ sở cho
hoạt động của luật sư, phản ánh vị trí, vai trò của loại hình nghề nghiệp rất
đặc thù này trong tiến trình duy trì, thúc đẩy hòa bình, công lý và tiến bộ xã
hội trên thế giới.
Để vị trí, vai trò của luật sư phải được thừa nhận, tôn trọng và thực
hiện trong khuôn khổ pháp luật và thực tiễn, Hội nghị Liên hợp quốc về
phòng chống tội phạm và xử lý người phạm tội lần thứ VIII tổ chức ở
Havana (Cuba) từ ngày 27/8 - 7/9/1990 đã thông qua Các nguyên tắc cơ
bản về vai trò của luật sư trong đó ghi nhận quyền được tiếp cận luật sư và
dịch vụ pháp lý của quần chúng. Tuy chỉ gián tiếp đề cập đến vai trò của
luật sư song nó có ý nghĩa to lớn vì bảo đảm quyền này của quần chúng
cũng có nghĩa là luật sư có thể thực hành và phát huy vai trò của mình.



16

Cũng theo văn kiện này, các chính phủ phải bảo đảm cho luật sư được tự do
và thuận lợi trong quá trình hành nghề, không bị đe dọa, cản trở, quấy rối
hay bị can thiệp một cách tùy tiện. Những người có thẩm quyền có trách
nhiệm tạo điều kiện cho luật sư được tiếp cận với những thông tin, hồ sơ và
tài liệu có liên quan do mình quản lý trong thời điểm sớm nhất để luật sư có
thể giúp đỡ pháp lý cho khách hàng có hiệu quả, không được đồng nhất luật
sư với khách hàng của họ cũng như những hành vi do khách hàng của họ
thực hiện. Các hiệp hội của luật sư phải hợp tác với chính phủ tạo điều kiện
cho mọi người thuận lợi khi tiếp cận với dịch vụ pháp lý.
Là một văn kiện cụ thể hóa Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị năm 1966 thường xuyên được dẫn chiếu trong các tài liệu, các
hoạt động quốc tế liên quan đến việc bảo đảm quyền con người, Các
nguyên tắc cơ bản về vai trò của luật sư có tác động sâu sắc đến hoạt động
tố tụng ở các quốc gia.
Như vậy các văn kiện quốc tế trên đều ghi nhận luật sư có vị trí, vai
trò quan trọng trong hoạt động tố tụng nhằm bảo vệ các quyền con người,
bảo vệ công lý song những ghi nhận đó chỉ mang tính nguyên tắc cần được
cụ thể hóa tại các văn bản pháp luật của các quốc gia.
Ở Hàn Quốc - một nước Châu Á phát triển, nghề luật sư là một trong
những nghề nghiệp chuyên môn được ưa chuộng, có thu nhập cao và được
xã hội kính trọng. Lĩnh vực nghiệp vụ lớn nhất của luật sư là nghiệp vụ tố
tụng, thụ lý và đại diện tranh tụng. Tất cả các luật sư đều có thể bào chữa
trong vụ án hình sự nhưng không phải tất cả các vụ án hình sự đều bắt buộc
phải có luật sư. Căn cứ Điều 282, 283 Luật Tố tụng hình sự Hàn Quốc thì
các vụ án có mức hình phạt tử hình, tù chung thân hoặc từ ba năm trở lên
bắt buộc phải có luật sư bào chữa, nếu đương sự chưa có luật sư hoặc luật
sư vắng mặt thì Tòa án sẽ chỉ định luật sư. Tính đến năm 2004 có

1.972.695 vụ án hình sự đưa ra Tòa án, trong đó 311.208 vụ xét xử công


17

khai chiếm 15,77% số vụ và 108.787 vụ chỉ định luật sư chiếm 5,51% số
vụ. Cơ sở tồn tại chế độ luật sư là Hiến pháp Hàn Quốc: “mọi công dân đều
có giá trị và được tôn trọng với tư cách là một con người, có quyền được
mưu cầu hạnh phúc. Nhà nước công nhận quyền cơ bản về bất khả xâm
phạm mà mỗi cá nhân có và có nghĩa vụ phải bảo vệ điều này” (Điều 10
Hiến pháp Hàn Quốc). Chính vì vậy, Điều 1 Luật Luật sư Hàn Quốc nêu rõ
ý nghĩa cơ bản của chế độ luật sư và khẳng định “luật sư mang sứ mệnh
thực hiện chính nghĩa xã hội, bảo hộ nhân quyền cơ bản, luật sư thực hiện
trung thành chức vụ của mình theo sứ mệnh đó và phải nỗ lực cải thiện chế
độ pháp luật và duy trì trật tự xã hội”. Do đó, nghề luật sư mang tính công
ích, thực hiện chủ nghĩa pháp trị, luật sư đóng vai trò bảo vệ quyền cơ bản
của công dân và độc lập với nhà nước.
Theo chế độ hiện hành của pháp luật Hàn Quốc, mặc dù quyền tham
gia của luật sư bào chữa trong quá trình điều tra được bảo đảm nhưng điều
đó không có ý nghĩa lớn đối với những người do điều kiện kinh tế khó khăn
không thể thuê được người biện hộ cho mình. Trên thực tế, tỷ lệ tuyên cáo
vô tội rất thấp (tỷ lệ vô tội trong các vụ án hình sự sơ thẩm công khai năm
1995: 0,45%; năm 2000: 0,65%; năm 2004: 1,12%) [34]. Do phán quyết
đối với nghi phạm được quyết định trong quá trình điều tra nên quyền được
nhận sự trợ giúp của người bào chữa trong quá trình điều tra phải được bảo
đảm một cách thực chất, hiệu quả.
Trên cơ sở khẳng định nguyên tắc của hoạt động tố tụng là tranh
tụng, Bộ luật Tố tụng hình sự Liên bang Nga xác định rõ bên buộc tội với
bên bào chữa. Bên bào chữa bao gồm người bị tình nghi, bị can, đại diện
hợp pháp của người chưa thành niên, người bào chữa, luật sư. Điều 49 quy

định luật sư được phép tham gia bào chữa từ thời điểm ban hành quyết định
khởi tố bị can; hoặc từ thời điểm khởi tố vụ án trong những vụ án hình sự
khởi tố theo yêu cầu của người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của họ;


18

hoặc từ thời điểm bắt đầu thực hiện những biện pháp cưỡng chế tố tụng
hoặc những hoạt động tố tụng khác hạn chế quyền và tự do của người bị
tình nghi thực hiện tội phạm....
Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự Nga cho phép luật sư tham gia
ngay từ đầu khi cơ quan có thẩm quyền tiến hành hoạt động tố tụng đối với
người bị tình nghi, bị can. Một số trường hợp bắt buộc phải có người bào
chữa nếu người bị tình nghi, bị can không từ chối luật sư, là người chưa
thành niên hoặc có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, bị một tội mà có
thể bị xử phạt tù từ trên 15 năm, chung thân hoặc tử hình.... Trong những
trường hợp này nếu nghi phạm, bị can, người đại diện hợp pháp của họ
không mời luật sư thì nhân viên thẩm tra ban đầu, dự thẩm viên, kiểm sát
viên của Tòa án phải bảo đảm sự tham gia của người bào chữa. Luật sư có
quyền gặp gỡ người bị tình nghi, bị can; thu thập và đưa ra chứng cứ cần
thiết cho việc bào chữa; trưng tập nhà chuyên môn; tham gia khi lấy lời
khai nghi phạm, hỏi cung bị can và những hoạt động điều tra khác được
tiến hành với sự tham gia của người bị tình nghi, bị can hoặc theo yêu cầu
của những người đại diện hoặc theo yêu cầu của luật sư; xem biên bản tạm
giữ, quyết định áp dụng biện pháp ngăn chặn, biên bản hoạt động điều tra,
ghi chép bất kỳ tài liệu nào với số lượng bất kỳ từ hồ sơ vụ án, sao chụp hồ
sơ kể cả có sự trợ giúp của phương tiện kỹ thuật; đưa ra những yêu cầu và
đề nghị thay đổi người tham gia tố tụng; khiếu nại đối với hoạt động và
quyết định của nhân viên điều tra ban đầu, dự thẩm viên, kiểm sát viên.
Căn cứ Điều 45 Bộ luật Tố tụng hình sự Nga thì người đại diện của

người bị hại, nguyên đơn dân sự và tư tố viên (người đệ đơn yêu cầu Tòa
án giải quyết những vụ án tư tố và thực hiện việc buộc tội trước Tòa án) có
thể là luật sư. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại là
người chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất
mà không có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì


19

việc cử người đại diện hợp pháp hoặc người đại diện cho họ trong vụ án
hình sự là bắt buộc. Người đại diện của những người này có các quyền tố
tụng như người mà họ đại diện và việc những người này trực tiếp tham gia
vào vụ án không tước đi quyền của họ có người đại diện trong vụ án đó.
Luật sư đại diện có quyền đưa đơn yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại cho
nguyên đơn dân sự sau khi khởi tố vụ án hình sự nhưng trước khi kết thúc
điều tra trong trường hợp nguyên đơn dân sự là người chưa thành niên,
người không có năng lực hành vi hoặc năng lực hành vi hạn chế, người mà
do những nguyên nhân khác không thể tự bảo vệ các quyền, lợi ích hợp
pháp của mình (trừ trường hợp để bảo vệ lợi ích nhà nước thì kiểm sát viên
khởi tố). Luật sư có quyền bảo vệ đơn kiện, đưa ra các chứng cứ, giải thích
nội dung đơn kiện, xem các biên bản hoạt động điều tra được tiến hành với
sự tham gia của họ; tham gia vào các hoạt động điều tra được tiến hành
theo yêu cầu của luật sư đại diện nếu được dự thẩm viên hoặc nhân viên
thẩm tra ban đầu đồng ý, đưa ra các yêu cầu và đề nghị thay đổi người
tham gia tố tụng, đưa ra lời khai, rút đơn kiện, xem hồ sơ vụ án liên quan
đến đơn kiện sau khi kết thúc điều tra và ghi chép bất kỳ tài liệu nào với bất
kỳ số lượng nào từ hồ sơ vụ án; khiếu nại hoạt động của nhân viên điều tra,
dự thẩm viên, kiểm sát viên.
Tương tự, người đại diện của bị đơn dân sự có thể là luật sư, cũng có
những quyền hạn như người mà mình đại diện và việc bị đơn dân sự tham

gia trực tiếp vào quá trình tố tụng không tước đi quyền của họ có người đại
diện. Luật sư đại diện có quyền được biết nội dung đơn kiện; phản đối đơn
kiện; giải thích và khai báo nội dung của việc bị kiện; đưa ra lời khai; thu
thập và đưa ra chứng cứ; đưa ra yêu cầu và đề nghị thay đổi người tham gia
tố tụng; tiếp xúc hồ sơ vụ án liên quan đến nội dung đơn kiện sau khi kết
thúc điều tra và ghi chép những nội dung cần thiết, sao chụp những tài liệu
liên quan đến nội dung bị kiện kể cả sử dụng các phương tiện kỹ thuật;


20

khiếu nại đối với hoạt động và quyết định của người tiến hành tố tụng về
phần liên quan đến đơn kiện.
Luật tố tụng hình sự của các nước khác nhau có những điểm khác
nhau về chủ thể của quyền bào chữa. Điều 30 Bộ luật Tố tụng hình sự Nhật
Bản quy định quyền bào chữa thuộc về bị cáo và người bị tình nghi: “Bị
cáo hoặc người bị tình nghi có thể lựa chọn luật sư bào chữa bất kỳ lúc
nào”. Do đó, luật sư có thể tham gia bào chữa, bảo vệ cho bị cáo, nghi
phạm từ giai đoạn điều tra. Tương tự, Điều 38 Luật tố tụng hình sự của
chính quyền Sài Gòn trước đây quy định “trong giai đoạn điều tra sơ vấn
nghi can bị bắt giữ hoặc bị điều tra phải biết ngay là phạm tội gì và có
quyền nhờ luật sư dự kiến”. Nhưng theo quy định của Điều 73 Bộ luật Tố
tụng hình sự Bungari thì quyền bào chữa của bị can bị hạn chế, họ chỉ có
quyền nhờ luật sư bào chữa trong một số trường hợp cụ thể, vì vậy việc
tham gia bào chữa của luật sư trong giai đoạn điều tra hình sự cũng bị giới
hạn.
Như vậy, quan điểm về vị trí, vai trò của luật sư trong tố tụng hình sự
nói chung và trong giai đoạn điều tra nói riêng trên thế giới cũng rất khác
nhau. Thực tế, nghề luật sư ở Việt Nam vẫn chưa có bước phát triển tương
xứng để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, cần phải có sự nghiên cứu toàn diện, hệ

thống, hoàn thiện lý luận về xây dựng mô hình luật sư phù hợp với điều
kiện của nước ta trong xu thế mới. Có người quan niệm luật sư là người
phụ tá tư pháp, với vị trí ấy luật sư có vai trò tham gia vào việc điều hành
bộ máy tư pháp và bình đẳng với các thành phần khác nhau của Tòa án,
Viện kiểm sát. Quan điểm này chưa xác định đúng vị trí của luật sư khi
khẳng định tính chất phụ tá của luật sư đồng thời nhấn mạnh vai trò tham
gia điều hành bộ máy tư pháp.
Lại có quan điểm cho rằng luật sư là người trợ lý pháp luật cho
khách hàng, là người đồng hành pháp lý với Tòa án, người trợ thủ pháp luật


21

của xã hội nên bản thân người luật sư cũng vừa là bản thân nghề nghiệp,
bản thân xã hội, tương tự như bản thân của vị thẩm phán hay công tố viên.
Sự gắn bó của nghề nghiệp luật sư với số phận của con người được coi là
sự kết nối tự nhiên, mang tính bản chất. Vì vậy nghề luật sư không chỉ đơn
thuần mang tính dịch vụ mà còn là phục vụ nhu cầu chính đáng của người
dân cần được trợ giúp về pháp lý. Xuất phát từ đặc trưng đó, có tác giả khi
đề cập đến chức năng của luật sư còn quan niệm hoạt động luật sư không
chỉ là nghề nghiệp mà còn là sứ mệnh, người luật sư muốn làm tròn nhiệm
vụ của mình phải luôn hướng tới mục tiêu cao quý góp phần bảo vệ công
lý, công bằng xã hội, bảo vệ pháp chế với tinh thần chí công vô tư của
người tham gia cầm giữ cán cân công lý và lòng quả cảm của người chiến
sỹ đấu tranh cho lý tưởng đó.
Sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 về việc thành lập Tòa án quân
sự quy định “Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bênh vực cho
họ” (Điều 5). Đến Hiến pháp năm 1946 - Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam
thì vai trò của luật sư đã được ghi nhận như một nguyên tắc Hiến định

“Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư” (Điều 67).
Hiến pháp năm 1959 ghi nhận quyền bào chữa của bị cáo và được cụ thể
hóa bằng Điều 7 Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960: quyền bào chữa
của các bị cáo được đảm bảo, bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ luật sư
bào chữa cho mình. Điều 133 Hiến pháp năm 1980 một lần nữa khẳng định
quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm và tổ chức luật sư được thành lập
để giúp bị cáo và các đương sự khác về mặt pháp lý. Hiến pháp năm 1992
là sự tiếp tục, kế thừa tinh thần lập hiến ấy bằng việc ghi nhận quyền bào
chữa và khẳng định vai trò của của tổ chức luật sư tại Điều 132. Bộ luật Tố
tụng hình sự năm 1988 đã ghi nhận sự tham gia của luật sư từ thời điểm
khởi tố bị can nhưng Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 không chỉ mở rộng


22

phạm vi bào chữa, quyền bào chữa mà còn quy định sớm hơn về thời điểm
tham gia vụ án hình sự từ khi người bị tạm giữ nhận được quyết định tạm
giữ.
Nền tảng hoạt động của luật sư không chỉ xuất phát từ quyền Hiến
định mà còn xuất phát từ chính vai trò của luật sư trong các thiết chế của
nền dân chủ, góp phần bảo vệ quyền tự do dân chủ của nhân dân, bảo đảm
công bằng xã hội.
Kinh tế xã hội là cơ sở thực hiện các quyền tự do dân chủ của công
dân, ngược lại, các quyền tự do dân chủ ấy tác động trực tiếp trở lại đến ý
thức xã hội, đến nhận thức và ý thức của công dân đối với các thiết chế dân
chủ. Chính vì vậy, nghề luật sư không phải là hoạt động dịch vụ pháp lý
đơn thuần, luật sư hành nghề không chỉ quan tâm đến thù lao từ khách hàng
và những lợi ích vật chất khác mà còn phải quan tâm đến những giá trị phi
vật chất, phi dịch vụ thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý cho người
nghèo, đối tượng chính sách, bào chữa theo chỉ định của Tòa án... Ngoài

hoạt động đặc thù là tranh tụng và tư vấn pháp luật, các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, xây dựng nếp sống và ý thức tuân thủ pháp luật
trong cộng đồng cũng cần được luật sư chú trọng đúng mức.
Mặc dù quan điểm của số quốc gia không giống nhau về thời điểm
tham gia tố tụng hình sự cũng như vị trí, vai trò của luật sư trong giai đoạn
điều tra vụ án hình sự nhưng tựu chung lại, luật sư được xác định là người
bào chữa, người bảo vệ quyền lợi cho bị can, bị cáo và các đương sự có
liên quan trong vụ án hình sự. Ở mỗi vị trí đó, luật sư thực hiện vai trò bào
chữa, bảo vệ quyền lợi, trợ giúp pháp lý cho những người này đồng thời
phải bảo vệ pháp luật, duy trì công lý và bảo đảm công bằng xã hội.
Mục tiêu trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng năm 2020 tại Nghị quyết số 48NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng


23

cộng sản Việt Nam: “Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ,
thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch... xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; đổi
mới căn bản cơ chế xây dựng và thực hiện pháp luật; phát huy vai trò và
hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính
trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, xây dựng nhà nước trong sạch,
vững mạnh, thực hiện quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công
dân...” theo đó định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bổ trợ tư
pháp (trong đó có luật sư) là “đáp ứng ngày càng đầy đủ, thuận lợi các nhu
cầu đa dạng về hỗ trợ pháp lý của nhân dân, doanh nghiệp, thực hiện xã hội
hóa mạnh mẽ các hoạt động bổ trợ tư pháp, kết hợp quản lý nhà nước với
tự quản của các tổ chức nghề nghiệp”. Việc xác định vị trí độc lập của luật
sư trong tranh tụng có ý nghĩa rất quan trọng phát huy vai trò của luật sư
trong hoạt động nghề nghiệp của mình.

1.1.3. Ý nghĩa của việc xác định vị trí, vai trò của luật sư trong giai
đoạn điều tra vụ án hình sự
Khởi tố và điều tra vụ án hình sự là những giai đoạn đầu tiên trong tố
tụng hình sự, theo đó, Cơ quan điều tra thực hiện các biện pháp khác nhau
nhằm thu thập chứng cứ chứng minh vụ án, xác định tội phạm và người
thực hiện hành vi phạm tội. Hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra mà
trực tiếp là điều tra viên có thể liên quan đến hầu hết những người tham gia
tố tụng như người bị tạm giữ, bị can, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Nếu hoạt
động điều tra được tiến hành khách quan, tuân thủ pháp luật thì quyền lợi
hợp pháp của những người tham gia tố tụng không bị xâm phạm, bảo đảm
sự thật vụ án được xác định khách quan, công bằng. Tuy nhiên, không phải
trong vụ án nào hoạt động điều tra cũng được tiến hành đúng theo yêu cầu


×