Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

NGUYÊN tắc tổ CHỨC và HOẠT ĐỘNG của hợp tác xã ở một số nước và bài học KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (497.41 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ KIỀU PHƯƠNG

NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ Ở MỘT
SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI - 2005


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC TỔ

4


CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA HỢP TÁC XÃ
1.1. Khái niệm, tính chất và đặc điểm của các nguyên tắc tổ chức và hoạt

4

động của hợp tác xã
1.2. Vị trí, vai trò của các nguyên tắc trong các đạo luật về hợp tác xã

11

1.3. Nội dung các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã

13

1.4. Quá trình hình thành và phát triển của các quy định về nguyên tắc tổ

25

chức và hoạt động của hợp tác xã
Chương 2: Những quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

28

hợp tác xã ở một số nước trên thế giới
2.1 Nguyên tắc ''Tự nguyện gia nhập và ra khỏi hợp tác xã''

28

2.2 Nguyêntắc ''Quản lý dân chủ''


37

2.3 Nguyên tắc ''Lợi tức cổ phần được phân chia nhưng có

46

hạn chế''
2.4 Nguyêntắc ''Lợi nhuận thuộc về các xã viên''

51

2.5 Nguyên tắc ''Giáo dục và nâng cao hiểu biết về hợp tác xã''

55

2.6 Nguyên tắc ''Hợp tác giữa các hợp tác xã với nhau và hợp

58

tác quốc tế''
2.7 Nguyêntắc ''Quan tâm đến cộng đồng''

61

Chương 3 Những bài học kinh nghiệm để hoàn thiện các quy định

64

pháp luật về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã ở Việt
Nam

3.1 Phương hướng chung của việc hoàn thiện các quy định
pháp luật về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã ở
Việt Nam

65


3.2 Các kiến nghị cụ thể về việc hoàn thiện các quy định pháp

67

luật về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã ở Việt Nam
KẾT LUẬN

72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

73


1

LI NểI U
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ra đời, tồn tại và phát triển hơn một thế kỷ rưỡi nay, hợp tác xã đã chứng tỏ
được vai trò không thể thiếu của mình đối với đời sống kinh tế ở nhiều nước. Với
mục đích hỗ trợ giúp đỡ các xã viên, hợp tác xã đã trở thành một tổ chức kinh tế tự
nguyện của nhiều người. Chính vì vậy, hợp tác xã đã được xây dựng và phát triển ở
nhiều nước trên thế giới, ở những nước đang phát triển cũng như các nước phát

triển. Khẳng định được vị thế của mình trong nền kinh tế quốc dân và khơi dậy
được một phong trào phát triển sâu rộng như vậy là do hợp tác xã được tổ chức và
hoạt động theo một khuôn khổ pháp lý dựa trên cơ sở những nguyên tắc tổ chức và
hoạt động tiến bộ.
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có những nét đặc thù. Đó không những là
một tổ chức kinh tế mà còn có tính xã hội.
Những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã được đề ra từ khi hợp
tác xã đầu tiên được thành lập tại nước Anh năm 1844. Hiện nay, những nguyên tắc
này được Liên minh hợp tác xã quốc tế ghi rõ trong điều lệ của mình và được thể
hiện trong pháp luật về hợp tác xã của gần một trăm quốc gia trên thế giới. Việc
tiếp tục nghiên cứu các nguyên tắc này là rất cần thiết nhằm hoàn thiện cơ sở lý
luận cho việc xây dựng đường lối, chính sách phát triển hợp tác xã cũng như hoàn
thiện hệ thống pháp luật về tổ chức và hoạt động của các hợp tác xã ở Việt Nam.
Trong thực tế, ở một số quốc gia, trong những thời điểm lịch sử nhất định, đã
có những sai lầm trong nhận thức và tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của hợp tác xã. Điều đó đã gây ra những hậu quả nặng nề như: sự tan vỡ hàng
loạt hợp tác xã; người dân không tin tưởng vào mô hình kinh tế hợp tác xã v.v..
Cần phải có sự nghiên cứu đầy đủ, sâu sắc các nguyên tắc này ở một bình
diện rộng. Cần phải tham khảo kinh nghiệm các nước trong công tác xây dựng luật
về hợp tác xã và áp dụng vào điều kiện, hoàn cảnh Việt Nam; tạo ra sự tương thích
của pháp luật về hợp tác xã của Việt Nam với pháp luật về hợp tác xã của các nước
trên thế giới.


2

Chính vì những lý do trên mà tôi lựa chọn vấn đề: ''Nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của hợp tác xã ở một số nước và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam''
làm đề tài luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Cho tới nay chưa có nhiều đề tài khoa học nghiên cứu những vấn đề pháp lý
về hợp tác xã. Một số luận văn, luận án, bài báo... có đề cập đến những vấn đề pháp
lý về tổ chức và hoạt động của tổ chức kinh tế này nhưng vấn đề được đề cập chưa
đầy đủ, chưa sâu. Chưa có công trình nào nghiên cứu sâu gốc rễ của vấn đề - đó là
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã và so sánh các quy định của pháp
luật về vấn đề này trên bình diện quốc tế.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Lấy chuẩn là các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã do Liên
minh Hợp tác xã quốc tế đề ra, luận văn đi sâu vào việc phân tích và so sánh sự thể
hiện của các nguyên tắc này trong luật hợp tác xã của một số nước trên thế giới
như: Canađa, Philíppin, Inđônêxia, Cộng hoà liên bang Đức.v.v.
4. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng phương pháp luận biện chứng
duy vật kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp so sánh,
phân tích, tổng hợp.v.v. để làm rõ nội dung và mục đích nghiên cứu của đề tài.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Tìm hiểu về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã ở một số
nước, mục đích của luận văn là thấy rõ việc thể hiện các nguyên tắc này trong các
quy định của luật hợp tác xã ở các nước để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho
việc hoàn thiện các quy định trong Luật Hợp tác xã của Việt Nam. Để đạt mục đích
trên, việc nghiên cứu đề tài thực hiện những nhiệm vụ cụ thể như sau:
- So sánh, đối chiếu các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã ở
một số nước trên thế giới.
- Tìm ra sự thể hiện các nguyên tắc hợp tác xã trong các quy định của luật
hợp tác xã của một số nước.


3

- Vận dụng kinh nghiệm của thế giới vào việc hoàn thiện Luật Hợp tác xã ở

nước ta.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Đưa ra một cái nhìn tổng thể về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp
tác xã trong luật hợp tác xã của một số nước.
- Thấy rõ việc thể hiện các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã
trong luật hợp tác xã của một số nước.
- Nêu những kiến nghị, những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về
hợp tác xã của Việt Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm có lời nói đầu, 3 chương, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo.


4

CHNG 1
NHNG VN Lí LUN V NGUYấN TC T CHC V
HOT NG CA HP TC X
1.1. Khỏi nim, tớnh cht v c im ca cỏc nguyờn tc t chc v
hot ng ca hp tỏc xó
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hợp tác xã
Khi nói đến hợp tác xã, nhiều người nghĩ rằng đó là một loại hình kinh tế
kém phát triển và là sản phẩm riêng có của Chủ nghĩa xã hội. Nhưng trên thực tế,
hợp tác xã đã tồn tại hơn một thế kỷ rưỡi và đã đóng góp đáng kể vào sự tăng
trưởng kinh tế của nhiều nước. Nơi hình thành hợp tác xã đầu tiên là một nước tư
bản chủ nghĩa-nước Anh-với 28 người thợ dệt ở Rochdale.
Theo Luật Hợp tác xã của Cộng hoà liên bang Đức (1989) thì: ''Hợp tác xã là
các hiệp hội không hạn chế số lượng thành viên, mục đích khuyến khích thành viên
hành nghề hoặc làm kinh tế dựa vào doanh nghiệp tập thể'' (Điều 1).
Luật Hợp tác xã của Inđônêxia (1967) định nghĩa: ''Hợp tác xã ở Inđônêxia

là tổ chức kinh tế của nhân dân mang đặc tính xã hội, có thành viên là các cá nhân
hoặc các tập thể hợp pháp tự nguyện xây dựng lên một thực thể kinh tế, với nghĩa
đồng lòng phấn đấu trên cơ sở tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau'' (Điều 3).
Luật Hợp tác xã của Philíppin (1990) định nghĩa: ''Hợp tác xã là một tổ chức
được đăng ký chính thức của một nhóm người có quan hệ lợi ích chung, tham gia tự
nguyện để cùng nhau đạt được các mục đích kinh tế và xã hội hợp pháp, có đóng
góp tương đương nhau về vốn, chấp nhận chia sẻ công bằng những thiệt hại cũng
như lợi ích của việc kinh doanh, phù hợp với nguyên tắc hợp tác xã đã được chấp
nhận phổ biến'' (Điều 3).
Như vậy ta có thể thấy điểm nổi bật của hợp tác xã so với các tổ chức kinh tế
khác ở chỗ: Hợp tác xã không những là một tổ chức kinh tế mà nó còn mang tính
xã hội. Tính xã hội của hợp tác xã không phải ở chỗ hợp tác xã là một tổ chức từ
thiện mà ở chỗ hợp tác xã là sự liên kết, hỗ trợ giữa các thành viên cùng nhau góp


5

vốn, góp sức; thể hiện sự công bằng giữa các thành viên về quyền lợi cũng như
nghĩa vụ.v.v.
Như vậy, theo Luật Hợp tác xã của một số nước thì hợp tác xã có những đặc
điểm sau đây:

* Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tự chủ được thành lập bởi các xã viên tự
nguyện góp vốn, góp sức.
Hợp tác xã được lập ra với mục đích tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ vì lợi ích của các xã viên, vì tập thể và vì lợi ích chung của xã hội.
Chỉ có hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sinh lợi nhuận thì mới duy trì được
sự tồn tại của hợp tác xã và hợp tác xã mới thực hiện được mục tiêu xã hội của
mình, mới là một tổ chức kinh tế tự chủ.
Trong hợp tác xã, các xã viên ngoài việc góp vốn còn phải góp sức; nghĩa là

các xã viên phải tham gia quản lý hợp tác xã hoặc lao động trong hợp tác xã và
được trả thù lao theo năng suất và chất lượng lao động của từng người. Điều này
khác với việc người đầu tư tham gia vào các công ty. Các thành viên thường chỉ góp
vốn vào công ty để hưởng kết quả sinh lợi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của
công ty; còn đa số hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty do những người lao
động được thuê thực hiện. Những người góp vốn vào công ty không nhất thiết phải
đồng thời là người lao động trực tiếp tại công ty như xã viên trong nhiều loại hình
hợp tác xã.

* Trong hợp tác xã tồn tại chế độ sở hữu tập thể đối với các tư liệu sản xuất
và tài sản.
Toàn bộ vốn và tài sản của hợp tác xã đều thuộc sở hữu tập thể của các xã
viên. Các xã viên có quyền làm chủ đối với tài sản chung, sử dụng tài sản đó trong
quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của hợp tác xã. Đại hội xã viên có quyền
bàn bạc, thảo luận các vấn đề về sử dụng tài sản và phân chia thu nhập của hợp tác
xã theo nguyên tắc dân chủ. Đặc điểm này giúp phân biệt hợp tác xã với công ty,
mặc dù tài sản của công ty và tài sản của hợp tác xã đều hình thành từ nguồn vốn
góp của các thành viên.


6

* Hợp tác xã được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, quản lý
dân chủ và cùng có lợi.
* Hợp tác xã có tư cách pháp nhân.
Điều đó có nghĩa là hợp tác xã chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản
nợ và các nghĩa vụ tài chính khác bằng vốn và tài sản của hợp tác xã. Các xã viên
hợp tác xã chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài chính của hợp tác
xã trong phạm vi vốn góp của mình


* Hợp tác xã được thành lập bởi số lượng xã viên tối thiểu nhất định.
Luật Hợp tác xã mỗi nước đều quy định số lượng tối thiểu các xã viên để
đảm bảo cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã có hiệu quả. Sự liên
kết của các xã viên khi thành lập hợp tác xã nhằm mục đích hỗ trợ nhau phát triển.
Song nếu như số lượng xã viên quá nhỏ thì tính chất của sự liên kết đó chỉ dừng lại
ở mức cộng tác, phối hợp nhỏ, thoả mãn yêu cầu kinh tế chứ không đáp ứng được
yêu cầu xã hội rộng lớn của nền kinh tế quốc dân.
Qua định nghĩa về hợp tác xã của một số nước trên thế giới, chúng ta thấy
các nước đã xây dựng được một hệ thống các nguyên tắc khá phù hợp cho việc tổ
chức và hoạt động của hợp tác xã.
1.1.2. Khái niệm, tính chất và đặc điểm của các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của hợp tác xã (gọi tắt là các nguyên tắc hợp tác xã)

1.1.2.1 Khái niệm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã.
Thuật ngữ ''nguyên tắc'' được hiểu theo nghĩa chung nhất, đó là: ''Điều cơ
bản định ra nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm'' [4,tr302]. Các nguyên
tắc là sản phẩm của quá trình nhận thức thế giới khách quan, được đúc rút lại thành
những nguyên lý, phản ánh những quy luật khách quan và được coi là kim chỉ nam
cho một quá trình hoạt động.
Trong khoa học pháp lý cũng vậy, bất cứ một hệ thống pháp luật nào cũng
được xây dựng trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo nhất định. ở mỗi quốc gia, trên
cơ sở những mục tiêu trước mắt và lâu dài, Nhà nước xây dựng phương hướng cho
việc điều chỉnh pháp luật trong các lĩnh vực. Trong hệ thống pháp luật, những tư


7

tưởng chỉ đạo đó xuyên suốt quá trình lập pháp cũng như quá trình thi hành và bảo
vệ pháp luật. Để có sự thống nhất trong quá trình lập pháp, thi hành và bảo vệ pháp
luật, cần phải có những nguyên lý chỉ đạo chung mang tính bắt buộc. Những

nguyên lý chỉ đạo này được gọi là những nguyên tắc cơ bản của pháp luật.
Hệ thống pháp luật về hợp tác xã cũng tuân theo những nguyên tắc cơ bản
nhất định. Những nguyên tắc này được gọi là các nguyên tắc hợp tác xã và là cơ sở
cho quá trình tổ chức và hoạt động của hợp tác xã.
Theo cách hiểu như trên, ta có thể nêu ra khái niệm nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của hợp tác xã như sau:
''Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là những nguyên lý, những
tư tưởng chỉ đạo đúng đắn, khách quan và khoa học được quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật về hợp tác xã, tạo thành cơ sở cho tổ chức và hoạt động
của hợp tác xã''.

1.1.2.2 Tính chất và đặc điểm của các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
hợp tác xã.
Từ khái niệm trên có thể nêu ra tính chất, đặc điểm của các nguyên tắc hợp
tác xã như sau:

Thứ nhất, các nguyên tắc hợp tác xã mang tính phổ biến, tính thống nhất.
Các nguyên tắc hợp tác xã được Liên minh Hợp tác xã quốc tế phổ biến rộng
khắp ở các nước trên thế giới. Tất cả Luật Hợp tác xã các nước đều trực tiếp hay
gián tiếp ghi nhận một cách đầy đủ các nguyên tắc này. Các nguyên tắc hợp tác xã
của Liên minh Hợp tác xã quốc tế được các nước cụ thể hóa thành các nguyên tắc
hợp tác xã của mình trên cơ sở các điều kiện, trình độ của nước mình. Các nguyên
tắc hợp tác xã được áp dụng chung cho mọi loại hình hợp tác xã ở các nước. Mặc
dù các nước đều ghi nhận các nguyên tắc hợp tác xã do Liên minh Hợp tác xã quốc
tế đề ra nhưng không phải mọi nước đều thể hiện một cách hoàn toàn giống nhau.
Có nước trực tiếp quy định các nguyên tắc hợp tác xã một cách đầy đủ tại những
điều đầu tiên của Luật Hợp tác xã của mình; nhưng cũng có những nước, các
nguyên tắc hợp tác xã được thể hiện trong nhiều điều luật, trong nhiều chế định



8

trong Luật Hợp tác xã. Có sự khác nhau như vậy bởi lẽ mỗi nước có những hoàn
cảnh kinh tế - xã hội khác nhau, có nền văn hoá pháp lý và có hệ thống pháp luật
mang đặc trưng riêng của mình. Vì những sự khác biệt đó mà các nguyên tắc hợp
tác xã được thể hiện một cách đa dạng, linh hoạt và uyển chuyển cho phù hợp với
điều kiện riêng của mỗi nước. Tuy vậy, hệ thống các nguyên tắc hợp tác xã được
ghi nhận trong luật pháp các nước không mâu thuẫn với nhau.
Tính thống nhất của các nguyên tắc hợp tác xã còn được thể hiện ngay trong
hệ thống pháp luật về hợp tác xã của mỗi quốc gia. Các nguyên tắc hợp tác xã được
ghi nhận trong Luật Hợp tác xã các nước đều tương đối giống nhau.
Giữa các nguyên tắc hợp tác xã trong pháp luật mỗi nước cũng có sự thống
nhất với nhau; không có nguyên tắc nào mâu thuẫn, loại trừ nguyên tắc nào. Bởi vì
mỗi nguyên tắc trong hệ thống nguyên tắc hợp tác xã ấy đều xuất phát từ bản chất
của hợp tác xã.

Thứ hai, các nguyên tắc hợp tác xã mang tính lịch sử và tính ổn định tương
đối.
Tính lịch sử của các nguyên tắc hợp tác xã thể hiện ở chỗ: các nguyên tắc
hợp tác xã có quá trình phát sinh, phát triển trong những điều kiện kinh tế-xã hội
nhất định. Các nguyên tắc hợp tác xã được hình thành lần đầu tiên vào năm 1844
tại nước Anh. Tháng 9 năm 1995, tại Đại hội Liên minh Hợp tác xã quốc tế lần thứ
31 tại Manchester (Anh), Liên minh Hợp tác xã quốc tế đã thông qua 7 nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của hợp tác xã. Trong khoảng thời gian đó, các nguyên tắc
hợp tác xã ngày càng đầy đủ và hoàn thiện hơn. Đồng thời, các nguyên tắc hợp tác
xã cũng mang tính ổn định tương đối vì nó ít bị ảnh hưởng bởi thời gian và không
gian.

Thứ ba, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là nền tảng cho
cả hệ thống pháp luật về hợp tác xã và được thể hiện dưới dạng các quy phạm pháp

luật.
Các nguyên tắc hợp tác xã luôn là những nguyên lý chỉ đạo, là kim chỉ nam
cho các quy định khác về tổ chức và hoạt động của hợp tác xã. Tất cả các quy phạm


9

pháp luật, các quy định về tổ chức và hoạt động của hợp tác xã phải bám sát các
nguyên tắc hợp tác xã; phải thể hiện được các nguyên tắc hợp tác xã. Nếu không có
sự thống nhất giữa các nguyên tắc hợp tác xã và những quy định trong pháp luật về
hợp tác xã thì sẽ làm mất đi bản chất đặc biệt của hợp tác xã. Ngoài ra, nó còn có
thể gây ra những hậu quả kinh tế, hậu quả tâm lý xã hội nặng nề đối với mô hình
kinh tế hợp tác xã.
Các nguyên tắc hợp tác xã luôn luôn được thể hiện dưới dạng các quy phạm
pháp luật được ghi nhận trong các văn bản pháp luật về hợp tác xã của mỗi nước.
Do vậy, các nguyên tắc hợp tác xã mang tính bắt buộc chung, được Nhà nước đảm
bảo thực hiện... Các quy phạm pháp luật thể hiện nguyên tắc hợp tác xã không có
đầy đủ cả 3 bộ phận cấu thành như các quy phạm pháp luật khác mà là các quy
phạm pháp luật đặc biệt.

Thứ tư, các nguyên tắc hợp tác xã coi người lao động là trung tâm.
Trong hợp tác xã, người lao động là các xã viên. Các nguyên tắc hợp tác xã
nhằm mục đích cuối cùng là bảo vệ lợi ích của các xã viên. Hợp tác xã ra đời do
nhu cầu hợp tác, tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau của các cá nhân hoặc tập thể người lao
động. Trong suốt quá trình hoạt động của mình, hợp tác xã luôn hướng về mục đích
đó. Một số nguyên tắc thể hiện trực tiếp đặc điểm này như: Tự nguyện gia nhập và
ra khỏi hợp tác xã; Quản lý dân chủ; Lợi nhuận thuộc về các xã viên...

Thứ năm, các nguyên tắc hợp tác xã thể hiện tính xã hội của hợp tác xã.
Hợp tác xã là một loại hình doanh nghiệp, một tổ chức kinh tế. Tuy nhiên,

khác với các loại hình doanh nghiệp khác, hợp tác xã mang tính xã hội sâu sắc.
Tính xã hội của hợp tác xã thể hiện trong toàn bộ các quy định về nguyên tắc tổ
chức và hoạt động của hợp tác xã và nó được cụ thể hoá trong các quy phạm pháp
luật, các chế định khác của pháp luật về hợp tác xã. Tính xã hội của hợp tác xã thể
hiện ở chỗ:
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế của những người lao động, tập hợp được
đông đảo mọi người tham gia nhằm giúp đỡ lẫn nhau, tăng thêm sức mạnh trong
sản xuất, kinh doanh, dịch vụ; góp phần tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập,


10

thực hiện quyền làm giàu chính đáng của người lao động. Do đó, hợp tác xã có cơ
sở xã hội rất rộng lớn. Ngoài ra, các hợp tác xã (đặc biệt là ở nông thôn) không chỉ
gắn bó về kinh tế mà còn được hình thành và phát triển trên cơ sở tình làng, nghĩa
xóm, góp phần thực hiện chính sách xã hội trên địa bàn. Ví dụ như các nguyên tắc:
Tự nguyện gia nhập và ra khỏi hợp tác xã; Quan tâm đến cộng đồng...
Trong mọi hoạt động của mình, hợp tác xã có nghĩa vụ giáo dục tinh thần
hợp tác cho các xã viên, khuyến khích sự hợp tác không chỉ trong nội bộ xã viên
mà còn giữa các hợp tác xã. Ngoài việc chăm lo về mặt kinh tế, hợp tác xã còn
chăm lo cả về mặt tinh thần cho xã viên thông qua các hoạt động chung của hợp tác
xã. Tuy nhiên, các hoạt động xã hội được tiến hành trên cơ sở hoạt động kinh tế có
hiệu quả. Những hoạt động này sẽ góp phần nâng cao trình độ dân trí của xã viên
và cộng đồng; ví dụ như các nguyên tắc: Lợi nhuận thuộc về các xã viên; Giáo dục
và nâng cao hiểu biết về hợp tác xã; Quan tâm đến cộng đồng...
Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển xã
hội. Vì vậy, Nhà nước thường có các chính sách khuyến khích thoả đáng đối với
kinh tế hợp tác xã; góp phần không ngừng nâng cao vị thế của người lao động, hỗ
trợ xã viên xoá đói giảm nghèo, thực hiện công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội.


Thứ sáu, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã có mối liên hệ
mật thiết với nhau.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã là những tư tưởng, quan
điểm chủ đạo, xuyên suốt quá trình tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, xác định
tính đặc thù của hợp tác xã, thể hiện bản chất của hợp tác xã. Do đó, giữa các
nguyên tắc hợp tác xã có mối liên hệ mật thiết với nhau. Mỗi nguyên tắc là một
biểu hiện khác nhau về bản chất của hợp tác xã. Các nguyên tắc đều liên quan đến
nhau, phối hợp với nhau, bổ sung cho nhau. Mối liên hệ chặt chẽ giữa các nguyên
tắc hợp tác xã thể hiện tính thống nhất của các nguyên tắc hợp tác xã. Ví dụ:
nguyên tắc ''Tự nguyện gia nhập và ra khỏi hợp tác xã ''có mối liên hệ mật thiết với
nguyên tắc ''Quản lý dân chủ'' và nguyên tắc ''Lợi nhuận thuộc về các xã viên''. Vì
hợp tác xã hình thành bởi sự tự nguyện của những người lao động cho nên hợp tác


11

xã phải hoạt động vì mục tiêu lợi ích của xã viên là chính; xã viên có quyền quản lý
hợp tác xã của mình một cách dân chủ, có quyền hưởng lợi nhuận theo sự đóng góp
của mình đối với hợp tác xã.v.v.
Những đặc điểm, tính chất cơ bản về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
hợp tác xã tạo nên những đường nét cơ bản của ''chân dung'' hợp tác xã; phân biệt
nó với các loại hình doanh nghiệp khác.
1.2. V trớ, vai trũ ca cỏc nguyờn tc trong cỏc o lut v hp tỏc xó
Vị trí, vai trò của các nguyên tắc hợp tác xã chính là tác dụng, chức năng của
các nguyên tắc hợp tác xã trong sự hoạt động, sự phát triển của hợp tác xã. Nghiên
cứu về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, ta thấy chúng có vị trí,
vai trò như sau:
1.2.1. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã luôn được ghi
nhận trong những quy định đầu tiên của một đạo luật về hợp tác xã
Điều đó cho thấy tầm quan trọng của các nguyên tắc tổ chức và hoạt động

của hợp tác xã.
Luật Hợp tác xã của Philíppin quy định các nguyên tắc hợp tác xã tại Điều 4.
ở Luật Hợp tác xã của ấn Độ, các nguyên tắc hợp tác xã được quy định tại Điều 3.
ở Inđônêxia, Luật về những quy định cơ bản đối với các hợp tác xã (Luật số 12)
ghi nhận các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã tại Điều 6.
1.2.2. Các nguyên tắc hợp tác xã là kim chỉ nam cho việc xây dựng các văn
bản pháp luật về tổ chức, quản lý và hoạt động của hợp tác xã; là cơ sở để đảm bảo
sự nhất quán, thống nhất trong việc xây dựng những chế định, những quy phạm
pháp luật về hợp tác xã
Trong việc xây dựng các văn bản pháp luật về hợp tác xã cần phải tuân theo
các nguyên tắc hợp tác xã; bởi vì có như vậy việc xây dựng các quy phạm pháp luật
điều chỉnh tổ chức và hoạt động của hợp tác xã mới nhất quán và có chất lượng.
Các nguyên tắc hợp tác xã được định ra nhằm đảm bảo những tư tưởng, quan điểm,
mục đích và tính chất của hợp tác xã được quán triệt trong thực tiễn. Để trở thành
một hợp tác xã đích thực và để phát huy cao nhất tính ưu việt của hợp tác xã, mỗi


12

hợp tác xã, khi xây dựng điều lệ tổ chức và hoạt động của mình, đều phải tuân thủ
các nguyên tắc hợp tác xã. Việc hiểu đúng, tôn trọng và vận dụng các nguyên tắc
hợp tác xã không chỉ là nhiệm vụ của các xã viên, của hợp tác xã mà còn là nhiệm
vụ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền (đặc biệt là các cơ quan lập pháp). Có
tuân thủ nguyên tắc hợp tác xã mới có thể tạo ra một hệ thống pháp luật hoàn
chỉnh, thống nhất điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức
và hoạt động của hợp tác xã.
1.2.3. Các nguyên tắc hợp tác xã là tiêu chí để phân biệt hợp tác xã với các
loại hình doanh nghiệp khác
Các nguyên tắc hợp tác xã thể hiện rõ tôn chỉ, mục đích và phương thức tổ
chức hoạt động trong nội bộ hợp tác xã. Dựa vào những nguyên tắc đó cũng dễ

dàng nhận ra sự khác biệt của hợp tác xã với các tổ chức kinh tế khác. Ví dụ, chỉ
hợp tác xã mới có quy định về nguyên tắc ''Quan tâm đến cộng đồng''; điều đó thể
hiện quan hệ mật thiết giữa các hợp tác xã với sự phát triển cộng đồng. Nguyên tắc
''Quản lý dân chủ'' cũng nói lên sự khác biệt của hợp tác xã với các tổ chức kinh tế
khác. Ví dụ như trong loại hình công ty, quyền quản lý, điều hành doanh nghiệp
của mỗi thành viên dựa trên mức vốn góp của thành viên đó. Nhưng trong hợp tác
xã, quyền quản lý hợp tác xã của mỗi xã viên hợp tác xã là bình đẳng, không phụ
thuộc vào mức vốn góp nhiều hay ít của xã viên. Mỗi xã viên đều có quyền tham
gia Đại hội xã viên-cơ quan có quyền quyết định cao nhất trong hợp tác xã; mỗi xã
viên đều có cơ hội ngang nhau trong việc ứng cử vào các chức danh quản lý hợp tác
xã; mỗi xã viên đều có một phiếu biểu quyết dù góp vốn nhiều hay ít...
Nguyên tắc ''Lợi tức cổ phần được phân chia nhưng có hạn chế'' được quy
định trong hầu hết Luật Hợp tác xã của các nước. Đây là dấu hiệu cơ bản để phân
biệt hợp tác xã với công ty cổ phần; cho thấy hợp tác xã là một tổ chức kinh tế tự
nguyện do các xã viên góp vốn, tạo dựng cơ sở vật chất để cùng nhau sản xuất,
kinh doanh, nâng cao tiềm lực kinh tế chứ không phải góp vốn chủ yếu nhằm mục
đích thu lợi nhuận.


13

1.2.4. Các nguyên tắc hợp tác xã là cơ sở cho việc giải thích pháp luật, quy
phạm pháp luật và áp dụng tương tự pháp luật khi có tranh chấp xảy ra
Trong quá trình áp dụng pháp luật, đôi khi có việc chủ thể quan hệ pháp luật
gặp khó khăn như không hiểu hoặc hiểu không đúng, không đầy đủ nội dung của
pháp luật; có thể có nhiều cách hiểu khác nhau về một quy phạm pháp luật. Khi đó
cần phải tìm được cách giải thích, cách hiểu đúng nhất để áp dụng đúng tinh thần
của quy phạm pháp luật. Để đạt được mục đích trên, người ta cần dựa vào các
nguyên tắc của pháp luật. Trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã cũng vậy, khi
xảy ra tình trạng như trên, cần phải dựa vào các nguyên tắc hợp tác xã để giải thích

và áp dụng pháp luật một cách đúng đắn nhất.
Cũng có thể xảy ra trường hợp thiếu các quy định để điều chỉnh các vấn đề
liên quan đến hợp tác xã. Có thể giải quyết tình huống này bằng cách áp dụng
tương tự pháp luật, tức là dựa trên cơ sở các nguyên tắc hợp tác xã.
1.2.5. Các nguyên tắc hợp tác xã góp phần làm cho pháp luật về hợp tác xã
của các nước ngày càng tương thích với nhau
Các nguyên tắc hợp tác xã được ghi nhận bởi Liên minh Hợp tác xã quốc tếmột tổ chức đại diện rộng lớn nhất cho hợp tác xã các nước trên thế giới. Khi xây
dựng Luật Hợp tác xã cho nước mình, các nước trên thế giới đều lấy các nguyên tắc
do Liên minh Hợp tác xã quốc tế đề ra làm nền tảng, kim chỉ nam cho tổ chức và
hoạt động của hợp tác xã nước mình. Do vậy, pháp luật về hợp tác xã của các nước
trên thế giới có một sự giao thoa nhất định. Điều đó cho thấy sự ảnh hưởng lẫn
nhau, học hỏi lẫn nhau giữa hệ thống pháp luật của mỗi nước trên thế giới.
1.3. Ni dung cỏc nguyờn tc t chc v hot ng ca hp tỏc xó
Nguyên tắc hợp tác xã là những đường nét cơ bản dựng lên ''chân dung'' hợp
tác xã và phân biệt nó với các loại hình doanh nghiệp khác. Các nguyên tắc thể
hiện những đặc điểm riêng của hợp tác xã, từ tổ chức, quản lý đến việc góp vốn,
phân chia lợi nhuận, sở hữu tài sản, phương thức tổ chức, hoạt động... Chúng ta
cùng xem xét những nét khái quát nhất về các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
hợp tác xã.


14

1.3.1. Nguyên tắc ''Tự nguyện gia nhập và ra khỏi hợp tác xã''
''Tự nguyện'' là việc quyết định một vấn đề mà không bị chi phối bởi ý chí
của người khác.
Nói về việc người lao động tự nguyện gia nhập hợp tác xã, V.I.Lênin viết:
''Công xã nông nghiệp được thiết lập một cách tự nguyện, việc chuyển sang
lối canh tác chung ruộng đất chỉ có thể thực hiện được do tinh thần tự nguyện mà
thôi. Về mặt này, Chính phủ công nông không thể dùng một biện pháp cưỡng chế

nào. Pháp luật cấm dùng các biện pháp đó'' [15, tr. 41,42].
Về việc thành lập hợp tác xã, F.Ăngghen cũng viết: ''Nông dân trong một
làng hay thuộc một nhà xứ... phải kết hợp toàn bộ ruộng đất của họ lại thành một
doanh nghiệp lớn duy nhất, cùng bỏ sức cày cấy chung và chia hoa lợi theo tỉ lệ
ruộng đất đã góp vào, tiền bạc đã bỏ ra và lao động đã làm được'' [3, tr.530].
Như vậy các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã nhấn mạnh nguyên
tắc tự nguyện khi người lao động tham gia hợp tác xã. ''Tự nguyện'' trong nguyên
tắc này là tự nguyện tham gia và ra khỏi hợp tác xã. Điều đó có nghĩa là bất cứ ai,
không phân biệt thành phần xã hội, về chính trị, về tôn giáo, giới tính... khi có
nguyện vọng và có đủ điều kiện, đều có thể trở thành xã viên hợp tác xã. Không ai
có quyền ép buộc hoặc cấm đoán một người muốn gia nhập hợp tác xã. Một người
muốn trở thành xã viên hợp tác xã là do ý muốn của họ chứ không phải là do sự
cưỡng bức hoặc ép buộc. Khi họ đã đáp ứng đủ điều kiện để trở thành một xã viên
và chấp nhận điều lệ hợp tác xã thì cũng không ai có quyền ngăn cản hoặc từ chối
họ.
Hợp tác xã ra đời là do nhu cầu của những người lao động muốn liên kết với
nhau để tăng tiềm lực kinh tế, giúp đỡ lẫn nhau. Những ai thấy mình cần phải hợp
tác, cần phải liên kết thì họ có quyền gia nhập hợp tác xã. Khi đã là thành viên hợp
tác xã một cách tự nguyện thì họ cũng có quyền ra khỏi hợp tác xã trong khuôn
khổ quy định của pháp luật và điều lệ của hợp tác xã.
Nguyên tắc này là sự thể hiện quyền tự do lập hội của công dân. Nguyên tắc
còn có ý nghĩa tạo điều kiện cho mọi công dân có quyền kinh doanh theo khả năng


15

của mình. Nguyên tắc này còn thể hiện được sự công bằng xã hội. Điều đó thể hiện
ở chỗ, nó tạo điều kiện cho mọi công dân đều có cơ hội ngang nhau trong việc gia
nhập và ra khỏi hợp tác xã. Nguyên tắc này cũng thể hiện bản chất của hợp tác xã
là sự hợp tác giữa các xã viên, xuất phát từ nhu cầu, lợi ích chung của các xã viên.

1.3.2. Nguyên tắc ''Quản lý dân chủ''
Trong phạm vi tổ chức và quản lý của một doanh nghiệp-cụ thể là hợp tác
xã, dân chủ được hiểu là quyền tối cao và quyền bình đẳng của mọi xã viên trong
quản lý hợp tác xã.
Trong tổ chức và hoạt động của hợp tác xã, nguyên tắc ''Quản lý dân chủ'' có
vị trí vô cùng quan trọng. Hợp tác xã là một tổ chức kinh tế của các thành viên có
nguyện vọng chung nhằm mục đích hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do bản chất tốt đẹp
đó nên trong hợp tác xã không có sự tồn tại của tính thứ bậc trong quyền hạn của
các thành viên. Quyền quản lý, điều hành của Chủ nhiệm hợp tác xã, của những
chức danh khác trong hợp tác xã được quy định trong điều lệ hợp tác xã do Đại hội
xã viên thông qua. Tất cả các xã viên đều có quyền ngang nhau; không ai có đặc
quyền, đặc lợi; không ai có quyền lấn át lợi ích của người khác. Mọi xã viên đều có
quyền tham gia quản lý, kiểm tra, giám sát hợp tác xã và có quyền ngang nhau
trong biểu quyết. Đây là nguyên tắc quan trọng, thể hiện ý tưởng và nguồn sức
mạnh của hợp tác xã. Nguyên tắc ''Quản lý dân chủ'' thể hiện ở những điểm chủ
yếu sau:

Thứ nhất, tập thể quyết định tất cả các vấn đề trong hoạt động và quá trình
phát triển của hợp tác xã.

Thứ hai, các cơ quan quản lý và kiểm soát hợp tác xã do Đại hội xã viên bầu
ra.

Thứ ba, mỗi xã viên đều có quyền kiến nghị và đề đạt nguyện vọng của mình
đối với cơ quan có thẩm quyền.

Thứ tư, mỗi xã viên đều có một phiếu biểu quyết.


16


Ngoài ra, nguyên tắc này còn được thể hiện trong nghĩa vụ của xã viên; trong
đó xã viên đều phải chấp hành điều lệ, nội quy của hợp tác xã, nghị quyết của Đại
hội xã viên như đã quy định tại Luật Hợp tác xã.
1.3.3. Nguyên tắc ''Lợi tức cổ phần được phân chia nhưng có hạn chế''
Hợp tác xã là một doanh nghiệp, kinh doanh có kế hoạch và hạch toán kinh
tế. Do đó, cá nhân hoặc tổ chức muốn gia nhập hợp tác xã đều phải góp cổ phần.
Cổ phần này trở thành vốn điều lệ thuộc sở hữu tập thể của hợp tác xã. Hợp tác xã
dùng số vốn đó để hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nhằm hỗ trợ xã viên và
tìm kiếm lợi nhuận. Thu nhập mà hợp tác xã có được, sau khi đã trừ đi các khoản
nghĩa vụ tài chính như: Thuế, chi phí sản xuất, kinh doanh, dịch vụ... là lợi nhuận
của hợp tác xã. Phần lợi nhuận này một phần được chia cho các xã viên hợp tác xã
theo mức vốn góp của họ. Như vậy, vốn góp của xã viên được chia lãi và được gọi
là ''lợi tức cổ phần được phân chia''. Tuy nhiên nguyên tắc lại quy định ''có hạn
chế''. Điều đó có nghĩa là lãi chia cho vốn góp cổ phần có giới hạn; phần còn lại
của lợi nhuận được sử dụng vào các mục đích khác như: Trích vào các quỹ chung
của hợp tác xã; chia cho xã viên theo mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã... Quy
định này không chỉ khuyến khích việc chia lãi cho cổ phần mà còn khuyến khích
các xã viên sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, thúc đẩy hoạt động kinh doanh của mỗi
xã viên. Phần lợi nhuận của hợp tác xã thu được trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ được chia dựa trên nguyên tắc đảm bảo kết hợp lợi ích của xã viên
và sự phát triển của hợp tác xã. Phần lợi nhuận chia cho vốn góp chỉ là phần nhỏ
trong tổng số lợi nhuận mà hợp tác xã thu được.
Nhìn chung, theo Luật Hợp tác xã của các nước trên thế giới thì lợi nhuận
của hợp tác xã được chia như sau:
- Trích quỹ dự trữ;
- Trích các quỹ khác;
- Trích nộp cho Liên đoàn, Liên hiệp;
- Chia cho xã viên theo kết quả quan hệ dịch vụ giữa xã viên và hợp tác xã;
- Chia lãi cho vốn góp của xã viên.



17

Hợp tác xã ra đời nhằm mục đích chủ yếu để cung cấp các dịch vụ cho xã
viên, đáp ứng các nhu cầu của xã viên với chi phí thấp nhất. Do vậy, nguyên tắc
này có ý nghĩa khuyến khích các xã viên sử dụng dịch vụ của hợp tác xã, thúc đẩy
hợp tác xã phát triển. Đây còn là động lực thúc đẩy các hợp tác xã thực hiện tốt các
hoạt động dịch vụ của mình. ở các nước như Thái Lan, Hàn Quốc... các hợp tác xã
đều lấy mục tiêu là tối đa hoá việc cung cấp dịch vụ cho xã viên. Việc chia lãi theo
mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã còn có ý nghĩa gắn xã viên với hợp tác xã,
củng cố mối quan hệ giữa xã viên với hợp tác xã.
1.3.4. Nguyên tắc ''Lợi nhuận thuộc về các xã viên''
Khi hợp tác xã hoạt động có hiệu quả, thu được lợi nhuận thì lợi nhuận đó,
ngoài việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính, sẽ thuộc về các xã viên trên cơ sở vốn
góp, công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ của hợp tác xã của từng thành
viên.
Theo nguyên tắc ''Lợi tức được phân chia nhưng có hạn chế'' thì phần lợi
nhuận được chia trực tiếp cho xã viên không được ưu tiên như việc trích lợi nhuận
vào các quỹ của hợp tác xã. Thế nhưng theo nguyên tắc ''Lợi nhuận thuộc về các xã
viên'' thì lại nhấn mạnh quyền được phân chia lợi nhuận của các xã viên. Thoạt
nhìn ta thấy có vẻ như mâu thuẫn nhưng thực ra là không phải vậy. ở nguyên tắc
thứ ba, tuy hạn chế phân chia lợi nhuận theo vốn góp của các xã viên nhưng vẫn
đảm bảo được tinh thần của nguyên tắc thứ tư -''Lợi nhuận thuộc về các xã viên''
bởi vì dù lãi được ưu tiên trích cho các quỹ của hợp tác xã, nhưng cuối cùng quyền
được hưởng các quỹ ấy vẫn thuộc về các xã viên. Có thể nói, quyền lợi của các xã
viên trong vấn đề phân chia lợi nhuận của hợp tác xã luôn luôn được tôn trọng,
được bảo đảm.
Sở dĩ quy định nguyên tắc này là vì hợp tác xã ra đời là do nhu cầu lợi ích
của các xã viên. Hoạt động của hợp tác xã phải vì mục tiêu quyền lợi của xã viên là

chính. Vốn và tài sản của hợp tác xã do các xã viên đóng góp nhằm thực hiện hoạt
động sản xuất, kinh doanh hoặc cung cấp dịch vụ cho các xã viên; vì vậy đương
nhiên xã viên có quyền hưởng lợi nhuận do việc góp vốn của mình. Việc phân chia


18

lợi nhuận là công bằng nhưng không phải là cào bằng, không phải ai cũng được
hưởng một mức lợi nhuận giống như những người khác. Việc phân chia lợi nhuận
phải dựa vào tỷ lệ vốn góp, công sức đóng góp và mức độ sử dụng dịch vụ của mỗi
xã viên, xứng đáng với những gì họ đã cống hiến. Đồng thời, bất cứ xã viên nào
cũng không có quyền thu lợi nhuận cho riêng mình trên cơ sở những chi phí, những
thiệt thòi của các thành viên khác.
1.3.5. Nguyên tắc ''Giáo dục và nâng cao hiểu biết về hợp tác xã''
Việc giáo dục và nâng cao hiểu biết về hợp tác xã không chỉ được thực hiện
đối với các thành viên của hợp tác xã mà còn tăng cường sự hiểu biết của cộng
đồng dân cư về hợp tác xã. Việc thực hiện tốt nguyên tắc này có tác dụng đối với
việc tổ chức và hoạt động của hợp tác xã theo đúng các nguyên tắc của hợp tác xã.
Cũng như các loại hình doanh nghiệp khác, hợp tác xã hoạt động theo cơ chế
thị trường với sự cạnh tranh và phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, kinh
doanh của mình. Một trong những yếu tố bảo đảm thắng lợi của hợp tác xã là trình
độ của các cán bộ quản lý và sự tham gia tích cực của các xã viên vào việc đề ra
được những quyết sách tốt nhất trong sản xuất, kinh doanh mang lại nhiều lợi ích
cho xã viên, tạo đà phát triển cho hợp tác xã. Ngoài việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ, xã viên, việc tuyên truyền nâng cao sự hiểu biết của nhân dân về hợp tác
xã, về những giá trị và nguyên tắc của hợp tác xã cũng rất quan trọng. Việc các
tầng lớp nhân dân nhận thức đúng và đầy đủ về vai trò của hợp tác xã trong nền
kinh tế sẽ tạo thành phong trào sâu rộng trong nhân dân khuyến khích họ tự nguyện
tham gia xây dựng và phát triển các loại hình hợp tác xã. Đây là việc làm có ý
nghĩa quan trọng, là nhân tố quyết định hiệu quả phát triển kinh tế hợp tác xã.

Mặc dù có nguyên tắc quan trọng là ''Tự nguyện tham gia hợp tác xã'', nhưng
do thấy được vị trí, vai trò của hợp tác xã trong nền kinh tế quốc dân; sự nghiệp
phát triển các hợp tác xã gắn liền với mục tiêu thực hiện các nghĩa vụ kinh tế - xã
hội, nên các nước đều áp dụng nhiều biện pháp tuyên truyền, giáo dục và nâng cao
sự hiểu biết về hợp tác xã của mọi công dân (cả trong và ngoài hợp tác xã) làm cho
họ hiểu rõ hơn tính ưu việt, sự tương thân tương ái, hỗ trợ giúp đỡ nhau trong việc


19

phát triển các hoạt động sản xuất, kinh doanh, các bên cùng có lợi trong hợp tác xã,
nhằm đạt được mục tiêu kinh tế-xã hội đã đề ra.
Việc giáo dục, nâng cao hiểu biết về hợp tác xã trước hết được thực hiện
trong nội bộ hợp tác xã, trong các xã viên hợp tác xã. Hợp tác xã chăm lo giáo dục,
đào tạo, bồi dưỡng xã viên của mình để họ hiểu rõ hơn về loại hình kinh tế hợp tác
xã, hiểu rõ hơn các chính sách pháp luật của Nhà nước đối với hợp tác xã; để từ đó
họ thấy sự cần thiết của việc tham gia hợp tác xã, gắn bó hơn với hợp tác xã. Hợp
tác xã cũng chú ý tới việc đào tạo, bồi dưỡng xã viên để nâng cao trình độ của họ,
giúp họ thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, Nhà nước cũng hỗ trợ các
hợp tác xã qua việc mở các lớp đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ
cho các cán bộ hợp tác xã và xã viên.
Như vậy, không những hợp tác xã mà cả Nhà nước cũng chú trọng tới việc
giáo dục, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ xã viên. Việc thực hiện tốt nhiệm
vụ này đảm bảo cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của hợp tác xã đạt hiệu quả
cao và về lâu dài còn vì sự nghiệp phát triển của hợp tác xã. Trong cơ chế thị trường
cạnh tranh như hiện nay, các hợp tác xã đều phải tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết
quả hoạt động của mình. Muốn đạt hiệu quả cao, thắng lợi thì trình độ quản lý của
cán bộ và tay nghề vững vàng của các xã viên là vô cùng quan trọng. Nó góp phần
tạo ra những sản phẩm phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng với chất lượng tốt, giá
thành rẻ, được thị trường đón nhận và do đó mang lại lợi ích cho các xã viên, tạo đà

phát triển cho các hợp tác xã.
Trong thời đại ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế trí thức với
sự phát triển rầm rộ của các ngành khoa học có hàm lượng trí tuệ cao như công
nghệ sinh học, công nghệ thông tin...dẫn tới sự ra đời của các sản phẩm công nghệ
tiên tiến, phục vụ tốt nhất cho hoạt động của con người. Muốn sử dụng được những
sản phẩm này, làm chủ được khoa học thì con người phải học tập. Do vậy, mỗi cán
bộ và xã viên hợp tác xã phải không ngừng nâng cao trình độ văn hoá, nắm bắt
được những kiến thức khoa học, công nghệ hiện đại, phương pháp quản lý tiên tiến,


20

thích ứng với quy mô sản xuất, kinh doanh ngày càng lớn với trình độ công nghệ
ngày càng cao.
Việc chăm lo giáo dục, đào tạo xã viên còn có ý nghĩa to lớn đối với cộng
đồng, vì xã viên là đông đảo thành viên sống trong cộng đồng. Trình độ xã viên
được nâng cao sẽ góp phần nâng cao trình độ dân trí của cộng đồng, hình thành nếp
sống văn hoá, văn minh trong cộng đồng.
Ngoài việc giáo dục, nâng cao hiểu biết cho các xã viên hợp tác xã, còn phải
giáo dục, nâng cao hiểu biết về hợp tác xã cho những người không phải là xã viên
hợp tác xã. Mọi người đều có nghĩa vụ tuyên truyền, giáo dục, phổ biến vai trò, giá
trị, tiềm năng của hợp tác xã để tạo ra một phong trào hợp tác hoá mạnh mẽ, nâng
cao vị thế của hợp tác xã; củng cố tình đoàn kết, hỗ trợ nhau của người lao động.
Điều này còn xuất phát từ những điều chưa thành công của phong trào hợp tác hoá
trước đây, cho nên cần phải giáo dục cho mọi người hiểu về hợp tác xã. Mọi người
hiểu về hợp tác xã, ủng hộ hợp tác xã thì hợp tác xã sẽ phát triển mạnh. Do đó cần
phát huy vai trò của giáo dục, tuyên truyền. Còn nếu như mọi người không hiểu
hoặc hiểu sai lệch về bản chất, khả năng của hợp tác xã thì sẽ dẫn tới sự thất bại
của phong trào hợp tác xã. Do vậy, cần phải tăng cường công tác giáo dục, tuyên
truyền, nâng cao hiểu biết về hợp tác xã.

1.3.6. Nguyên tắc ''Hợp tác giữa các hợp tác xã với nhau và hợp tác quốc tế''
Theo nguyên tắc này, các hợp tác xã trong từng địa phương, trong từng vùng
và trong phạm vi cả nước quan tâm hợp tác, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất,
kinh doanh và trong các hoạt động khác; cùng nhau đoàn kết xây dựng, phát triển
phong trào hợp tác xã ngày càng lớn mạnh. Chính sự hợp tác này sẽ tạo ra sự liên
kết để từng bước hình thành các Liên minh hợp tác xã theo vùng và trong từng lĩnh
vực; trong các ngành nghề khác nhau nhằm nâng cao tiềm lực kinh tế và sức cạnh
tranh của các hợp tác xã thành viên. Các hợp tác xã trong nước cũng cần hợp tác
với các hợp tác xã trong khu vực và các hợp tác xã của các nước trên thế giới để
góp phần tăng cường sự hiểu biết, hữu nghị giữa nhân dân các nước đồng thời có


21

những đóng góp thiết thực vào sự phát triển chung của phong trào hợp tác xã trên
thế giới.
Hợp tác - một đặc trưng của kinh tế hợp tác xã, là nguồn gốc của sự hình
thành các hợp tác xã. Sự ra đời các hợp tác xã là kết quả của sự hợp tác giữa các
chủ sản xuất nhỏ, thợ thủ công hoặc nông dân tập hợp nhau lại trong một doanh
nghiệp chung. Các xã viên vẫn được tự chủ trong kinh doanh nhưng được hợp tác
xã hỗ trợ bằng các loại dịch vụ để nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh và cải
thiện cuộc sống. Như vậy, ta thấy tính hợp tác trong hợp tác xã thể hiện trước tiên
trong nội bộ các xã viên. Các hợp tác xã tồn tại và phát triển trong một cộng đồng
người, một phạm vi lãnh thổ nhất định thì không thể biệt lập đối với các mối quan
hệ khác. Hợp tác xã luôn có những mối quan hệ với các chủ thể khác và đặc biệt là
sự liên quan, ràng buộc, hợp tác với nhau giữa các hợp tác xã trong cùng một lãnh
thổ. Các hợp tác xã không tồn tại biệt lập mà có những lợi ích chung, có mối quan
tâm chung. Không chỉ các hợp tác xã trong cùng một vùng lãnh thổ mới có mối
quan hệ với nhau mà mối quan hệ giữa các hợp tác xã còn vượt khỏi phạm vi một
quốc gia, tức là các hợp tác xã của các nước trên thế giới cũng có mối quan hệ với

nhau. Điều đó tạo ra phong trào hợp tác xã phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới.
Mối quan hệ giữa các hợp tác xã trong một vùng lãnh thổ, giữa các hợp tác xã trên
thế giới là mối quan hệ hợp tác. Các hợp tác xã cộng tác tích cực với nhau nhằm
mục đích đem lại lợi ích cho mọi xã viên và cho cộng đồng. Động lực thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác giữa các hợp tác xã với nhau và hợp tác quốc tế chính là mối quan
tâm chung của các hợp tác xã về các giá trị của hợp tác xã, là lợi ích, là sự giúp đỡ
hỗ trợ lẫn nhau giữa các hợp tác xã.
Đại diện cho sự hợp tác giữa các hợp tác xã với nhau trong cùng một phạm vi
lãnh thổ là Liên minh Hợp tác xã; còn đại diện cho sự hợp tác quốc tế của hợp tác
xã là Liên minh Hợp tác xã quốc tế.
Cũng cần phải chú ý rằng mối quan hệ hợp tác trong nguyên tắc này còn có
nghĩa là không chỉ trong quan hệ giữa các hợp tác xã với nhau mà còn hợp tác với
cả các tổ chức, doanh nghiệp khác nữa.


22

Việc ghi nhận và thực hiện tốt nguyên tắc này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.

Thứ nhất, nó thể hiện được tính xã hội của hợp tác xã.
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế của những người lao động cần có sự hợp tác, hỗ trợ
lẫn nhau để đáp ứng tốt những nhu cầu của người lao động nhằm nâng cao đời sống của
họ. Do vậy, trong mọi hoạt động của mình, hợp tác xã có nghĩa vụ giáo dục tinh thần hợp
tác cho các xã viên; khuyến khích sự hợp tác không chỉ trong nội bộ hợp tác xã mà còn
giữa các hợp tác xã với nhau; giữa các hợp tác xã của các nước trên thế giới.

Thứ hai, thực hiện tốt tinh thần hợp tác giữa các hợp tác xã và hợp tác quốc tế còn
có ý nghĩa thúc đẩy, phát huy thế mạnh của các hợp tác xã, học hỏi, rút kinh nghiệm giữa
các hợp tác xã với nhau trong phạm vi quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới. Mỗi hợp
tác xã có những thế mạnh và những điểm yếu khác nhau. Ưu điểm của một hợp tác xã sẽ

được các hợp tác xã khác học tập; ngược lại nếu hợp tác xã có những sai lầm thì các hợp
tác xã khác sẽ rút kinh nghiệm, tránh lặp lại những sai lầm đó. Việc hợp tác quốc tế còn
giúp cho hợp tác xã ở mỗi nước có thể học hỏi những điều thành công và những kinh
nghiệm tốt của hợp tác xã ở các nước khác.

Thứ ba, việc hợp tác giữa các hợp tác xã trong nước và hợp tác quốc tế còn tạo thế
mạnh cho kinh tế tập thể; nâng cao vị thế của hợp tác xã trên thương trường, giúp thành
phần kinh tế tập thể có thể cạnh tranh với các thành phần kinh tế khác. Muốn cạnh tranh
lành mạnh, muốn tạo ra một vị thế tương xứng của hợp tác xã trong nền kinh tế thì việc
đoàn kết giữa các hợp tác xã là hết sức cần thiết. Điều đó tạo ra sức mạnh tập thể của hợp
tác xã, sức mạnh của tình đoàn kết - nguồn gốc của mọi thành công.

Thứ tư, sự hợp tác còn góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh
của hợp tác xã, hình thành các liên kết trong nền kinh tế. Mỗi hợp tác xã có thế mạnh
riêng của mình, việc hợp tác giữa các hợp tác xã sẽ giúp cho mỗi hợp tác xã có cơ hội
phát huy thế mạnh của mình; các hợp tác xã hỗ trợ, bổ sung cho nhau, tạo ra hiệu quả
trong hoạt động kinh tế của hợp tác xã. Việc hợp tác này còn thúc đẩy sự hình thành của
các tổ chức như: liên hiệp hợp tác xã, liên minh hợp tác xã... Những tổ chức này tập hợp
sức mạnh của các hợp tác xã thành viên hoặc đại diện cho các hợp tác xã thành viên, thúc
đẩy quá trình phát triển của hợp tác xã.


×