Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

QUYỀN sở hữu tài sản TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM hữu hạn HAI THÀNH VIÊN TRỞ lên THEO QUY ĐỊNH của LUẬT DOANH NGHIỆP năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.12 MB, 109 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HOÀI THU

QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN TRONG CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN HOÀI THU

QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN TRONG CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT DOANH NGHIỆP
NĂM 2014


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số:
60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Nguyễn Quý Trọng

Hà Nội – 2017


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Hoài Thu


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU

1


1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

5

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

6

5. Các phƣơng pháp nghiên cứu

6

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

7

7. Bố cục của luận văn

7

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU


8

TÀI SẢN TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI
THÀNH VIÊN TRỞ LÊN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ
HỮU TÀI SẢN TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU
HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản trong công ty

8

trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.1. Nhận diện công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành

8

viên trở lên
1.1.2. Tài sản, sở hữu và quyền sở hữu tài sản trong công ty trách

11

nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.2.1. Khái niệm tài sản

11

1.1.2.2. Sở hữu và quyền sở hữu tài sản

13

1.1.2.3. Quyền sở hữu tài sản của công ty và thành viên công ty


17

trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.3. Các yếu tố cấu thành quyền sở hữu tài sản trong công ty

19

trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.3.1. Về quyền chiếm hữu

20

1.1.3.2. Về quyền sử dụng

20


1.1.3.3. Về quyền định đoạt

21

1.1.4. Vai trò của quyền sở hữu tài sản đối với sự phát triển bền

21

vững công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.5. Nguồn luật điều chỉnh quyền sở hữu tài sản trong công ty

23


trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.5.1. Điều ước quốc tế

23

1.1.5.2. Hệ thống pháp luật quốc gia

23

1.1.5.3. Án lệ

25

1.2. Khái niệm và nội dung cơ bản của pháp luật về quyền sở

27

hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên
1.2.1. Khái lược lịch sử hình thành và phát triển pháp luật điều

27

chỉnh quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên
1.2.2. Khái niệm pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong công ty

32


trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.2.3. Những nội dung cơ bản của pháp luật về quyền sở hữu tài

33

sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
KẾT LUẬN CHƢƠNG I

40

Chƣơng 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU

41

TÀI SẢN TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI
THÀNH VIÊN TRỞ LÊN Ở VIỆT NAM
2.1. Những quy định về quyền sở hữu tài sản trong công ty trách

41

nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
2.1.1. Chủ thể quyền sở hữu tài sản

41

2.1.2. Đối tượng của quyền sở hữu tài sản trong công ty trách

47

nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên

2.1.3. Xác lập, thay đổi và chấm dứt quyền sở hữu tài sản trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên

52


2.2. Thực tiễn áp dụng quyền sở hữu tài sản trong công ty trách

58

nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ở Việt Nam hiện nay
2.2.1. Những kết quả đạt được

58

2.2.2. Những hạn chế, bất cập

65

2.2.3. Nguyên nhân của những bất cập, hạn chế trong việc thực

70

thi quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

73

Chƣơng 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU


74

TÀI SẢN TRONG CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI
THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
3.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về quyền sở

74

hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên
3.2. Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài

78

sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
3.2.1. Nhóm giải pháp xây dựng pháp luật

78

3.2.2. Nhóm giải pháp thực thi pháp luật

81

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

86

KẾT LUẬN


87


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật Doanh nghiệp số 68/2014/QH13 (Luật Doanh nghiệp năm 2014)
và Luật Đầu tư số 67/2014/QH13 (Luật Đầu tư năm 2014) đã được Quốc hội
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua
ngày 26/11/2014, tiếp tục hiện thực hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo
nguyên tắc doanh nghiệp được quyền kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp
luật không cấm hoặc không hạn chế cũng như tạo thuận lợi hơn nữa cho các
hoạt động góp vốn thành lập, tổ chức quản lý, chuyển nhượng vốn và rút khỏi
thị trường của doanh nghiệp1, đánh dấu sự chuyển biến mạnh mẽ từ tư duy
quản lý hành chính sang tư duy kiến tạo, phục vụ2.
Với mục tiêu làm cho doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh
rẻ hơn, an toàn, hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, qua đó tăng cường thu hút,
huy động hơn nữa mọi nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất - kinh doanh,
Luật doanh nghiệp năm 2014 đã sửa đổi, bổ sung nhiều điểm mới nhằm tháo
gỡ những hạn chế của Luật Doanh nghiệp năm 2005, tạo lập môi trường đầu
tư, kinh doanh thuận lợi, phù hợp với thông lệ quốc tế; đối xử bình đẳng về
thủ tục giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài; tạo thuận lợi,
giảm chi phí quản trị doanh nghiệp; bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp
của các nhà đầu tư, cổ đông, thành viên doanh nghiệp; ít tốn kém hơn khi
doanh nghiệp, nhà đầu tư rút lui khỏi thị trường. Tuy nhiên, sau thời gian hai
năm kể từ khi có hiệu lực thi hành (ngày 01/7/2015), uật doanh nghiệp năm
2014 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập cần nghiên cứu chỉnh sửa, hoàn thiện
liên quan đến quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên. Các quy định về ván đề này còn chưa đồng nhất giữa các

1

Bộ Tư pháp (2015), Đề cương giới thiệu Luật Doanh nghiệp năm 2014, Trang thông tin về phổ biến giáo
dục pháp luật, tại địa chỉ ngày truy
cập 03/7/2017.
2
Hướng tới sáng tạo, phát triển và đáp ứng nhu cầu của đời sống người dân và xã hội


2

luật cũng như chưa được cụ thể hóa khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong
quá trình hoạt động theo loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên và khi doanh nghiệp muốn thực hiện các quy định về quyền sở hữu tài
sản, góp vốn, chuyển nhượng phần vốn góp, giải quyết tranh chấp giữa các
thành viên công ty…
Xuất phát từ nhận thức đó, tác giả lựa chọn đề tài: Quyền sở hữu tài
sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo quy định
của Luật Doanh nghiệp năm 2014 nhằm đánh giá những kết quả đạt được
sau hai năm thực hiện Luật Doanh nghiệp năm 2014, các bất cập và hạn chế
qua thực tiễn áp dụng quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên, từ đó đề xuất giải pháp khắc phục các tồn tại, hạn chế
với mong muốn góp phần hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật về
quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên,
nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo lập môi trường kinh doanh bình
đẳng, thuận lợi cho các nhà đầu tư phát triển kinh tế
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tài sản và quyền sở hữu tài sản là những yếu tố quan trọng trong việc
hình thành và phát triển của doanh nghiệp. Các quan hệ về tài sản, quyền sở
hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên được

nhiều đạo luật như Hiến pháp năm 20133, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Bộ
luật Dân sự năm 2015… quy định. Thực tế cho thấy, sự hưng thịnh của khối
doanh nghiệp tư nhân là nền tảng cho tăng trưởng GDP; xu hướng phát triển
các loại hình doanh nghiệp phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thị
trường hiện nay (loại hình doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã đang giảm dần
và tiến tới xóa bỏ, các loại hình doanh nghiệp khác ngày càng phát triển hơn),
đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
và công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên. Với sự tăng trưởng ấn
3

Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế
khác Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ


3

tượng về mặt số lượng4, nhất là của loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên, thông qua các hoạt động như góp vốn thành lập doanh
nghiệp, chuyển nhượng quyền góp vốn, phần vốn góp… công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên đã thể hiện được sức sống mãnh liệt với những
phản ứng tích cực, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài nhờ các quy định cởi mở hơn của Luật Doanh nghiệp năm 2014 và
Luật Đầu tư năm 2014. Do đó, vấn đề quyền sở hữu tài sản trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nhận nhiều quan tâm, nghiên cứu
từ các nhà làm luật, chuyên gia, nhà khoa học, giảng viên cho đến nghiên cứu
sinh, học viên cao học, sinh viên chuyên ngành luật.
Vào tháng 01/2015, tại thành phố Hồ Chí Minh, Cục Quản lý đăng ký
kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) phối hợp với Viện Nghiên cứu Quản lý
kinh tế Trung ương (CIEM) và Vụ Pháp chế (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) tổ chức

hội thảo khoa học chuyên đề Giới thiệu Luật Doanh nghiệp 2014, Luật Đầu
tư 2014 với sự tham gia của đại diện cán bộ Sở Kế hoạch và Đầu tư các tỉnh
thành phía Nam, một số tỉnh miền Trung, đại diện các quận, huyện và công ty
luật, văn phòng luật sư trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Đại biểu tham dự
đã nêu ý kiến, có tham luận về những điểm mới của Luật Doanh nghiệp năm
2014 và những điểm mới của Luật Đầu tư năm 2014.
Vào tháng 11/2015, Khoa Luật thương mại - Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức hội thảo khoa học chuyên đề Luật Doanh
nghiệp và Luật Đầu tư 2014 – Những đổi mới nhằm hiện thực hóa quyền tự
do kinh doanh để các nhà khoa học trình bày và trao đổi với giới luật gia các
kết quả nghiên cứu, đánh giá về cơ sở lý luận và thực tiễn những cải cách
nhằm hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của Luật Doanh nghiệp năm
2014 và Luật Đầu tư năm 2014.
4

Lê Thị Xuân Huế (2016), Tổng kết một năm thi hành Luật Doanh nghiệp 2014 và Luật Đầu tư 2014:
Những điểm sáng đầy triển vọng của môi trường đầu tư, kinh doanh Việt Nam , Cục Quản lý đăng ký kinh
doanh, tại địa chỉ ngày truy cập 03/7/2017


4

Vào tháng 08/2016, Văn phòng Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư,
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức hội thảo về dự án Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến đầu tư, kinh doanh
nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam theo các hiệp định thương mại tự do
được ký kết trong thời gian gần đây. Hội thảo có sự góp mặt của một số nhà
làm luật, chuyên gia, nhà khoa học, doanh nhân. Theo đó, có 12 luật dự kiến
sẽ được sửa đổi, bổ sung với tổng cộng 89 Điều, trong đó uật Doanh nghiệp
năm 2014, Luật Đầu tư năm 2014 có nội dung sửa đổi nhiều hơn cả.

Tháng 09/2016, Viện Nhà nước và Pháp luật đã tổ chức hội thảo trong
khuôn khổ Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ Bảo đảm quyền tài sản trong
nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay với
sự tham gia của các nhà khoa học của Viện Nhà nước và Pháp luật, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Các tham luận
gồm: quyền tài sản và bảo đảm quyền tài sản đối với đối tượng là phần vốn
góp trong doanh nghiệp theo pháp luật Việt Nam; đăng ký quyền tài sản; các
biện pháp bảo vệ khi quyền tài sản bị xâm phạm.
Vào tháng 04/2017 vừa qua, Khoa Luật dân sự - Trường Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh cũng tổ chức hội thảo khoa học chuyên đề Quy định
về quyền tài sản trong Bộ luật dân sự 2015 và ảnh hưởng của nó đến các quy
định khác của pháp luật Việt Nam với nhiều ý kiến, quan điểm tiếp cận khác
nhau của các giảng viên trong trường về vấn đề phân loại tài sản, ảnh hưởng
của nó đến pháp luật liên quan; chiếm hữu, ảnh hưởng của nó đến các quy
định khác trong Bộ luật Dân sự năm 2015; quyền hưởng dụng, ảnh hưởng của
nó đến pháp luật bồi thường thiệt hại; bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, tài sản hình
thành trong tương lai, ảnh hưởng của nó đến các quy định về tài sản…nhằm
làm sâu sắc thêm những điểm mới của chế định tài sản, quyền sở hữu tài sản
trong Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời gợi mở về mối quan hệ sinh động
giữa chế định này với các chế định và ngành luật khác trong hệ thống pháp
luật Việt Nam.


5

Bên cạnh đó, một số tác giả cũng đã công bố các công trình, bài viết
liên quan đến đề tài quyền sở hữu tài sản, quyền sở hữu tài sản trong doanh
nghiệp như Quyền sở hữu và quyền năng của chủ sở hữu của tác giả Trần
Thị Huệ; Bảo đảm và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân ở Việt Nam
hiện nay của tác giả Hà Thị Mai Hiên; Thực trạng xây dựng pháp luật kinh

tế và những vấn đề đặt ra trong quá trình hoàn thiện của tác giả Nguyễn Đức
Minh; Mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sản xuất, kinh doanh trong
các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay của tác giả Hà Thị Thùy
Dương…cùng với các tiểu luận, khóa luận có nội dung xoay quanh vấn đề
quyền sở hữu tài sản trong doanh nghiệp.
Mỗi công trình nghiên cứu, bài viết có cách tiếp cận vấn đề quyền sở
hữu tài sản trong doanh nghiệp theo các góc độ khác nhau. Mặc dù quy định
về quyền sở hữu tài sản là một nội dung quan trọng trong Bộ luật Dân sự năm
2015 và Luật Doanh nghiệp năm 2014, nhưng khi áp dụng vào thực tế đối với
loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, đã bộc lộ nhiều
hạn chế, bất cập. Tuy có nhiều ý kiến khác nhau rằng cần hoàn thiện các quy
định về quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên, song những giải pháp được đưa ra chỉ mang tính tạm thời. Trong
khi đó, việc hoàn thiện quy định về quyền sở hữu tài sản trong công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên cho phù hợp với tình hình thực tế và
đảm bảo vai trò là công cụ pháp lý hữu hiệu giải quyết các vấn đề liên quan,
góp phần đưa pháp luật vào cuộc sống là một vấn đề cần nghiêm túc nghiên
cứu, phân tích và đưa ra những giải pháp hoàn thiện cụ thể.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu các quy định của pháp luật về
quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành
viên trở lên trên phương diện lý luận và thực tiễn thi hành Xác định những
bất cập, hạn chế cũng như nguyên nhân của sự hạn chế, bất cập của các quy
định về quyền sở hữu tài sản trong công ty TNHH hai thành viên trở lên. Trên


6

cơ sở đó đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản
trong công ty TNHH hai thành viên trở lên ở Việt Nam trong giai đoạn hiện

nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu: Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài; tìm hiểu
thực trạng pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu
hạn hai thành viên trở lên ở Việt Nam; đề xuất được các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu: luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về tài
sản, quyền sở hữu tài sản, trong đó tập trung nghiên cứu về quyền sở hữu tài
sản trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng liên quan đến
quy định trong nhiều văn bản pháp luật, tuy nhiên trong khuôn khổ của một
luận văn thạc sĩ luật học, nên tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các quy định
của pháp luật hiện hành như Bộ Luật Dân sự năm 2015, uật Doanh nghiệp
năm 2014 về quyền sở hữu tài sản trong công ty TNHH hai thành viên trở lên.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng để thực hiện luận văn gồm:
- Phương pháp phân loại và hệ thống hóa: được sử dụng để sắp xếp các
tài liệu tìm được theo từng vấn đề có cùng dấu hiệu bản chất, cùng hướng
phát triển nhằm trợ giúp cho việc nghiên cứu cơ sở lý thuyết của đề tài thuận
lợi và đầy đủ hơn
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng để làm rõ các quy
định của pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên, giúp nhận thức về vấn đề nghiên cứu một cách toàn
diện hơn.
- Phương pháp phân tích, giải thích pháp luật: được sử dụng trong phân
tích, giải thích nội hàm, mục đích, ý nghĩa quy định về quyền sở hữu tài sản


7


của Bộ luật Dân sự năm 2015, quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên của Luật Doanh nghiệp năm 2005 và Luật
Doanh nghiệp năm 2014, nội dung các báo cáo đánh giá, tổng kết, bài báo
khoa học để thấy được các ưu điểm cũng như các tồn tại, hạn chế, từ đó đề
xuất giải pháp hoàn thiện.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung và hoàn thiện
những vấn đề lý luận về quyền sở hữu nói chung và quyền sở hữu tài sản
trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên nói riêng, tạo cơ sở
khoa học để hoàn thiện quy định của pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
Luận văn là tài liệu tham khảo cho các chương trình học tập, nghiên
cứu về pháp luật.
Các giải pháp của luận văn đưa ra có giá trị tham khảo đối với khối cơ
quan xây dựng, thực thi pháp luật về quyền sở hữu nói chung và pháp luật về
quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên nói
riêng.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản trong công
ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên và pháp luật về quyền sở hữu tài
sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên ở Việt Nam.
- Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về quyền sở hữu tài sản trong công ty
trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên.



8

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN TRONG
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN SỞ HỮU TÀI SẢN TRONG CÔNG TY
TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
1.1. Một số vấn đề lý luận về quyền sở hữu tài sản trong công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.1. Nhận diện công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) hai thành viên trở
lên
Công ty trách nhiệm hữu hạn, trong đó có công ty TNHH hai thành
viên trở lên là loại hình công ty được đánh giá có nhiều tính ưu việt và được
ưa chuộng bởi bản chất pháp lý của nó. Việc thừa nhận loại hình công ty trách
nhiệm hữu hạn trong hệ thống pháp luật Việt Nam trải qua những giai đoạn
lịch sử khá lâu dài từ Luật công ty năm 1990, Luật doanh nghiệp năm 1999,
Luật doanh nghiệp năm 2005.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 ra đời trên cơ sở kế thừa Luật Doanh
nghiệp năm 2005 thể hiện bước đột phá trong hoạt động lập pháp về doanh
nghiệp. Luật Doanh nghiệp năm 2014 với 213 điều, trong đó quy định về
công ty TNHH bao gồm: Công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH
hai thành viên trở lên (từ Điều 47 đến Điều 87). Công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên là doanh nghiệp. Thành viên công ty có thể là tổ chức,
cá nhân, số lượng thành viên tối thiểu là hai (02) và tối đa không vượt quá
năm mươi (50) người. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa
vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều 48 của Luật Doanh nghiệp5.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có các đặc điểm
sau:
5


Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014


9

Một là, về tư cách pháp nhân: Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: một
tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên
quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách
nhiệm bằng tài sản của mình;
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập6.
Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên là loại hình công ty
có tính chất đối vốn được đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật, có
sự tách bạch về tài sản giữa tài sản của công ty với thành viên công ty và tham
gia độc lập các quan hệ pháp luật. Công ty TNHH hai thành viên trở lên có tư
cách pháp nhân kể từ thời điểm được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp7.
Hai là, về thành viên: Công ty phải có ít nhất hai thành viên và có tối
đa không quá 50 thành viên. Thành viên công ty có thể là cá nhân hoặc tổ
chức và giữa các thành viên thường liên kết với nhau bởi mối quan hệ quen
biết, tin tưởng lẫn nhau, đảm bảo việc quản lý, điều hành công ty không quá
phức tạp (tính đối nhân). Thành viên công ty TNHH hai thành viên trở lên là
cá nhân, tổ chức sở hữu một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty. Công
ty phải lập sổ đăng ký thành viên ngay sau khi được thành lập và phát hành
giấy chứng nhận phần vốn góp cho các thành viên góp vốn khi các thành viên
đã góp đủ vốn. Sổ đăng ký thành viên phải có một số thông tin tối thiểu theo
quy định của Luật Doanh nghiệp năm 20148.

Ba là, về chế độ chịu trách nhiệm: Công ty TNHH hai thành viên trở
lên trách nhiệm được áp dụng đối với công ty và thành viên công ty. Với tư
cách là một pháp nhân, công ty TNHH hai thành viên trở lên có quyền sở hữu
6

Khoản 1 Điều 74 Bộ Luật Dân sự năm 2015
Khoản 2 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014
8
Điều 49 Luật Doanh nghiệp năm 2014
7


10

tài sản đứng tên công ty. Công ty tự chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty bằng tài sản của mình cho đến khi không còn tài sản. Thành viên của
công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên chỉ chịu trách nhiệm về
các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn
đã cam kết góp vào công ty9. Khi thành viên đã góp đủ vốn theo cam kết thì
không còn trách nhiệm đối với các nghĩa vụ nợ của công ty (tức là chỉ chịu
trách nhiệm hữu hạn). Chế độ trách nhiệm hữu hạn của thành viên công ty
TNHH hai thành viên trở lên giống với chế độ trách nhiệm hữu hạn của cổ
đông công ty cổ phần nhưng lại khác biệt so với chế độ trách nhiệm của chủ
doanh nghiệp tư nhân hay thành viên hợp danh công ty hợp danh (chịu trách
nhiệm vô hạn).
Bốn là, đặc điểm về vốn. Vốn của công ty được hình thành chủ yếu trên
cơ sở góp vốn từ các thành viên công ty. Trong công ty trách nhiệm hữu hạn
hai thành viên trở lên, mối quan hệ quen biết, tin tưởng lẫn nhau không phải
là mối liên kết duy nhất mà giữa các thành viên công ty còn liên kết nhau qua
vốn góp và việc chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào

doanh nghiệp (tính đối vốn). Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên có cấu trúc vốn đóng ở chỗ vốn điều lệ của công ty không cần phải chia
thành những phần có giá trị bằng nhau và không được thể hiện dưới hình thức
cổ phần. Việc chuyển nhượng vốn của thành viên cho người không phải là
thành viên công ty bị hạn chế bởi quyền ưu tiên nhận chuyển nhượng của các
thành viên còn lại trong công ty Điều này cho phép các thành viên công ty có
thể ngăn chặn sự thâm nhập của người bên ngoài vào công ty bằng cách cùng
nhau mua hết phần vốn của thành viên muốn chuyển nhượng. Công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên không được quyền phát hành cổ phần10
(tức là không được huy động vốn trực tiếp từ công chúng). Công ty có thể huy
động vốn thông qua: tăng vốn điều lệ (huy động vốn từ chính các thành viên);
9

Điểm b Khoản 1 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014
Khoản 3 Điều 47 Luật Doanh nghiệp năm 2014

10


11

tăng vốn điều lệ kèm theo việc thay đổi số lượng thành viên; vay vốn. Không
có cơ sở pháp lý rõ ràng về việc cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên phát hành trái phiếu chuyển đổi, tuy nhiên pháp luật hiện
hành có quy định cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên
được phát hành trái phiếu thường (không có đặc tính chuyển đổi thành vốn
góp) nếu đáp ứng một số điều kiện theo luật định11. Từ phân tích này cho
thấy, đây cũng là một điểm khác biệt với công ty cổ phần về vốn và huy động
vốn phát triển, mở rộng kinh doanh.
1.1.2. Tài sản, sở hữu và quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm

hữu hạn hai thành viên trở lên
1.1.2.1. Khái niệm tài sản
Tài sản trên thực tế tồn tại ở nhiều dạng khác nhau vô cùng phong phú
và đa dạng và là một khái niệm quen thuộc được sử dụng trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội Trong các lĩnh vực khoa học chuyên ngành như kinh tế,
pháp lý, kế toán tài chính, tài sản cũng được nghiên cứu hết sức kỹ lưỡng
dưới các góc độ khác nhau Theo đó, tài sản thường được hiểu là những đối
tượng phải mang lại lợi ích nào đó với con người và có thể định giá được
bằng tiền. Trong ngôn ngữ thông thường, tài sản được hiểu đơn giản và mộc
mạc là những vật phục vụ cho đời sống con người và chúng ta có thể cảm
nhận được sự tồn tại của tài sản thông qua các giác quan, có thể nhìn, nắm bắt
và sử dụng được Điều này khẳng định tài sản là vật có thực, hữu hình hoặc có
thể được hữu hình hóa12.
Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản; tài sản bao gồm bất
động sản và động sản13. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh rằng: vật, tiền, giấy
tờ…trở thành tài sản cần phải đáp ứng những tiêu chí nhất định.

11

Trương Nhật Quang (2016), Pháp luật về doanh nghiệp – Các vấn đề pháp lý cơ bản, Nxb Dân trí, Hà Nội,
tr.509.
12
Bùi Thị Nga (2012), Phân loại tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học
Quốc gia, Hà Nội, tr.6.
13
Điều 105 Bộ Luật Dân sự năm 2015


12


- Vật chỉ trở thành tài sản khi được đưa vào trong giao lưu dân sự và
xác định sở hữu của một cá nhân đối với vật đó Vật thuộc sở hữu của một
người đồng nghĩa với việc người đó có thể chiếm hữu, sử dụng, định đoạt vật
đó, chống lại sự tác động hay áp đặt quyền của những người khác lên vật.
Ngôn ngữ thông dụng nhìn nhận tài sản là những vật có thể được nhận biết
bằng các giác quan - đồng nghĩa tài sản không nhất thiết phải hữu hình mà có
thể vô hình. Dựa vào mối liên hệ, phụ thuộc vào công dụng của vật với nhau
mà vật được phân thành: vật chính (vật độc lập có thể khai thác theo tính
năng); vật phụ (vật trực tiếp phục vụ cho việc khai thác công dụng của vật
chính, là một bộ phận của vật chính nhưng có thể tách rời vật chính). Dựa vào
việc xác định giá trị sử dụng của vật khi được chia thành nhiều phần nhỏ, có
thể phân chia vật thành loại chia được và loại không chia được. Dựa vào đặc
tính, giá trị của vật sau khi sử dụng thì có thể chia thành vật tiêu hao và vật
không tiêu hao. Dựa vào các dấu hiệu phân biệt của vật mà có thể phân loại
thành vật cùng loại và vật đặc định. Ngoài ra, còn có thể chia thành nhóm vật
đồng bộ và vật không đồng bộ.
- Tiền là một thứ hàng hóa đặc biệt, được tách ra khỏi thế giới hàng
hóa, dùng để đo lường và biểu hiện giá trị của tất cả các loại hàng hóa khác,
trực tiếp thể hiện lao động xã hội và biểu hiện quan hệ sản xuất giữa những
người sản xuất hàng hóa. Chỉ có loại tiền có giá trị đang được lưu hành trên
thực tế, được pháp luật thừa nhận, mới được coi là tài sản.
- Giấy tờ có giá được hiểu là giấy tờ trị giá được bằng tiền và chuyển
giao được trong giao dịch dân sự. Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, tín phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, công trái…
Xét về mặt hình thức, giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức,
trình tự do pháp luật quy định. Nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là quyền
tài sản. Giá của giấy tờ có giá chính là giá trị quyền tài sản và quyền này được
pháp luật bảo vệ. Giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể



13

chuyển nhượng được với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ một lần. Bản thân
giấy tờ có giá có tính thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu và tính rủi ro.
- Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản
đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản
khác14. Quyền tài sản hiểu theo nghĩa rộng là quyền của cá nhân, tổ chức được
pháp luật cho phép thực hiện hành vi xử sự đối với tài sản của mình và yêu
cầu người khác phải thực hiện một nghĩa vụ đem lại lợi ích vật chất cho mình.
Bộ Luật Dân sự năm 2015 không chỉ liệt kê các loại tài sản như trong
quy định của Bộ Luật Dân sự năm 2005 mà còn xác định cụ thể rằng bất động
sản và động sản có thể là tài sản hiện có đã hình thành; chủ thể đã xác lập
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trước hoặc tại thời điểm xác lập giao
dịch hoặc cũng có thể là tài sản hình thành trong tương lai (là tài sản chưa
hình thành hay tài sản đã hình thành nhưng chủ thể xác lập quyền sở hữu tài
sản sau thời điểm xác lập giao dịch)15.
Đối với các doanh nghiệp, trong đó có công ty TNHH hai thành viên
trở lên thì một trong những loại tài sản hình thành nên khối tài sản của doanh
nghiệp đó chính là tài sản góp vốn của các thành viên Theo đó, tài sản góp
vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền
sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ (gồm quyền tác giả, quyền liên quan
đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng
và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật về sở hữu trí
tuệ), công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác có thể định giá được bằng
Đồng Việt Nam. Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các
quyền nói trên mới có quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn16.
1.1.2.2. Sở hữu và quyền sở hữu tài sản
Việc nghiên cứu về sở hữu và quyền sở hữu tài sản có ý nghĩa quan
trọng trong đời sống của chủ thể nói chung, trong đó có công ty TNHH hai
14


Điều 115 Bộ Luật Dân sự năm 2015
Điều 108 Bộ Luật Dân sự năm 2015
16
Điều 35 Luật Doanh nghiệp năm 2014
15


14

thành viên trở lên nói riêng từ sự hình thành, hoạt động hay rút lui khỏi thị
trường.
- Sở hữu: là một trạng thái quan hệ tồn tại khách quan giữa người với
người trong xã hội. Ở bất kỳ xã hội nào cũng tồn tại những cách thức nhất
định về việc chiếm giữ, làm chủ của cải vật chất. Trong quá trình thực hiện
những cách thức đó xuất hiện quan hệ giữa người với người về của cải vật
chất. Quan hệ đó là quan hệ sở hữu. Trong đời sống xã hội loài người, quan
hệ sở hữu xuất hiện, tồn tại và phát triển như một tất yếu khách quan. Và nơi
nào không có một hình thái sở hữu nào cả thì nơi đó cũng không thể có sản
xuất nào cả, do đó không có xã hội nào cả

17

.

Sở hữu là hình thức xã hội được hình thành nhờ kết quả thực hiện quá
trình chiếm hữu của cải vật chất. Nói cách khác, sở hữu là loại quan hệ xã hội,
là hình thức xã hội mà trong đó kết quả chiếm hữu được tồn tại. Sở hữu xuất
hiện và tồn tại theo quy luật phát triển kinh tế, chịu sự tác động của các quy
định của Nhà nước, trong các hình thức cụ thể. Đó chính là khía cạnh kinh tế

của khái niệm sở hữu. Trong hệ thống các quan hệ kinh tế, quan hệ sở hữu tài
sản là loại quan hệ về sự quy thuộc của tài sản đối với một chủ thể nhất định.
Loại quan hệ này chi phối các quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối, tiêu
dùng...
Trong xã hội loài người từ trước đến nay luôn xảy ra quá trình lao động
sản xuất và chiếm hữu sản phẩm lao động. Vì vậy, xã hội cần có tiêu chuẩn
chung nhằm chỉ ra sự phụ thuộc của khách thể nào đó đối với một chủ thể
nhất định. Về mặt xã hội, khái niệm sở hữu được xác định như là quyền của
chủ thể đồng thời là khả năng loại trừ sự chiếm đoạt và can thiệp của những
người khác trong xã hội đối với vật thuộc quyền của chủ sở hữu18.
Theo C.Mác thì sở hữu biểu hiện một cách tổng thể nhất các quan hệ
kinh tế của xã hội. Trong tất cả các hình thái kinh tế trước chủ nghĩa xã hội,
17

C.Mác (1964), Góp phần phê phán kinh tế - Chính trị học, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.227.
Hà Thị Mai Hiên (2010), Tài sản và quyền sở hữu của công dân ở Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội, tr.4849.
18


15

trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá, chủ sở hữu tư liệu sản xuất thường tách
rời khỏi lao động nhưng luôn là chủ sở hữu đối với các sản phẩm được sản
xuất ra nhờ sử dụng các tư liệu sản xuất đó. Sản phẩm được sản xuất ra bằng
sức lao động của những nô lệ, nông nô hay công nhân và có thể bằng chính sở
hữu chủ trong những trường hợp nhất định, thông qua cơ chế thị trường, quá
trình trao đổi được chuyển thành tiền. Nói cách khác, quan hệ sở hữu được
thực hiện chủ yếu trong phạm vi sản xuất hàng hoá Và cũng chính trong nền
kinh tế thị trường đòi hỏi phải có các hoạt động kinh tế cụ thể giữa những chủ
sở hữu cụ thể, những con người có quyền quyết định số phận tài sản của mình

và có đầy đủ các quyền năng chủ sở hữu. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà
giai cấp tư sản buổi sơ khai khi lên nắm chính quyển đã tuyên bố quyền sở
hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.
Đối với các chủ sở hữu, vấn đề quan trọng là phải giữ gìn và không
ngừng làm tăng thêm tài sản thuộc sở hữu của mình Để làm được điều đó bắt
buộc các ông chủ phải tăng cường phát triển sản xuất, phải trở thành người
sản xuất hàng hóa, nhà kinh doanh. Về mặt kinh tế, ông chủ luôn phải quan
tâm đến lợi nhuận, tích lũy để tái sản xuất mở rộng Do đó, sự khác nhau cơ
bản giữa hình thức sở hữu này với hình thức sở hữu khác, giữa chế độ xã hội
này với chế độ xã hội khác là ở khía cạnh xã hội của nó, ở sự điều tiết lợi ích
thể hiện trong chính sách mà nhà nước của giai cấp thống trị đang vận hành.
Vấn đề là làm thế nào để những sản phẩm lao động do chính người lao
động làm ra phải do người lao động quản lý, phân phối và quay trở lại phục
vụ sản xuất do những người lao động tổ chức và quản lý Đó chính là mục
tiêu, là cơ sở sản xuất của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa, trong đó hình thức
sở hữu chủ đạo là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể Trong điểu kiện của nền
sản xuất xã hội chủ nghĩa, nhân dân lao động là chủ nhân của toàn bộ tư liệu
sản xuất chủ yếu, có thể thực hiện quyền sở hữu của mình thông qua nhà
nước, đại diện tập thể hoặc tự mình trực tiếp nắm giữ, quản lý các tài sản tuỳ
thuộc vào từng hình thức sở hữu tương ứng.


16

- Quyền sở hữu: quyền sở hữu được tiếp cận, nghiên cứu dưới nhiều
góc độ khác nhau.
+ Dưới góc độ pháp lý, quyền sở hữu được hiểu theo hai nghĩa19: khách
quan và chủ quan.
Theo nghĩa khách quan, quyền sở hữu là tổng hợp các quy phạm pháp
luật điều chỉnh những quan hệ giũa người với người về việc chiếm hữu của

cải vật chất trong xã hội. Với ý nghĩa là một chế định pháp luật, quyền sở hữu
ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước, khi mà giai cấp thống trị sử dụng công
cụ pháp luật để điều tiết lợi ích trong xã hội, đồng thời khẳng định quyền lực
nhà nước đối với khối tài sản to lớn của xã hội, áp đặt ý chí của mình đối với
các giai cấp, tầng lớp và cá nhân trong việc phân chia của cải vật chất xã hội.
Khi bàn về tính khách quan và chủ quan của quyền sở hữu, có nhà nghiên cứu
đưa ra nhận xét:
Quyền sở hữu là một chế định pháp luật. Vì vậy nó mang tính chất chủ
quan ở nghĩa là sự ghi nhận của nhà nước đối với nó. Vì tính chủ quan đó mà
chúng ta mới thấy tình hình điều chỉnh của pháp luật đối với chế độ sở hữu có
khi kịp thời, có khi không kịp thời hoặc thậm chí là duy ý chí, có lúc hiệu quả,
có lúc không hiệu quả.
Nhưng nếu xét trên bình diện phản ánh, chế định quyền sở hữu là
khách quan, bởi vì pháp luật của nhà nước chẳng qua chỉ là sự thể chế hoá,
đưa lên thành luật những quan hệ kinh tế khách quan về sản xuất, tiêu dùng,
lưu thông, tức là các quan hệ chiếm hữu, sử dụng và định đoạt các sản phẩm
do con người tạo ra20.
+ Với ý nghĩa là một chế định pháp luật, quyền sở hữu là tổng hợp các
quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ phát sinh
giữa người với người (nhà nước, cá nhân và pháp luật) về việc chiếm hữu, sử

19

Hà Thị Mai Hiên (2010), Tài sản và quyền sở hữu của công dân ở Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội, tr.5657.
20
Đào Trí Úc (1995), Vấn đề quyền sở hữu theo Luật Dân sự Việt Nam”, Nhà nước và Pháp luật, (94), tr.27.


17


dụng, định đoạt tài sản21. Thực tế, tự thân tập hợp ba quyền năng này chưa đủ
để khái quát nội dung quyền sở hữu mà đây chỉ là những quyền năng chủ yếu
của chủ sở hữu. Quyền sở hữu là một loại quyền đối với tài sản có nội hàm rất
lớn22. Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Quyền sở hữu bao gồm
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu
theo quy định của luật .
1.1.2.3. Quyền sở hữu tài sản của công ty và thành viên công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên
Tài sản của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên chủ yếu
được tạo lập từ vốn do thành viên góp vào công ty cùng với một số loại vốn
khác. Khi nghiên cứu về quyền sở hữu tài sản trong công ty TNHH hai thành
viên trở lên được xem xét ở các góc độ:
Thứ nhất, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên với tư
cách là một pháp nhân có quyền sở hữu tài sản đứng tên công ty và tài sản của
công ty không phải là tài sản riêng của các thành viên công ty Điều này thể
hiện sự tách biệt về trách nhiệm bằng tài sản của pháp nhân với tài sản của
các thành viên của pháp nhân. Công ty có quyền chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản công ty với tư cách là chủ sở hữu. Thành viên góp vốn bằng tiền
hoặc bằng tài sản vào công ty, phần góp này trở thành tài sản của công ty23 và
không còn là tài sản của riêng thành viên đó nữa.
Trong quá trình hoạt động, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên có thể có nghĩa vụ trả nợ lớn, đặc biệt là khi doanh nghiệp phát triển và
huy động vốn dưới hình thức vay ngân hàng hoặc phát hành trái phiếu. Số nợ
dưới các hình thức này có thể lớn gấp nhiều lần vốn chủ sở hữu. Ngoài ra,
nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp cũng có thể phát sinh liên quan đến trách
nhiệm của doanh nghiệp đối với người tiêu dùng.

21

Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015

Hà Thị Mai Hiên (2010), Tài sản và quyền sở hữu của công dân ở Việt Nam, Nxb CAND, Hà Nội, tr.61.
23
Điều 37 Luật Doanh nghiệp năm 2014
22


18

Thứ hai, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên có số lượng
chủ sở hữu tối thiểu là hai và tối đa là năm mươi Về cơ bản, ngoài tài sản góp
vốn hoặc số vốn cam kết đóng góp, thành viên góp vốn không chịu trách
nhiệm cá nhân bằng tài sản riêng của mình đối với nghĩa vụ tài chính của
công ty. Thành viên góp vốn trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành
viên trở lên sở hữu phần vốn góp và có một số quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
việc góp vốn chứ không sở hữu tài sản của công ty.
Do vậy, thành viên có quyền chuyển nhượng hoặc định đoạt phần vốn
góp nhưng không có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản công ty.
Khi chủ sở hữu muốn chuyển nhượng một phần vốn góp hoặc bán
doanh nghiệp (chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp), thành viên công ty chỉ
được phép chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho bên thứ ba sau khi đã
chào bán phần vốn đó cho các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với
phần vốn góp của họ với cùng điều kiện. Việc chuyển nhượng này không ảnh
hưởng đến tình hình hoạt động của công ty và công ty vẫn hoạt động bình
thường sau khi chuyển nhượng.
Thứ ba, mối quan hệ giữa quyền sở hữu tài sản của công ty và quyền sở
hữu phần vốn góp của thành viên. Mối quan hệ này được thể hiện trong quá
trình thành lập công ty cũng như hoạt động hay giải thể hoặc phá sản công ty .
Góp vốn của thành viên hình thành khối tài sản công ty. Tài sản công ty là cơ
sở để đảm bảo cho công ty hoạt động, thực hiện quyền, nghĩa vụ, tổ chức,
quản lý công ty hay thực hiện mua lại hoặc chuyển nhượng vốn góp Trường

hợp giải thể hay phá sản công ty, nếu tài sản công ty sau khi đã thực hiện
nghĩa vụ thanh toán đối với các khoản nợ mà còn thì sẽ thuộc về thành viên
công ty theo tỷ lệ tương ứng với giá trị phần vốn góp.


19

1.1.3. Các yếu tố cấu thành quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên
Việc xác lập và thực hiện quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản đều
phải dựa trên quy định của Bộ luật Dân sự năm 201524. Quyền sở hữu được
xác lập đối với tài sản do (i) lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp
pháp, hoạt động sáng tạo ra đối tượng quyền sở hữu trí tuệ; (ii) được chuyển
quyền sở hữu theo thỏa thuận hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền khác; (iii) hoa lợi, lợi tức; (iv) từ việc tạo thành
tài sản mới do sáp nhập, trộn lẫn, chế biến; (v) được thừa kế; (vi) chiếm hữu
trong các điều kiện do pháp luật quy định đối với tài sản vô chủ, tài sản không
xác định được chủ sở hữu; (vii) tài sản bị chôn, giấu, bị vùi lấp, chìm đắm
được tìm thấy; (vii) tài sản do người khác đánh rơi, bỏ quên; (viii) gia súc, gia
cầm bị thất lạc, vật nuôi dưới nước di chuyển tự nhiên; (ix) chiếm hữu, được
lợi về tài sản không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục, công khai
trong thời hạn 10 năm đối với động sản, 30 năm đối với bất động sản25.
Trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc quy định đó trái với Bộ luật Dân
sự năm 2015 thì quy định đó phải được thể hiện trong văn bản luật hoặc đạo
luật khác do Quốc hội ban hành.
Theo nghĩa chủ quan, quyền sở hữu là khả năng xử sự của người sở
hữu chủ trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt

26


các loại tài sản theo quy

định pháp luật. Quyền sở hữu tài sản trong công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên chịu sự điều chỉnh của Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật
Doanh nghiệp năm 2014, Luật đầu tư năm 2014 và các văn bản pháp luật
khác có liên quan. Những quyền năng này đồng thời là nội dung quyền sở
hữu, quyền chủ thể của sở hữu chủ.
Với tư cách là một pháp nhân, công ty TNHH hai thành viên trở lên có
quyền sở hữu tài sản đứng tên công ty. Tài sản này của công ty không phải là
24

Khoản 1 Điều 160 Bộ luật Dân sự năm 2015
Điều 221 Bộ luật Dân sự năm 2015
26
Điều 158 Bộ luật Dân sự năm 2015
25


×