Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Đánh giá chất lượng tiểu cầu được sản xuất từ máu toàn phần và tiểu cầu chiết tách trên máy tách tế bào tự động tại bệnh viện chợ rẫy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.83 MB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM

---------------------------

VŨ TRẦN DUY

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TIỂU CẦU ĐƢỢC
SẢN XUẤT TỪ MÁU TOÀN PHẦN VÀ TIỂU CẦU
CHIẾT TÁCH TRÊN MÁY TÁCH TẾ BÀO TỰ
ĐỘNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công nghệ sinh học
Mã số ngành: 60420201

TP. HỒ CHÍ MINH, tháng

năm


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM

---------------------------

VŨ TRẦN DUY

ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TIỂU CẦU ĐƢỢC
SẢN XUẤT TỪ MÁU TOÀN PHẦN VÀ TIỂU CẦU
CHIẾT TÁCH TRÊN MÁY TÁCH TẾ BÀO TỰ
ĐỘNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY


LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Công nghệ sinh học
Mã số ngành: 60420201
CÁN BỘ HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Nguyễn Tiến Thắng
TS. DS. Trần Văn Bảo

TP. HỒ CHÍ MINH, tháng

năm


CÔNG TRÌNH ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM
Cán bộ hướng dẫn khoa học : PGS. TS. Nguyễn Tiến Thắng

Luận văn Thạc sĩ được bảo vệ tại Trường Đại học Công nghệ TP. HCM
ngày 11 tháng 11 năm 2017

Thành phần Hội đồng đánh giá Luận văn Thạc sĩ gồm:
TT

Họ và tên

Chức danh Hội đồng

1

GS. TSKH. Nguyễn Trọng Cẩn


Chủ tịch

2

TS. Dương Thị Hồng Diệp

Phản biện 1

3

TS. Nguyễn Hoài Hương

Phản biện 2

4

TS. Hồ Viết Thế

Ủy viên

5

TS. TRịnh Thị Lan Anh

Ủy viên, Thư ký

Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng đánh giá Luận sau khi Luận văn đã được
sửa chữa (nếu có).


Chủ tịch Hội đồng đánh giá LV


TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHỆ TP. HCM

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
TP. HCM, ngày 31 tháng 08 năm 2017

NHIỆM VỤ LUẬN VĂN THẠC SĨ
Họ tên học viên: VŨ TRẦN DUY

Giới tính: Nam

Ngày, tháng, năm sinh: 26.04.1984

Nơi sinh: Dồng Nai

Chuyên ngành: Công nghệ sinh học

MSHV: 1541880002

I- Tên đề tài:
Đánh giá chất lượng tiểu cầu được sản xuất từ máu toàn phần và tiểu cầu chiết tách trên
máy tách tế bào tự động tại bệnh viện Chợ Rẫy.
II- Nhiệm vụ và nội dung:



Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng và chất lượng của KTC được sản xuất từ máu

toàn phần và từ máy tự động.


Nghiên cứu sự thay đổi của các chỉ số huyết học, sinh hoá trong túi TC từ đó

đánh giá được chất lượng của túi TC sau thời gian bảo quản.
III- Ngày giao nhiệm vụ: 15.12.2017
IV- Ngày hoàn thành nhiệm vụ: 31.08.2017
V- Cán bộ hƣớng dẫn:

PGS. TS.Nguyễn Tiến Thắng
TS. DS. Trần Văn Bảo

CÁN BỘ HƢỚNG DẪN
(Họ tên và chữ ký)

KHOA QUẢN LÝ CHUYÊN NGÀNH
(Họ tên và chữ ký)


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài này do chính tôi thực hiện, đây là công trình nghiên cứu
khoa học độc lập của riêng tôi. Những thông tin tham khảo trong luận văn đều được
trích dẫn cụ thể nguồn sử dụng. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tự thực
hiện, phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Các kết quả
này chưa từng được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 27 tháng 08 năm 2017

Học viên thực hiện luận văn

Vũ Trần Duy


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành
nhất đến tập thể giảng viên Khoa Công nghệ sinh học – Thực phẩm – Môi trường,
trường đại học Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã hết lòng tận tình chỉ dạy, truyền
đạt kiến thức cho tôi trong suốt qúa trình học tập tại trường thời gian qua.
Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS. TS. Nguyễn Tiến Thắng
và TS. DS. Trần Văn Bảo – người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình giúp đỡ và động
viên cá nhân tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Với những kiến
thức này làm nền tảng cho chúng tôi vận dụng vào công việc và cuộc sống.
Xin chân thành cảm ơn sự hỗ trợ, giúp đỡ, động viên của toàn thể gia đình, bạn
bè trong suốt quá trình hoàn thành luận văn, cũng như trong suốt quá trình học tập vừa
qua.
Vì thời gian hạn hẹp và vốn kiến thức còn hạn chế nên cuốn báo cáo này sẽ
không thể tránh những thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo và đóng góp của quý thầy cô và
các bạn để cuốn báo cáo này hoàn thiện hơn.
Xin kính chúc quý Thầy, Cô sức khỏe và thành công trong sự nghiệp đào tạo
những thế hệ tri thức tiếp theo trong tương lai.
Một lần nữa xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 15 tháng 07 năm 2017
Học viên thực hiện luận văn

Vũ Trần Duy


TÓM TẮT

Hiện nay máu và các chế phẩm máu được sử dụng ngày càng nhiều. Trong các
chế phẩm máu thì khối tiểu cầu (KTC) được sử dụng phổ biến. Hiệu quả truyền tiểu
cầu trên bệnh nhân phụ thuộc nhiều vào chất lượng khối tiểu cầu. Vì vậy tiến hành
nghiên cứu đánh giá chất lượng chế phẩm KTC được sản xuất tại bệnh viện Chợ Rẫy
theo hai phương pháp. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 40 KTC điều
chế từ máu toàn phần bằng phương pháp Buffy‐coat và 160 KTC gạn tách từ máy tách
tế bào tự động tại bệnh viện Chợ Rẫy; phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến
cứu in vitro tại 1, 3, 5 ngày lưu trữ. Kết quả và kết luận:
 Khối tiểu cầu (KTC) điều chế từ đơn vị máu toàn phần và KTC gạn tách từ
người hiến máu bằng máy tách tế bào tự động đạt tiêu chuẩn chất lượng Việt Nam tại
thông tư 26/2013/TT-BYT hướng dẫn hoạt động truyền máu.
 Các thay đổi về các chỉ số huyết học và sinh hoá của KTC: Số lượng tiểu cầu,
nồng độ glucose giảm và có mối tương quan thuận với sự thay đổi của chỉ số pH KTC
theo ngày bảo quản. Độ pH giảm tuy nhiên vẫn trong giới hạn cho phép. Nồng độ
LDH, ion Ca TP, K+, Na+ tăng theo ngày bảo quản.


ABSTRACT
Nowadays, blood and blood products are more useful. Especially, the platelet
concentrates is commonly used. Efficiency of platelet transfusions depends on
plateletconcentrate„s quality. Therefore, we conducted a study to evaluate the quality of
platelet concentrate manufactured at Cho Ray Hospital. Study design and methods: 40
units Buffycoat platelets and 160 units platelet concentrate separated from donor‟s
bloodbyautomated cell separator (plateletpheresis) at Cho Ray Hospital. Research
method cross-sectional study, prospective study in vitro buffycoat platelets function
after storage at 1, 3, 5 day. Result and conclusion:
 The platelet concentrate separated from donor‟s whole blood and by automatic
cell separators (plateletpheresis) achieved Vietnam‟s standard quality according to
Circular No. 26/2013 / TT-BYT (guidelines for blood transfusion operation).
 Some hematology, biochemical indexes of platelet concentrates were changed:

decreasing number of platelets,Concentration of glucose during preserving time. pH was
decreased within limits, Concentration of LDH, ion Ca TP, K+, Na+ Increase by day of
storage.



1

MỞ ĐẦU
Truyền máu là một liệu pháp điều trị rất có hiệu quả trong nhiều bệnh lý và đã
góp phần hỗ trợ quan trọng trong điều trị và bảo vệ sức khoẻ cộng đồng. Do đó truyền
máu cần phải được sử dụng đúng, hợp lý để phát huy tối đa hiệu quả và hạn chế tai
biến truyền máu. Nguyên tắc cơ bản của truyền máu hiện đại là chỉ truyền các thành
phần máu mà người bệnh cần. Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và sự hiểu biết đầy
đủ về mặt miễn dịch học, người ta đã có thể tách riêng từng thành phần của máu: hồng
cầu (HC), tiểu cầu (TC), bạch cầu (BC) hạt trung tính, huyết tương tươi, tủa lạnh yếu tố
VIII, các yếu tố đông máu,… Việc sử dụng các chế phẩm vừa mang lại hiệu quả về lợi
ích kinh tế cho bệnh nhân (BN) vừa truyền đúng thành phần mà cơ thể thiếu giúp tránh
lãng phí và hạn chế được tai biến xảy ra trong truyền máu.
Trong các dạng chế phẩm máu thành phần, chế phẩm TC được sử dụng nhiều để
truyền cho những BN cần truyền TC. Bởi TC đóng vai trò quan trọng trong tất cả các
giai đoạn đông cầm máu và góp phần vào quá trình làm lành vết thương. Sự khiếm
khuyết của TC về số lượng hay chất lượng đều có thể đưa đến các phản ứng với các
mức độ từ nhẹ đến nặng khác nhau, hoặc không hiệu quả nhiều khi đe dọa đến tính
mạng của BN (xuất huyết não, đường tiêu hóa, thận,...). Truyền khối tiểu cầu (KTC) là
một liệu pháp điều trị thay thế quan trọng giúp BN tạm thời có đủ số lượng TC cần
thiết để ngăn chặn quá trình chảy máu. Với sự hiểu biết về tầm quan trọng của việc
truyền máu theo đúng các thành phần thì một yêu cầu đưa ra cho các Trung tâm truyền
máu là phải cung cấp đầy đủ về số lượng và đảm bảo chất lượng của KTC cung cấp
cho BN.

Ngoài sản xuất TC theo các phương pháp truyền thống từ các túi máu toàn phần
hiện nay có khá nhiều các hãng sản xuất máy chiết tách TC tự động từ một người cho
như: Haemonetic, Nigale, Trima,… phần nào đáp ứng được nhu cầu sử dụng ngày càng
tăng trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Việc đánh giá chất lượng của mỗi loại KTC
cũng có những tiêu chuẩn khác nhau. Có những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng TC


2

như người hiến máu, quá trình điều chế, điều kiện bảo quản. Việc đánh giá được chất
lượng TC được sản xuất từ máu toàn phần và từ người hiến TC trên máy tự động sẽ
giúp các thầy thuốc lâm sàng cho chỉ định chính xác, phù hợp với nhu cầu sử dụng của
BN, cũng góp phần làm tăng hiệu quả điều trị và tiết kiệm chi phí cho BN. Vì vậy thí
nghiệm được tiến hành nghiên cứu đề tài: “ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG TIỂU CẦU
ĐƢỢC SẢN XUẤT TỪ MÁU TOÀN PHẦN VÀ TIỂU CẦU CHIẾT TÁCH
TRÊN MÁY TÁCH TẾ BÀO TỰ ĐỘNG TẠI BỆNH VIỆN CHỢ RẪY” nhằm hai
mục tiêu:
1. Khảo sát các yếu tố ảnh hưởng và chất lượng của KTC được sản xuất từ máu
toàn phần và từ máy tự động.
2. Nghiên cứu sự thay đổi của các chỉ số huyết học, sinh hoá trong túi TC từ đó
đánh giá được chất lượng của túi TC sau thời gian bảo quản.


3

CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đặc điểm và chức năng của tiểu cầu (TC)
Tiểu cầu là một trong những tế bào (TB) máu có kích thước nhỏ, đường kính TC
3 – 4 µm, số lượng trong máu ngoại vi khoảng từ 150 – 400x109/L máu. TC đóng vai
trò quan trọng trong cơ chế đông máu, nhất là giai đoạn cầm máu ban đầu.

1.1.1. Nguồn gốc và đặc điểm sinh sản của tiểu cầu
1.1.1.1. Nguồn gốc
Một vài mẫu TC được tìm thấy trong túi noãn hoàng vào tuần thứ 6 – 7 của thai
kỳ. Sau đó chúng phát triển trong gan, lách và cuối cùng là ở tủy xương vào tuần 13.
TC được hình thành từ sự vỡ ra của bào tương các mẫu TC theo cơ chế nội phân bào.
Tuần hoàn mao mạch phổi cũng là nơi phóng thích TC từ những mẫu TC trưởng thành
đã đi vào vòng tuần hoàn. Một giả thuyết khác lại cho rằng TB mẫu TC duỗi dài một
phần bào tương sau đó chít hẹp lại từng đoạn và tách ra để tạo nên các TC (Bertolini et
al, 1993).
1.1.1.2. Yếu tố điều hòa sinh tiểu cầu
Theo nghiên cứu của Bertolini và cộng sự (1993) có rất nhiều cytokine tham gia
vào việc điều hòa quá trình sinh TC, các chất này có thể tác động vào nhiều giai đoạn
như tăng sinh, trưởng thành của mẫu TC và sự tạo thành TC. Các cytokine có thể được
chia thành 4 nhóm chính dựa theo hoạt tính sinh học như sau:
 Nhóm tác động ở giai đoạn sớm: SCF (Stem cell factor), LIF (Leukemic
inhibitory factor), IL-6, IL-11. Trong đó, SCF có tác động làm tăng sinh mẫu TC; LIF,
IL-6 và IL-11 làm mẫu TC trưởng thành biểu hiện ở tăng kích thước TB, tăng sự phân
múi của nhân.
 Nhóm có tác động nhiều dòng: IL-3, GM-CSF (Granulo – mono colony
stimulating factor), cả hai chất này đều có tác động kích thích sự tạo dòng mẫu TC,
nhưng riêng IL-3 có tác dụng mạnh hơn.


4

 Nhóm tác động ở giai đoạn muộn: erythropoietin (EPO), thrombopoietin
(TPO). Trong đó, EPO có tác động trong quá trình trưởng thành của mẫu TC. TPO có
nguồn gốc từ gan; có 2 vai trò quan trọng: kích thích tăng sinh số lượng các mẫu TC,
kích thích tăng tốc độ trưởng thành bào tương của mẫu TC (AABB, 1997) và tốc độ
giải phóng của TC. Hiện nay nhiều công trình đã nghiên cứu việc sử dụng TPO điều trị

cho các BN giảm TC như là một biện pháp thay thế.
 Nhóm có tác động ức chế: IL-4, interferon (IFN), TGF (Transforming growth
factor), yếu tố TC 4 (PF-4) và thromboglobulin (TG). Trong nhóm này, PF-4, TG có
nguồn gốc từ TC và IL-4, IFN có nguồn gốc từ ngoài TC. Các chất này có tác động ức
chế quá trình nội gián phân của mẫu TC.
1.1.1.3. Đặc điểm sinh sản của tiểu cầu
Quá trình sinh TC là quá trình sinh sản và biệt hóa từ TB gốc vạn năng theo sơ
đồ sau:

HSC

CFU-GEMM

Nguyên
MTC
mẫu TC
ưa
(CFU-Meg) base
sinh

MTC
có hạt
chưa
sinh TC
TC

MTC
có hạt
sinh
TC


Tiểu
cầu

Hình 1.1. Sơ đồ sinh tiểu cầu
(HSC: hemopoietic stem cells, MTC: mẫu tiểu cầu, TC: tiểu cầu)
Quá trình này diễn ra trong một vi môi trường phức tạp của tủy xương. Mẫu TC
là TB đầu dòng của TC và là TB máu lớn nhất trong các TB máu ở tuỷ xương với nhân
to và chia nhiều múi, bào tương rộng chứa nhiều nhóm hạt, mỗi nhóm có khoảng 10 –
12 hạt ái kiềm. Tủy xương có thể tái tạo 108 mẫu TC mỗi ngày. Mỗi mẫu TC có thể
sinh được từ 1.000 đến 5.000 TC (Nguyễn Trường Sơn, 2000; Bertolini et al, 1993).


5

Thời gian sống của TC trung bình từ 8 – 12 ngày. Sự thay đổi của TC gắn liền
với sự lão hoá. Tuy nhiên có một phần nhỏ TC có tình trạng tiêu huỷ ngẫu nhiên, đó là
các TC tham gia vào quá trình đông máu sinh lý. Nhìn chung khoảng 10% TC chết và
được thay thế mỗi ngày.
1.1.2. Hình thái và cấu trúc tiểu cầu
TC mang hình ảnh là các mảnh TB nhỏ, hình dạng không nhất định, thường là
dạng hình đĩa, không nhân, đường kính 2 – 4 µm và thể tích khoảng 6 – 7 fl. Ở trạng
thái nghỉ, bề mặt TC trơn nhẵn; khi được hoạt hóa chúng sẽ nhanh chóng tạo ra các giả
túc hình gai.

Hình 1.2. Cấu trúc tiểu cầu
Dưới kính hiển vi quang học TC có một siêu cấu trúc phức tạp gồm lớp màng,
các hạt, hệ thống vi ống, hệ thống các kinh mở và được chia thành các vùng sau:
 Vùng ngoại vi: là màng TB có nhiều chỗ lõm rất sâu, màng gồm 3 lớp:
 Màng bào tương: màng này được cấu tạo bởi ba lá, hai lá ngoài có bản chất là

phospholipid, còn lá giữa chứa cholesterol, glycolipid và glycoprotein. Lớp màng này
còn chứa bơm Na+/K+ -ATPase đóng vai trò kiểm soát môi trường ion của TC (Nguyễn
Trường Sơn, 2000). Phospholipid là nguồn của các chất trung gian hoạt hoá TC và hỗ
trợ cho cơ chế đông máu. Các glycoprotein màng đóng vai trò như các thụ thể bề mặt.


6

Bảng 1.1. Các thụ thể bề mặt chính của tiểu cầu
Chức năng/ chất liên kết

Glycoprotein thụ thể
GPIIb/IIIa

Thụ thể của fibrinogen, vWF, fibronectin

GPIa/Iia

Collagen

GPIb/IX/V

vWP

GPVI

Collagen

 Hệ thống các ống dẫn bề mặt: tương ứng với sự lồng vào của màng bào tương
ngoại vi vào bên trong TC. Khi có sự hoạt hoá TC, các TC thay đổi hình dạng, hệ

thống ống dẫn bề mặt cũng cho phép gia tăng đáng kể bề mặt trao đổi giữa môi trường
bên ngoài và bào tương. Hơn nữa nó làm cho sự tiếp xúc chặt chẽ giữa các hạt nội TC
với màng bề mặt.
 Hệ thống ống dẫn đậm đặc: hệ thống ống dẫn đậm đặc tương đương với lưới cơ
tương của cơ trơn. Đó là nơi chính dự trữ calcium ion hoá mà các chuyển động nội bào
tương đương của nó kiểm soát sự hoạt hoá TC. Nó có sự liên quan mật thiết với hệ
thống ống dẫn bề mặt.
 Bào tƣơng
Ở trạng bình thường, TC có dạng đĩa được bao quanh bởi một vòng các vi ống
tạo thành một hệ ống đa trùng hợp đóng vai trò bộ khung TB đó là sườn vi ống. Trong
quá trình hoạt hoá TC, hệ vi ống tự giải trùng hợp và TC thay đổi hình dạng. Hiện
tượng tương tự xảy ra khi TC ở trong môi trường có chất loại bỏ calcium mạnh như
EDTA. TC có chứa nhiều protein cơ giúp TC thay đổi hình dạng, mọc giả túc, di động
và tiết các hạt. Hai protein chính của hệ thống co rút là actin và myoisin và cũng có
một hệ thống điều hoà phức hợp liên quan đến nhiều protein khác.
 Các hạt nội TC: phân biệt 3 loại hạt TC: hạt đậm đặc, hạt α và các hạt tiêu thể.
 Các hạt đậm đặc: thường ít, số lượng từ 1 đến 10/TC, tương tự hệ thống ống
đậm đặc chúng có chứa các calci cũng như serotonin và các hạt nucleotid. Các hạt
nucleotid đại diện là ATP, và nhất là ADP. ADP và serotonin là các chất trung gian


7

hoạt hoá TC, hơn nữa serotonin có tác động trên tính vận mạch. Cuối cùng ATP và
ADP khác với các nucleotid bào tương không thể được tiết ra và là nguồn chuyển hoá
của TC.
 Các hạt α: loại hạt chiếm tỷ lệ cao nhất trong TC, mỗi TC có khoảng 50 – 80
hạt α, hạt này chứa một lượng phong phú các protein đóng nhiều vai trò khác nhau
trong quá trình cầm máu, đông máu và sự lành vết thương (phục lục 1) (Nguyễn
Trường Sơn, 2000).

 Các hạt tiêu thể: các tiêu thể TC chứa nhiều enzyme. Sự tiết các thành phần của
chúng cho thấy sự hoạt hoá TC tối đa. Các enzyme được phóng thích từ lúc đó dễ làm
tổn thương thành mạch.
1.1.3. Đặc tính chính của tiểu cầu
1.1.3.1. Khả năng hấp phụ và vận chuyển các chất
TC có khả năng hấp phụ các chất trong huyết tương để tạo ra một lớp khí quyển
bao xung quanh. Nhờ đó các chất thiết yếu cho quá trình cầm máu nói chung và đông
máu nói riêng được vận chuyển đến những nơi cần thiết.
Ví dụ như TC có khả năng hấp thụ adrenalin, noradrenalin và các yếu tố đông
máu của huyết tương.
1.1.3.2. Khả năng kết dính của TC
TC có khả năng dãn ra và dính vào một số bề mặt. Trong cơ thể thì TC không
dính vào lớp TB nội mạc nhưng lại có thể dính rất nhanh với tổ chức dưới nội mạc, đặc
biệt là với collagen. Dính là sự khởi đầu cho sự bài tiết phóng thích các chất hoạt động,
là hiện tượng vật lý do lực hút tĩnh điện giữa TC với cơ chất. TC còn có thể dính vào
các bề mặt lạ như thuỷ tinh, lam kính,... Các thành phần tham gia vào hiện tượng dính:
 Collagen: là chất quan trọng để TC bám dính, kích thích TC ngưng tập.
Collagen tồn tại ở vùng gian bào mạch máu.
 GPIb: giúp cho hoạt động của chức năng dính.
 vWF: gắn với TC qua GPIb như cầu nối TC với một lớp nội mô bị tổn thương.


8

 Các yếu tố khác bao gồm: fibronectin, thrombospondin, ion Ca2+.
1.1.3.3. Khả năng gây ngƣng tập TC
Đây là hiện tượng tiểu cầu dính với nhau thành từng đám (nút tiểu cầu). Hiện
tượng dính hoạt hoá tiểu cầu, tạo điều kiện cho hiện tượng ngưng tập (aggregation) xảy
ra. Một số chất có khả năng gây ngưng tập tiểu cầu là: ADP, thrombin, adrenalin,
serotonin, acid arachidonic, thromboxan A2, collagen, ristocetin,... trong đó ADP đóng

vai trò quan trọng nhất. Cơ chế ngưng tập là qua trung gian của liên kết fibrinogen
GPIIb/GPIIIa đã được hoạt hoá có mặt ở lớp ngoài bào tương.
Cơ chế gây ngưng tập phải qua trung gian liên kết của fibrinogen với GPIIb/IIIa
đã được hoạt hoá có mặt ở lớp ngoài bào tương. Fibrinogen được xem như cầu nối
những GPIIb/IIIa của các TC với nhau và do đó tạo ra được sự ngưng tập của TC. Điều
kiện để TC ngưng tập phải là màng TC phải nguyên vẹn không bị tổn thương và có mặt
một số yếu tố huyết tương, đặc biệt là fibrinogen.
1.1.3.4. Khả năng thay đổi hình dạng và phóng thích các chất
Khi được hoạt hóa (sau khi kết dính), TC có khả năng thay đổi hình dạng và bài
xuất ra các chất.
1.1.4. Sinh hoá của tiểu cầu
TC được tạo ra từ sự phân mảnh của bào tương mẫu TC. Các TC không có
nhân, vì vậy chúng không tổng hợp protein. Hai quá trình chuyển hoá chính của TC lúc
nghỉ là sự ly giải đường hay glycogen và sự phosphoryl hoá. Các quá trình này tăng lên
rõ rệt khi TC bị hoạt hoá, ngoài ra các quá trình sinh hoá khác cũng xảy ra khi TC bị
kích thích như sự dịch chuyển của ion calci, sự phosphoryl hoá protein, sự giải phóng
các arachidonate,…
1.1.4.1. Chuyển hoá của TC khi nghỉ ngơi
TC sử dụng năng lượng từ ATP, chất này có thể được thành lập qua sự thoái
giáng của glucose, acid béo, acid amin từ huyết tương hay môi trường nuôi dưỡng và
từ glycogen của TC (Nguyễn Trường Sơn, 2000).


9

 Chuyển hoá Carbohydrate của TC
Sự ly giải glucose và glycogen là con đường chuyển hoá chính của TC để tạo
năng lượng. Quá trình này phụ thuộc vào nồng độ glucose ngoại bào và oxy.
Sự ly giải đường yếm khí là quá trình chuyển hoá glucose-6-phosphate thành
lactate, glucose-6-phosphate được hình thành từ 2 đường: (1) sự phosphoryl hoá của

glucose được vận chuyển qua màng TC bởi hexokinase và (2) được chuyển hoá từ
glucose-1-phosphate, sản phẩm ly giải từ glycogen. Glucose-6-phosphate cũng được
chuyển hoá bởi con đường hexose monophosphate, quá trình này tạo thành CO2 và
NADPH, chất này được dùng để tổng hợp acid béo (Nguyễn Trường Sơn, 2000). Sự ly
giải đường trong điều kiện ái khí sẽ tạo ra pyruvate, chất này bị oxy hoá thành CO2 và
H2O ở trong ty thể của TC. Enzyme đầu tiên của quá trình này là pyruvate
dehydrogenase đóng vai trò trung tâm trong hiệu ứng Crabtree, Pasteur và đóng vai trò
quan trọng trong sự biến đổi số lượng ATP được tạo thành bởi sự oxy – phosphoryl
hoá trong điều kiện khác nhau của số lượng và phương cách phân lập TC.
 Chuyển hoá lipid của TC
Acid béo được biến đổi thành acyl CoA qua enzyme acyl CoA synthetase, nhóm
acyl được ester hoá tạo thành acid lipophosphatidic và sau đó tạo thành acid
phosphatidic. Chất này được dephosphoryl hoá tạo thành diglycerid. Diglycerid là tiền
chất của nhóm diacyl – glycerol trong thành phần của các phospholipid như
phosphatidyl cholin, phosphatidyl ethanolamin và phosphatidyl serine.
Các acid arachidonic được giải phóng từ glycerophospholipid. Dưới tác dụng
của các enzyme cyclo – oxygenase và lipooxygenase, acid arachidonic tự do sẽ chuyển
hoá thành các sản phẩm eicosanoid. Các sản phẩm này có thể là chất ức chế hay kích
thích mạnh đối với TC.


10

Hình 1.3. Chuyển hóa của acid arachidonic
Trong TC một phần nhỏ PGH2, sản phẩm của sự tương tác cyclooxygenase –
arachidonate, được chuyển hoá thành các prostaglandin ổn định (PGE2, PGD2, PGFα),
trong khi đó phần lớn sản phẩm chuyển thành thromboxane A2 dưới tác dụng của
thromboxane synthetase.
Qua con đường lipoxygenasse, acid arachidonic được chuyển hoá thành 12HPETE và 12-HETE
1.1.4.2. Hoạt hóa TC

Khi TC đến khu vực mạch máu bị tổn thương, chúng được kích hoạt bởi một
loạt chất chủ vận bao gồm ADP, thrombin, thromboxanes,… tương tác với các thụ thể
xuyên màng. Kết quả cho phép kích hoạt các enzyme tham gia vào chuyển hóa, đặc
biệt phosphatidyninositol 3-kinase và phospholipase C. Kết quả quá trình hoạt động
chuyển hóa trong nồng độ cao của Ca++ bào tương và phosphoryl hóa các protein bề
mặt mang lại thay đổi hình dạng TC, giải phóng các chất trong hạt α và hạt đặc, kích
thích phospholipase A2 và giải phóng thromboxan A2 (TXA2), cảm ứng một bề mặt
gây đông máu và kích hoạt thụ thể GPIIb/IIIa.


11

TXA2 được tổng hợp bởi TC kích hoạt từ acid arachidonic thông qua con đường
cyclooxygennase (COX), sau khi hình thành TXA2 khuếch tán qua màng TB và kích
hoạt TC khác. Ở các TC TXA2 liên kết với các thụ thể G-protein (Gq, G12, hoặc G13) tất
cả đều kích hoạt phospholipase C (PLC). Enzyme này chuyển hóa phosphoinositide
màng, ví dụ biphosphate 4,5 phosphatidylinositol (PIP2) thành tín hiệu truyền tin thứ
hai inositoltriphosphate (IP3) và diacylglycerol (DAG). DAG gây kích hoạt protein
kinase C nội TB (PKC) gây phosphoryl hóa protein. IP3 làm tăng nồng độ Ca++ từ hệ
thống ống đậm đặc vào bào tương.
ADP được giải phóng từ TC và HC, TC trình diện ít nhất hai thụ thể của ADP là
P2Y1 và P2Y12 chúng kết cặp với Gq và Gi tương ứng. Hoạt hóa của P2Y12 ức chế
adenylate cyclase làm giảm AMP vòng (cAMP: Cyclic adenosine monophosphate),
hoạt hóa P2Y1 là nguyên nhân của sự gia tăng Ca++ nội bào. Thụ thể P2Y12 là thụ thể
chính để khuếch đại và duy trì hoạt hóa của TC đáp ứng với ADP.
Thrombin nhanh chóng được tạo ra tại các điểm tổn thương của mạch máu từ
protrombin lưu hành, là trung gian tạo fibrin, đại diện cho khả năng mạnh nhất của TC
hoạt hóa.
1.1.4.3. Ức chế TC
Kích hoạt TC được tạo ra bởi quá trình sinh hóa, để suy yếu hoặc ngăn chặn nó,

chất sinh lý tối quan trọng là cAMP, nó được sản xuất trong TC là kết quả của một tín
hiệu ngoại bào mà một phần lớn có nguồn gốc ngoài TC (ví dụ TB nội mô sản xuất
PGI2). cGMP (cyclic guanosine monophosphate) là chất truyền tin thứ hai ức chế TC.
 cGMP: TC có chứa guanylyl cyclase, nó hoạt động sau khi TC hoạt hóa,
chuyển GTP thành cGMP. Kích hoạt sinh lý của guanylyl cyclase là do acid béo không
bão hòa nguồn gốc từ TC bao gồm cả acid arachidonic hoặc có thể bởi các phân tử
khác có nguồn gốc từ các mạch máu. EDRF ức chế chất chủ vận gây ra kích hoạt TC,
thông qua kích hoạt chọn lọc của guanylyl cyclase TC. Trong điều kiện sinh lý cGMP
làm giảm các phản ứng của TC với chất chủ vận.


12

 cAMP: tổng hợp của nó được điều tiết bởi adenylyl cyclase. cAMP ức chế TC
bằng nhiều cách, có thể ảnh hưởng tới cả hai khởi đầu và duy trì một phản ứng kích
thích. Nhiều bước riêng lẻ trong con đường chuyển tải tín hiệu ban đầu của chất chủ
vận bị ảnh hưởng bởi cAMP. cAMP làm giảm liên kết thrombin tới TC, điều này ức
chế hình thành một tín hiệu phức tạp. cAMP ức chế PLC, ảnh hưởng đến tín hiệu DG
để kích hoạt PKC làm tăng chuyển hóa của nó tới phosphoinositides nó cũng ảnh
hưởng trực tiếp đến hoạt động của PKC. Quan trọng nhất cAMP đối kháng Ca++ thông
qua sự đa dạng các cơ chế, ảnh hưởng đến giải phóng và hấp thu của Ca++ từ hệ thống
ống đậm đặc của TC.
Kích hoạt của TC là một mạng lưới phức tạp của các quá trình sinh hóa phụ
thuộc lẫn nhau, có chức năng tạo một nút TC tại vị trí của mạch máu bị tổn thương. Sự
cân bằng giữa kích hoạt và ức chế TC được xác định bằng sự phối hợp dẫn truyền của
các tín hiệu ngoại bào thông qua các con đường liên hệ với nhau trong TB và các tín
hiệu thứ hai.
1.1.5. Miễn dịch tiểu cầu
1.1.5.1. Các kháng nguyên tiểu cầu
Glycoprotein (GP) của TC: là thành phần chủ yếu của màng TC và đóng một vai

trò quan trọng trong các chức năng của TC. Cho đến nay người ta đã xác định có ít
nhất 50 loại GP khác nhau, tuy vậy chỉ có khoảng 12GP được nghiên cứu kỹ lưỡng về
tính KN.
Về cấu trúc các GP này có sự khác nhau: 4 GP (Ib, Ic, IIb, αv) bao gồm một tiểu
đơn vị lớn (chuỗi nặng) gắn đồng hóa trị với một tiểu đơn vị nhỏ (chuỗi nhẹ) bằng các
cầu nối disulfua; 3 GP (Ia, IIa, IIIa) bao gồm một chuỗi polypeptide và nhiều cầu nối
disulfua nội chuỗi: 5GP (IV, V, IX, chuỗi nặng HLA, β2-microglobulin) có một chuỗi
polypeptide đơn.


13

1.1.5.2. Di truyển Kháng nguyên của tiểu cầu
KN đầu tiên được Moulinier phát hiện năm 1957. Phần lớn các KN này được
biểu hiện trên các phân tử dính thuộc họ Integrin. Các KN biểu hiện trên integrinβ3 (GP
IIIa) cũng được xác định trên bề mặt TB nội mô, TB cơ trơn và TB sợi. Các KN biểu
hiện trên integrinα2 (GP Ia) cũng được tìm thấy trên TB lympho T hoạt hóa và TB nội
mô. Ngược lại, các KN định vị trên integrin αIIb và trên GP Ibα và GP Ib β (thuộc nhóm
GP giàu leucin) thì thật sự đặc hiệu cho TC. Các KN này đóng vai trò rất quan trọng
trong sinh bệnh học của bệnh xuất huyết giảm TC do nguyên nhân miễn dịch (Cesar et
al., 1994). Cho đến nay người ta đã phát hiện nhiều KN đặc hiệu cho TC (phụ lục 2).
1.1.5.3. Kháng nguyên khác của tiểu cầu
Các KN khác của TC được chia ra làm hai nhóm chính: các KN hệ ABH và các
KN hệ HLA.
Các KN nhóm máu: TC biểu hiện các KN nhóm máu ABH, P, Ii và Lewis.
Tuy nhiên sự biểu hiện các KN này trên TC không mạnh mẽ và thường xuyên như trên
HC. Một số KN được sản xuất nội sinh trong TC (ABH, Ii, P), một số được hấp phụ từ
huyết tương (Lewis, ABH).
Các KN hệ HLA: TC chỉ biểu hiện các KN HLA lớp 1 (Ali et al., 1994). Các
phân tử HLA lớp 1 trên TC về số lượng tương đối giống như trên các TB lymphocyte.

Các phân tử này có nguồn gốc nội sinh do chính bản thân TC tổng hợp thành, tuy vậy
một số tác giả khác cho là TC có thể hấp phụ một số phân tử HLA từ huyết tương một
cách thụ động. Sự biểu hiện các phân tử HLA trên TC của mỗi cá thể có thể thay đổi
khác nhau và các KN HLA-C đều biểu hiện rất kém trên TC (Nguyễn Trường Sơn,
2000).


14

1.2. Sơ lƣợc về tình hình sử dụng và các phƣơng pháp sản xuất tiểu cầu trên thế
giới và tại Việt Nam
1.2.1. Tình hình sử dụng tiểu cầu
Việc bảo quản KTC được bắt đầu từ những năm đầu của thập niên 50, Minor và
Burnett đã dùng chai thuỷ tinh tráng silicon để chứa máu và tránh các TC bám dính,
việc sản xuất KTC lúc này vẫn theo hệ thống hở. Walter và Murphy đã sử dụng túi
nhựa chứa máu bằng PVC giúp cho việc lưu trữ và ly tâm tách các thành phần máu
được dễ dàng. Từ thập niên 70, việc sản xuất KTC được dựa trên hệ thống kín với hệ
thống 3 hay 4 túi chất dẻo được làm bằng tay hay máy tách TB máu bán tự động. Hiện
nay, các nước tiên tiến đã áp dụng các loại máy tách TB máu tự động giúp cho việc thu
thập được một SLTC lớn từ một người cho máu (Murphy et al., 1996).
Ở nước ta, việc sản xuất KTC đậm đặc được bắt đầu từ năm 1994 tại Viện huyết
học truyền máu và theo quy trình hở. Hiện nay ở các Trung tâm truyền máu và Trung
tâm truyền máu bệnh viện Chợ Rẫy đã có máy tách TB máu tự động, nhu cầu sử dụng
TC chiết từ máy ngày càng cao hơn (Hà Thị Anh, 2009; Đỗ Trung Phấn, 2006). Số
lượng kit TC sản xuất từ máy tự động trung bình một năm tại bệnh viện Chợ Rẫy là
11.000 đơn vị năm 2015 tăng lên 15.000 năm 2016 và đến tháng 6 năm nay lượng TC
sản xuất cung cấp cho nhu cầu truyền máu của bệnh viện Chợ Rẫy và các bệnh viện
trong năm tỉnh miền Đông Nam Bộ tăng lên đáng kể (8.000 đơn vị). Đặc biệt vào các
thời điểm dịch bệnh sốt xuất huyết, viêm não Nhật Bản lượng TC sử dụng tăng lên rất
nhiều. Trung tâm truyền máu Chợ Rẫy và bệnh viện Huyết học truyền máu thành phố

là hai nơi cung cấp lượng TC chính cho khu vực phía Nam.
1.2.2. Các phƣơng pháp sản xuất khối tiểu cầu
1.2.2.1. Ly tâm điều chế các chế phẩm tiểu cầu
Ly tâm là phương pháp thông dụng để điều chế các chế phẩm máu. Việc lựa
chọn các chế độ ly tâm tuỳ theo mục đích điều chế và yêu cầu đặc tính các thành
phẩm được điều chế. Việc lựa chọn bước ly tâm đầu tiên quyết định loại chế phẩm
được điều chế trong các bước sau cũng như ảnh hưởng đến các đặc tính chính của chế


15

phẩm (Trần Văn Bé, 1999; Loos et al., 1997).
Vận tốc di chuyển của các TB tuân theo công thức của Svedberg:

Trong đó:

V: vận tốc lắng (m/s)
W: vận tốc góc của tay quay
r: bán kính TB (m)
R: khoảng cách từ TB đến tâm tay quay (m)

Như vậy về mặt lý thuyết, trạng thái cân bằng tỉ trọng nổi có thể đạt được sau
khi ly tâm tùy theo tỉ trọng của từng loại TB được sắp xếp theo thứ tự từ dưới lên trên:
HC, bạch cầu hạt, lymphocyte, monocyte, TC và huyết tương (Loos et al., 1997).
Khi trạng thái cân bằng tỉ trọng nổi không đạt được, sự tách các thành phần máu
được xác định bởi sự khác biệt giữa tốc độ lắng của các TB và tốc độ hướng tâm của
dòng huyết tương, chủ yếu là do sự thay thế huyết tương bởi một lượng lớn HC đang
lắng xuống. Tốc độ lắng được xác lập bởi bình phương bán kính TB, TC có bán kính
đủ nhỏ để cho phép chúng có một chuyển động theo dòng chảy hướng tâm của huyết
tương (Loos et al., 1997; Murphy et al., 1996).

1.2.2.2. Sản xuất KTC từ huyết tƣơng giàu tiểu cầu (HTGTC)
Phương pháp HTGTC được sử dụng đầu tiên vào thập kỷ 60 và cho đến nay vẫn
được áp dụng rộng rãi tại Bắc Mỹ và một phần Châu Âu. HTGTC có thể được tách bởi
một lần ly tâm nhẹ, sau đó HTGTC được ly tâm mạnh lần thứ hai để tách được huyết
tương nghèo tiểu cầu và KTC bị vón lại ở đáy túi. Sau khi để ở nhiệt độ 20 – 24oC từ
60 – 120 phút, KTC có thể được sử dụng cho BN hay được bảo quản. Để tách được
tiểu cầu, tốc độ và thời gian ly tâm cần được tính toán sao cho đạt hiệu xuất cao nhất
mà vẫn duy trì được sự sống và chức năng của TC (Murphy et al., 1996).
Phương pháp HTGTC có ưu điểm là không bị mất HC trong quá trình sản xuất
do đó đảm bảo số lượng HC sử dụng cho người nhận, đạt hiệu suất tách TC cao từ 60 –
70% (Murphy et al., 1996). Tuy nhiên phương pháp này cũng có các nhược điểm là


16

giảm hiệu suất thu thập huyết tương. Số lượng BC còn trong KTC cao hơn so với
phương pháp buffy coat. Một phần lớn BC nằm trong khối HC vì vậy ảnh hưởng tới
việc bảo quản khối HC do các chất phóng thích từ BC và thời gian sản xuất lâu hơn
(Rebulla, 1998).
1.2.2.3. Điều chế khối tiểu cầu từ lớp buffy coat
KTC điều chế theo phương pháp buffy coat từ những năm đầu thập kỷ 70 của
thế kỷ XX. Khi các nhà khoa học nhận thức được vai trò bất lợi của các bạch cầu còn
dư lại sau khi điều chế các chế phẩm máu (Murphy et al., 1996). Đơn vị máu toàn
phần lưu trữ không quá 24 giờ ở nhiệt độ 20 – 24oC, ly tâm mạnh để TC lắng chủ
yếu ở lớp buffy coat cùng với bạch cầu. Lớp buffy coat được tách ra tiếp tục xử lý để
có một KTC Lớp buffy coat được ly tâm nhẹ HC, bạch cầu lắng ở đáy túi, TC ở phía
trên với plasma được tách ra. Các nhà khoa học đã có nhiều cải tiến kỹ thuật nhằm đạt
hiệu suất tách TC cao và loại bỏ càng nhiều bạch cầu càng tốt khi điều chế. Phương
pháp buffy coat có những ưu điểm là hiệu quả loại bỏ bạch cầu cao hơn, các TC được
điều chế không bị vón cục sau lần ly tâm thứ nhất, do đó chúng không bị hoạt hoá

trong quá trình bảo quản. Tuy nhiên phương pháp này cũng bộc lộ nhược điểm như
mất một lượng HC trong quá trình điều chế, về hiệu suất tách TC, phương pháp buffy
coat thường đạt hiệu suất thấp hơn so với phương pháp huyết tương giàu tiểu cầu.
Ứng dụng: KTC pool là KTC tiếp nhận từ 4 – 6 người hiến máu toàn phần.
Khối tiểu cầu này có thể được điều chế trực tiếp từ buffy coat (đây là phương pháp hay
được lựa chọn), thường 4 – 6 buffy coat tương thích nhóm máu được gộp lại một cách
vô trùng, sau đó ly tâm nhẹ, tiểu cầu được chuyển vào một túi bảo quản phù hợp. Điều
chế từ các túi tiểu cầu đơn: 4 – 6 đơn vị (ĐV) khối tiểu cầu đơn chuẩn bị bằng phương
pháp huyết tương giàu tiểu cầu gộp lại. Bảo quản tối đa 5 ngày, khi pool trong hệ thống
hở phải sử dụng trước 6 giờ.


×