Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

KHÁI NIỆM ÁN LỆ VÀ SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ÁN LỆ Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.3 KB, 7 trang )

KHÁI NIỆM ÁN LỆ VÀ SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ÁN LỆ Ở
VIỆT NAM
1.1 Khái niệm án lệ
1.1.1. Khái niệm án lệ ở một số nước trên thế giới:
Hiện nay, trên thế giới có hai hệ thống pháp luật phổ biến là hệ thống Common Law
(hệ thống pháp luật Anh - Mỹ) và hệ thống Civil law (hệ thống pháp luật Pháp - Đức).
Trong đó, hệ thống Common Law chủ yếu sử dụng nguồn luật là án lệ trong xét xử,
còn Civil Law lại chủ yếu sử dụng luật thành văn.
Nhìn chung, hai hệ thống pháp luật này đều có những ưu và nhược điểm nhất định,
tuy nhiên việc áp dụng án lệ trong xét xử được các nước sử dụng phổ biến, đặc biệt là
các quốc gia phát triển.
Theo từ điển Black’s Law thì án lệ được hiểu như sau:
(i) Án lệ là việc làm luật của tòa án khi công nhận và áp dụng các quy tắc mới trong
quá trình xét xử;
(ii) Vụ việc đã được giải quyết làm cơ sở để đưa ra phán quyết cho những trường hợp
có tình tiết hoặc vấn đề tương tự sau này.
Theo quan điểm của các nhà luật học theo hệ luật Anh - Mỹ (Anglo – Sacxon), thì án
lệ có thể được hiểu theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp, án lệ bao gồm toàn bộ các quyết định, bản án được tuyên bố bởi Tòa
án và có giá trị như nguồn luật, đưa ra những nguyên tắc, nền tảng áp dụng cho các vụ
việc xảy ra tương tự sau này, hay là cách thức sử dụng các nguyên tắc có sẵn như là
những căn cứ áp dụng để quyết định các vụ việc xảy ra trong tương lai.
Theo nghĩa rộng, án lệ là nguyên tắc bắt buộc đòi hỏi Thẩm phán trong hệ thống các
cơ quan Toà án khi xét xử một vụ việc cụ thể cần phải căn cứ ngay vào các bản án, các
vụ việc trước đó, đặc biệt là các phán quyết của các Tòa cấp cao (Hight Court), Tòa
phúc thẩm (Court of Appeal) và Tòa án tối cao (Supreme Court) hay là những nguyên
tắc không theo luật định được đưa ra từ các quyết định tư pháp, hay là hệ thống những
nguyên tắc bất thành văn đã được công nhận và hình thành thông qua các quyết định
của Tòa án.
Với những nước theo hệ thống pháp luật châu Âu lục địa (Civil Law), tiêu biểu một số
nước như Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản,… thì những bản án không được xem là luật,


không mang tính ràng buộc pháp lý, chỉ được xem như là văn bản giải thích luật,
nhưng buộc tòa cấp dưới phải tham khảo, nếu không nguy cơ bị tòa cấp trên bác bỏ rất
cao.
1


Ở Pháp: Theo nghĩa rộng, án lệ bao gồm tất cả các bản án, quyết định của Toà án được
tuyên trên toàn lãnh thổ nước Pháp. Theo nghĩa hẹp, án lệ chỉ quan điểm, cách thức
Toà án giải thích và áp dụng pháp luật cho những vấn đề pháp lý lặp đi lặp lại trong
nhiều vụ việc tương tự.
Án lệ được hình thành dựa trên những lỗ hổng của pháp luật và sự sáng tạo của Thẩm
phán. Những lỗ hổng do luật thành văn tạo ra sẽ được Thẩm phán lấp đầy bằng những
phán quyết hợp tình, hợp lí và phán quyết này được toà tối cao công bố là án lệ để áp
dụng chung cho các trường hợp tương tự về sau. Án lệ còn được gọi là tiền lệ pháp
(Precedent) là một trong những nguồn luật chính thức và quan trọng trong hệ thống
pháp luật của quốc gia và được áp dụng rộng rãi. Theo đó, những bản án, quyết định
giải quyết vụ việc trong các tập san án lệ trở thành khuôn mẫu, trở thành cơ sở để tòa
đưa ra phán quyết trong những vụ việc có tình tiết, vấn đề tương tự sau đó.
Cũng cần phân biệt với khái niệm về án mẫu. Án mẫu là những bản án được xây dựng
trên những cơ sở pháp luật hết sức chặt chẽ mà trong những tình huống như vậy, khó
có thể đưa ra phán quyết khác được. Do đó, khi có những tình huống tương tự bắt
buộc tòa án phải đưa ra các phán quyết tương tự như án mẫu. Một điểm cần lưu ý là,
khi bản án được coi là án mẫu thì Toà án tối cao sẽ chuyển tải đến các Toà án cấp dưới
để làm nguồn tham khảo và các Toà án cấp dưới coi đó là những “khuôn mẫu” để xét
xử những vụ án tương tự.
1.1.2. Khái niệm án lệ ở các nước theo truyền thống thông luật:
Án lệ là vụ án đã được giải quyết tạo cơ sở cho việc xét xử các vụ án sau này mà có
những sự kiện hoặc vấn đề pháp lý tương tự. Trong đó, án lệ cũng được áp dụng đối
với việc giải thích luật thành văn, có nghĩa là tòa cấp dưới phải tuân theo cách giải
thích luật của tòa cấp trên.

Cần lưu ý rằng, về mặt kỹ thuật, nói một cách chặt chẽ, khi xét xử, các thẩm phán
không phải tuân theo quyết định (decision) được đưa ra trong vụ án trước, mà chỉ phải
tuân theo quy tắc pháp lý trong phần luận cứ chính (ratio decidendi) được đưa ra trong
bản án trước.
Án lệ về hình thức là những bản án đã trở thành luật, tạo thành một thứ luật có tên gọi
là luật án lệ (case law) hay luật do thẩm phán làm ra (judge-made law), bên cạnh luật
do nghị viện ban hành (legislation hay statutory law). Tuy nhiên, như Blackstone lưu
ý, luật và ý kiến của thẩm phán thể hiện trong án lệ không phải lúc nào cũng là một, vì
có lúc thẩm phán cũng nhầm lẫn về luật. Do đó, án lệ không phải là tuyệt đối tuân
theo đối với tòa án và thẩm phán trong các vụ án tương tự sau này, khi họ cho rằng, án
lệ đã không còn phù hợp với bối cảnh mới hoặc không bảo vệ được công lý.
Ở Anh (và các nước thông luật khác), án lệ ra đời trong những điều kiện sau đây:
2


- Khi chưa có luật nhưng tòa vẫn phải xử để bảo đảm công lý và bản án đó trở thành
án lệ (precedent), nghĩa là trở thành luật cho những vụ việc tương tự. Khi phán quyết
đã được tuyên, nó phải được coi là giải pháp cho vấn đề tương tự sau này; thẩm phán
phải tuân theo phán quyết của vụ án tương tự được xử trước đó..
- Khi luật không rõ ràng, thẩm phán phải tự mình nhận thức, giải thích luật và thể hiện
nhận thức trong bản án. Bản án trở thành luật cho những tình huống tương tự.
- Đã có luật nhưng phát sinh tình huống mới mà luật chưa dự liệu được nên thẩm phán
phải vận dụng luật hiện hành cho tình huống mới đó.
Ở Anh cũng phân biệt án lệ “phải tuân thủ” (biding precedent) và án lệ “cần tôn trọng
và cân nhắc cẩn trọng” hay còn gọi là án lệ có sức thuyết phục (persuasive precedent).
Tại các nước theo hệ thống Thông luật, án lệ là một nguồn pháp luật bắt buộc được áp
dụng tại Tòa án và đều được áp dụng với các nguyên tắc cơ bản sau:
+ Đạo luật thành văn luôn có giá trị áp dụng cao hơn án lệ
+ Tòa án cấp dưới có nghĩa vụ phải áp dụng án lệ của Tòa án cấp trên
+ Tòa án không có nghĩa vụ phải tuân thủ án lệ của Tòa án cùng cấp và của chính

mình
+ Xu hướng các cơ quan lập pháp ngày càng ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật hơn.
Đối với hệ thống pháp luật Common Law, một trong những điểm cơ bản của các nước
theo hệ thống này là án lệ được coi là một trong những nguồn luật áp dụng bắt buộc
tại Tòa án. Tại Hoa Kỳ, các tòa án cấp dưới của liên bang và các tòa án của bang có
nghĩa vụ tuân thủ các quyết định trước đây của Tòa án tối cao liên bang nhưng các
phán quyết của tòa án cấp dưới về những vấn đề mang tính liên bang không có tính
ràng buộc đối với các bang khác nhưng vẫn được xem xét và cân nhắc rất cẩn thận.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn xét xử, với nguyên tắc Tòa án không được quyền từ
chối thụ lý bất cứ yêu cầu khởi kiện nào của công dân và mục đích lấp các khoảng
trống mà pháp luật thành văn để lại nên hiện nay án lệ được sử dụng rất rộng rải ở cả
Common Law và Civil Law.
1.1.3. Khái niệm án lệ tại Việt Nam:
Ở Việt Nam có nhiều cách hiểu về án lệ:
Theo nghĩa rộng, án lệ là một hệ thống các nguyên tắc bất thành văn đã được công
nhận và hình thành thông qua các quyết định của Toà án.
3


Theo nghĩa hẹp, án lệ là cách thức sử dụng các nguyên tắc có sẵn như là những căn cứ
áp dụng để quyết định các vụ việc sẽ xảy ra trong tương lai.1
Định nghĩa theo cách mô tả: “Án lệ là tập hợp những tiền lệ xét xử đã được cơ quan
có thẩm quyền của nhà nước tuyển chọn từ những bản án đã được xét xử trong thực
tiễn, đúc kết làm thành mẫu để người xét xử sau tham khảo, noi theo”2.
Những định nghĩa này có nội dung tương tự nhau, chỉ khác nhau về cách diễn đạt và
cũng đã nêu lên những điểm cơ bản và cốt lõi nhất về án lệ. Những định nghĩa đó đều
đúng, tuy nhiên có thể đưa ra định nghĩa chung về án lệ như sau: “Án lệ là hệ thống
các quy phạm và nguyên tắc được hình thành và áp dụng bởi các thẩm phán trong
quá trình xét xử và đưa ra phán quyết Án lệ xuất hiện từ thời La Mã cổ đại, vào

khoảng thế kỷ thứ III TCN, do đòi hỏi cần có sự điều chỉnh pháp luật cho phù hợp với
những biến đổi ngày càng đa dạng, phong phú của xã hội lúc bấy giờ. Án lệ thời đó là
các sắc dụ, các phán quyết của các pháp quan (Edict magistratum), đặc biệt là của
các quan toà. Theo thời gian, án lệ dần dần được các quốc gia thừa nhận và sử dụng
như một nguồn luật. Ý tưởng của việc coi án lệ là một nguồn luật cơ bản là ở chỗ: các
tranh chấp tương tự cần đạt đến các kết quả pháp lý tương tự”3.
Tóm lại, án lệ ở những quốc gia, những khu vực khác nhau thì đều có những cách
hiểu và định nghĩa án lệ một cách khác nhau, tuy nhiên dù có hiểu như thế nào vẫn
không thể thay đổi bản chất của án lệ. Án lệ là một vũ khí lợi hại không chỉ giúp giải
quyết một vụ án cụ thể mà còn thiết lập ra một tiền lệ để xử những vụ án tương tự sau
này từ đó sẽ tạo bình đẳng trong việc xét xử các vụ án giống nhau, giúp đánh giá được
kết quả của các vụ tranh chấp, tiết kiệm công sức của các Thẩm phán, người tham gia
tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng để tạo ra sự công bằng trong xã hội.
1.2. Sơ lược quá trình hình thành của án lệ ở Việt Nam
1.2.1. Thời kỳ phong kiến (khoảng thế kỷ X – XIX)
Pháp luật phong kiến Việt Nam đã đạt được những thành tựu nổi bật chủ yếu thông
qua các luật thành văn. Tiêu biểu gồm có: Bộ luật Hình thư đời Lý ban hành năm
1042; Bộ Quốc triệu thống chế của đời Trần ban hành dưới triều vua Dụ Tông năm
1Xem: Triệu Quang Khánh, Việc sử dụng án lệ trong hệ thống pháp luật dân sự, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, Số 7(79), 2006;
2Xem: Nguyễn Linh Giang, Án lệ trong hệ thống pháp luật một số nước trên thế giới,
Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 12, 2005.;
3Xem: Nguyễn Đức Mai, Về vấn đề án lệ ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số 3, 1998;
Trường đại học Luật Hà Nội, Tập bài giảng luật so sánh, Hà Nội, 2003.

4


1341; đến thời Hậu Lê có thể nói đây là đỉnh cao của lịch sử lập pháp nước ta, đặc biệt
là đời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497) nhiều luật lệ đã được ban hành như: Luật

thư, Bộ luật Hồng Đức, Quốc triều luật lệnh, Hồng Đức thiện chính thư, Quốc triều
thư kế thể thức (1468 – 1471),… Dưới triều Nguyễn hoạt động lập pháp cũng khá
phong phú, trong đó thành tựu phải nhắc đến là Luật Gia Long hay "Hoàng Việt luật
lệ". Như vậy, trong thời kỳ phong kiến thì nguồn luật chủ yếu ở nước ta là các bộ luật
thành văn chứ không phải án lệ.
Việc không thừa nhận án lệ trong pháp luật phong kiến có thể tìm thấy trong các quy
định của pháp luật. Ví dụ Điều 685 Bộ luật Hồng Đức: “Những chế sắc (của vua)
luận tội gì, chỉ là xét xử nhất thời chứ không phải là sắc lệnh vĩnh viễn, thì không
được viện dẫn sắc lệnh ấy mà xử đoán việc sau. Nếu ai viện ra xét xử không đúng thì
khép vào tội cố ý làm sai luật”. Án lệ được tạo ra thông qua các sắc chỉ của nhà vua
khi giải quyết các vụ việc cụ thể nhưng nó chỉ được áp dụng khi được thể chế hóa
thành các quy định của pháp luật thành văn.
1.2.2. Thời kỳ Pháp thuộc (1958-1945):
Thời kỳ này ở Việt Nam có 02 hệ thống pháp luật cùng tồn tại: Hệ thống pháp luật
thuộc địa của thực dân Pháp và hệ thống pháp luật phong kiến triều Nguyễn. Hai hệ
thống pháp luật này khá phức tạp về nguồn luật, phạm vi và đối tượng áp dụng. Có 03
bộ luật quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội đó là Bộ luật dân sự Nam Kỳ giản
yếu 1883, Bộ luật Bắc Kỳ 1931 và Bộ Dân luật Trung Kỳ 1936. Lúc bấy giờ, các quan
hệ xã hội đa dạng và phức tạp, các văn bản pháp luật thành văn cũng không đủ khả
năng điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội vì vậy khi xét xử các thẩm phán cũng cần
đến các án lệ. Điều 4 Bộ luật Dân sự Nam Kỳ giản yếu 1883 có quy định: “Thẩm
phán nào từ chối việc phán xét vì lý do luật không quy định vấn đề hay luật tối nghĩa
hoặc bất túc sẽ bị truy tố về tội bất khẳng thụ lý”.
1.2.3. Sau cách mạng tháng Tám năm 1945:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 90/SL cho phép tạm thời sử dụng một số luật
lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam cho đến khi ban hành những bộ luật thống nhất trong
toàn quốc, nhưng luật lệ này không trái với nguyên tắc độc lập chủ quyền của nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ở miền Bắc, về nguyên tắc không thừa nhận án lệ là nguồn của pháp luật, nhưng trong
thực tiễn xét xử thì TAND tối cao đã tổng kết những bản án điển hình hình thành

những chuyên đề báo cáo để hướng dẫn các tòa áp dụng pháp luật thống nhất.
Ở miền Nam, sau khi thực dân Pháp rời khỏi Việt Nam thì đế quốc Mỹ đã thiết lập
“chính quyền Mỹ-Nguỵ”. Trong giai đoạn này, án lệ được sử dụng rộng rãi nhất bên
cạnh các văn bản pháp luật thành văn. Các bản án được đăng tải trong tập san pháp lý
5


và báo pháp luật do Bộ Tư pháp xuất bản, trong đó phải kể đến công trình rất đồ sộ và
công phu là “Án lệ vựng tập” của Thẩm phán Trần Đại Khâm.
Ở Việt Nam, dưới chế độ Sài Gòn trước năm 1975, tiền lệ pháp cũng được coi là một
nguồn trong lĩnh vực dân sự, Bộ Tư pháp đã xuất bản án lệ theo định kỳ ba tháng. Ấn
phẩm đăng tải những trích dẫn về quan điểm hay định hướng xét xử trong các bản án
của Tối cao pháp viện, Tòa hành chính, Tòa thượng thẩm... Những bản án này là một
trong những căn cứ pháp lý để xét xử cho các tranh chấp tương tự về sau. Hệ thống
luật pháp của chế độ Sài Gòn trước đây vốn chịu ảnh hưởng của luật pháp châu Âu,
nhất là luật pháp của Pháp, đặc biệt là pháp luật dân sự, nên cũng rất quan tâm việc
xây dựng án lệ. Bộ Dân luật do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành theo Sắc luật
số 028 TT/SLU ngày 20/12/1972, đã có qui định liên quan đến yêu cầu áp dụng án lệ
trong xét xử, cụ thể, tại Thiên mở đầu, Điều 8 có ghi: “Thẩm phán nào không chịu xét
xử vì lẽ luật không định hay luật tối nghĩa, thiếu sót, sẽ có thể bị truy tố về tội bất
khẳng thụ lý”; Điều 9 quy định: “Gặp trường hợp không có điều luật nào có thể dẫn
dụng, thẩm phán sẽ quyết định theo tục lệ; nếu không có tục lệ, sẽ theo công bằng và
lẽ phải mà xét xử và phải chú trọng đến ý định của các đương sự”. Theo các chuyên
gia nghiên cứu, pháp luật của chế độ cũ trước đây, sở dĩ có được án lệ là nhờ ở Tòa
Thượng thẩm (Cour d’appel) và Tòa Phá án (Cour de cassation) là những cơ quan
kiểm soát lại các bản án của các Tòa án cấp dưới, qua đó Tòa Phá án bảo đảm một sự
thống nhất trong việc giải thích và áp dụng pháp luật và lâu dần hệ thống các Tòa án
sẽ hướng theo các án lệ mà Tòa Phá án đưa ra.
Trong giai đoạn miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, để thống nhất việc xử
phạt một số loại tội phạm, ngày 19/01/1955 Thủ tướng Chính phủ ban hành Thông tư

số 442/TTg về việc trừng trị một số tội phạm, mà theo đó, Thông tư nêu rõ: “…Kinh
nghiệm xét xử về một số loại phạm pháp đã được trở thành án lệ. Tuy nhiên, án lệ ấy
còn khác nhau giữa các địa phương. Đường lối xét xử do đó không được thống nhất,
rõ ràng và có nơi không được đúng. Cần phải thống nhất những án lệ ấy trong quy
định chung sau đây để hướng dẫn các tòa án trừng trị một số tội phạm thông
thường”.
1.2.4. Sau khi thống nhất đất nước năm 1975:
Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa (XHCN) vì vậy hệ thống lý luận pháp lý
tiếp nhận từ hệ thống pháp luật XHCN. Dù có những khác biệt nhất định nhưng hệ
thống pháp luật XHCN về mặt lý luận có những điểm tương đồng với hệ thống civil
law hay hệ Roma-giec manh, trong đó văn bản pháp luật thành văn luôn được coi là
nguồn luật chủ yếu.

6


Nhìn chung, trong lịch sử pháp luật Việt Nam thì án lệ đã tồn tại và giữ một vai trò
nhất định trong hệ thống pháp luật nói riêng cũng như trong đời sống xã hội nói
chung.4
Ở Việt Nam, ngày 24/5/2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 48-NQ/TW về
chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định
hướng đến năm 2020, trong đó đã đặt ra giải pháp “nghiên cứu về khả năng khai thác,
sử dụng án lệ, tập quán, kể cả tập quán và thông lệ quốc tế và quy tắc của các hiệp hội
nghề nghiệp, góp phần bổ sung hoàn thiện pháp luật”.
Tuy nhiên, có nhiều quan điểm đối lập nhau về vấn đề này. Ý kiến phản đối sử dụng
án lệ cho rằng, pháp luật nước ta nghiêng nhiều về hệ thống Civil Law, chủ yếu là luật
thành văn, việc áp dụng án lệ lúc này sẽ tạo nên sự tùy tiện trong việc xét xử. Việc áp
dụng án lệ vào xét xử hoàn toàn không phù hợp còn bởi hệ thống pháp luật không
ngừng thay đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tiễn nên trong từng giai đoạn cụ thể thì
chính sách pháp luật không hoàn toàn giống nhau.

Điểm d Khoản 2 Điều 22 Luật Tổ chức TAND năm 2014 chính thức thừa nhận vai trò
của án lệ trong hệ thống pháp luật Việt Nam: “Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán tòa
án nhân dân tối cao, bản án quyết định pháp luật đã có hiệu lực pháp luật, có tính
chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các tòa
án nghiên cứu và áp dụng trong xét xử”.
Việc cải cách là điều hợp lý để phục vụ cho mục đích xây dựng hệ thống pháp luật
Việt Nam phù hợp với sự phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.
TAND tối cao ban hành Nghị quyết 03/2015/NQ-HĐTP thừa nhận việc áp dụng án lệ
vào xét xử và công bố 06 bản án lệ đầu tiên theo quyêt định số 220/QĐ-CA ngày
06/4/2016 là một bước đi tiến bộ, nhưng cần một quá trình dài xem xét về việc lựa
chọn, công bố và áp dụng án lệ một cách phù hợp, chính xác.
Tóm lại, việc thừa nhận án lệ ở Việt Nam đó là một tiến bộ vượt bậc, vượt qua rào cản
về mặt tâm lí để đi đến hoàn thiện hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, án lệ ở nước ta còn
non trẻ dĩ nhiên sẽ gặp phải những khó khăn về nhiều mặt như cần làm rõ ở chừng
mực nào, phạm vi nào thì Tòa án có quyền giải thích luật, trường hợp nào thì Thẩm
phán được áp dụng tương tự pháp luật, áp dụng tương tự quY phạm pháp luật. Cần
phải giao cho Tòa án quyền giải thích pháp luật, thực thi các biện pháp đảm bảo vị thế
độc lập của cơ quan tư pháp, đảm bảo sự độc lập của thẩm phán, nâng cao trình độ
thẩm phán, công khai hóa các bản án Nên cần phải có quá trình hoàn thiện để đi đến
hoàn thiện hoá hệ thống pháp luật.
4 Xem: />
7



×