Tải bản đầy đủ (.doc) (80 trang)

Đề cương ôn tập môn triết học Lớp Chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.92 KB, 80 trang )

Câu 2: Hãy làm rõ cơ sở triết học và nội
dung quan điểm toàn diện của phép biện
chứng duy vật mácxit; trên cơ sở đó bình
luận về trường hợp giả định: để đối phó với
ùn tắc giao thông trong điều kiện hạ tầng đô
thị và hệ thống phương tiện giao thông công
cộng như hiện nay, chính quyền thành phố
Hà Nội ban hành chính sách cấm xe máy lưu
thông trong khu vực nội thành ???..................................................................................................
Câu 5: Quan điểm của Triết học Mác - Lê
Nin về thực tiễn và các hình thức cơ bản của
thực tiễn ???...................................................................................................................................
Câu 8. Thế nào là sự phù hợp giữa LLSX và
QHSX? Phân tích việc xây dựng QHSX phù
hợp với trình độ phát triển LLSX ở nước ta
hiện nay?.......................................................................................................................................
Câu 11: V.I.Lê Nin viết: "Quan điểm về đời
sống, quan điểm về thực tiễn phải là quan
điểm thứ nhất về cơ bản của lý luận nhận
thức"(TT,1980,T18,Tr167). Hãy làm rõ cơ
sở triết học và ý nghĩa của luận điểm trên ???
.......................................................................................................................................................
Câu 20: Đồng chí hãy nêu những nội dung
yêu cầu của nguyên tắc (quan điểm) toàn
diện, trình bày cơ sở triết học và chỉ ra
những thành tựu và hạn chế này trong quá
trình đổi mới ở Việt Nam qua thực tế địa
phương, lĩnh vực hoạt động của mình...........................................................................................
Câu 21: Đảng ta chỉ ra rằng "Xây dựng con
người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở
thành một mục tiêu của chiến lược phát


triển" (VLĐH XII, Tr.126). Hãy phân tích cơ
sở triết học, đánh giá những thành tựu và hạn
chế trong việc thực hiện chiến lược phát
triển con người Việt Nam hiện nay bằng
minh chức thực tế, đề xuất, kiến nghị hoặc
giải pháp thực hiện trong thời gian tới ???....................................................................................

1


ĐỀ CƯƠNG ÔN TẬP MÔN TRIẾT
HỌC

tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội của họ
trong những giai đoạn phát triển nhất định
- Quan điểm duy vật lịch sử về vai trò
của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

Câu 1: Khẳng định rằng TTXH và YTXH tồn
tại hoàn toàn độc lập, không có sự liên hệ tác
động lẫn nhau là đúng hay sai? Bằng lý luận
triết học Mác-Lênin và dẫn chứng cụ thể,
đồng chí hãy lý giải nhận định của mình:

+ Theo quan điểm duy vật lịch sử: tồn tại
xã hội giữ vai trò quyết định ý thức xã hội. Đây
là kết luận tất yếu của sự vận dụng nguyên lý
vật chất quyết định ý thức vào việc phân tích
lĩnh vực đời sống xã hội.


- Sai
- Khái niệm tồn tại xã hội
Giải thích
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
- Ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội
- Ví dụ minh chứng cho các biểu hiện
+ Tồn tại xã hội là cơ sở khách quan, nguồn gốc
hình thành ý thức XH
+ Tồn tại XH, xét đến cùng, quyết định nội
dung, tính chất của ý thức XH
+ Khi tồn tại XH thay đổi thì ý thức XH cùng
thay đổi theo
- Phân tích tính độc lập tương đối của ý thức XH
so với tồn tại XH
- Ví dụ minh chứng cho các biểu hiện
+ Ý thức XH thường lạc hậu so với tồn tại XH
+ Ý thức Xh có thể vượt trước tồn tại XH
+ Tính kế thừa trong sự phát triển của ý thức
XH
+ Sự tác động trở lại của ý thức XH
Trả lời:
Khẳng định rằng TTXH và YTXH tồn tại
hoàn toàn độc lập, không có sự liên hệ tác động
lẫn nhau là sai.

+ Tính quyết định của tồn tại xã hội đối
với ý thức xã hội được phân tích căn bản trên
hai phương diện:
Một là, tồn tại xã hội nào thì ý thức xã
hội đó (xét theo tính chất, đặc trưng, kết cấu,

trình độ phát triển,... của ý thức xã hội).
Hai là, những biến đổi của ý thức xã hội
đều có nguyên nhân sâu xa từ sự biến đổi của
tồn tại xã hội, đặc biệt là sự biến đổi của phương
thức sản xuất.
- Quan điểm duy vật lịch sử về tính độc
lập tương đối của ý thức xã hội
Quan điểm duy vật biện chứng về xã hội
không chỉ khẳng định tính quyết định của tồn tại
xã hội đối với ý thức xã hội mà còn làm sáng tỏ
những nội dung của tính độc lập tương đối của ý
thức xã hội. Nội dung tính độc lập tương đối của
ý thức xã hội được phân tích trên các phương
diện chính sau đây:
+ Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu
so với tồn tại xã hội.

TTXH là đời sống vật chất và điều kiện
sinh hoạt vật chất mà xã hội loài người dựa vào
để tồn tại và phát triển, tồn tại xã hội chỉ là
những gì ở trong phạm vi hoạt động thực tiễn
của loài người, tồn tại xã hội không đồng nhất
với khái niệm tồn tại khách quan, mà tồn tại
khách quanbao hàm tồn tại xã hội; tồn tại xã hội
bao gồm cả đời sống vật chất (quan hệ vật chất
và xã hội) và điều kiện sinh hoạt vật chất của xã
hội.

Theo nguyên lý tồn tại xã hội quyết định
ý thức xã hội thì khi tồn tại xã hội biến đổi sẽ tất

yếu dẫn tới những sự biến đổi của ý thức xã hội.
Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự
biến đổi của tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn
đến sự biến đổi của ý thức xã hội; trái lại, nhiều
yếu tố của ý thức xã hội (trong đời sống tâm lý
xã hội và hệ tư tưởng xã hội) có thể còn tồn tại
rất lâu dài ngay cả khi cơ sở tồn tại xã hội sản
sinh ra nó đã được thay đổi căn bản, sở dĩ như
vậy là vì:

YTXH là toàn bộ những tư tưởng, quan
điểm cùng những tình cảm, tâm trạng, truyền
thống…của một cộng đồng xã hội, nảy sinh từ

2


Một là, do bản chất của ý thức xã hội chỉ
là sự phản ánh của tồn tại xã hội cho nên nói
chung ý thức xã hội chỉ có thể biến đổi sau khi
có sự biên đổi của tồn tại xã hội. Mặt khác, sự
biến đổi của tồn tại xã hội do sự tác động mạnh
mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động
thực tiễn, diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức
không thể phản ánh kịp.

phát triển tư tưởng trước đó. Lịch sử phát triển
của tư tưởng đã cho thấy những giai đoạn hưng
thịnh hoặc suy tàn của triết học, văn học, nghệ
thuật, v.v. nhiều khi không phù hợp hoàn toàn

với những giai đoạn hưng thịnh hoặc suy tàn của
kinh tế.
Trong xã hội có giai cấp, tính chất kế
thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp
của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa
những nội dung ý thức khác nhau của các thời
đại trước. Các giai cấp tiên tiến tiếp nhận những
di sản tư tưởng tiến bộ của xã hội cũ để lại.

Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền
thông, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo
thủ của một số hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích
của những nhóm, những tập đoàn người, những
giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư
tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã
hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm
chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.

+ Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các
hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của
chúng.
Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý
thức xã hội là một nguyên nhân làm cho trong
mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính
chất không thể giải thích được một cách trực
tiếp từ tồn tại xã hội.

+ Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt
trước tồn tại xã hội.

Khi khẳng định tính thường lạc hậu hơn
của ý thức xã hội so với tồn tại xã hội, chủ nghĩa
duy vật lịch sử đồng thời thừa nhận rằng, trong
những điều kiện nhất định, tư tưởng của con
người, đặc biệt những tư tưởng khoa học tiên
tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã
hội, dự báo được tương lai và có tác dụng tổ
chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn của con người,
hướng hoạt động đó vào việc giải quyết những
nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của
đời sống vật chất của xã hội đặt ra. Tuy nhiên,
suy đến cùng, khả năng phản ánh vượt trước ý
thức xã hội vẫn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.

+ Thứ năm, ý thức xã hội có khả năng tác
động trở lại tồn tại xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những
phê phán quan điểm duy tâm (tuyệt đối hóa vai
trò của ý thức xã hội) mà còn bác bỏ quan điểm
duy vật tầm thường hay “chủ nghĩa duy vật kinh
tế” (tức quan điểm phủ nhận tác dụng tích cực
của ý thức xã hội trong đời sống xã hội). Theo
Ph. Ăngghen: “Sự phát triển về mặt chính trị,
pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ
thuật, v.v. đều dựa vào sự phát triển kinh tế.
Nhưng tất cả chúng cũng có ảnh hưởng lẫn nhau
và ảnh hưởng đến cơ sở kinh tế”. Mức độ ảnh
hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội
phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể,
vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà

trên đó tư tưởng nảy sinh, vai trò lịch sử của giai
cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào chế độ phản
ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu
phát triển xã hội, vào mức độ mở rộng của tư
tưởng trong quần chúng, V.V.. Cũng do đó, ở
đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng
tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với
sự phát triển của xã hội.

+ Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa
trong sự phát triển.
Lịch sử phát triển đời sống tinh thần của
xã hội cho thấy rằng, những quan điểm lý luận
của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất
trống không mà được tạo ra trên cơ sở kế thừa
những tài liệu lý luận của các thời đại trước.
Do ý thức có tính kế thừa trong sự phát
triển, nên không thể giải thích được một tư
tưởng nào đó nếu chỉ dựa vào những quan hệ
kinh tế hiện có, không chú ý đến các giai đoạn

3


-

Ý nghĩa phương pháp luận

Câu 2: Hãy làm rõ cơ sở triết học và nội dung
quan điểm toàn diện của phép biện chứng

duy vật mácxit; trên cơ sở đó bình luận
về trường hợp giả định: để đối phó với ùn
tắc giao thông trong điều kiện hạ tầng đô
thị và hệ thống phương tiện giao thông
công cộng như hiện nay, chính quyền
thành phố Hà Nội ban hành chính sách
cấm xe máy lưu thông trong khu vực nội
thành ???
- Phân tích mỗi liên hệ phổ biến: cơ sở triết học
của quan điểm toàn diện
+ Khái niện liên hệ phổ biến
+ Cơ sở của mối liên hệ phổ biến
+ Tính chất của mối liên hệ phổ biến
- Nội dung của quan điểm toàn diện(Phân tích 4
yêu cầu của quan điểm toàn diện)
+ Phải xem xét sự vật trong mối liên hệ qua lại
giữa các yếu tố, các bộ phận, các thuộc tính
khác nhau của chúng.
+ Phải xem xét sự vật này trong mối liên hệ giữa
các sự vật hiện tượng khác, kể cả khâu trung
gian của chúng.
+ Phải xem xét sự vật, hiện tương trong mối liên
hệ với nhu cầu thực tiễn.
+ Chống tư tưởng bình quân, dàn trải, không
thấy được vị trí, vai trò của các mỗi quan hệ
giữa các mặt trong một sự vật, hiện tượng hay
giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau.
- Bình luận về trường hợp đề ra : Như thế là
thiếu các nhìn toàn diện
+ Phân tích chỉ ra việc phải chuẩn bị hội đủ các

điều kiện, có lộ trình, trọng tâm, trọng điểm để
có thể thực hiện cấm lưu thông xe máy trong nội
thành
(Tham khảo thêm các ý kiến bình luận của báo
chí)

+ Để nhận thức đúng các hiện tượng
thuộc đời sống ý thức xã hội thì một mặt, cần
phải căn cứ vào tồn tại xã hội đã làm nảy sinh ra
nó, mặt khác cũng cần phải giải thích các hiện
tượng đó từ những phương diện khác nhau
thuộc nội dung tính độc lập tương đối của
chúng.
Ví dụ, chỉ có thể giải thích đúng bản chất
và nguồn gốc tâm lý xã hội của con người Việt
Nam truyền thống (như: tâm lý tiểu nông, coi
trọng làng, xã, sinh hoạt lễ hội theo mùa,...) nếu
xuất phát từ cơ sở tồn tại xã hội truyền thống
của nó là phương thức canh tác lúa nước trong
điều kiện trình độ kỹ thuật thủ công với hình
thức tổ chức dân cư cộng đồng làng xã khép kín,
tự cấp tự túc,... Sẽ là sai lầm nếu xuất phát từ cái
gọi là “bản tính cố hữu” của người Việt để giải
thích đời sống tâm lý đó.
+ Trong thực tiễn cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới cần phải được tiến hành đồng
thời trên cả hai mặt tồn tại xã hội và ý thức xã
hội, trong đó việc thay đổi tồn tại xã hội cũ là
điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý thức xã hội
cũ. Đồng thời, cũng cần thấy rằng không chỉ

những biến đổi trong tồn tại xã hội mới tất yếu
dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống
tinh thần của xã hội mà ngược lại, những tác
động của đời sống tinh thần xã hội, với những
điều kiện xác định cũng có thể tạo ra những biến
đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Ví dụ, Đảng ta trong khi coi trọng chiến lược
công nghiệp hoá, hiện đại hoá để xác lập
phương thức sản xuất mới ở nước ta (coi đó là
nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội) thì đồng thời cũng hết sức coi
trọng công tác tư tưởng văn hoá. Đó là một chủ
trương đúng đắn, khoa học, xuất phát từ quan
điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử về vai trò
quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã
hội và về tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội.

Trả lời:
Phép biện chứng duy vật là phương pháp triết
học duy vật biện chứng và các khoa học nói
chung. Theo Ph.Ănghen: "Phép biện chứng là
phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét
những sự vật và những phản ánh của chúng
trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn
nhau của chúng, trong sự ràng buộc, sự vận
động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng".

4



Là cơ sở của nhận thức lý luận tự giác, phép
biện chứng duy vật là phương pháp dùng để
nghiên cứu toàn diện và sâu sắc những mâu
thuẫn trong sự phát triển của hiện thực, đưa lại
chìa khoá để nghiên cứu tổng thể những quá
trình phức tạp của tự nhiên, xã hội và tư duy. Vì
vậy, phép biện chứng duy vật được áp dụng phổ
biến trong lĩnh vực và có vai trò quyết định
trong sự vật, hiện tượng. Phép biện chứng duy
vật không chỉđưa ra hướng nghiên cứu chung,
đưa ra các nguyên tắc tiếp cận sự vật, hiện
tượng nghiên cứu màđồng thời còn là điểm xuất
phát để đánh giá những kết quả đạt được.
Cơ sở lý luận của quan điểm toàn diện là
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến - một trong
hai nguyên lý cơ bản của phép duy vật biện
chứng. Đây là một phạm trù của phép biện
chứng duy vật dùng để chỉ sự quy định, tác động
qua lại, sự chuyển hoá lẫn nhau giữa các sự vật
hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật hiện
tượng trong thế giới khách quan.
Triết học Mác khẳng định: Cơ sở của mối
liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng là thuộc tính
thống nhất vật chất của thế giới. Các sự vật, hiện
tượng dù đa dạng và khác nhau đến mấy thì
chúng chỉ là những dạng tồn tại khác nhau của
một thế giới duy nhất là vật chất mà thôi. Ngay
bản thân ý thức vốn không phải là vật chát
nhưng cũng chỉ là sự phát triển đến đỉnh cao của

một thuộc tính, của một dạng vật chất có tổ chức
cao nhất là bộ óc con người, nội dung của ý thức
có mối liên hệ chặt chẽ với thế giới bên ngoài.
Theo triết học Mác, mối liên hệ giữa các
sự vật hiện tượng là khách quan vốn có của bản
thân chúng, đồng thời mối liên hệ còn mang tính
phổ biến và tính phổ biến ấy được thể hiện ở
những vấn đề sau đây:
Xét về mặt không gian, mỗi sự vật hiện
tượng là một chỉnh thể riêng biệt, song chúng
tồn tại không phải trong trạng biệt lập tách rời
tuyệt đối với các sự vật hiện tượng khác. Ngược
lại, trong sự tồn tại của mình thì chúng tác động
lẫn nhau và nhận sự tác động của các sự vật hiện
tượng khác. Chúng vừa phụ thuộc nhau, chế ước
nhau, làm tiền đề cho nhau tồn tại và phát triển.
Đó chính là hai mặt của quá trình tồn tại và phát
triển của sự vật, hiện tượng. Ănghen đã khẳng

định: "Tất cả thế giới mà chúng ta có thể nghiên
cứu được là một hệ thống, một tập hợp gồm các
vật thể liên hệ khăng khít với nhau và việc các
vật thể ấy có mối liên hệ qua lại với nhau đã có
nghĩa là các vật thể này tác động qua lại lẫn
nhau và sự tác động qua lại ấy chính là sự vận
động".
Trong đời sống xã hội ngày nay không có
một quốc gia, dân tộc nào mà không có mối
quan hệ, liên hệ với quốc gia, dân tộc khác về
mọi mặt của đời sống xã hội. Đây chính là sự

tồn tại, phát triển cho mỗi quốc gia, dân tộc.
Trên thế giới đã và đang xuất hiện xu hướng
toàn cầu hoá, khu vực hoá mọi mặt của đời sống
xã hội. Các quốc gia dân tộc ngày càng phụ
thuộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau trên con
đường phát triển của mình.
Xét về mặt cấu tạo, cấu trúc bên trong
của sự vật hiện tượng thì mỗi sự vật hiện tượng
đều được tạo thành bởi nhiều nhân tố, nhiều bộ
phận khác nhau và các nhân tố, bộ phận đó
không tồn tại riêng lẻ mà chúng được tổ chức
sắp xếp theo một lôgíc nhất định, trật tự nhất
định để tạo thành chỉnh thể. Mỗi biện pháp, yếu
tố trong đó mà có vai trò vị trí riêng của mình,
lại vừa tạo điều kiện cho các bộ phận, yếu tố
khác. Nghĩa là giữa chúng có sự ảnh hưởng,
ràng buộc tác động lẫn nhau, sự biến đổi bộ
phận nào đó trong cấu trúc của sự vật hiện
tượng sẽ ảnh hưởng đến bộ phận khác và đối với
cả chỉnh thể sự vật, hiện tượng.
Xét về mặt thời gian, mỗi một sự vật hiện
tượng nói riêng và cả thế giới nói chung trong
sự tồn tại, phát triển của mình đều phải trải qua
các giai đoạn, các thời kỳ khác nhau và các giai
đoạn đó không tách rời nhau, có liên hệ làm tiền
đề cho nhau, sự kết thúc của giai đoạn này làm
mở đầu cho giai đoạn khác tiếp theo. Điều này
thể hiện rõ trong mối liên hệ giữa quá khứ - hiện
tại - tương lai (hiện tại chẳng qua là bước tiếp
theo của quá khứ và là bàn đạp cho tương lai).

Quan điểm duy vật biện chứng không chỉ khẳng
định tính khách quan, tính phổ biến vốn có của
sự liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng, các quá
trình mà nó còn nêu rõ tính phong phú, đa dạng
và phức tạp của mối liên hệ qua lại đó. Khi
nghiên cứu hiện thực khách quan có thể phân

5


chia mối liên hệ thành từng loại khác nhau tuỳ
tính chất phức tạp hay đơn giản, phạm vi rộng
hay hẹp, trình độ nông hay sâu, vai trò trực tiếp
hay gián tiếp… khái quát lại có những mối liên
hệ sau đây: mối liên hệ bên trong - bên ngoài,
chủ yếu - thứ yếu, chung - riêng, trực tiếp - gián
tiếp, bản chất - không bản chất, ngẫu nhiên- tất
nhiên. Trong đó có những mối liên hệ bên trong,
trực tiếp, chủ yếu, bản chất và tất nhiên bao giờ
cũng giữ vai trò quan trọng, quyết định cho sự
tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Triết
học Mác xít đồng thời cũng thừa nhận rằng các
mối liên hệ khác nhau có khả năng chuyển hoá
cho nhau, thay đổi vị trí của nhau và điều đó
diễn ra có thể là sự thay đổi phạm vi bao quát sự
vật, hiện tượng hoặc có thể do kết quả vận động
khách quan của sự vật hiện tượng đó.
Từ việc nghiên cứu nguyên lý về mối liên
hệ của các sự vật, hiện tượng chúng ta rút ra
quan điểm toàn diện trong việc nhận thức, xem

xét các sự vật hiện tượng cũng như trong hoạt
động thực tiễn.
Về mặt nhận thức, khi nghiên cứu sự vật,
hiện tượng phải đặt nó trong mối liên hệ tác
động qua lại với những sự vật, hiện tượng khác
và cần phải phát hiện ra những mối liên hệ giữa
các bộ phận, yếu tố, các thuộc tính, các giai
đoạn khác nhau của bản thân sự vật. Lênin đã
khẳng định: "Muốn thực sự hiểu được sự vật,
cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các
mặt của mối liên hệ và quan hệ của sự vật đó".
Để nhận thức đúng được sự vật, hiện tượng cần
phải xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu
thực tiễn, ứng với mỗi thời kỳ, giai đoạn, thế hệ
thì con người bao giờ cũng chỉ phản ánh được
số lượng hữu hạn các mối liên hệ. Vì vậy tri
thức về các sự vật, hiện tượng chỉ là tương đối,
không đầy đủ và cần phải được hỏi chúng ta
phải phát hiện ra không chỉ là mối liên hệ của nó
mà còn phải biết xác định phân loại tính chất,
vai trò, vị trí của mỗi loại liên hệ đối với sự phát
triển của sự vật. Cần chống lại cả khuynh hướng
sai lầm phiến diện một chiều, cũng như đánh giá
ngang bằng vị trí của các loại quan hệ.
Về mặt thực tiễn, quan điểm toàn diện
đòi hỏi để cải tạo sự vật, hiện tượng cần làm
thay đổi mối liên hệ bên trong của sự vật, hiện

tượng cũng như mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng đó với sự vật, hiện tượng khác. Muốn vậy,

cần phải xác định, sử dụng đồng bộ các phương
pháp, các biện pháp, phương tiện để giải quyết
sự vật. Mặt khác, quan điểm toàn diện đòi hỏi
trong hoạt động thực tiễn cần phải kết hợp chính
sách dàn đều và chính sách có trọng tâm, trọng
điểm. Vừa chú ý giải quyết về mặt tổng thể vừa
biết lựa chọn những vấn đề trọng tâm để tập
trung giải quyết dứt điểm tạo đà cho việc giải
quyết những vấn đề khác.
Bình luận về giả định chính sách cấm
xe máy lưu thông trong nội thành Hà Nội
Câu chuyện về việc cấm xe máy tại nội
thành Hà Nội những ngày qua đang làm xôn xao
dư luận xã hội. Nhiều ý kiến tranh cãi được đưa
ra và nhận được nhiều quan tâm của của nhiều
người. Bởi, đơn giản đại đa số người dân đang
sinh sống, làm việc tại Hà Nội đều sử dụng xe
gắn máy làm phương tiện đi lại hằng ngày.
Với mức thu nhập trung bình, chiếc xe
gắn máy trở thành lựa chọn của nhiều người
dân. Cộng với mạng lưới giao thông rộng lớn lại
gồm nhiều ngỏ, hẻm, đường nội đô, xa lộ,
đường vành đai bao quanh thành phố... Sự cơ
động, linh hoạt giúp xe máy được nhiều người
lựa chọn làm phương tiện di chuyển hàng ngày.
Chiếc xe máy gắn liền với nhiều tầng lớp khác
nhau trong xã hội, từ sinh viên, công nhân đến
dân văn phòng... Hay ngay cả những người vốn
đã sắm ô tô, vẫn luôn có chiếc xe máy để “dự
phòng”. Với một bộ phận người dân lao động,

xe máy còn là khối tài sản, là công cụ để kiếm
sống...
Thế nhưng, cũng chính sự phổ biến này
lại góp phần làm dẫn đến những bất cập cho tình
hình giao thông. Không phủ nhận lượng xe máy
ngày càng nhiều phần nào làm ô nhiễm không
khí, hổn loạn... Xe máy cũng được xem là một
trong những phương tiện mất an toàn nhất hiện
nay. Vì vậy, đã có những phương án hạn chế loại
phương tiện cá nhân này được đưa ra. Tuy
nhiên, việc “cấm xe máy” mà một vị giáo sư
tiến sĩ đề xuất gần đây, liệu có khả thi khi cơ sở
hạ tầng giao thông vẫn còn nghèo nàn, các
phương tiện khác phục vụ việc đi lại của đại đa
số người dân vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập.

6


Một câu hỏi không chỉ riêng tôi, mà chắc
hẳn cũng là thắc mắc của nhiều người là: Với
tình hình giao thông tại các thành phố lớn, nếu
cấm xe máy thì lấy phương tiện nào thay thế để
đi lại hàng ngày?
Ô tô là thứ hàng hóa xa xỉ, là giấc mơ xa
vời với đại đa số người Việt và xem ra cũng
không phải là phương án khả thi cho tình hình
giao thông hiện tại. Ngay cả những người đang
sở hữu ô tô cũng khá e ngại khi đi lại trong khu
vực trung tâm thành phố bởi hệ thống bãi đỗ xe

quá hạn chế. Đó là chưa kể đến việc kẹt xe, ách
tắc liên tục tái diễn. Ô tô còn chiếm diện tích và
thiếu sự linh hoạt hơn các phương tiện khác khi
tham gia giao thông.
Xe buýt từng được xem là phương án khả
thi nhất để góp phần hạn chế xe máy. Nhiều
tuyến đường giao thông mở rộng để xe buýt có
thể tiếp cận gần hơn với người dân. Nhưng đến
nay phương án này vẫn chưa thật sự khả thi,
ngược lại còn nảy sinh nhiều vấn đề bất cập.
Việc mất nhiều thời gian di chuyển để tiếp cận
các tuyến xe buýt, dễ trễ giờ giấc, cộng với tình
trạng chen lân, xô đẩy, móc túi... vẫn xảy ra trên
xe buýt, khiến người dân ngày càng rời xa
phương tiện này.
Xe đạp hay xe điện cũng là một giải pháp
nhưng liệu có hiệu quả khi loại phương tiện này
vẫn còn hạn chế về khoảng cách di chuyển. Xe
đạp, xe điện hiện nay chỉ phù hợp với đối tượng
học sinh, sinh viên. Và nếu phát triển phương
tiện này liệu có giải quyết được tình trạng cách
tắc giao thông. Trong khi đó, hệ thống tàu điện
Metro vẫn đang trong quá trình xây dựng. Để
phương tiện này thay thế xe máy xem ra là
phương án khả thi. Tuy nhiên, người dân phải
chờ đợi đến bao giờ để hệ thống tàu điện Metro
có thể phủ sóng rộng khắp thành phố để đi lại?
Thật ra, với tình hình giao thông hiện
nay, tôi tin rằng không chỉ bản thân tôi mà còn
nhiều người khác cũng chẳng mặn mà với việc

đi xe máy hàng ngày. Nhưng xem đi xét lại,
chúng ta có phương tiện nào khác để thay thế
khi mà mọi giải pháp đều vẫn còn nhiều hạn
chế. Vì thế, không thể nói xuông và muốn là
cấm. Việc hạn chế hay cấm xe máy cần có lộ
trình và hướng giải quyết hợp lý, khi mà phương

tiện này vẫn đang gắn liền với cuộc sống, sinh
hoạt của người dân.
Thế nên, thay vì nói “cấm” và tạo ra
tranh cãi xoay quanh câu chuyện về chiếc xe
máy. Thiết nghĩ, các vị giáo sư tiến sĩ nên có
những suy nghĩ, đề xuất đến phương án phát
triển cơ sở hạ tầng giao thông. Khi phương tiện
giao thông công cộng phát triển và mang lại
thuận tiện, an toàn... cho người dân, lúc đó tôi
nghĩ chẳng cần cấm nhiều người tự khắc sẽ nhận
thấy việc nên từ bỏ xe máy.

7


Câu 3: Giả sử có quan điểm cho rằng:
"Quan hệ sản xuất có thể phát triển vượt
trước trình độ của lực lượng sản xuất để mở
đường cho LLSX phát triển", dựa trên lý
luận triết học Mác - Lê Nin và thực tiễn Việt
Nam hãy chứng minh luận điểm này đúng
hay sai.
- Khẳng định luận điểm này là sai

- Nếu căn cứ chứng minh
+ Khái niệm LLSX
+ Khái niệm QHSX
+ Mỗi quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX
+ LLSX quyết định QHSX
+ QHSX có tính độc lập tương đối và tác động
trở lại LLSX
- Căn cứ và thực tiễn vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa LLSX và QHSX của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
+ Biểu hiện và hậu quả của việc vận dụng trước
đổi mới (trước 1986)
+ Biểu hiện và kết quả của sự vận dụng từ đổi
mới (1986 ) đến nay.
Trả lời:
Luận điểm này sai.
Căn cứ chứng minh.
+ Khái niệm Lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình
sản xuất. Trong quá trình sản xuất, con người
kết hợp sức lao động của mình với tư liệu sản
xuất, trước hết là công cụ lao động tạo thành sức
mạnh khai thác giới tự nhiên, làm ra sản phẩm
cần thiết cho cuộc sống của mình.
Vậy, lực lượng sản xuất là năng lực thực
tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm
đáp ứng nhu cầu đời sống của mình.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người
lao động và tư liệu sản xuất, trong đó "lực lượng

sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công
nhân, là người lao động". Chính người lao động
là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với
sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử
dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao
động, tác động vào đối tượng lao động để sản
xuất ra của cải vật chất.
Khái niệm Quan hệ sản xuất:

+ Khái niệm quan hệ sản xuất dùng để
chỉ tổng thể mối quan hệ kinh tế (quan hệ giữa
người với người về mặt thực hiện lợi ích vật
chất trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã
hội).
+ Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở
hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ
chức - quản lý quá trình sản xuất và quan hệ
trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất
đó.
Những quan hệ sản xuất này tồn tại trong
mổì quan hệ thống nhất và chi phối, tác động lẫn
nhau trên cơ sở xuyết định của quan hệ sở hữu
về tư liệu sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và
QHSX:
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là mối quan hệ thống nhất biện
chứng (phụ thuộc, ràng buộc nhau, tác động lẫn
nhau) tạo thành quá trình sản xuất hiện thực của
xã hội.

Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
là hai mặt cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất,
trong đó lực lượng sản xuất là nội dung vật chất
của quá trình sản xuất, còn quan hệ sản xuất là
hình thức kinh tế của quá trình đó. Trong đời
sống hiện thực, không thể có sự kết hợp các
nhân tố của quá trình sản xuất để tạo ra năng lực
thực tiễn cải biến các đối tượng vật chất tự
nhiên lại có thể diễn ra bên ngoài những hình
thức kinh tế nhất định. Ngược lại, cũng không
có một quá trình sản xuất nào có thể diễn ra
trong đời sống hiện thực chỉ với những quan hệ
sản xuất không có nội dung vật chất của nó.
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất tồn tại trong tính quy định lẫn nhau,
thống nhất với nhau. Đây là yêu cầu tất yếu, phổ
biến diễn ra trong mọi quá trình sản xuất hiện
thực của xã hội. Tương ứng với thực trạng phát
triển nhất định của lực lượng sản xuất cũng tất
yếu đòi hỏi phải có quan hệ sản xuất phù hợp
với thực trạng đó trên cả ba phương diện: sở
hữu tư liệu sản xuất, tổ chức - quản lý và phân
phối. Chỉ có như vậy, lực lượng sản xuất mới có
thể được duy trì, khai thác - sử dụng và không
ngừng phát triển. Ngược lại, lực lượng sản xuất
của một xã hội chỉ có thể được duy trì, khai thác

8



- sử dụng và phát triển trong một hình thái kinh
tế - xã hội nhất định.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là mối quan hệ biện chứng
nhưng trong đó, vai trò quyết định thuộc về lực
lượng sản xuất, còn quan hệ sản xuất giữ vai trò
tác động trở lại lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ thống nhất giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất tuân theo nguyên
tắc khách quan: quan hệ sản xuất phải phụ thuộc
vào thực trạng phát triển của lực lượng sản xuất
trong mỗi giai đoạn lịch sử xác định; bởi vì,
quan hệ sản xuất chỉ là hình thức kinh tế của quá
trình sản xuất còn lực lượng sản xuất là nội
dung vật chất, kỹ thuật của quá trình đó.
Tuy nhiên, quan hệ sản xuất, với tư cách
là hình thức kinh tế của quá trình sản xuất, nó
luôn luôn có khả năng tác động trở lại sự vận
động, phát triển của lực lượng sản xuất. Sự tác
động này có thể diễn ra theo chiểu hướng tích
cực hoặc tiêu cực, điều đó phụ thuộc vào tính
phù hợp hay không phù hợp của quan hệ sản
xuất với thực trạng và nhu cầu khách quan của
sự vận động, phát triển lực lượng sản xuất. Nếu
“phù hợp” sẽ có tác dụng tích cực và ngược lại,
“không phù hợp” sẽ có tác dụng tiêu cực.
+ Mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất là mối quan hệ có bao hàm khả
năng chuyển hóa thành các mặt đối lập làm phát
sinh mâu thuẫn cần được giải quyết để thúc đẩy

sự tiếp tục phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong phạm vi tương đối ổn định của một
hình thức kinh tế xác định, lực lượng sản xuất
của xã hội được bảo tồn, không ngừng được
khai thác - sử dụng và phát triển trong quá trình
sản xuất và tái sản xuất của xã hội.
Tính ổn định, phù hợp của quan hệ sản
xuất đối với lực lượng sản xuất càng cao thì lực
lượng sản xuất càng có khả năng phát triển,
nhưng chính sự phát triển của lực lượng sản
xuất lại luôn luôn tạo ra khả năng phá vỡ sự
thống nhất của những quan hệ sản xuất từ trước
đến nay đóng vai trò là hình thức kinh tế cho sự
phát triển của nó. Những quan hệ sản xuất này,
từ chỗ là những hình thức phù hợp và cần thiết
cho sự phát triển của các lực lượng sản xuất đã
trở thành những hình thức kìm hãm sự phát triển

đó, nó đã tạo ra một mâu thuẫn giữa lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất, từ đó xuất hiện
nhu cầu khách quan phải thiết lập lại mối quan
hệ thông nhất giữa chúng theo nguyên tắc quan
hệ sản xuất phải phù hợp với nhu cầu phát triển
của lực lượng sản xuất.
Khi phân tích sự vận động của mâu thuẫn
biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ
sản xuất, C. Mác đã từng chỉ ra rằng: “Tới một
giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực
lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn
với những quan hệ sản xuất hiện có... trong đó

từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát
triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất.
Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã
hội”. Chính nhờ các cuộc cách mạng xã hội mà
những quan hệ sản xuất cũ của xã hội được thay
thế bằng một quan hệ sản xuất mới, phù hợp với
nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất đã
phát triển, tiếp tục phát huy tác dụng tích cực
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất
trong một hình thức quan hệ sản xuất mới.
Căn cứ và thực tiễn vận dụng mối quan
hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX của Đảng
cộng sản Việt Nam
- Trước năm 1986 chúng ta có những
biểu hiện vận dụng chưa đúng mối quan hệ biện
chứng giữa LLSX và QHSX, điều này thể hiện
ở việc do ta chủ quan, nóng vội trong xây dựng
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa mà chưa tính
tới trình độ lực lượng sản xuất ở nước ta thời
điểm đó (lực lượng sản xuất còn thấp, quan hệ
sản xuất quá cao).
Trước năm 1986, cơ chế nền kinh tế nước
ta vẫn còn quan liêu, bao cấp. Vì thế nó kìm
hãm sự phát triển của nền sản xuất vật chất, tạo
cho con người thói ỷ lại. Do đó nền kinh tế nước
ta lúc bây giờ là nền kinh tế lạc hậu, trì trệ và
kém phát triển. Trước tình hình đó đặt ra cho
Đảng và nhà nước ta yêu cầu cấp bách là phải có

một chính sách kinh tế sao cho phù hợp với yêu
cầu của thời đại và thúc đẩy được sự phát triển
của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, sớm
đưa nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển.

9


Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV
đã vạch ra đường lối rằng: “đẩy mạng công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa nước nhà, xây dựng
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa
nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên thành
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, kết hợp phát triển
lực lượng sản xuất với các lập và hoàn thiện
quan hệ sản xuất mới”.
Với phương châm lãnh đạo của Đảng,
nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế
đáng kể. Tuy nhiên sai lầm của Đảng ta trong
quyết định này đó là chưa xác định được chặng
đường đầu tiên để tiến lên CNXH, nóng vội tả
khuynh trong việc cải tạo và xây dựng CNXH ở
một nước vốn có nền nông nghiệp lạc hậu vừa
trải qua mấy chục năm chiến tranh, đất nước bị
tàn phá nặng nề.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần V đã đề ra
nhiệm vị chủ yếu về kinh tế - xã hội trong 5 năm
và đã có những bước tìm tòi trên con đường đi
lên CNXH, trước hết là về mặt kinh tế. Song đại
hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền

kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá
độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể
về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác
quản lý lưu thông, phân phối vẫn một chiều do
kế hoạch nhà nước quyết định, chưa có những
chính sách, giải pháp, cụ thể và đồng bộ để giải
phóng các lực lượng sản xuất trong nông
nghiệp.
Từ thực tế trên cho thấy tầm quan trọng
của việc xác định đúng đắn mối quan hệ giữa
LLSX và QHSX, quy luật chi phối lẫn nhau của
chúng. Qua đó vận dụng một cách đúng đắn và
sáng tạo vào công cuộc đổi mới ở đất nước ta
trong thời kỳ tiến lên CNXH.
- Sau năm 1986 dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta, nhân dân ta
đã lựa chọn con đường phát triển kinh tế nhiều
thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, điều
này hoàn toàn đúng với quy luật về sự phù hợp
của Quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất bởi lẽ: Trình độ phát triển
LLSX ở nước ta thấp và không đồng đều giữa
các vùng, các ngành kinh tế, ... chính sự không
đồng đều về trình độ phát tiển của lực lượng sản
xuất đã quy định tính đa dạng phong phú của

quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ
tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối
sản phẩm lao động.
Nói cách khác, tính không đồng đều về

trình độ phát triển của LLSX đã quy định tính
đa dạng của QHSX.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng, đại hội đã xác định được các mục tiêu
cụ thể về kinh tế xã hội, đồng thời xác định
được yêu cầu đặt ra là phải bố trí lại cơ cấu sản
xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư. Xây dựng và
củng cố quan hệ sản xuất XHCN, sử dụng và cải
tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Giải pháp
này xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta và
là sự vận dụng quan điểm của Lê nin “coi nền
kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một vấn
đề đặc trưng của thời kỳ quá độ”, Mác cũng
từng viết rằng “những quan hệ xã hội đều gắn
liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do
đó có được những LLSX mới đã thay đổi những
phương thức sản xuất của mình và do đó thay
đổi được phương thức sản xuất…”
Đảng đã chủ trương cải tạo XHCN, xây
dựng XHCN phải tiến hành trên cả 3 mặt: xây
dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế
độ quản lý và chế độ phân phối XHCN.
Trên cơ sở các đường lối đúng đắn của
Đại hội VI, tại đại hội VII, VIII và IX, Đảng ta
tiếp tục chủ trương thực hiện nhất quán và lâu
dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước theo định
hướng XHCN. Bên cạnh đó là tiếp tục phát triển
khoa học, công nghệ, góp phần đưa trình độ của

LLSX tiến lên một bước cao hơn.
Đảng và nhà nước đã vận dụng một cách
triệt để mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và
QHSX để phát triển nền kinh tế nước nhà.
Thực tiễn kinh tế xã hội ở Việt Nam đã
chứng minh được điều này là hoàn toàn đúng
đắn, nó thể hiện ở chỗ giải phóng được LLSX,
năng suất lao động tăng lên, kinh tế xã hội phát
triển, thu hút được nhiều nguồn lực.

10


Câu 4: Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn
cán bộ và nhân dân ta rằng: Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công,
đại thành công. Song triết học Mác - Lê Nin
lại cho rằng: mâu thuẫn là nguồn gốc động
lực của sự vận động và phát triển.
- Hai luận điểm trên có mâu thuẫn với nhau
không?
- Dựa trên lý luận về mâu thuẫn biện chứng của
triết học Mác - Lê Nin và dẫn chứng thực tế,
đồng chí hãy làm rõ ý kiến trả lời của mình ???
- Hai luận điểm trên không mâu thuẫn với nhau
- Phân tích chỉ ra sự khác biệt của mâu thuẫn
biện chứng và mất đoàn kết (Một kiểu mâu
thuẫn thông thường không phải mâu thuẫn biện
chứng)
+ Phân tích làm rõ tính chất khách quan của

mâu thuẫn biện chứng
+ Phân tích làm rõ bản chất của mặt đối lập biện
chứng. Nêu VD cụ thể
+ Phân tích làm rõ bản chất của mâu thuẫn biện
chứng. Nêu VD cụ thể
+ Phân tích làm rõ vai trò của mâu thuẫn biện
chứng là nguồn gốc, động lực vận động và phát
triển của mọi sự vật, hiện tượng. Nêu VD minh
chứng cụ thể
+ Phân tích chỉ ra mất đoàn kết không phải là
mâu thuẫn biện chứng; chỉ ra sự khác nhau giữa
mất đoàn kết và mâu thuẫn biện chứng. Nêu VD
(Lập luận để chứng minh được đoàn kết không
xung đột, loại trừ mâu thuẫn biện chứng)
Trả lời:
- Hai luận điểm trên không mâu thuẫn
với nhau
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập là 2 xu hướng tác động khác nhau của
các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn. Như vậy,
mâu thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả “sự
thống nhất” lẫn “đấu tranh” của các mặt đối lập.
Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
không tách rời nhau, trong quá trình vận động,
phát triển của sự vật, sự thống nhất gắn liền với
sự đứng im, với sự ổn định tạm thời của sự vật.
Sự đấu tranh gắn liền với tính tuyệt đối của sự
vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: sự
thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm


thời ; sự đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt
đối.
Trong sự tác động qua lại của các mặt đối
lập thì đấu tranh của các mặt đối lập quy định
một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang
tác động và làm cho mâu thuẫn phát triển. Lúc
đầu mâu thuẫn mới xuất hiện mâu thuẫn chỉ là
sự khác nhau căn bản, nhưng theo khuynh
hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó càng
ngày càng phát triển đi đến đối lập. Khi hai mặt
đối lập xung đột gay gắt đã đủ điều kiện, chúng
sẽ chuyển hoá lẫn nhau, mâu thuẫn được giải
quyết. Nhờ đó thể thống nhất cũ được thay thế
bằng thể thống nhất mới ; sự vật cũ mất đi sự
vật mới ra đời thay thế. V.I. Lênin viết: “ Sự
phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt
đối lập”. Tuy nhiên, không có thống nhất của
các mặt đối lập thì cũng không có đấu tranh giữa
chúng. Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn
biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ
cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính
thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt
đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi
của sự vật . Do đó mâu thuẫn chính là nguồn
gốc của sự vận động và sự phát triển.
Vì vậy, để chỉ ra rằng hai luận điểm trên
không mâu thuẫn với nhau, ta cần làm rõ rằng
"mâu thuẫn" trong luận điểm của Lê nin là
những tác động cần thiết trong sự vận động và

phát triển, còn "đoàn kết" trong luận điểm của
chủ tịch Hồ Chí Minh là chỉ sự liên kết thông
thường giữa những cá nhân trong tổ chức, tập
thể, mâu thuẫn với luận điểm " đoàn kết " này
chính là "mất đoàn kết" theo một khái niệm đơn
nghĩa, là kiểu mâu thuẫn thông thường giữa
người với người chứ không phải mâu thuẫn biện
chứng, loại mâu thuẫn này thay vì đẩy mạnh sự
vận động và phát triển thì nó lại gây ra những hệ
quả tiêu cực đối với sự vận động, phát triển của
xã hội, làm hạn chế thậm chí là thụt lùi hoạt
động của một tổ chức, một tập thể.
Mâu thuẫn là hiện tượng khách quan và
mang tính phổ biến, là nguồn gốc của sự vận
động và phát triển, phép biện chứng duy vật
khẳng định rằng tất cả các sự vật, hiện tượng tồn
tại trong thực tại khách quan đều chứa đựng

11


trong nó mâu thuẫn. Sự hình thành và phát triển
của mâu thuẫn là do cấu trúc tự thân vốn có bên
trong của sự vật ,hiện tượng quy định. Mâu
thuẫn tồn tại không phụ thuộc vào bất cứ hiện
tượng siêu nhiên nào, kể cả ý chí của con
người. Mỗi sự vật, hiện tượng đang tồn tại đều
là một thể thống nhất các khuynh hướng, các
thuộc tính phát triển ngược chiều nhau, đối lập
nhau. Sự liên hệ, tác động qua lại, đấu tranh

chuyển hoá, bài trừ và phủ định lẫn nhau, tạo
thành động lực bên trong của mọi quá trình vận
động và phát triển khách quan của chính bản
thân các sự vật hiện tượng, mâu thuẫn do các
mặt đối lập tạo nên.
Các mặt đối lập được hiểu là những mặt
có đặc điểm hoặc có khuynh hướng vận động
ngược chiều nhau tồn tại trong cùng sự vật hay
hệ thống sự vật, tác động qua lại với nhau tạo
nên sự vận động và biến đổi của sự vật.
Ví dụ: Sản xuất và tiêu dùng trong hoạt
động kinh tế.
Mọi hoạt động kinh tế đều có mặt sản
xuất và mặt tiêu dùng, chúng thống nhất với
nhau tạo thành một chỉnh thể nhưng đồng thời
cũng luôn tác động, bài trừ nhau. Hoạt động sản
xuất tạo ra sản phẩm còn hoạt động tiêu dùng thì
lại triệt tiêu sản phẩm. Tuy nhiên, hoạt động tiêu
dùng mang lại lợi ích kinh tế, đảm bảo đủ nguồn
kinh phí cho bên sản xuất, đảm bảo được nguồn
kinh phí sản xuất sẽ tạo ra các sản phẩm phục vụ
cho hoạt động tiêu dùng.
Chính những mặt đối lập nằm trong sự
liên hệ, tác động qua lại với nhau tạo nên mâu
thuẫn biện chứng, như vậy, mâu thuẫn biện
chứng là sự thống nhất và đấu tranh giữa các
mặt đối lập biện chứng.
Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự
nương tựa vào nhau, làm điều kiện và tiền đề
tồn tại cho nhau, đồng thời là sự đồng nhất, phù

hợp tác động ngang nhau, chuyển hóa lẫn nhau,
không có mặt đối lập này thì không có mặt đối
lập kia, bên cạnh sự thống nhất, giữa các mặt
đối lập còn tồn tại sự đấu tranh là sự tác động
lẫn nhau, sự bài trừ, phủ định lẫn nhau, sự triển
khai của các mặt đối lập.

Sự thống nhất của các mặt đối lập là
tương đối, còn sự đấu tranh của các mặt đối lập
là tuyệt đối.
Mâu thuẫn giữ vai trò là nguồn gốc, động
lực vận động và phát triển, bởi vì, Biến đổi, phát
triển chính là một quá trình sự vật này chuyển
thành sự vật khác, giai đoạn này chuyển sang
giai đoạn khác của một sự vật. Mỗi sự vật đều
thường bao hàm trong nó nhiều mâu thuẫn: bên
trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ
yếu và thứ yếu,... giữa các mặt đối lập đó vừa có
tính thống nhất với nhau vừa diễn ra quá trình
đấu tranh với nhau (trong sự thống nhất có sự
đấu tranh và đấu tranh trong tính thống nhất).
+ Tính chất thống nhất giữa các mặt đối
lập trong mỗi mâu thuẫn có tác dụng làm cho sự
vật còn ổn định tương đối ở một chất nhất định,
chưa biến đổi thành cái khác.
+ Nhưng giữa chúng không chỉ có sự
thống nhất tương đối mà còn luôn diễn ra sự đấu
tranh giữa các mặt đối lập - đấu tranh giữa
chúng là tuyệt đối. Chính sự đấu tranh đó đã dẫn
tới sự chuyển hoá giữa các mặt đối lập. Sự

chuyển hoá này trực tiếp làm cho sự vật chuyển
hoá thành cái khác (giai đoạn khác, sự vật khác).
Theo ý nghĩa ấy, phát triển được hiểu là cuộc
đấu tranh của (giữa) các mặt đối lập.
Ví dụ, quá trình phát triển của các giống
loài (thực vật, động vật) là quá trình làm phát
sinh giống loài mới từ giống loài cũ nhờ kết quả
tất yếu của quá trình thống nhất, đấu tranh và
chuyển hoá của các mặt đối lập: đồng hoá và dị
hoá, di truyền và biến dị; giữa các giống loài
vừa nương dựa vào nhau để tồn tại, vừa đấu
tranh sinh tồn khốc liệt với nhau và dẫn đến sự
loại bỏ tự nhiên đối với những nhân tố không
phù hợp với hoàn cảnh môi trường.
-Mất đoàn kết là một hiện tượng của xã
hội, nó chỉ trạng thái mối quan hệ giữa con
người với con người khi xảy ra những bất đồng
về lợi ích, mất đoàn kết thể hiện ở chỗ, con
người sẽ cản trở lẫn nhau, bài trừ lẫn nhau, đấu
tranh lẫn nhau. Như vậy, ở đây ta thấy rõ rằng,
“mâu thuẫn” trong quan điểm của Mác - Lê nin
là “mâu thuẫn” mang ý nghĩa triết học khi nói
về nguồn gốc và động lực của sự phát triển, còn
“đoàn kết” trong luận điểm của Hồ Chí Minh là

12


để nói về mối quan hệ, mức độ tình cảm cần
phải có giữa người với người trong một tập thể,

một tổ chức, để tập thể, tổ chức đó có đủ sức
mạnh để tiếp tục phát triển. Như vậy, “đoàn kết”
không xung đột, cũng không loại trừ “mâu thuẫn
biện chứng”, để làm rõ nội dung này, cần phải
nhìn nhận từ góc độ xã hội và sự phát triển của
xã hội.
Đoàn kết là một hiện tượng nhiều người
liên kết thành một khối thống nhất cùng hoạt
động vì mục đích chung. Khái niệm đoàn kết có
khi còn được hiểu là: đồng tâm, hiệp lực, tề tâm
nhất trí, liên hợp, kết hợp... Đoàn kết còn là sự
tập hợp mọi lực lượng cá thể thành lực lượng
tập thể của cả cộng đồng, nhưng đó không phải
là một sự tập hợp tự phát, giản đơn, ô hợp. Khái
niệm đoàn kết hàm chứa những nội hàm phong
phú. Đoàn kết hiểu theo nghĩa chung nhất là sự
đồng tâm, hợp lực của một cộng đồng người
cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, gian khổ
nhằm đạt tới mục đích chung nhất.
Từ góc độ xã hội, đoàn kết là sự đồng
thuận của các thành viên trong xã hội,
mọi người chấp nhận nhau và thuận lòng gắn bó
với nhau để cùng hành động cho một mục
tiêu chung. Cho dù còn có sự khác biệt nhất
định, nhưng mọi thành viên sẵn sàng đồng
tình hành động vì một mục tiêu chung; trong
mục tiêu chung đó, mọi người đều tìm thấy lợi
ích của mình, tìm thấy chỗ đứng của mình trong
dòng chảy của lịch sử và được xã hội thừa nhận,
tôn trọng.

Mỗi quốc gia, dân tộc trong mỗi giai
đoạn phát triển của mình đều tìm kiếm và phát
huy những động lực để đưa đất nước mình
không ngừng tiến lên. Các động lực phát triển ở
mỗi quốc gia không hoàn toàn giống nhau và để
phát triển, mỗi quốc gia đều phải vượt qua
những trở ngại và giải quyết những mâu thuẫn
của riêng mình. Có thời kỳ ở nước ta và nhiều
nước khác đã coi đấu tranh giai cấp là động lực
thúc đẩy sự phát triển xã hội, nhưng trên thực tế,
nhiều cuộc đấu tranh gay go, ác liệt giữa các
nhóm, các tầng lớp dân cư trong xã hội chẳng
những không thúc đẩy sự phát triển của xã hội
mà còn kìm hãm sự phát triển xã hội vì xã hội
đã mất đi những nguồn nhân lực, tài lực quý giá.

Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản
Việt
Nam
đã
khẳng
định
một quan điểm lớn: “Động lực chủ yếu để phát
triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở
liên minh giữa công nông với nông dân và trí
thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hoà các lợi
ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm
năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế
toàn xã hội”; nó phản ánh đúng quy luật khách
quan của đất nước, khắc phục được sai lầm của

quan điểm trước đây là cường điệu động lực đấu
tranh giai cấp, đồng thời mở ra một triển vọng
mới cho sự phát triển không ngừng của đất
nước. Đến Đại hội lần thứ X, Đảng ta tiếp tục
khẳng định quan điểm lớn này: “Đại đoàn kết
dân tộc trên nền tảng liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí
thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng, là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn
sức mạnh, là động lực chủ yếu và là nhân tố có
ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi bền vững
của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Với những lập luận trên, ta khẳng định hai luận
điểm của: Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ
và nhân dân ta rằng: Đoàn kết, đoàn kết, đại
đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành
công và triết học Mác - Lê Nin rằng: mâu thuẫn
là nguồn gốc động lực của sự vận động và phát
triển. Không mâu thuẫn,xung đột hoặc loại trừ
lẫn nhau.

13


* Định nghĩa Thực tiễn: Thực tiễn là
toàn bộ những hoạt động vật chất – cảm tính, có
tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo
tự nhiên và xã hội

Câu 5: Quan điểm của Triết học Mác - Lê

Nin về thực tiễn và các hình thức cơ bản
của thực tiễn ???
- Vị trí vai trò việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý
luận triết học
+ Thực tiễn là vấn đề số một của nhận thức Mác
xít
+ Đây là bước ngoặt cách mạng trong triết học
- Nêu và phân tích đặc trưng của thực tiễn
- Nêu và phân tích 3 hình thức cơ bản của thực
tiễn
+ Sản xuất cảu cải vaạt chất (lao động sản xuất)
+ Chính trị - xã hội
+ Thực nghiệm khoa học
Trả lời:
1. Vị trí vai trò việc đưa phạm trù thực
tiễn vào lý luận triết học

Phạm trù thực tiễn là một trong những
phạm trù trung tâm, nền tảng, cơ bản của toàn
bộ triết học Mác-Lênin. Theo quan điểm của
chủ nghĩa Mác-Lênin, con người tự làm ra lịch
sử của mình, nhưng không phải bắt đầu bằng
hoạt động lý luận, mà là bằng hoạt động thực
tiễn cải tạo thế giới hiện thực. Chính các nhà
sáng lập chủ nghĩa Mác-Lênin là những người
đầu tiên trong lịch sử triết học đã đưa thực tiễn
vào lý luận nhận thức và đưa ra quan điểm đúng
đắn về bản chất của thực tiễn. Do đó, đã đem lại
một quan niệm khoa học về vai trò, ý nghĩa của
thực tiễn đối với nhận thức cũng như đối với sự

tồn tại và phát triển của xã hội loài người. V.I.
Lênin viết rằng: “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của lý luận về nhận thức”.

Các nhà triết học duy tâm chỉ hiểu thực
tiễn như là hoạt động tinh thần chứ không hiểu
nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật
chất cảm tính của con người;

2. Đặc trưng của thực tiễn

Trước khi triết học Mác ra đời, các nhà
triết học duy vật đã có nhiều đóng góp cho quan
điểm duy vật về nhận thức. Tuy nhiên chưa có
một đại biểu duy vật nào trước Mác hiểu đúng
được bản chất của thực tiễn cũng như vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức.

* Nếu xem xét thực tiễn theo chiều ngang
thì thực tiễn gồm những nội dung sau:
- Thứ nhất, Thực tiễn không phải bao gồm
toàn bộ hoạt động của con người (hoạt động vật
chất; hoạt động tinh thần, hoạt động lý luận;
hoạt động bảo sinh tồn giống nòi) mà chỉ là
những hoạt động vật chất - cảm tính, như lời của
Mác, đó là hoạt động vật chất cảm tính của con
người. Nghĩa là con người có thể quan sát trực
quan được các hoạt động vật chất này. Hoạt
động vật chất - cảm tính là những hoạt động mà

con người phải sử dụng lực lượng vật chất, công
cụ vật chất tác động vào các đối tượng vật chất
để làm biến đổi chúng. Trên cơ sở đó, con người
mới làm biến đổi được thế giới khách quan và
biến đổi chính bản thân mình.

Các nhà triết học thực dụng đã quan tâm
nhiều tới hoạt động thực tiễn của con người, tuy
nhiên thực tiễn được học hiểu là phản ứng của
con người trước hoàn cảnh một cách hiệu quả
nhất. Hệ quả là để phản ứng một cách hiệu quả
trước hoàn cảnh, con người không cần quan tâm
tới chân lý hay sai lầm, thiện hay không thiện,
đẹp hay không đẹp, chỉ cần quan tâm tới hiệu
quả hay không hiệu quả. Quan niệm này dễ dẫn
tới việc lấy mục tiêu biện hộ cho hành động, dễ
dẫn tới chủ nghĩa thực dụng.

- Thứ hai, hoạt động thực tiễn là những
hoạt động mang tính lịch sử - xã hội của con
người. Nghĩa là, thực tiễn là hoạt động chỉ diễn
ra trong xã hội, với sự tham gia của đông đảo
người trong xã hội. Trong hoạt động thực tiễn
con người truyền lại cho nhau những kinh
nghiệm từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cũng vì

Kế thừa những yếu tố hợp lý, khắc phục
những hạn chế trong quan niệm về thực tiễn của
các nhà triết học trước đó trong lịch sử, C.Mác
và Ph.Awngghen đã đưa ra một quan điểm đúng

đắn, khoa học về thực tiễn cũng như vai trò của
thực tiễn đối với nhận thức.

14


vậy, hoạt động thực tiễn luôn bị giới hạn bởi
những điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể. Đồng
thời, thực tiễn có trải qua các giai đoạn lịch sử
phát triển cụ thể.

định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài
người và quyết định các hình thức khác của hoạt
động thực tiễn; Bởi lẽ ngay từ khi xuất hiện trên
trái đất, con người đã phải tiến hành sản xuất vật
chất dù là giản đơn để đáp ứng nhu cầu tồn tại.
Sản xuất vật chất biểu thị mối quan hệ của con
người với tự nhiên, là phương thức tồn tại cơ
bản của con người và xã hội loài người. Không
có sản xuất vật chất, con người và xã hội loài
người không thể tồn tại và phát triển. Sản xuất
vật chất còn là cơ sở cho sự tồn tại của các hình
thức thực tiễn khác cũng như tất cả các hoạt
động sống khác của con người.

- Thứ ba, Thực tiễn là những hoạt động có
tính mục đích nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội
phục vụ con người. Khác với hoạt động có tính
bản năng, tự phát của động vật nhằm thích nghi
thụ động với thế giới, con người bằng và thông

qua hoạt động thực tiễn, chủ động tác động cải
tạo thế giới để thỏa mãn nhu cầu của mình, thích
nghi một cách chủ động, tích cực với thế giới.
Như vậy, nói tới thực tiễn là nói tới hoạt động có
tính tự giác cao của con người, khác với hoạt
động bản năng thụ động của động vật.

* Hình thức cơ bản thứ hai của hoạt động
thực tiễn là hoạt động chính trị - xã hội. Đây là
hoạt động thực tiễn thể hiện tính tự giác cao của
con người nhằm biến đổi, cải tạo xã hội, phát
triển các thiết chế xã hội, các quan hệ xã hội…
Hình thức hoạt động này xuất hiện khi xã hội
phân chia thành giai cấp, đó là hoạt động đấu
tranh giai cấp, đấu tranh giải phóng dân tộc, đấu
tranh cho hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội, đấu
tranh cảu tạo quan hệ chính trị - xã hội nhằm tạo
ra môi trường xã hội dân chủ, lành mạnh, thuận
lợi cho con người và cho xã hội phát triển.
Thiếu hình thức hoạt động thực tiễn này, con
người và xã hội loài người cũng không thể phát
triển bình thường.

* Nếu cắt theo chiều dọc, thực tiễn bao giờ
cũng bao gồm mục đích, phương tiện và kết quả.
Mục đích được nảy sinh từ nhu cầu và lợi ích,
nhu cầu xét đến cùng được nảy sinh từ điều kiện
khách quan. Lợi ích chính là cái thỏa mãn nhu
cầu. Để đạt được mục đích con người trong hoạt
động thực tiễn của mình phải lựa chọn phương

tiện, công cụ để thực hiện. Kết quả phụ thuộc
vào nhiều nhân tố nhưng trước hết là phụ thuộc
vào mục đích đặt ra và phương tiện mà con
người sử dụng để thực hiện mục đích.
Tóm lại, Thực tiễn là hoạt động thể hiện
tính mục đích, tính tự giác cao của con người chủ động tác động làm biến đổi tự nhiên, xã hội,
phục vụ con người, khác với những hoạt động
mang tính bản năng thụ động của động vật nhằm
thích nghi với hoàn cảnh. Hoạt động thực tiễn là
hoạt động cơ bản, phổ biến của con người và xã
hội loài người, là phương thức cơ bản của mối
quan hệ giữa con người với thế giới.

* Hoạt động thực nghiệm khoa học là
hình thức đặc biệt của hoạt động thực tiễn. Bởi
lẽ, trong hoạt động thực nghiệm khoa học, con
người chủ động tạo ta những điều kiện không có
sẵn trong tự nhiên để tiến hành thực nghiệm
khoa học theo mục đích mà chính mình đã đề ra.
Trên cơ sở đó, vận dụng những thành tựu khoa
học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất vật chất,
vào cải tạo chính trị - xã hội. Cần chú ý rằng:
chỉ có hoạt động thực nghiệm khoa học, chứ
không phải toàn bộ hoạt động khoa học là hoạt
động thực tiễn, vì trong hoạt động khoa học, có
hoạt động lý luận. Thực nghiệm là hình thức đặc
biệt của thực tiễn bao gồm: thực nghiệm sản
xuất , thực nghiệm khoa học, thực nghiệm xã
hội cũng biến đổi giới tự nhiên và xã hội. Đó là
hoạt động của con người được tiến hành trong

những điều kiện “ nhân tạo” nhằm rút ngắn “độ

3. Các hình thức cơ bản của hoạt động
thực tiễn:
Thực tiễn bao gồm ba hình thức cơ bản:
Hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị
- xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học.
- Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức
thực tiễn có sớm nhất, cơ bản nhất, quan trọng
nhất. Đây là hình thức hoạt động thực tiễn
nguyên thủy nhất và cơ bản nhất, vì nó quyết

15


dài” của quá trình con người nhận thức và cải
tạo thế giới.
Trên cơ sở những hình thức cơ bản này,
những hình thức không cơ bản của thực tiễn
được hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các
hoạt động trong một số lĩnh vực như nghệ thuật,
giáo dục, y tế,… Sở dĩ gọi là “ không cơ bản”
không phải vì hình thức này kém quan trọng, mà
chỉ vì chúng được hình thành và phát triển từ
những hình thức cơ bản, chúng phụ thuộc vào
những hình thức hoạt động cơ bản, chúng là
những hình thức thực tiễn phát sinh.
Tóm lại, Ba hình thức thực tiễn cơ bản
trên có quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng
qua lại lẫn nhau. Trong đó, sản xuất vật chất

đóng vai trò quan trọng, quyết định hai hình
thức thực tiễn còn lại. Tuy nhiên, hai hình thức
thực tiễn còn lại có ảnh hưởng quan trọng tới
sản xuất vật chất. Điều này thể hiện rõ ở chỗ,
nếu xã hội không ổn định thì sản xuất vật chất
cũng không thể phát triển. Thực nghiệm khoa
học phát triển sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới năng
suất, chất lượng, hiệu quả của sản xuất vật chất.

16


- Tính độc lập tương đối của ý thức xã
hội: Xét đến cùng ý thức xã hội là do tồn tại xã
hội quyết định, song trong quá trình vận động ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối. Nội dung
này được thể hiện ở những điểm sau:
+ Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn
tại xã hội:
Sự lạc hậu của ý thức xã hội được biểu
hiện rất rõ trong quá trình phát triển của xã hội.
Lịch sử phát triển xã hội đã minh chứng, nhiều
khi tồn tại xã hội của xã hội cũ mất đi, thậm chí
mất đi rất lâu, song ý thức xã hội cũ vẫn còn tồn
tại lâu dài, dai dẳng. Sự lạc hậu của ý thức xã
hội được biểu hiện rõ ràng nhất thông qua thói
quen, tập quán, lối sống... của cá nhân và xã hội.
V.I.Lênin cho rằng, sức mạnh của tập quán được
tạo ra qua nhiều thế kỷ là sức mạnh ghê gớm
nhất. Khuynh hướng lạc hậu của ý thức xã hội

cũng biểu hiện rõ trong điều kiện của chủ nghĩa
xã hội. Nhiều hiện tượng ý thức có nguồn gốc
sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại trong xã hội
mới như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham
nhũng, v.v..
Ví dụ: Phương thức sản xuất của nền
kinh tế tiểu nông riêng rẽ, manh mún dẫn đến
cách nghĩ cũng vụn vặt, lẻ tẻ, không có tầm nhìn
xa, không có tính chiến lược, yên phận với cuộc
sống, kém tính tổ chức, kỷ luật, xa lạ với lối tư
duy của văn minh công nghiệp, thích sự ổn định,
an phận, dễ rơi vào tâm lý thiển cận; thói quen
dựa vào kinh nghiệm, khó tiếp thu cái mới, ngại
đổi mới. Từ đó dẫn đến một lối ứng xử co cụm
“đèn nhà ai, nhà ấy rạng, thiếu tinh thần hợp tác,
tinh thần trách nhiệm, thờ ơ với cộng đồng ở
một bộ phận người Việt. Nét tâm lý này là hệ
quả tất yếu của nền sản xuất phát triển ở trình độ
thấp. Họ suy nghĩ, hành động, ứng xử và cảm
nhận mọi việc theo thói quen. Đây là một hạn
chế lớn trong lối sống của người dân Việt Nam,
là lực cản trở họ trong quá trình mở cửa hội
nhập và giao lưu với quốc tế để phát triển.

Câu 6. vận dụng quan điểm của triết
học Mác - Lê nin, hãy nêu dẫn chứng thực tế
về sự lạc hậu của ý thức trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước; phân tích nguyên nhân và đề
xuất giải pháp khắc phục sự lạc hậu của ý
thức xã hội ?

- Nêu biểu hiện cơ bản sự lạc hậu của YTXH
trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước
+ Biểu hiện lạc hậu trong tâm lý XH
+ Biểu hiện lạc hậu trong thói quen, truyền
thống văn hóa
+ Lạc hậu trong tư tưởng, tư duy
- Phân tích nguyên nhân cơ bản
+ Nguyên nhân phản ánh
+ Tính bảo thủ của một số hình thức
+ Logic vận động của mỗi hình thái ý thức XH
(Chính trị, đạo đức, tôn giáo...)
+ Quan hệ lợi ích
- Đề xuất các giải pháp khắc phục sự lạc hậu của
YTXH
+ Biện pháp khắc phục nguyên nhân phản ánh
của ý thức XH
+ Biện pháp khắc phcuj tính bảo thủ của ý thức
XH
+ Biện pháp phát huy yếu tố truyền thống, tích
cực trong loogic vận động của mỗi hình thái
YTXH
+ Biện pháp khắc phục quan hệ lợi ích kìm hãm
sự phát triển của YTXH
+ Đề xuất các điều kiện tổ chức thực hiện các
biện pháp nêu trên...
Trả lời:
Ý thức xã hội: là mặt tinh thần của đời
sống xã hội bao gồm toàn bộ những quan điểm,
tư tưởng cùng tình cảm, tâm trạng,...của cộng
đồng xã hội, nảy sinh từ tồn tại xã hội trong

những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử
xã hội.
- Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội;
ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội:
+ Tồn tại xã hội là cơ sở khách quan,
nguồn gốc hình thành ý thức xã hội;
+ Xét đến cùng tồn tại xã hội quyết định
nội dung, tính chất của ý thức xã hội;
+ Khi tồn tại xã hội thay đổi, ý thức xã
hội cũng thay đổi theo.

Sự kém phát triển của cơ sở hạ tầng và
phương tiện giao thông cùng với cuộc sống bấp
bênh, nghèo khó đã kìm hãm việc mở rộng mối
quan hệ, đây là điều kiện thuận lợi để nẩy sinh
và nuôi dưỡng lối sống cục bộ địa phương, chỉ

17


nhìn thấy lợi ích trước mắt, lợi ích cục bộ,
không nhìn thấy lợi ích lâu dài, lợi ích toàn bộ.

hội có thể không phản ánh kịp và trở nên lạc
hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn
tại xã hội nên nói chung chỉ biến đổi sau khi có
sự biến đổi của tồn tại xã hội.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền
thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo
thủ của một số hình thái ý thức xã hội

Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích
của những nhóm, những tập đoàn người, những
giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy, những tư
tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã
hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm
chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
Những ý thức lạc hậu, tiêu cực không
mất đi một cách dễ dàng. Vì vậy, trong sự
nghiệp CNH, HĐH phải thường xuyên tăng
cường công tác tư tưởng, đấu tranh chống lại
những âm mưu và hành động phá hoại của
những lực lượng thù địch về mặt tư tưởng, kiên
trì xoá bỏ những tàn dư ý thức cũ, đồng thời ra
sức phát huy những truyền thống tư tưởng tốt
đẹp.
+ Tính kế thừa trong sự phát triển của ý
thức xã hội:
Sự phát triển của lịch sử xã hội là một
dòng chảy liên tục, thời đại sau kế thừa những
thành tựu sản xuất vật chất và mọi mặt hoạt
động khác của những thời đại trước. Vì vậy, ý
thức xã hội trong quá trình phát triển bao giờ
cũng có tính kế thừa, phản ánh tính liên tục của
quá trình nhận thức, tư duy của các thế hệ. Tính
kế thừa là một trong những quy luật của sự phát
triển của ý thức xã hội.
+ Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý
thức xã hội:
Ý thức xã hội biểu hiện dưới nhiều hình
thái khác nhau; mỗi hình thái phản ánh những

mặt nhất định của đời sống vật chất của xã hội,
theo những phương thức phản ánh riêng và thực
hiện những chức năng xã hội nhất định. Trong
sự phát triển của chúng, các hình thái ý thức xã
hội luôn tác động qua lại, chi phối ảnh hưởng
nhau một cách biện chứng. Đây là một trong
những quy luật phát triển của ý thức xã hội.
- Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối
với tồn tại xã hội:

Mặt khác, người dân sống ở từng vùng,
từng miền trên đất nước Việt Nam lại có những
phong tục, tập quán, lối sống, tính cách, tâm lý
riêng, cho nên sự hoà đồng không phải bao giờ
cũng thuận lợi, trong nhiều trường hợp còn có
sự khác biệt giữa xã này với xã khác, tỉnh này
biệt lập với tỉnh khác. Thậm chí, ngay cả trong
phạm vi một làng thì xóm này cũng biệt lập với
xóm khác, dòng họ này cũng biệt lập với dòng
họ khác. Đây là mảnh đất tốt để lối sống cục bộ
địa phương nảy sinh và phát triển. Nó chi phối
hành vi, thái độ, cách ứng xử hàng ngày. Trong
một số trường hợp, họ chăm lo lợi ích nhỏ hẹp
của gia đình, họ hàng, làng xã... mà quên đi lợi
ích của quốc gia, dân tộc.
+ Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại
xã hội:
Ý thức xã hội không chỉ phản ánh tồn tại
xã hội như cái hiện tại mà với khả năng của ý
thức, tư duy của con người có khả năng phản

ánh bản chất quy luật của sự vật, hình thành nên
những lý thuyết khoa học. Những lý thuyết và
học thuyết khoa học này có thể dẫn đường cho
tồn tại xã hội phát triển, có thể dự đoán được
tương lai. Những nội dung này, được gọi là tính
tiên tiến (hay tính vượt trước) của ý thức xã hội.
Khi nói tư tưởng tiên tiến có thể vượt
trước tồn tại xã hội, dự kiến được quá trình
khách quan của sự phát triển xã hội không có
nghĩa nói rằng, trong trường hợp này ý thức xã
hội không còn bị tồn tại xã hội quyết định nữa
mà theo quy luật, tư tưởng khoa học dù có tiên
tiến đến đâu cũng không được xa rời khỏi tồn tại
xã hội, xa rời cơ sở vật chất đã sản sinh ra nó.
Tư tưởng đó chỉ được chấp nhận là đúng đắn,
tiên tiến và khoa học khi nó thực sự phản ánh
chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội và được thực
tiễn kiểm nghiệm.
Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với
tồn tại xã hội là do:
Một là, sự biến đổi của tồn tại xã hội do
tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp
của những hoạt động thực tiễn của con người,
thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã

18


Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những
bác bỏ quan điểm duy tâm tuyệt đối hoá vai trò

của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ quan điểm duy
vật tầm thường phủ nhận tác dụng tích cực của ý
thức xã hội trong đời sống xã hội.
+ Sự tác động trở lại của ý thức xã hội
đối với tồn tại xã hội diễn ra theo hai chiều
hướng: ý thức xã hội tiến tiến góp phần làm thúc
đẩy sự phát triển của xã hội; ngược lại ý thức xã
hội lỗi thời lạc hậu làm kìm hãm sự phát triển
của xã hội.
+ Sự tác động trở lại của ý thức xã hội
đối với tồn tại xã hội bao giờ cũng phải thông
qua hoạt động thực tiễn của con người. Tính
chất và hiệu quả của sự tác động trở lại của ý
thức xã hội đối với tồn tại xã hội phụ thuộc vào
các điều kiện sau: vai trò lịch sử (tiến bộ hay lạc
hậu) của giai cấp đề ra tư tưởng đó; trình độ
phù hợp của tư tưởng đó với hiện thực; mức độ
truyền bá những tư tưởng đó trong quần chúng.

Hai là, nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, tự
cấp, tự túc,… là cơ sở để tạo nên lối sống tiểu
nông. Hiện nay, mặc dù nền kinh tế nước ta là
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
nhưng về cơ bản phương thức sản xuất của
người nông dân Việt Nam vẫn chủ yếu là nền
sản xuất nhỏ với công cụ thô sơ, lạc hậu. Mặt
khác, nền kinh tế thị trường là vấn đề còn rất
mới mẻ so với lịch sử hàng ngàn năm của nền
kinh tế nông nghiệp tự túc, tự cấp ở nước ta,
Hơn nữa, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã

tạo cơ hội cho những tiêu cực trong kinh tế - xã
hội phát sinh và có nguy cơ trầm trọng hơn. Đó
là mảnh đất màu mỡ cho những thói quen phong
tục, tập quán, những trạng thái, nhu cầu tâm lý
có tính tiêu cực của người nông dân có cơ hội
hồi sinh.
Ba là, những biến đổi hết sức quan trọng
trong nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt chủ
trương đưa kinh tế nông nghiệp vận hành theo
cơ chế thị trường định hướng XHCN, đưa nông
nghiệp, nông dân, nông thôn hội nhập nhanh
chóng vào sự nghiệp CNH, HĐH kinh tế - xã
hội của cả nước, làm thay đổi nhanh chóng bộ
mặt kinh tế - xã hội nông thôn, tác động mạnh
mẽ tới người nông dân và làm nảy sinh, xuất
hiện những biểu hiện mới trong lối sống của họ.
Nhưng, những biểu hiện này lại chưa có sức lan
tỏa mạnh trong mỗi người dân Việt Nam nói
chung và người nông dân nói riêng. Vì vậy,
những hạn chế trong lối sống tiểu nông vẫn còn
đất để tồn tại, phát triển.

Nguyên nhân lạc hậu của ý thức xã hội
Đời sống tinh thần, ý thức con người
không phải là sản phẩm của ý muốn chủ quan
của cá nhân hay một nhóm người nào đó mà là
sản phẩm của xã hội - lịch sử, bị quy định bởi
các điều kiện khách quan, nó chịu sự tác động,
ảnh hưởng của các điều kiện sống, lao động,
sinh hoạt ''vật chất” của xã hội. Khẳng định

nguồn gốc hình thành ý thức của con người, Các
Mác – Ph.Ăngghen nhấn mạnh: không phải ý
thức của con người quyết định tồn tại của họ;
trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức
của họ. Nhưng, mặc dù đất nước ta đã có nhiều
thay đổi, đặc biệt là sự thay đổi to lớn về kinh
tế, song những mặt hạn chế, tiêu cực của lối
sống tiểu nông không những không mất đi mà
còn trở nên nghiêm trọng hơn, bởi lẽ:

Bốn là, mặc dù tốc độ đô thị hóa của Việt
Nam tương đối nhanh nhưng hiện nay vẫn còn
hơn 70% dân số sống ở khu vực nông thôn. Mặt
khác, đặc điểm nổi bật của nền văn hóa nước ta
là văn hóa làng xã, cho nên giữa những người
thành thị và nông thôn vẫn tồn tại nhiều mối
quan hệ khăng khít và đan xen nhau, có nhiều
quan hệ mang đậm nét tâm lý tiểu nông như
quan hệ họ hàng, dòng tộc, gia đình… Hơn nữa,
việc khôi phục lại các di tích văn hóa như đền,
chùa, miếu… gắn liền với những sinh hoạt tín
ngưỡng diễn ra trong những năm qua, bên cạnh
mặt tích cực còn có những hạn chế từ các phong
tục, tập tục cũ. Tất cả điều đó đã tạo điều kiện,

Một là, lối sống tiểu nông được hình thành
và tồn tại dưới tác động của một loạt các nhân tố
(kinh tế, xã hội, lịch sử và văn hóa…) gắn kết
với nhau qua hàng ngàn năm lịch sử, do đó nó
có tính kế thừa, trở thành tập quán, thói quen; vì

vậy, nó có sức mạnh cũng như có tính bảo thủ
và sức ỳ rất lớn.

19


môi trường dung dưỡng cho những mặt tiêu cực
trong lối sống tiểu nông hồi sinh, phát triển…
Điều này đã cắt nghĩa vì sao mặt tiêu cực trong
lối sống tiểu nông không những không bị mất đi
mà còn phát triển mạnh mẽ hơn khi điều kiện
cuộc sống về vật chất và tinh thần ngày càng
được nâng cao.

cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và
năng lực tổ chức để đủ giải quyết các vấn đề do
thực tiễn cách mạng đặt ra". Tuy nhiên, sự
nghiệp đổi mới ở nước ta dưới sự lãnh đạo của
Đảng là sự nghiệp mới mẻ trong điều kiện thế
giới nhiều biến động do vậy trung thành với chủ
nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không
có nghĩa là thực hiện rập khuôn máy móc những
tư tưởng, quan điểm của các nhà kinh điểm mà
là cần vận dụng sáng tạo trong điều kiện của
thời đại mới.
Xây dựng đời sống văn hóa tinh thần với
những hệ chuẩn giá trị: đạo đức, pháp luật, thẩm
mỹ: Văn hoá tinh thần, là toàn bộ những giá trị,
những hoạt động, những quan hệ tinh thần có
tính chất bền vững, ổn định và được định hình

theo những cách thức, chuẩn mực đặc thù của
một dân tộc, quốc gia. Trên bình diện văn hóa
tinh thần sẽ hình thành nên hệ thống chuẩn mực
về giá trị để cho đời sống văn hóa tinh thần vận
hành phù hợp với sự phát triển xã hội. Hệ thống
chuẩn mực đó là:
+ Chuẩn mực đạo đức, Đảng Cộng sản Việt
Nam chủ trương xây dựng nền đạo đức mới xã hội
chủ nghĩa với đặc trưng cơ bản: chủ nghĩa nhân đạo,
chủ nghĩa tập thể; đồng thời, phát huy tinh hoa văn
hóa truyền thống dân tộc: yêu nước, đoàn kết, tránh
nhiệm, cần cù, yêu lẽ phải, ghét sự giả dối...
+ Chuẩn mực pháp luật, đó là việc hình
thành những quy tắc ứng xử có tính chất bắt buộc
chung do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận, được
bảo đảm thực hiện bằng nhà nước, thể hiện ý chí
của nhà nước trên cơ sở ghi nhận các yêu cầu thực
tiễn của xó hội, các lợi ích xã hội, điều chỉnh các
quan hệ xã hội nhằm xác lập trật tự ổn định và phát
triển xã hội. Hệ thống chuẩn mực của pháp luật
nước ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng. Đây là hệ tư tưởng không chỉ đại diện, phản
ánh lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn phản ánh
lợi ích của nhân dân lao động, bảo vệ cơ sở kinh tế
của chủ nghĩa xã hội và trật tự xã hội chủ nghĩa.
Pháp luật xã hội chủ nghĩa là công cụ bảo vệ chủ
nghĩa xã hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của cá nhân,
của mọi giai tầng trong xã hội.
+ Chuẩn mực thẩm mỹ, đó là toàn bộ
những cảm xúc, thị hiếu, quan điểm và lý tưởng

thẩm mỹ. Con người nhận thức, đánh giá theo

Năm là, do cơ chế chính sách, pháp luật
của chúng ta chưa đồng bộ, vẫn còn nhiều kẽ
hở, việc thực thi luật pháp chưa nghiêm nên
chưa tạo ra được sự răn đe đối với các hiện
tượng tiêu cực như làm ăn phi pháp, coi thường
kỷ cương, phép nước… Điều này càng tạo điều
kiện để dung dưỡng cho những nét tâm lý tiêu
cực trong lối sống tiểu nông tồn tại và phát triển.
Sáu là, một bộ phận không nhỏ người nông
dân còn thiếu và yếu kiến thức về các lĩnh vực
như: kinh tế, pháp luật, xã hội…; chưa thích
ứng, năng động, nhạy bén với những hoạt động
trong nền kinh tế thị trường hiện nay, với xu thế
toàn cầu hóa và hội nhập trên thế giới.
Xây dựng đời sống tinh thần
- Đời sống tinh thần xã hội được hiểu
như là tất cả những giá trị, sản phẩm, hiện
tượng, những quá trình, những hoạt động, những
quan hệ tinh thần của con người phản ánh đời
sống vật chất xã hội và được thể hiện như là một
phương thức hoạt động và tồn tại tinh thần của
con người trong những giai đoạn phát triển lịch
sử nhất định..
- Xây dựng đời sống tinh thần dựa trên
nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh:
+ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991

của Đảng đã khẳng định: "Đảng lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim
chỉ nam cho hành động"; làm cho thế giới quan
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí
chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội". Tiếp
theo tinh thần trên, Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển 2011) khẳng định: "Đảng
phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng

20


quan điểm thẩm mỹ tất cả các sự kiện và hiện
tượng của tự nhiên, của cuộc sống theo tiêu
chuẩn cái đẹp. Trong các hệ chuẩn về chuẩn
mực thẩm mỹ trong đời sống văn hóa tinh thần
thì nghệ thuật là hình thức biểu hiện cao nhất
của hệ chuẩn thẩm mỹ.
- Kế thừa, đổi mới văn hóa trong xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc:
+ Kế thừa, đổi mới các giá trị văn hóa
truyền thống là một nhiệm vụ quan trong việc
xây dựng đời sống văn hóa ở nước ta hiện nay;
đây cũng là quy luật chủ yếu trong sự phát triển
ý thức xã hội.
+ Trong sự phát triển đời sống văn hóa

hiện nay cần loại bỏ những yếu tố truyền thống:
thói quen lạc hậu, tính chất bảo thủ của nền sản
xuất nhỏ... như là những trở lực cho sự phát
triển xã hội; mặt khác, cần kế thừa giá trị văn
hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên,
cần nhận thức rằng, kế thừa giá trị truyền thống
văn hóa không có nghĩa lặp lại nguyên si những
hình thức cổ truyền văn hóa mà phải nâng cấp
giá trị truyền thống ấy lên tầm cao mới, làm cho
truyền thống có sức sống trong xã hội hiện đại tức là kế thừa theo quan điểm biện chứng.
Nhiệm vụ
Để thực hiện những nội dung trên trong
giai đoạn trước mắt cần thực hiện nhiệm vụ cơ
bản sau:
- Do đời sống tinh thần trong mối quan
hệ biện chứng với đời sống vật chất, chịu sự quy
định, chi phối của đời sống vật chất xó hội nên
nhiệm vụ đầu tiên phát triển đời sống vật chất xã
hội. Nhiệm vụ này trong điều kiện cụ thể của
Việt Nam hiên nay là chúng ta đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xó hội chủ nghĩa; Mặt
khác cần tích cực chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế nhằm xây dựng thành công một nền
kinh tế vững mạnh- là tiền đề, cơ sở đảm bảo
điều kiện vật chất cho xây dựng đời sống văn
hóa tinh thần tiên bộ ở nước ta hiện nay.
- Tiến hành đồng bộ công tác định hướng,
giáo dục các chuẩn giá trị trong xây dựng đời
sống tinh thần; đồng thời, đổi mới, nâng cao

công tác giáo dục tư tưởng lý luận: chủ nghĩa

Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nghị
quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Kế thừa, đổi mới trong việc phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc. Nội
dung này được Đại hội Đảng lần thứ XI cụ thể
hóa: củng cố và tiếp tục xây dựng môi trường
văn hóa lành mạnh, phong phú, đa dạng; tiếp tục
đẩy mạnh xây dựng nếp sống văn minh trong
việc cưới, việc tang, lễ hội…; triển khai cuộc
vận động xây dựng gia đình Việt Nam, gúp phần
giữ gìn và phát triển những giá trị truyền thống
của văn hóa, con người Việt Nam, nuôi dưỡng
giáo dục thế hệ trẻ; phát triển sự nghiệp văn học,
nghệ thuật; bảo tồn, phát huy giá trị các di sản
văn hóa truyền thống, cách mạng; cổ vũ, khẳng
định cái đúng, cái đẹp, đồng thời lên án cái xấu,
cái ác; phát triển hệ thống thông tin đại chúng
trên cơ sở chú trọng nâng cao tính tư tưởng, phát
huy mạnh mẽ chức năng thông tin, giáo dục, tổ
chức và phản biện xã hội của các phương tiện
thông tin đại chúng, vì lợi ích của nhân dân và
đất nước; mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác
quốc tế về văn hóa.

21


Câu 7. Phân tích nội dung cơ bản của

nguyên tắc toàn diện; ý nghĩa rút ra từ việc
học nội dung nguyên tắc này ???
- Nguyên tắc toàn diện?
- Cơ sở triết học (mỗi liên hệ phổ biến)
- Nội dung của nguyên tắc toàn diện
+ Xem xét mọi mặt, mọi liên hệ, kể cả trung
gian, gián tiếp và với nhu cầu thực tiễn.
+ Xem xét sự vật phải chú ý đến sự phát triển
của mỗi quan hệ: từ bộ phận đến toàn thể và từ
toàn thể đến bộ phận để rút ra bản chất.
- Ý nghĩa
+ Tính đồng bộ
+Tính trọng tâm, trong điểm
+ Phê phán phiến diện, dàn đều, ngụy biện,
chiến trung.
- Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
là nội dung nguyên lý về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ phổ biến là mối liên hệ giữa
các mặt (thuộc tính) đối lập tồn tại trong mọi sự
vật, trong mọi lĩnh vực hiện thực.
Mối liên hệ mang tính khách quan và phổ
biến. Nó chi phối tổng quát sự vận động, phát
triển của mọi sự vật, quá trình xãy ra trong thế
giới; và là đối tượng nghiên cứu của phép biện
chứng.
Mối liên hệ phổ biến được nhận thức
trong các phạm trù biện chứng như mối liên hệ
giữa: mặt đối lập- mặt đối lập; chất – lượng, cái
cũ – cái mới; cái riêng- cái chung; nguyên nhânkết quả; nội dung – hình thức; bản chất- hiện
tượng; tất nhiên- ngẫu nhiên; khả năng – hiện

thực.
- Nội dung nguyên lý:
Mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới đều
tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng buộc
lẫn nhau. Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối
sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ
biến. Mối liên hệ phổ biến tồn tại khách quan,
phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá
trình vận động, phát triển của mọi sự vật hiện
tượng xảy ra trong thế giới.
- Những yêu cầu cơ bản của nguyên tắc
toàn diện:
Trong hoạt động nhận thức chủ thể phải
tìm hiểu, phát hiện càng nhiều mối liên hệ, quan
hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,

…) đang chi phối sự tồn tại của bản thân sự vật
càng tốt
- Phân loại để xác định những mối liên
hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu
tố, mặt,…) nào là bên trong, cơ bản, tất nhiên,
ổn định...; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay
những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào
là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên, không
ổn định…;
- Dựa trên những mối liên hệ, quan hệ
(hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…)
bên trong cơ bản, tất nhiên, ổn định… Để lý giải
được những mối liên hệ, quan hệ (hay những
đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) còn lại. Qua

đó xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự
thống nhất các mối liên hệ, quan hệ (hay những
đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…); phát hiện ra
quy luật (bản chất) của nó.
- Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động
nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong
những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản,
quan trọng của phép biện chứng duy vật. Cơ sở
lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi
hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật
hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại củ
nó trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận,
yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể
của sự vật, hiện tượng ấy và trong mối liên hệ
qua lại giữa sự vật hiện tượng đó với sự vật,
hiện tượng khác, tránh xem xét phiến diện một
chiều.
- Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem
xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải
nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất
quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng. Trong nhận thức, nguyên tắc toàn diện là
yêu cầu tất yếu của phương pháp tiếp cận khoa
học, cho phép tính đến mọi khả năng của vận
động, phát triển có thể có của sự vật, hiện tượng
đang nghiên cứu, nghĩa là cần xem xét sự vật,
hiện tượng trong một chỉnh thể thống nhất với
tất cả các mặt, các bộ phận, các yếu tố, các
thuộc tính, cùng các mối quan hệ của chúng.

- Nguyên tắc toàn diện còn đòi hỏi để
nhận thức được sự vật, hiện tượng chúng ta cần
xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực

22


tiễn của con người. Mối liên hệ giữa sự vật, hiện
tượng với nhu cầu của con người rất đa dạng.
- Nguyên tắc toàn diện đối lập với cách
nhìn phiến diện, một chiều; đối lập với chủ
nghĩa chiết trung và thuật ngữ nguỵ biện. Trong
hoạt động thực tiễn chủ thể phải đánh giá đúng
vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những
đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) chi phối sự
vật.
- Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng
đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp
thích hợp (mà trước hết là những công cụ,
phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi
những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) để biến đổi
những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc
điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) của bản thân sự
vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (…)
bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng…. của
nó.
- Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên
hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu
tố, mặt,…) của bản thân sự vật; kịp thời sử dụng

các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để
phát huy hay hạn chế hay hạn chế sự tác động
của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát
triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích của
chúng ta.
Việc quán triệt và vận dụng sáng tạo
nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chúng ta khắc phục
được chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết
trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động
thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ
thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó
mà không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan
hệ, nhiều tính chất của sự vật. thường xem xét
dàn trải, liệt kê những tính quy định khác nhau
của sự vật hay hiện tượng mà không làm nổi bật
cái cơ bản, cái quan trọng nhất của sự vật hay
hiện tượng đó.
Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ
chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự
vật nhưng không rút ra được mặt bản chất,
không thấy được mối liên hệ cơ bản của sự vật
mà coi chúng như nhau, kết hợp chúng một cách

vô nguyên tắc, tùy tiện. Do đó hoàn toàn bất lực
khi cần phải có quyết sách đúng đắn.
Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua
đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản,
cái chủ yếu với cái thứ yếu… hay ngược lại
nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình

một cách tinh vi.
Trong đời sống xã hội, nguyên tắc toàn
diện có vai trò cực kỳ quan trọng. Nó đòi hỏi
chúng ta không chỉ liên hệ nhận thức với nhận
thức mà cần phải liên hệ nhận thức với thực tiễn
cuộc sống, phải chú ý đến lợi ích của các chủ
thể (các cá nhân hay các giai tầng) khác nhau
trong xã hội và biết phân biệt đâu là lợi ích cơ
bản (sống còn) và lợi ích không cơ bản, phải
biết phát huy hay hạn chế mọi tiềm năng hay
nguồn lực từ khắp các lĩnh vực hoạt động xã hội
(kinh tế, chính trị, văn hóa…) từ các thành phần
kinh tế, từ các tổ chức chính trị - xã hội… để có
thái độ, biện pháp, đối sách hành động thích hợp
mà không sa vào chủ nghĩa bình quân, quan
điểm dàn đều, tức không thấy được trọng tâm,
trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cùng
phức tạp.

23


QHSX mặc dù là quan hệ giữa con người với
con người trong quá trình SX vật chất, nhưng nó
không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của họ,
bởi lẽ riêng lẻ từng cá nhân thì không thắng nổi
tự nhiên; và như vậy, muốn SX ra của cải vật
chất, buộc người ta phải kết hợp với nhau. Do
đó, QHSX cũng là vật chất dưới dạng xã hội.
- LLSX và QHSX liên hệ mật thiết với

nhau, không tách rời nhau thể hiện ở chỗ mọi
LLSX (người SX, công cụ SX, đối tượng SX,
phương tiện SX) đều nằm trong những quan hệ
nhất định nào đó của QHSX (đều nằm trong một
tổ chức SX, dưới sự quản lý của một đơn vị SX
nào đó); ngược lại mọi QHSX đều là những
quan hệ nhất định của một LLSX nào đó, nó
phải chứa đựng một nội dung nào đó.
- QHSX phù hợp với trình độ phát triển
của LLSX, đó là một trạng thái trong đó QHSX
là hình thức phát triển tất yếu của LLSX, tức
trong đó, các yếu tố cấu thành của QHSX tạo
địa bàn đầy đủ, tạo điều kiện thuận lợi cho
LLSX phát triển, tạo điều kiện tối ưu cho việc
kết hợp giữa con người, tư liệu SX và khoa học
kỹ thuật, làm cho LLSX phát triển hết khả năng
của nó.
Tuy nhiên không phải lúc nào QHSX cũng
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
LLSX luôn thay đổi, biến đổi, đặc biệt là công
cụ SX, công cụ lao động, bởi vậy đến một giai
đoạn nào đó, trình độ của nó sẽ chuyển sang một
giai đoạn mới cao hơn, lúc đó, tình trạng phù
hợp sẽ bị phá vỡ. Mâu thuẫn này ngày càng trở
nên gay gắt, và đến một lúc nào đó, QHSX trở
thành xiềng xích của LLSX. Yêu cầu khách
quan của sự phát triển của LLSX đòi hỏi xã hội
bằng cách này hay cách khác phải xóa bỏ QHSX
cũ và thay bằng QHSX mới phù hợp với trình
độ của LLSX đã thay đổi, mở đường cho LLSX

mới phát triển. Giai cấp mới đại diện cho LLSX
mới này phải phá bỏ QHSX cũ bằng cách tiến
hành cuộc cách mạng xã hội. Điều đó cũng có
nghĩa là sự diệt vong của một phương thức SX
lỗi thời và ra đời một phương thức SX mới.
Sự không phù hợp của QHSX đối với trình
độ phát triển của LLSX sẽ kìm hãm sự phát triển
của LLSX, thể hiện ở những điểm sau:

Câu 8. Thế nào là sự phù hợp giữa LLSX và
QHSX? Phân tích việc xây dựng QHSX
phù hợp với trình độ phát triển LLSX ở
nước ta hiện nay?
1. Phân tích sự phù hợp giữa lực lượng
sản xuất (LLSX) và quan hệ sản xuất
(QHSX).
- LLSX biểu thị mối quan hệ giữa con
người với tự nhiên, nó thể hiện năng lực của con
người trong quá trình chinh phục giới tự nhiên,
là nội dung của phương thức sản xuất.
LLSX bao gồm người sản xuất, tư liệu SX,
trong đó người SX là yếu tố quan trọng nhất.
Nhưng người SX không phải là cái gì đó nhất
thành bất biến mà trong mỗi thời đại kinh tế, với
tư cách là yếu tố quan trọng nhất trong LLSX nó
cũng luôn thay đổi. Tư liệu SX bao gồm công cụ
SX (công cụ lao động), đối tượng SX (đối tượng
lao động), phương tiện SX (phương tiện lao
động). Trong LLSX, nếu người SX là yếu tố
quan trọng nhất thì công cụ SX (công cụ lao

động) là yếu tố động nhất. Trình độ phát triển
của công cụ SX, công cụ lao động thể hiện trình
độ hay thước đo việc chinh phục giới tự nhiên
của con người.
Trình độ của LLSX thể hiện ở trình độ của
những yếu tố cấu thành nó như trình độ của
công cụ lao động, trình độ khoa học kỹ thuật,
trình độ của người lao động (kinh nghiệm, kỹ
năng, tri thức, trình độ tổ chức, quản lý, phân
công, trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật, cách
thức mà con người tiến hành trong quá trình
SX).
- QHSX là khái niệm dùng để chỉ quan hệ
giữa con người và con người trong quá trình SX
vật chất; nó là hình thức của phương thức SX, là
cơ sở kinh tế, cơ sở sâu xa của đời sống tinh
thần.
QHSX bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư
liệu SX, quan hệ tổ chức quản lý và quan hệ
phân phối sản phẩm. Ba quan hệ đó liên hệ
khăng khít với nhau, thống nhất với nhau tạo
nên một hệ thống mang tính ổn định tương đối
so với LLSX, trong đó yếu tố thứ nhất đóng vai
trò quyết định, nó quy định hai yếu tố sau.

24


Thứ nhất, QHSX lạc hậu so với trình độ
phát triển của LLSX. Sự không phù hợp thể hiện

ở hình thức sở hữu, quan hệ tổ chức quản lý,
quan hệ phân phối sản phẩm không theo kịp
trình độ phát triển của LLSX.
Thứ hai, QHSX phát triển không đồng bộ,
có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát
triển của LLSX.
- Tiêu chuẩn đánh giá sự phù hợp (Tự
phân tích):
+ Năng xuất lao động tăng
+ Sản xuất phát triển cả ở quy mô, tốc độ
+ Đời sống người dân đảm bảo ổn định,
phát triển
+ Môi trường kinh tế- xã hội ổn định
2. Phân tích việc xây dựng QHSX phù
hợp với trình độ phát triển LLSX ở nước ta
hiện nay?
- Trình độ của LLSX ở nước ta hiện nay,
nhìn chung là rất đa dạng, không đồng đều,
nhiều trình độ. Điều này thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, công cụ sản xuất, công cụ lao
động hiện nay ở nước ta rất đa dạng, không
đồng đều. Theo thống kê, công cụ lao động thủ
công chiếm phần lớn trong nông nghiệp, còn
trong công nghiệp chiếm đến 60% lao động giản
đơn. Nhưng bên cạnh đó, ta cũng có công cụ lao
động ở trình độ cơ khí hóa, hiện đại hóa, tự
động hóa. Những công cụ lao động này thậm chí
đan xen nhau trong một cơ sở SX, trong một nhà
máy. Nếu như phương Tây nhìn một cách đại
thể đi từ lao động thủ công lên máy móc cơ khí,

rồi lên tự động hóa, thì ở nước ta hiện nay có tất
cả. Điều này nói lên tính chất đa dạng, nhiều
trình độ của công cụ lao động ở nước ta hiện
nay.
Thứ hai, thích ứng với sự đa dạng của
công cụ lao động SX như vậy, kinh nghiệm và
kỹ năng lao động của con người Việt Nam hiện
nay cũng rất khác nhau. Từ đó, trình độ tổ chức
và phân công lao động, trình độ ứng dụng khoa
học kỹ thuật vào SX ở VN hiện nay ở những cơ
sở sản xuất khác nhau cũng rất khác nhau.
Thứ ba, về khoa học kỹ thuật ở nước ta
hiện nay, nhìn chung trình độ là thấp, chậm phát
triển, nhưng cũng có những yếu tố hiện đại, đi

trước, đón đầu. Từ đó, ta thấy trình độ khoa học,
kỹ thuật ở nước ta hiện nay cũng rất đa dạng.
Do LLSX ở nước ta hiện nay đa dạng,
không đồng đều, nhiều trình độ như vậy, nên tất
yếu, QHSX của chúng ta cũng phải đa dạng. Đa
dạng thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, đa dạng trong thành phần kinh
tế, tức chúng ta phải xây dựng nền kinh tế nhiều
thành phần, kinh tế thị trường định hướng
XHCN. Hiện nay chúng ta có 4 thành phần kinh
tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư
nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ hai, đa dạng trong hình thức sở hữu,
nhiều hình thức tổ chức quản lý, nhiều hình thức
phân phối. Khác với trước kia (hai hình thức sở

hữu là toàn dân và tập thể), ngày nay chúng ta
có ba hình thức sở hữu: toàn dân, tập thể và tư
nhân.
Thứ ba, đa dạng trong phân phối. Nếu như
trước kia, chúng ta phân phối theo chủ nghĩa
bình quân, cào bằng thì ngày nay phân phối theo
nhiều cách khác nhau như theo lao động (tức
theo khả năng, năng lực, trí tuệ), theo hiệu quả
kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn
lực khác, theo phúc lợi xã hội, an sinh xã hội.
Từ phân tích QHSX phù hợp với trình độ
của LLSX ở trên, vậy, muốn phát triển sản xuất
ở nước ta hiện nay chúng ta cần phải:
Như Nghị quyết Đại hội XI đã chỉ ra là
chúng ta phải phát triển mạnh mẽ lực lượng sản
xuất với trình độ khoa học công nghệ ngày càng
cao, hoàn thiện QHSX trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN; phải xây dựng
LLSX hiện đại và QHSX tiến bộ phù hợp.
Phát triển LLSX ở nước ta hiện nay là phải
phát triển khoa học kỹ thuật, khoa học công
nghệ, cải tiến công cụ lao động, mở rộng đối
tượng lao động, phát triển nguồn nhân lực, đặc
biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Muốn
phát triển SX ở nước ta hiện nay, chúng ta
không chỉ phát triển LLSX, phát triển sức SX;
mà còn phải xây dựng, hoàn thiện từng bước
QHSX; tức phải từng bước xây dựng, hoàn thiện

QHSX phù hợp với trình độ phát triển của
LLSX, điều đó có nghĩa là chúng ta phải hoàn

25


×