TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
VẤN ĐỀ CÔNG NGHIỆP HÓA GẮN VỚI
HIỆN ĐẠI HÓA. CÔNG NGHIỆP HÓA
HIỆN ĐẠI HÓA GẮN VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ TRI THỨC
(Môn học: Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản
Việt Nam)
Buổi học: Chiều thứ 5 tiết 7-9, phòng A109
Học kì 2 – năm học 2015-2016
Mã học phần: LLCT230214
Giảng viên hướng dẫn: Phùng Thế Anh
Họ tên sinh viên thực hiện đề tài:
1. Thái Mạnh Cường
14151018
2. Phan Trần Tấn Danh (Nhóm trưởng) 15116073
3. Trần Quốc Đài
TP. HỒ CHÍ MINH – 5/2016
15116077
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài. .......................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu. .................................................................................... 2
3. Những nội dung chính. .................................................................................. 3
NỘI DUNG ........................................................................................................... 5
KIẾN THỨC CƠ BẢN ...................................................................................... 5
1. Khái niệm công nghiệp hóa, khái niệm hiện đại hóa. ................................ 5
1.1. Công nghiệp hóa. ................................................................................. 5
1.2. Hiện đại hóa. ........................................................................................ 5
2. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức. ......................................................................... 5
2.1. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa. ............................................... 5
2.2. Công nghiêp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức. 7
2.2.1. Khái niệm kinh tế tri thức.............................................................. 7
2.2.2. Đặc trưng cơ bản và vai trò của nền kinh tế tri thức. .................... 7
2.2.3. Khái quát thực trạng kinh tế tri thức trên thế giới và ở Việt Nam 9
2.2.4. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với phát triển kinh tế tri
thức. ....................................................................................................... 11
KIẾN THỨC VẬN DỤNG .............................................................................. 14
1. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Nhu cầu cấp thiết trong thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa. ................................................... 14
1.1 Thực trạng nguồn nhân lực của nước ta. ............................................ 14
1.2 Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định nhất đến chiến lược công
nghiệp hóa – hiện đại hóa của nước ta. ..................................................... 16
2. Vai trò của giáo dục đại học, vai trò của sinh viên trong sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức hiện nay. ............... 17
2.1 Giáo dục đại học trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. ............................................................................................................ 17
2.2 Sinh viên trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa. .................. 20
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 23
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Đất nước Việt Nam chúng ta đã trải qua thời gian chiến tranh để giành độc
lập, tự do. Dân tộc Việt Nam đã phải chịu nhiều hi sinh, mất mát để giữ vững
quyền độc lập tự do ấy! Ngày nay, đất nước đã hòa bình, nhân dân ta đang trên
con đường xây dựng, phát triển kinh tế đất nước ngày càng giàu mạnh hơn. Toàn
cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và đã trở thành môi trường của các cuộc
cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên thế giới. Đứng trước thực trạng như vậy,
phát triển đất nước theo đường lối mới, Chính phủ ta ngày càng nhận thấy rõ hơn
sự cần thiết phải tham gia vào quá trình đó!
Chúng ta đang sống trong thời đại cách mạng công nghiệp. Quanh ta khắp
nơi trên thế giới đã và đang diễn ra quá trình chuyển đổi trong đời sống kinh tế.
Quá trình cải cách kinh tế là thử thách lớn nhất với tất cả các dân tộc và các chế
độ muốn thay đổi mô hình hoạt động kinh tế của mình. Có nhiều xu hướng khác
nhau, song có một chủ để chung là chuyển nền kinh tế sang định hướng thị trường.
Với xu hướng phát triển tất yếu của thời đại, Việt Nam cũng chọn cho mình một
con đường phát triển kinh tế. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam đã chọn cho
đất nước mình con đường phát triển nền kinh tế thị trường có sự quản lí của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là con đường phát triển tất yếu phù
hợp với những điều kiện khách quan vốn có.
Nước ta thuộc vào nhóm nước đang phát triển, là một trong những nước
nghèo trên thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống
để sang “Xã hội văn minh công nghiệp”. Do đó khách quan phải tiến hành công
nghiệp hóa – hiện đại hóa là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh
có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hóa còn gắn chặt với hiện đại
hóa, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm
biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính
trị…
1
Từ Đại hội Đảng VI của Đảng xác định đây là thời kì phát triển mới – thời
kỳ “Đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước” định hướng phát triển
nhằm mục tiêu “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất
kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn
minh”
Muốn thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, nâng cao đời sống nhân dân…
thì không còn con đường nào khác là chúng ta phải đẩy mạnh quá trình công
nghiệp hóa – hiện đại hóa. Để làm được như vậy thì một vấn đề cần được đặt lên
hàng đầu đó là vấn đề phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao kỹ thuật, công nghệ,
và trong đó đặc biệt là phát triển nguồn nhân lực. Quan trọng hơn cả khi phát triển
nguồn nhân lực, đó là tri thức, gắn với nền kinh tế tri thức! Đại hội lần thức X của
Đảng đã khẳng định “Tranh thủ cơ hội thuận do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm
năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh
tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”.
Chính vì vậy, nhóm em lựa chọn đề tài: “Công nghiệp hóa gắn với hiện đại
hóa. Công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức” để làm bài
tiểu luận.
2. Mục đích nghiên cứu.
Làm sáng tỏ những đặc điểm Công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa,
Công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Hiểu vì sao công
nghiệp hóa hiện đại hóa phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. Chỉ ra những đặc
trưng cơ bản, vai trò của nền kinh tế tri thức, thực trạng của kinh tế tri thức hiện
nay, từ đó áp dụng đối với thị trường Việt Nam. Bất cứ nền kinh tế nào: nông
nghiệp, công nghiệp,... đặc biệt là những ngành kinh tế hậu công nghiệp đều cần
tới tri thức để phát triển. Phát triển nền kinh tế tri thức, góp phần hoàn thiện xã
hội Việt Nam đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
2
nước. Công nghiệp hóa là con đường thiết yếu mà mọi quốc gia đều phải trải qua
để đi tới một xã hội hiện đại. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Việt Nam được
tiến hành bối cảnh xu hướng trên thế giới đang chuyển mạnh lên nền kinh tế tri
thức và xu hướng toàn cầu hóa kinh tế đã và đang tác động sâu sắc với tốc độ cao
đến đời sống kinh tế - xã hội của mọi quốc gia, trong khi đó Việt Nam vẫn trong
tình trạng của một nước có điểm xuất phát thấp, nhiều yếu tố lạc hậu, phát triển
thiếu bền vững. Trong bối cảnh nhiều cơ hội và thách thức đan xen, để đi tới một
nền kinh tế hiện đại, Việt Nam phải có những giải pháp bứt phá. Sự lựa chọn giải
pháp đẩy mạnh Công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức
là cấp thiết. Nhận thức đúng tầm quan trọng của đẩy mạnh Công nghiệp hóa – hiện
đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam trong các nhiệm vụ kinh tế
xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như trong yêu cầu phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta để chủ động sáng tạo
trong hoạch định chính sách và tổ chức thực tiễn.
3. Những nội dung chính.
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội
cao.
Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và
công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế - xã hội.
Nước ta phải tiến hành công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa để rút ngắn
khoảng cách với các nước khác.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng
tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm
trong tất cả các ngành kinh tế.
3
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay.
Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
4
NỘI DUNG
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Khái niệm công nghiệp hóa, khái niệm hiện đại hóa.
1.1. Công nghiệp hóa.
Công nghiệp hóa là quá trình chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện các
hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ sử dụng sức
lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với
công nghệ, phương tiện, phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của
công nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động xã hội
cao. (1)
1.2. Hiện đại hóa.
Hiện đại hóa là quá trình ứng dụng và trang bị những thành tựu khoa học và
công nghệ tiên tiến, hiện đại vào quá trình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản
lý kinh tế - xã hội. (2)
2. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức.
2.1. Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa.
Các nước trên thế giới đã tiến hành công nghiệp hóa cách đây 300 năm và đã
trãi qua ba cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật:
Từ những năm 60 của thế kỉ XVIII cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần
thứ I bắt đầu ở Anh với sự ra đời của máy hơi nước tạo nên bước đột phá của cuộc
cách mạng công nghiệp, máy móc dần thay thế các công cụ thủ công, năng xuất
lao động được tăng lên nhiều lần, công nghiệp lên ngôi. Cơ khí hóa bắt đầu thay
thế sức lao động thủ công.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần II nổ ra vào cuối thế kỉ XIX đến những
(1)
%E1%B
B%87t_Nam)
(2)
/>5
thập niên đầu của thế kỉ XX. Cuộc cách mạng này đã chuyển nền sản xuất trên cơ
sở cơ khí sang nền sản xuất điện - cơ khí và đạt được nhiều thành tựu quan trọng:
phát hiện và ứng dụng điện rộng rãi, phát minh ra động cơ đốt trong và động cơ
diesel, tạo ra các vật liệu mới: vật liệu hữu cơ, vật liệu nhân tạo,… thông tin liên
lạc, thông tin vô tuyến phát triển mạnh mẽ.
Sau chiến tranh thế giới thứ II đã nổ ra cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật
lần thứ III với nhiều thành tựu to lớn và kì diệu trên nhiều lĩnh vực: chế tạo ra
máy điện tử, máy tự động và hệ thống máy tự động, tìm ra những nguồn năng
lượng mới (năng lượng mặt trời, năng lượng nguyên tử, năng lượng gió,…), chế
tạo ra nhiều vật liệu mới (polime, cao su nhân tạo, titan, vật liệu tổng hợp,…),
phát triển công nghệ thông tin,… những thành tựu trên đã góp phần nâng cao năng
suất lao động, tạo ra lực lượng sản xuất và khối lượng hàng hóa đồ sộ gấp bội so
với trước.
Sau 3 cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới đã đạt được nhiều thành
tựu to lớn, nền công nghiệp chuyển từ cơ khí hóa, điện khí hóa sang tự động hóa,
năng suất lao động tăng nhanh so với trước. Hiện nay các nước tư bản chủ nghĩa
đã hoàn thành xong công nghiệp hóa hiện đại hóa.
Trong khi đó nền kinh tế nước ta mang đậm bản sắc nông dân - nông nghiệp,
lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, mô hình phát triển gắn với cơ chế kế hoạch hóa
tập trung có những khiếm khuyết lớn trong việc giải quyết các nhiệm vụ phát
triển, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Sau nhiều năm vận động trong cơ chế kế
hoạch hóa tập trung, tuy đất nước có đạt được những thành tựu to lớn, song nhiều
vấn đề mấu chốt và thiết yếu nhất của cuộc sống nhân dân (ăn, mặc, ở) vẫn chưa
được giải quyết đầy đủ; đất nước chưa có những thay đổi sâu sắc và triệt để trong
phương thức phát triển; tình trạng mất cân đối trong nền kinh tế ngày càng trầm
trọng; nhiệt tình lao động và năng lực sáng tạo của nhân dân, tài nguyên và các
nguồn lực chưa được khai thác, phát huy đầy đủ, thậm chí bị xói mòn. (3)
(3)
/>6
Mặt khác chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một cơ sở vật chất – kỹ thuật cao hơn trên
cả hai mặt: trình độ kỹ thuật và cơ cấu sản xuất, gắn với thành tựu của cách mạng
khoa học – kỹ thuật hiện đại. Do vậy, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
sẽ là nền công nghiệp lớn hiện đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội
hoá cao dựa trên trình độ khoa học công nghệ hiện đại được hình thành một cách
có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Trong quá trình quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
là một tất yếu khách quan và được thông qua công nghiệp hoá hiện đại hoá. Vì cơ
sở vật chất – kỹ thuật là điều kiện trọng yếu nhất, quyết định nhất có liên quan
đến sự phát triển về chất đối với lực lượng sản xuất, và năng suất lao động. (4)
Nếu phát triển tuần tự như các nước đi trước thì nước ta không thể nào đuổi
kịp thời đại, trong quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nước ta có thuận lợi
là nước đi sau, có thể học hỏi được kinh nghiệm thành công của những nước đi
trước và có cơ hội rút ngắn thời gian thức hiện quá trình này, trước đây nước Anh
thực hiện công nghiệp hóa đầu tiên phải mất 120 năm, nước Mỹ chỉ mất 90 năm,
Nhật mất 70 năm còn các nước công nghiệp mới chỉ mất hơn 30 năm. Vì vậy
chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa gắn liền với hiện đại hóa để nhanh chóng
đuổi kịp các nước tiên tiến trên thế giới từ đó thực hiện mục tiêu đi trước đón đầu,
đồng thời giúp nước ta xây dựng nhanh chóng và thành công cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội.
2.2. Công nghiêp hóa hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức.
2.2.1. Khái niệm kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, truyền bá và sử dụng
tri thức là động lực chủ yếu nhất của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, tạo ra việc làm
trong tất cả các ngành kinh tế. (5)
2.2.2. Đặc trưng cơ bản và vai trò của nền kinh tế tri thức.
(4)
/>(5)
/>7
Đặc trưng cơ bản của kinh tế tri thức: (6)
Trong nền kinh tế tri thức, các yếu vật chất cũng như hàm lượng vật chất
trong các sản phẩm ngày càng giảm, hàm lượng tri thức, lao động chất xám, lao
động trí óc tăng lên, chiếm tỷ trọng ngày càng cao lớn trong giá trị sản phẩm.
Trong nền kinh tế tri thức, các sản phẩm trí tuệ dựa vào nguồn lực hàng đầu
là tri thức. Đây là nguồn vốn cơ bản của quá trình sản xuất và tái sản xuất của xã
hội, thay vì chỉ là đất đai, tài nguyên và vốn tiền tệ như trước đây.
Thông tin, kiến thức lao động có trình độ cao được sử dụng nhiều, ít sử dụng
tài nguyên thiên nhiên. Những trung tâm công nghệ cao được hình thành. Đặc biệt
tri thức khoa học và công nghệ cùng với lao động kỹ thuật cao là thành phần quan
trọng của lực lượng sản xuất, là lợi thế phát triền kinh tế. Nguồn nhân lực nhanh
chóng được tri thức hóa. Sự sáng tạo đổi mới trở thành yêu cầu thường xuyên đối
với mọi người.
Cơ cấu kinh tế kỹ thuật thay đổi một cách sâu sắc, theo hướng tri thức hóa,
làm thay đổi phương thức tổ chức và quản lý không chỉ trong các ngành đó mà
còn tác động đến các ngành kinh tế khác trong nền kinh tế.
Quy trình công nghệ trong sản xuất luôn luôn được thay đổi, làm cho năng
xuất lao động ngày càng tăng, cường độ lao động ngày càng giảm, chủng loại sản
phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng sản phẩm ngày càng cao, giúp
đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của cuộc sống…sự cạnh tranh được tạo điều kiện
đầy đủ, sự tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu, tạo ra lợi thế cho quốc gia, tác động
lớn đến đời sống xã hội.
Trong nền kinh tế tri thức, khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ
thông tin, lựu lượng sản xuất và các hoạt động kinh tế của mỗi con người, của mỗi
quốc gia đều mang tính toàn cầu.
Vai trò của nền kinh tế tri thức: (7)
(6)
/>(7)
/>8
Kinh tế tri thức có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển xã hội ngày nay.
Phát triển kinh tế tri thức là cơ hội để rút ngắn khoảng cách lạc hậu.
Từ những tri thức, công nghệ kỹ thuật mới, các tư liệu lao động mới, hệ thống
máy móc thông minh, tự động hóa sẽ được tạo ra. Quá trình đó sẽ giúp phát hiện
và sáng tạo ra nhiều đối tượng lao động mới, những nguyên liệu mới, năng lượng
mới,…có thể trước đây chưa từng xuất hiện, tạo ra nhiều giá trị sử dụng mới, đáp
ứng thỏa mãn nhu cầu xã hội ngày càng tốt hơn, giảm bớt việc khai thác các nguồn
tài nguyên hiện hữu.
Kinh tế tri thức là động lực thúc đẩy tiến trình xã hội hóa quan hệ sản xuất
và lực lượng sản xuất, làm cho phân công lao động xã hội phát triển cả về chiều
rộng lẫn chiều sâu.
Nó thúc đẩy nông nghiệp phát triển nhanh thông qua các cuộc cách mạng,
cách mạng xanh, cách mạng sinh học…
Nó thúc đẩy công nghiệp, không ngừng ra tăng hàm lượng khoa học - kỹ
thuật, công nghệ trong sản phẩm công nghiệp qua đó mà gia tăng giá trị sử dụng,
giá trị trao đổi của sản phẩm công nghiệp.
Nó thúc đẩy trí nghiệp phát triển ở các ngành dịch vụ, thông tin, thương mại,
tiền tệ,…với nhiều hình thức phong phú.
Nó thúc đẩy việc nâng cao đời sống xã hội, hướng đến một nền văn minh cao
hơn.
2.2.3. Khái quát thực trạng kinh tế tri thức trên thế giới và ở Việt Nam
Trên thế giới:
Ở Bắc Mỹ và một số nước Tây Âu, nền kinh tế tri thức đã bắt đầu hình thành.
Hiện nay, ở những nước này riêng về kinh tế thông tin (những ngành kinh tế chủ
yếu dựa vào công nghệ thông tin) trong đó nền kinh tế tri thức là chủ yếu, chiếm
khoảng 40-50% GDP. Trong các nước OECD kinh tế tri thức chiếm hơn 50%
GDP, công nhân tri thức chiếm trên 60% lực lượng lao động.
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, các quốc gia có nền kinh tế và khoa
học công nghệ phát triển đã đề ra những chương trình, chiến lược nhằm hướng
9
nền kinh tế phát triển theo những đặc trưng của kinh tế tri thức.
Từ 1984 đến nay, mỗi năm chính phủ Mỹ chi hàng trăm tỷ USD cho hoạt
động khoa học, công nghệ. Từ những năm 80 của thế kỷ XX, chính phủ Nhật đã
dành cho chương trình vi điện tử hơn 100 tỷ USD. Những năm 90 đến nay, nước
Nhật đã dành khoảng 3% tổng sản phẩm quốc dân cho hoạt động nghiên cứu và
triển khai.
Các nước Tây Âu cũng đẩy mạnh hoạt động vào lĩnh vực công nghệ cao,
như: công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, điển hình
là các nước Đức, Pháp, Italia, Anh, Ba Lan... (8)
Ở nước ta:
Hiện nay về cơ bản nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế mang những dấu
ấn của kinh tế nông nghiệp, đang chuyển dần sang kinh tế công nghiệp. Vị trí của
Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế
tri thức của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Chỉ số KEI của Việt
Nam hiện đang là 3,51 trong đó chỉ số sáng tạo chỉ là 2,72 trong khi đó chỉ số KEI
của một số nước trong khu vực là rất cao: Singapore là 8,44; Malaysia là 6,07;
Thái Lan là 5,52.
Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy
cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành
dịch vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn cao. Cơ cấu
lao động cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nông nghiệp
còn chiếm tỷ trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Trong khi đó
hiện nay ở Mỹ khoảng 80% lực lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ,
nghiên cứu, ứng dụng và triển khai.
Sự đầu tư cho khoa học, công nghệ ở Việt Nam so sánh tương quan với các
quốc gia trong khu vực là rất thấp. Hiện nay, Việt Nam chỉ dành khoảng 0,3%
GDP cho hoạt động khoa học, công nghệ, trong khi đó con số này ở Malaysia là
(8)
/>10
1%, Singapore là 3%.
Theo Robert Walter Global – một công ty chuyên về tuyển dụng: năm 2012
mặc dù kinh tế khó khăn, nhiều công ty phá sản hoặc giảm quy mô hoạt động,
Việt Nam vẫn “khát” nhân sự có trình độ. Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở
Việt Nam đạt khoảng 35%, đây là con số rất thấp so với các nước trong khu vực
và trên thế giới.
Một trong những tiêu chí quan trọng của kinh tế tri thức là sự ứng dụng công
nghệ vào sản xuất kinh doanh và quản lý. Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta
đều thiếu thông tin về công nghệ. Theo một khảo sát của Viện Nghiên cứu và
Quản lý TW trên 82 doanh nghiệp, chỉ có 16 doanh nghiệp có ý tưởng đổi mới
công nghệ. Xét một cách tổng quát, những yếu tố cho sự ra đời và phát triển kinh
tế ở Việt Nam hiện nay đang ở thời kỳ hình thành. (9)
2.2.4. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Lao động sản xuất bao giờ cũng phải dựa vào tri thức, chỉ khác nhau ở mức
độ nhiều hay ít. Kinh tế nông nghiệp, khởi đầu cách đây khoảng mười ngàn năm,
phải dựa vào hiểu biết về canh tác, chăn nuôi, thời tiết… tức là những tri thức cơ
bản về nông nghiệp. Nhưng lúc đó đất đai, lao động thủ công lại quan trọng hơn,
nên tri thức chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XVIII, kinh tế công nghiệp cơ giới xuất hiện và phát
triển mạnh, dựa vào các tri thức cơ học cổ điển để chế tạo ra máy móc cơ khí phục
vụ sản xuất. Nhưng tài nguyên và vốn lại quan trọng hơn nên tri thức cũng chỉ có
vai trò thứ yếu.
Đến khoảng giữa thế kỷ XX, kinh tế nông nghiệp cổ điển hết tiềm năng phát
triển và bắt đầu suy thoái, vì tài nguyên trở nên cạn kiệt, ô nhiễm ngày càng
nghiêm trọng, chiến tranh hủy diệt đe dọa thường xuyên… Trong bối cảnh đó
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại xuất hiện và phát triển bùng nổ, lực
lượng sản xuất mới được hình thành dựa trên nguồn lực chủ yếu là tri thức, tạo
(9)
:81/tin-chien-luoc-chinh-sach/763-phat-trien-kinh-te-tri-thuc-co-hoiva-thach-thuc-cua-viet-nam.html
11
nên hệ thống công nghệ cao với máy móc thông minh mà điển hình là máy tính
điện tử.
Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất mới này đã dẫn tới việc hình
thành nền kinh tế tri thức, trong nền kinh tế tri thức dựa chủ yếu vào nguồn lực tri
thức. Tài nguyên thiên nhiên và vốn dù quan trọng nhưng chỉ giữ vai trò thứ yếu.
Như vậy trong tiến trình lịch sử phát triển của nhân loại kinh tế tri thức là một lịch
sử tất yếu.
Công nghiệp hóa - hiện đại hóa của Việt Nam được tiến hành bối cảnh xu
hướng trên thế giới đang chuyển mạnh lên nền kinh tế tri thức và xu hướng toàn
cầu hóa kinh tế đã và đang tác động sâu sắc với tốc độ cao đến đời sống kinh tế xã hội của mọi quốc gia, trong khi đó Việt Nam vẫn trong tình trạng của một nước
có điểm xuất phát thấp, nhiều yếu tố lạc hậu, phát triển thiếu bền vững. Trong bối
cảnh nhiều cơ hội và thách thức đan xen, để đi tới một nền kinh tế hiện đại, Việt
Nam phải có những giải pháp bứt phá. Sự lựa chọn giải pháp đẩy mạnh công
nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức là cấp thiết:
Thứ nhất, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức là cách thức để đất nước sớm thoát khỏi tình trạng lạc hậu. Nước ta vẫn
chưa thoát khỏi tình trạng nước nghèo và kém phát triển, phải nhanh chóng nắm
bắt các xu thế phát triển hiện đại không những chỉ để chống tụt hậu ngày càng xa
hơn so với trình độ chung của thế giới, còn phải thu hẹp khoảng cách với các
nước phát triển khi bản thân họ đã có trình độ phát triển cao hơn. Trong điều kiện
đó, nước ta không thể bỏ lỡ cơ hội, mà phải tìm giải pháp bứt phá, tức là phải đẩy
mạnh công nghiệp hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức.
Thứ hai, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh
tế tri thức là yêu cầu bắt buộc để tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội: Xu hướng phát triển kinh tế tri thức đã và đang là thách thức và cơ hội lớn
đối với nước ta trên con đường xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội. Nếu không kịp thời nắm bắt thời cơ, dựa vào kinh tế tri thức để đẩy nhanh
công nghiệp hóa – hiện đại hóa thì nước ta sẽ tụt hậu ngày càng xa hơn. Phải đẩy
12
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức để nhanh
chóng đuổi kịp các nước, thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đó là
yêu cầu cấp bách, là sự chuyển hướng chiến lược trọng đại. Đây chính là cơ hội
lịch sử hiếm hoi mà thời đại đã tạo ra.
Thứ ba, đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế
tri thức bắt nguồn từ yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn, đầy đủ hơn: Trong
bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay, để chủ động hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn vào
các quan hệ kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, một đòi hỏi có tính bắt
buộc là nước ta phải đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, coi tri thức là đòn bẩy làm tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, của
doanh nghiệp và của cả nền kinh tế, thúc đẩy quá trình hội nhập. (10)
(10)
/>13
KIẾN THỨC VẬN DỤNG
VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VÀ SINH VIÊN TRONG SỰ
NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA – HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Ngày nay, giáo dục đại học là con đường tất yếu góp phần quyết định vào
phát triển đất nước. Được giao những chức năng quan trọng và thực hiện những
nhiệm vụ cao cả như: truyền đạt kiến thức khoa học, dạy cho sinh viên biết tư duy
khoa học và giúp người sinh viên tự rèn luyện để trở thành những công dân trí
thức; trường đại học không chỉ là trung tâm khoa học và đào tạo, nơi lưu trữ, sáng
tạo và truyền bá tri thức mà còn là nơi đào tạo những công dân, người lao động
có tri thức và chuẩn bị đội ngũ lãnh đạo tương lai cho đất nước, đặc biệt là đội
nhân lực có tri thức cao để phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa và
phát triển kinh tế tri thức. Trong khi đó sinh viên là nguồn lao động, nguồn nhân
lực chất lượng cao cho quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa và phát triển kinh
tế tri thức. Đất nước ta không thể tiến hành công nghiệp hóa – hiện đại hóa thành
công, không thể phát triển kinh tế tri thức nếu không có giáo dục đại học cũng
như thiếu đi đội ngũ sinh viên – nguồn nhân lực chất lượng cao sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
1. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao: Nhu cầu cấp thiết trong thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa.
1.1 Thực trạng nguồn nhân lực của nước ta.
Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế
giới, thứ 7 châu Á và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không
đều và có sự khác biệt lớn theo vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư
dân nông thôn (khoảng 68 % năm 2013). Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá;
tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt 73,1 tuổi).
Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người;
hàng năm trung bình có khoảng 1,516 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động.
Thể lực và tầm vóc của nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng
14
cao, tuy nhiên so với các nước trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Xingapo,
Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo
dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh, khéo léo, cần cù, tuy nhiên
ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn chế.
Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh.
Điều này có thể được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo
nhân lực. Theo số liệu thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng
là 2.058.922 người, số tốt nghiệp là 405.900 người; số học sinh các trường trung
cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo
ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương,… chưa đồng nhất,
chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của
Nhà nước và xã hội.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn
bộ lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%,
gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là
20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ; tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao
(từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào tạo ngày càng tăng (năm 2010
là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).
Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong
nền kinh tế là khá cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc
hội khoá XIII, nền kinh tế đã tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,586 triệu việc làm
mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%),
tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất
lao động đo bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho
tổng số người làm việc bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là
21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là 44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu
đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã
15
được thu hút và phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu
chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công
nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân
Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện về kiến thức, kỹ năng kinh
doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế. (11)
1.2 Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định nhất đến chiến lược công nghiệp
hóa – hiện đại hóa của nước ta.
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mỗi quốc gia.
Trình độ phát triển của nguồn nhân lực là một thước đo chủ yếu sự phát triển của
các quốc gia. Vì vậy, các quốc gia trên thế giới đều rất coi trọng phát triển nguồn
nhân lực. Trong thế kỷ XX, đã có những quốc gia nghèo tài nguyên thiên nhiên,
nhưng do phát huy tốt nguồn nhân lực nên đã đạt được thành tựu phát triển kinh
tế xã hội, hoàn thành công nghiệp hoá và hiện đại hoá chỉ trong vài ba thập kỷ.(12)
Chiến lược Công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước cần dựa vào sự dẫn dắt,
thực hiện của các nhà khoa học và quản lý trình độ cao. Trong bối cảnh thế giới
có nhiều biến động và cạnh tranh quyết liệt, phần thắng sẽ thuộc về những quốc
gia có nguồn lao động chất lượng cao, môi trường pháp lý thuận lợi cho đầu tư,
môi trường chính trị - xã hội ổn định. Mặt khác, các quốc gia có thể khắc phục sự
yếu kém về kỹ thuật, công nghệ thông qua con đường chuyển giao, nhập khẩu
nhưng không thể nhập khẩu hay vay mượn được khả năng sáng tạo của con người.
Vì vậy, các quốc gia trên thế giới (đặc biệt là các quốc gia phát triển và mới nổi)
đều chú trọng thu hút, đào tạo, đãi ngộ nhân lực khoa học và quản lý trình độ cao.
Là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của sự nghiệp Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa nên phát triển nguồn nhân lực được xem là một yếu tố
có tính chiến lược then chốt nhất cho phát triển kinh tế - xã hội nói chung và Công
nghiêp hóa – hiện đại hóa nói riêng. Quá trình Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp là do quy định của nhiều
(11)
(12)
/> />16
yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu tùy thuộc vào năng lực của con người, vào
chất lượng của nguồn lao động. Phát triển nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm
vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển các nguồn lực và đầu tư, chăm lo cho
con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc chắn nhất cho sự phát triển
bền vững, bảo đảm sự phồn vinh, thịnh vượng của mọi quốc gia và là chìa khóa
của sự phát triển bền vững. (13)
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn khẳng định quan điểm coi con người là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hiện nay,
trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế,
phát triển nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển
đổi mô hình phát triển kinh tế xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực
trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia.
Việc phát triển nhân lực, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển
tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng
những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn,
hạn chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho
giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế xã hội trong nước và quốc tế. (14)
2. Vai trò của giáo dục đại học, vai trò của sinh viên trong sự nghiệp công
nghiệp hóa – hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức hiện nay.
2.1 Giáo dục đại học trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Lịch sử nhân loại đã chỉ ra rằng, vào bất kỳ thời đại nào, ở bất cứ quốc gia
nào muốn hưng thịnh đều phải lấy giáo dục làm trọng. Giáo dục không chỉ là phúc
lợi xã hội mà thực sự là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế -xã hội. Thế kỷ
XXI là thế kỷ của tri thức, thông tin và giáo dục là chìa khóa để bước vào lâu đài
tri thức vô tận của con người. Nhận thức vai trò quan trọng của giáo dục trong
việc tạo nguồn lao động chất lượng cao, các nước đều tăng cường sức mạnh cho
(13)
/>(14)
/>17
giáo dục để tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế. Ở các nước phát triển, mô hình
đại học nghiên cứu đã phát triển đến mức độ cao, gắn với hoạt động sáng nghiệp.
Đại học vừa là các đầu tàu về tri thức, vừa là nền tảng văn hóa của xã hội; và đào
tạo, phát triển nguồn lao động chất lượng cao thông qua giáo dục đại học được
xem là quy luật tất yếu trong thời đại ngày nay.
Giáo dục đại học có vị trí quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia. Kinh nghiệm chỉ ra rằng giáo dục đào tạo và Công nghiệp
hóa – hiện đại hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau; thậm chí giáo dục đào tạo là yếu
tố tác động mạnh mẽ đến quy mô, tốc độ và thành công của sự nghiệp Công nghiệp
hóa – hiện đại hóa. “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển
nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây
dựng nền văn hoá và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với
phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và
đào tạo là đầu tư phát triển. Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo theo
nhu cầu phát triển của xã hội; nâng cao chất lượng theo yêu cầu chuẩn hoá, hiện
đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, phục vụ đắc lực sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Thực tiễn những nước đi trước về Công nghiệp hóa
– hiện đại hóa cũng chỉ ra rằng: xã hội muốn đạt tới trình độ phát triển mới và cao
hơn thì tất yếu phải dựa trên sự phát triển tương ứng về mặt giáo dục.
Giáo dục và đào tạo vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa trực tiếp đối
với sự thành công của Công nghiệp hóa – hiện đại hóa và Công nghiệp hóa – hiện
đại hóa với những thành tựu của nó lại tác động trở lại tạo điều kiện thuận lợi cho
việc hiện đại hóa giáo dục và đào tạo. Vì vậy, phát triển giáo dục và đào tạo là
một trong những nội dung quan trọng nhằm phát triển nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu Công nghiệp hóa – hiện đại hóa và Công nghiệp hóa – hiện đại hóa tạo
điều kiện cho giáo dục và đào tạo phát triển theo hướng hiện đại. Là động lực thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển, đầu tư cho giáo dục phải được xem là một trong
những hướng chính của đầu tư phát triển; đồng thời, giáo dục phải đi trước, phù
hợp với xu thế tiến bộ của thời đại và phục vụ đắc lực cho phát triển kinh tế -xã
18
hội đất nước.
Ngày nay, giáo dục đại học là con đường tất yếu góp phần quyết định vào
phát triển đất nước. Trường đại học được giao chức năng quan trọng là sáng tạo,
chuyển giao tri thức, bảo tồn và phát triển văn hóa, đào tạo nguồn nhân lực cao
cho xã hội; trường đại học luôn mang trên mình những nhiệm vụ cao cả. Là trung
tâm khoa học và đào tạo, nơi lưu trữ, sáng tạo và truyền bá tri thức, nơi đào tạo ra
không chỉ là những người công dân, những người lao động có tri thức mà còn có
nhiệm vụ cao hơn, là nơi chuẩn bị đội ngũ lãnh đạo tương lai cho đất nước. Là
một lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao để cung cấp cho
xã hội, giáo dục đại học được ưu tiên ở hầu hết các nước trên thế giới. Vươn tới
những chuẩn mực quốc tế trong đào tạo, đồng thời đào tạo nguồn lao động chất
lượng cao để chủ động hội nhập quốc tế và tham gia chuỗi giá trị toàn cầu là sứ
mệnh, là trách nhiệm lớn lao của các trường đại học. Vì vậy, các quốc gia phát
triển nhanh đều có các trường trụ cột đại học, các chính phủ đều chú trọng đầu tư
phát triển của giáo dục đại học.
Để thực hiện được mục tiêu cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, Việt Nam đang tiếp tục đổi mới sâu rộng và đồng bộ hơn; tập trung ưu
tiên tái cấu trúc nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng
nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững, đẩy mạnh Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Tình hình trên
đặt ra cho ngành giáo dục và đào tạo những yêu cầu mới, vẻ vang nhưng cũng
nặng nề hơn trong việc thực hiện nhiệm vụ nâng cao dân trí, phát triển nguồn lao
động chất lượng cao và nền khoa học công nghệ tiên tiến. Hiện nay, nước ta đang
triển khai thực hiện Cương lĩnh của Đảng, các Nghị quyết số 20/NQ-TW về đổi
mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo và Nghị quyết số 29/NQ-TW về phát
triển khoa học công nghệ và đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo. Việc
Đảng và Nhà nước đã chọn việc phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao gắn kết với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ
là một trong ba khâu đột phá chiến lược đã giao trách nhiệm và là cơ hội phát triển
19
cho các trường đại học nghiên cứu cũng như hệ thống giáo dục đại học Việt
Nam.(15)
2.2 Sinh viên trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa.
Vai trò của sinh viên:
Sinh viên Việt Nam là những tri thức tương lai của đất nước, không ai hết mà
chính họ sẽ là những người đóng vai trò chủ chốt trong công cuộc công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước. Thế kỷ XXI là thế kỷ của văn minh trí tuệ, của sự
phát triển khoa học công nghệ, nên rất cần có những con người trẻ tuổi, có trình
độ và năng lực sáng tạo cao, có khả năng tiếp nhận cái mới rất nhanh và biết thay
đổi linh hoạt, thích nghi kịp thời với sự thay đổi nhanh chóng của xã hội hiện đại,
đại diện cho một thế hệ tiên tiến mới.
Quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở các nước đang phát triển
đó là một môi trường mới đòi hỏi tư duy phải đổi mới nhanh nhạy để phù hợp, do
đó từng lớp tri thức và sinh viên thích nghi dễ dàng hơn. Chính họ đã đóng vai trò
quan trọng trong việc hình thành một tư duy kinh tế mới.
Ngày nay, trong xây dựng phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước và mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế, từng lớp trí thức tiếp
nối các thế hệ cha anh đã và đang phát huy được truyền thống vẻ vang của các thế
hệ trẻ trước đây trong các lĩnh vực hoạt động của mình. Hàng chục hàng trăm
nghìn trí thức nói chung và sinh viên nói riêng đang đảm nhiệm những cương vị
canh tác quan trọng trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế Nhà
nước, tập thể, tư nhân, liên doanh liên kết với nước ngoài.
Là sinh viên trong thời đại công nghiệp hóa – hiện đại hóa cần:
Ra sức học tập, nghiên cứu để nhận thức rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, kiên định lí tưởng “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Xây dựng
ý chí tự lực, tự cường, không chịu đói nghèo lạc hậu.
Thường xuyên học tập để không ngừng nâng cao trình độ học vấn, nhanh
(15)
/>20
chóng tiếp cận và làm chủ được khoa học và công nghệ mới.
Nâng cao ý thức cảnh giác, kiên quyết đập tan âm mưu chống phá của các
thế lực thù địch, bảo vệ Đảng, bảo vệ đất nước, phòng chống các tệ nạn xã hội,
góp phần tích cực trong giữ gìn trật tự an toàn giao thông và an ninh xã hội, quốc
gia.
Tiếp thu và phát huy truyền thống cách mạng của Đảng, của dân tộc, xây
dựng lòng yêu nước nồng nàn, ý thức trách nhiệm công dân, phát huy tinh thần
sáng tạo, vượt khó khăn, ý chí tự lực, tự cường dân tộc, phấn đấu vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
21
KẾT LUẬN
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ, lao động thủ
công là chủ yếu, trải qua hơn 20 năm đổi mới và phát triển đến nay nền kinh tế
nước ta đã có những thay đổi đáng kể và đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Từ
môt nước nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn đã vươn lên trở thành một nước có nền
kinh tế ổn định. Đây là bước tiến quan trọng khẳng định sự phát triển của nền kinh
tế nhưng đồng thời cũng tạo ra không ít thách thức đòi hỏi chúng ta phải không
ngừng nỗ lực để bắt kịp xu thế thời đại và không bị tụt hậu. Trong điền kiện hiện
nay việc đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn liền với phát triển kinh tế
tri thức là một bước đi đúng đắn để tạo nội lực cho nền kinh tế trong nước đồng
thời tăng ngoại lực để chúng ta có thể hòa nhập với các nước phát triển trên thế
giới. Nghị quyết đại hội IX đã chỉ ra: “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10
năm 2001 – 2010 nhằm: đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nề tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực
con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế
được nâng cao”. Chiến lược này đã được đảng ta vận dụng một cách sáng tạo
trong điều kiện cụ thể của đất nước đẻ vạch ra đường lối đúng đắn cho sự nghiệp
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, cho sự nghiệp thúc đẩy nền kinh tế vươn lên mạnh
mẽ mà không gì khác là phải “Công nghiệp hóa – hiện đại hóa gắn liền với phát
triển kinh tế tri thức”.
22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia, năm 2010.
2. (ngày 28/5/2016)
3. (ngày 28/5/2016)
4. />Us8q (ngày 28/5/2016)
5. />
(ngày
28/5/2016)
6. />73&print=true (ngày 28/5/2016)
7. :81/tin-chien-luoc-chinh-sach/763-phat-trien-kinh-tetri-thuc-co-hoi-va-thach-thuc-cua-viet-nam.html (ngày 28/5/2016)
8. />28/5/2016)
23
(ngày