Tải bản đầy đủ (.pdf) (195 trang)

Đổi mới nội dung chương trình đào tạo cử nhân ngành giáo dục thể chất trường đại học tây bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 195 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH

-----------------------

PHẠM ĐỨC VIỄN

ĐỔI MỚI NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
CỬ NHÂN NGÀNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC

LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC

BẮC NINH - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH

-----------------------

PHẠM ĐỨC VIỄN

ĐỔI MỚI NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO
CỬ NHÂN NGÀNH GIÁO DỤC THỂ CHẤT


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Ngành

: Giáo dục học

Mã số

: 9140101

LUẬN ÁN TIẾN SĨ GIÁO DỤC HỌC
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. VŨ CHUNG THỦY

2. PGS.TS. ĐỖ HỮU TRƯỜNG

BẮC NINH - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nghiên cứu nêu trong luận án là trung thực
và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án

Phạm Đức Viễn


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BGD&ĐT

: Bộ Giáo dục & Đào tạo

cm

: centimet

CP

: Chính phủ

CSVC

: Cơ sở vật chất

CT

: Chương trình

CTĐT

: Chương trình đào tạo

GD

: Giáo dục

GDĐH


: Giáo dục đại học

GDTC

: Giáo dục thể chất

GD-ĐT

: Giáo dục - đào tạo

GV

: Giảng viên

m

: mét

mi

: Tần suất lặp lại



: Nghị định

NQ

: Nghị quyết


Nxb

: Nhà xuất bản



: Quyết định

s

: giây

SV

: Sinh viên

TDTT

: Thể dục thể thao

TDTT NK

: Thể dục thể thao ngoại khóa

THPT

: Trung học phổ thông

TW


: Trung ương


DANH MỤC BẢNG, SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
TT

Nội dung

3.1. Kết quả phỏng vấn lựa chọn tiêu chí đánh giá thực trạng các

Trang
67

yếu tố đảm bảo thực hiện nội dung Chương trình đào tạo cử
nhân Ngành Giáo dục thể chất ở Trường Đại học Tây Bắc
3.2. Thực trạng đội ngũ giảng viên Giáo dục thể chất tại Trường

69

Đại học Tây Bắc
3.3. Thực trạng phòng học, giảng đường và các trang thiết bị hỗ trợ

70

đào tạo tại Trường Đại học Tây Bắc
3.4. Thống kê sân bãi tập luyện phục vụ quá trình đào tạo của

71

Trường Đại học Tây Bắc

3.5. Mức độ đáp ứng yêu cầu về trang thiết bị và cơ sở hạ tầng phục
vụ cho công tác giảng dạy, học tập
3.6. Thực trạng hình thái và thể lực đầu vào của sinh viên ngành

Sau
Tr.71
73

Giáo dục thể chất, Trường Đại học Tây Bắc
3.7. Thực trạng kết quả phân loại trình độ thể lực đầu vào của sinh

74

viên Ngành Giáo dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc
3.8. Kết quả phỏng vấn lựa chọn tiêu chí đánh giá nội dung Chương
trình đào tạo cử nhân Ngành Giáo dục thể chất ở Trường Đại

Sau
Tr.77

học Tây Bắc
3.9. Thực trạng nội dung Chương trình đào tạo cử nhân Ngành Giáo

80

dục thể chất ở Trường Đại học Tây Bắc
3.10. Kết quả phỏng vấn cán bộ quản lý và giáo viên về hoạt động

82


ngoại khóa của cử nhân ngành Giáo dục thể chất tại Trường
Đại học Tây Bắc
3.11. Kết quả phỏng vấn sinh viên ngành Giáo dục thể chất tại

82

Trường Đại học Tây Bắc về hoạt động ngoại khóa
3.12. Kết quả phỏng vấn lựa chọn tiêu chí đánh giá hiệu quả nội
dung Chương trình đào tạo cử nhân Ngành Giáo dục thể chất ở

84


TT

Nội dung

Trang

Trường Đại học Tây Bắc
3.13. Kết quả học tập của sinh viên Ngành Giáo dục thể chất Trường

85

Đại học Tây Bắc
3.14. Thực trạng hình thái và thể lực đầu ra của sinh viên ngành Giáo

86

dục thể chất, Trường Đại học Tây Bắc

3.15. Thực trạng kết quả phân loại trình độ thể lực đầu ra của sinh

87

viên Ngành Giáo dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc
3.16. Kết quả đánh giá phẩm chất và năng lực công tác của cử nhân
ngành Giáo dục thể chất theo hướng đáp ứng nhu cầu xã hội
3.17. Thực trạng việc làm của cử nhân khóa 52 Ngành Giáo dục thể

Sau
Tr.88
89

chất Trường Đại học Tây Bắc thời điểm 1 năm sau khi tốt
nghiệp (n=130)
3.18. So sánh các tiêu chuẩn được lựa chọn của luận án với các bộ

93

tiêu chuẩn liên quan
3.19. Kết quả khảo sát ý kiến đánh giá về chương trình đào tạo của
các đối tượng liên quan
3.20. Chương trình và kế hoạch đào tạo

Sau
Tr.109
Sau
Tr.112

3.21. Thống kê nội dung lược bỏ giữa chương trình mới so với


116

chương trình cũ
3.22. Thống kê nội dung được bổ sung giữa chương trình mới so với
chương trình cũ
3.23. So sánh khung chương trình đào tạo ngành Giáo dục thể chất

Sau
Tr.116
118

của một số trường Đại học
3.24. Kết quả đánh giá của chuyên gia về văn bản mô tả chương

124

trình đào tạo theo nội dung đổi mới
3.25 So sánh kết quả đánh giá văn bản mô tả nội dung chương
trình đào tạo thực nghiệm với chương trình đào tạo cũ

125


TT

Nội dung

Trang


3.26 Kết quả đánh giá mục tiêu chương trình đào tạo thực nghiệm

126

3.27 So sánh kết quả đánh giá mục tiêu chương trình đào tạo thực

126

nghiệm với chương trình đào tạo cũ
3.28 Kết quả đánh giá nội dung chương trình đào tạo thực nghiệm

127

3.29 So sánh kết quả đánh giá nội dung chương trình đào tạo thực

128

nghiệm với chương trình đào tạo cũ
3.30 Kết quả đánh giá hoạt động nội khóa của chương trình đào tạo

128

thực nghiệm
3.31 So sánh kết quả đánh giá hoạt động nội khóa chương trình

129

đào tạo thực nghiệm với chương trình đào tạo cũ
3.32 Kết quả đánh giá hoạt động ngoại khóa của chương trình


130

thực nghiệm thông qua ý kiến của sinh viên
3.33 So sánh kết quả đánh giá hoạt động ngoại khóa chương trình

131

đào tạo thực nghiệm với chương trình đào tạo cũ
3.34 Kết quả phỏng vấn lựa chọn các tiêu chí đánh giá phẩm chất và
năng lực của sinh viên thông qua đợt thực tập
3.35 Kết quả thực tập nghiệp vụ sư phạm của sinh viên nhóm thực

Sau
Tr.132
133

nghiệm theo xếp loại
3.36 Kết quả đánh giá thực tập nghiệp vụ sư phạm của sinh viên
nhóm thực nghiệm

Sau
Tr.133


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, sơ đồ, biểu đồ
Mục lục

MỞ ĐẦU

1

Mục đích nghiên cứu

4

Nhiệm vụ nghiên cứu

4

Giải thuyết khoa học

5

Ý nghĩa khoa học

5

Ý nghĩa thực tiễn

5

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

6

1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về Giáo dục - Đào tạo và giáo dục thể


6

chất
1.1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vai trò của Giáo dục - Đào tạo

6

trong sự nghiệp phát triển đất nước
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới Giáo dục - Đào tạo

7

phù hợp với sự phát triển của xã hội
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác giáo dục thể chất

9

1.2. Những yêu cầu cấp bách trong đổi mới giáo dục và giáo dục thể

10

chất thời kỳ hội nhập
1.3. Chương trình và những quan điểm trong xây dựng chương trình

17

đào tạo
1.3.1. Chương trình đào tạo

17


1.3.2. Các bước thiết kế và phát triển chương trình đào tạo

20

1.3.3. Một số tiếp cận phổ biến trong xây dựng, phát triển chương trình

21

đào tạo
1.3.4. Thiết kế chương trình đào tạo theo hướng tiếp cận năng lực đầu ra

22

1.3.5. Một số yêu cầu trong xây dựng nội dung chương trình đào tạo

27

1.4. Tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá chương trình đào tạo và các mô hình

32


đánh giá chương trình đào tạo
1.4.1. Khái niệm về đánh giá chương trình, các tiêu chuẩn, tiêu chí đánh

32

giá chương trình đào tạo
1.4.2. Mô hình và đối tượng tham gia đánh giá chương trình đào tạo

1.5. Định hướng đổi mới Chương trình đào tạo cử nhân Ngành Giáo dục

34
38

thể chất ở Trường Đại học Tây Bắc
1.5.1. Thống nhất cách hiểu một số thuật ngữ khi xây dựng Chương trình

39

đào tạo
1.5.2. Định hướng đổi mới mục tiêu đào tạo

40

1.5.3. Định hướng đổi mới nội dung chương trình đào tạo

42

1.5.4. Định hướng đổi mới trong thiết kế chương trình đào tạo

44

1.6. Một số đặc điểm phát triển kinh tế, văn hóa xã hội, giáo dục của

45

các tỉnh Vùng Tây Bắc và Trường Đại học Tây Bắc
1.7. Các công trình nghiên cứu có liên quan


47

1.7.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài

47

1.7.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan tại Việt Nam

49

Kết luận chương

52

CHƯƠNG 2: PHƯƠNG PHÁP VÀ TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU

53

2.1. Phương pháp nghiên cứu

53

2.1.1. Phương pháp phân tích và tổng hợp tài liệu

53

2.1.2. Phương pháp quan sát sư phạm

54


2.1.3. Phương pháp phỏng vấn

54

2.1.4. Phương pháp kiểm tra y học

55

2.1.5. Phương pháp kiểm tra sư phạm

57

2.1.6. Phương pháp thực nghiệm sư phạm

59

2.1.7. Phương pháp toán học thống kê

60

2.2. Tổ chức nghiên cứu

61

2.2.1. Đối tượng nghiên cứu

61

2.2.2. Phạm vi nghiên cứu


61

2.2.3. Địa điểm nghiên cứu

62

2.2.4. Kế hoạch và thời gian nghiên cứu

62

CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

63


3.1. Đánh giá thực trạng nội dung Chương trình đào tạo cử nhân Ngành

63

Giáo dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc
3.1.1. Phương pháp tiếp cận trong đánh giá nội dung Chương trình đào

63

tạo cử nhân Ngành Giáo dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc
3.1.2. Đánh giá thực trạng các yếu tố đảm bảo thực hiện nội dung

65

Chương trình đào tạo cử nhân Ngành Giáo dục thể chất ở Trường Đại học

Tây Bắc
3.1.3. Đánh giá thực trạng nội dung chương trình đào tạo cử nhân Ngành

75

Giáo dục thể chất tại Trường Đại học Tây Bắc
3.1.4. Đánh giá thực trạng hiệu quả nội dung Chương trình đào tạo cử

83

nhân Ngành Giáo dục thể chất tại Trường Đại học Tây Bắc
1.5.5. Bàn luận kết quả nghiên cứu nhiệm vụ 1
3.2. Nghiên cứu đối mới nội dung Chương trình đào tạo cử nhân Ngành

90
98

Giáo dục thể chất tại Trường Đại học Tây Bắc
3.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn tiến hành đổi mới nội dung Chương trình

99

đào tạo cử nhân Ngành Giáo dục thể chất tại Trường Đại học Tây Bắc
3.2.2. Xác định yêu cầu và nội dung đổi mới Chương trình đào tạo cử 104
nhân Ngành Giáo dục thể chất tại Trường Đại học Tây Bắc
3.2.3. Xây dựng nội dung Chương trình đào tạo cử nhân Ngành Giáo dục 111
thể chất theo hướng đổi mới
3.2.4. Bàn luận kết quả nghiên cứu nhiệm vụ 2

114


3.3. Ứng dụng đánh giá hiệu quả của nội dung Chương trình đào tạo cử 122
nhân Ngành Giáo dục thể chất ở Trường Đại học Tây Bắc
3.3.1. Tổ chức thực nghiêm

122

3.3.2. Đánh giá hiệu quả thực nghiệm

124

3.3.3. Bàn luận kết quả nghiên cứu nhiệm vụ 3

134

KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

137

1. Kết luận

137

2. Kiến nghị

138

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



1
MỞ ĐẦU
Mục tiêu giáo dục Việt nam là: xây dựng con người Việt Nam phát triển
toàn diện, có lý tưởng, đạo đức, có tính tổ chức và kỷ luật, có ý thức cộng đồng
và tính tích cực cá nhân, làm chủ tri thức hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ năng
thực hành, tác phong công nghiệp và có sức khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Với các nhiệm vụ trọng tâm là: Nâng cao chất lượng và hiệu
quả giáo dục; phát triển quy mô giáo dục cả đại trà và mũi nhọn trên cơ sở đảm
bảo chất lượng và điều chỉnh cơ cấu đào tạo, gắn đào tạo với sử dụng; thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục; đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã
hội học tập. Phát triển giáo dục theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa,
gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh.
Có thể khẳng định, từ khi được thành lập đến nay, Đảng ta đặc biệt quan
tâm đến công tác giáo dục và đào tạo. Các văn kiện của Đảng về giáo dục và đào
tạo đã nêu nhiều quan điểm chỉ đạo mà đến nay vẫn còn nguyên giá trị và cần
tiếp tục quán triệt và thực hiện. Những quan điểm đó là: Giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển; giáo dục là sự
nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân; mục tiêu của giáo dục là
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài; phát triển giáo dục gắn
với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội và củng cố quốc phòng - an ninh; đa dạng
hóa các loại hình giáo dục; học đi đôi với hành, giáo dục nhà trường gắn liền với
giáo dục gia đình, xã hội; thực hiện công bằng trong giáo dục; ưu tiên đầu tư
phát triển giáo dục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng
dân tộc thiểu số và các đối tượng diện chính sách; thực hiện dân chủ hóa, xã hội
hóa giáo dục.
Thách thức không nhỏ hiện nay trong lộ trình triển khai giải pháp nâng cao
chất lượng giáo viên (GV) là công tác đào tạo lại để các thầy, cô đáp ứng có chất
lượng với việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông sau năm 2015. Theo
chủ trương của Bộ GD-ĐT, chương trình giáo dục sẽ tích hợp mạnh ở cấp học

dưới, phân hóa sâu ở các lớp trên. Vài năm tới, GV cấp THCS sẽ phải điều
chỉnh phương pháp dạy theo hướng liên môn. Trong khi đó, GV hiện nay hầu
hết được đào tạo chuyên ngành. Thực tế ấy đòi hỏi phải có chương trình, nội


2
dung, phương pháp bồi dưỡng, đào tạo lại để chủ động trang bị cho đội ngũ GV
hiện có những kiến thức, kỹ năng cần thiết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới chứ
không thể chờ các trường sư phạm.
Tuy nhiên, trong thực tiễn quá trình đào tạo còn nhiều hạn chế. Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra rằng,
“trong những năm vừa qua lĩnh vực giáo dục và đào tạo vẫn còn nhiều hạn chế
và yếu kém” [2]. Chính vì vậy, Đảng ta đã xác định cần phải có những đổi mới
trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đào tạo để tạo ra
đội ngũ lao động tri thức đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ trong tình hình
mới. Nghị quyết Đại hội đã nêu rõ một trong 5 nhiệm vụ để phát triển đất nước
là: “Phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân
lực” [2]. Điều đó cho thấy giáo dục đóng một vai trò đặc biệt quan trọng trong
chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Đội ngũ giáo viên là lực lượng nòng cốt
biến các mục tiêu giáo dục thành hiện thực, giữ vai trò quyết định chất lượng và
hiệu quả giáo dục. Xu thế đổi mới giáo dục đang đặt ra những yêu cầu mới về
phẩm chất, năng lực của người giáo viên. Giáo viên trước hết phải là một nhà
giáo dục, có đủ năng lực hoạt động nghề nghiệp, là một công dân gương mẫu,
hăng hái tham gia vào sự phát triển cộng đồng, giáo viên không chỉ đóng vai trò
truyền đạt các tri thức khoa học kỹ thuật mà đồng thời phải là người tổ chức và
trực tiếp thực hiện các hoạt động giáo dục.
Thể dục thể thao (TDTT) là một bộ phận không thể thiếu được trong hệ
thống giáo dục xã hội chủ nghĩa. Đó là phương tiện giáo dục, giáo dưỡng, bồi
dưỡng thế hệ trẻ cho tương lai phát triển toàn diện về Đức, Trí, Thể, Mỹ, Lao
động, nhằm xây dựng con người mới XHCN, đó là những con người có khả

năng cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng
về đạo đức. Đảng ta luôn coi trọng vị trí của công tác giáo dục nói chung và của
giáo dục thể chất (GDTC) nói riêng, và xem GDTC là một mặt của công tác
giáo dục toàn diện trong nhà trường XHCN. GDTC trong nhà trường các cấp
còn giữ một vị trí quan trọng, then chốt trong chiến lược phát triển sự nghiệp
TDTT, nhất là trong các trường phổ thông.
Thực tế cho thấy, các sinh viên ngành GDTC của các trường Đại học khu


3
vực Tây Bắc sau khi ra trường hầu hết tham gia giảng dạy và phát triển phong
trào TDTT tại các trường vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn
của các tỉnh miền núi phía Tây Bắc. Hầu hết là các trường còn gặp rất nhiều khó
khăn về cơ sở vật chất phục vụ tập luyện và giảng dạy, học sinh còn chưa hứng
thú với môn học GDTC vì coi đó là một môn phụ, không quan trọng, nội dung
giảng dạy còn cứng nhắc theo một chương trình bắt buộc, chưa đưa nội dung tự
chọn vào trong quá trình tổ chức giảng dạy, vì vậy không tạo được sự hứng thú
trong học tập, đồng thời CTĐT cũng chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội.
Trong lịch sử của quá trình phát triển xã hội đã hình thành nên những nền văn
hóa đặc trưng, đậm đà bản sắc dân tộc, có sự phong phú, đa dạng về các trò chơi
dân gian, các môn thể thao dân tộc. Thực tiễn này đã đặt ra yêu cầu đối với công
tác đào tạo giáo viên GDTC, đó là phải biết gắn kết, lồng ghép và phát huy tích
cực các trò chơi dân gian, các môn thể thao dân tộc trong quá trình giảng dạy
nhằm nâng cao được chất lượng của công tác GDTC, cũng như làm cơ sở cho
việc bảo tồn, duy trì và phát triển các trò chơi dân gian, các môn thể thao dân tộc
đặc trưng của địa phương nơi công tác, phục vụ tích cực cho việc thành lập các
đội tuyển tham gia Hội khoẻ Phù đổng và các cuộc thi đấu thể thao dân tộc. Việc
bổ sung và cho phép lựa chọn môn thể thao dân tộc trong CTĐT không chỉ đa
dạng hóa nội dung đào tạo, phù hợp với năng lực người học, gây được tính hứng
thú trong học tập, tập luyện, mà quan trọng hơn đó là việc góp phần gìn giữ bản

sắc văn hoá các dân tộc thiểu số trên địa bàn nơi công tác theo định hướng Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam: “Tiếp tục
xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc” [2], đáp ứng được nhu cầu
thưởng thức văn hóa và giải trí của xã hội trong các hoạt động lễ hội của địa
phương. Tuy nhiên thực tế trong CTĐT cử nhân ngành GDTC và Cao đẳng của
các trường vùng núi phía Tây Bắc lại chưa có trường nào xây dựng chương trình
dựa trên cơ sở đáp ứng những nhu cầu đó. Trong CTĐT, bên cạnh những nội
dung cơ bản, các môn thể thao hiện đại của ngành GDTC, sự cần thiết phải lựa
chọn đưa vào CTĐT các trò chơi dân gian, các môn thể thao dân tộc nhằm phát
huy tiềm năng của các trường, phù hợp với sở thích của học sinh và đáp ứng


4
được nhu cầu xã hội thuộc khu vực các tỉnh vùng núi phía Tây Bắc.
Cùng với mục tiêu đổi mới chung của ngành giáo dục, các trường Đại học, Cao
đẳng, Trung học chuyên nghiệp đã và đang phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo toàn
diện, coi việc nâng cao chất lượng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các trường
trong giai đoạn cách mạng hiện nay. Để đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, cùng với các
giải pháp đồng bộ như tăng cường cơ sở vật chất phục vụ công tác dạy và học, đổi mới
kế hoạch đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy nâng cao chất lượng giáo dục, nâng
cao trình độ chuyên môn của mỗi giáo viên thì vấn đề xây dựng, đổi mới nội dung
CTĐT của các trường là một vấn đề rất cần thiết và phải được chú trọng đúng mức.
Hiểu rõ tầm quan trọng của lĩnh vực này, nhiều nhà khoa học giáo dục đã quan tâm
nghiên cứu. Tuy nhiên các đề tài chủ yếu được tiến hành nghiên cứu chương trình cho
các chuyên ngành ở trình độ Đại học và Cao đẳng...., Nguyễn Cẩm Ninh “Nghiên cứu
xây dựng nội dung giảng dạy cử nhân ngành Quản lý TDTT”; Trần Vũ Phương
"Nghiên cứu xây dựng CTĐT ngành GDTC trình độ Cao đẳng theo hướng góp phần
nâng cao năng lực hoạt động nghề nghiêp, chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng nhu
cầu xã hội"; Nguyễn Văn Hòa “Đánh giá CTĐT cử nhân ngành Huấn luyện thể thao

trường Đại học TDTT Bắc Ninh”; Trương Đức Thăng "Định hướng đổi mới CTĐT
cử nhân ngành Y sinh học TDTT".... còn đối với ngành GDTC trình độ Đại học, hơn
thế lại là các trường Đại học miền núi phía Tây Bắc thì chưa có đề tài nào đề cập tới.
Từ kết quả phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, với năng lực và kinh
nghiệm trực tiếp tham gia công tác đào tạo nhiều năm chúng tôi định hướng
nghiên cứu đề tài: “Đổi mới nội dung chương trình đào tạo cử nhân Ngành
Giáo dục thể chất Trường Đại học Tây Bắc”.
Mục đích nghiên cứu:
Từ kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn, đề tài đổi mới nội dung
CTĐT cử nhân ngành GDTC. Kết quả nghiên cứu sẽ trực tiếp góp phần đổi mới
và nâng cao chất lượng công tác đào tạo cử nhân ngành GDTC và hiệu quả đào
tạo chung của Trường Đại học Tây Bắc.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Nhiệm vụ 1: Đánh giá thực trạng nội dung CTĐT cử nhân Ngành GDTC ở
Trường Đại học Tây Bắc.


5
Nhiệm vụ 2: Nghiên cứu đổi mới nội dung CTĐT cử nhân Ngành GDTC ở
Trường Đại học Tây Bắc.
Nhiệm vụ 3: Ứng dụng đánh giá hiệu quả của nội dung CTĐT cử nhân
Ngành GDTC ở Trường Đại học Tây Bắc.
Giả thuyết khoa học:
Qua nghiên cứu thực tế công tác đào tạo theo chương trình đào tạo cử nhân
ngành GDTC tại Trường Đại học Tây Bắc cho thấy hiệu quả công tác đào tạo
chưa tương xứng với tiềm năng sẵn có của nhà trường và chưa đáp ứng một
phần nhu cầu xã hội. Có nhiều nguyên nhân dẫn tới thực trạng trên nhưng giả
thuyết nguyên nhân chính là nội dung CTĐT chưa thực sự phù hợp. Nếu đổi
mới được nội dung CTĐT theo hướng phù hợp, đáp ứng nhu cầu xã hội sẽ giúp
nâng cao hiệu quả đào tạo cử nhân ngành GDTC tại Trường.

Ý nghĩa khoa học:
Hệ thống hóa và hoàn thiện các vấn đề lý luận liên quan tới các quan điểm
của Đảng và Nhà nước về Giáo dục - Đào tạo và GDTC; Những yêu cầu cấp
bách trong đổi mới giáo dục và GDTC; quan điểm về xây dựng và đánh giá
CTĐT cũng như định hướng đổi mới đào tạo cử nhân ngành GDTC tại Trường
Đại học Tây Bắc.
Ý nghĩa thực tiễn:
Đánh giá được thực trạng các điều kiện đảm bảo và nội dung CTĐT cử
nhân ngành GDTC tại Trường Đại học Tây Bắc, trên cơ sở đó, tiến hành đổi mới
nội dung CTĐT cử nhân ngành GDTC tại Trường theo hướng khoa học, phù
hợp với điều kiện thực tiễn và đáp ứng nhu cầu xã hội. Bước đầu ứng dụng nội
dung chương trình đổi mới trong thực tiễn đã thu được hiệu quả thiết thực.


6
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về Giáo dục - Đào tạo và giáo dục
thể chất
1.1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về vai trò của Giáo dục - Đào tạo
trong sự nghiệp phát triển đất nước
Giáo dục và Đào tạo là một vấn đề hết sức quan trọng trong đời sống kinh
tế - chính trị của mỗi nước, là biểu hiện trình độ phát triển của mỗi quốc gia.
Sinh thời, Hồ Chí Minh đã từng nói: “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [23].
Vì vậy, ngay từ những ngày đầu mới giành được chính quyền, Đảng ta luôn xác
định, phát triển GD-ĐT nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nguồn nhân lực có chất
lượng tốt là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV đến nay, Đảng đã xem giáo dục là bộ
phận quan trọng của cuộc cách mạng tư tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và
giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc trưởng thành. Nghị quyết Đại hội X tiếp tục

khẳng định vai trò của GD-ĐT là: Hình thành và phát triển toàn diện nhân
cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao động có kỹ thuật
đồng bộ về ngành nghề, phù hợp với yêu cầu phân công lao động của xã hội.
Bên cạnh đó, vai trò quan trọng của giáo dục chuyên nghiệp trong việc phát triển
con người Việt Nam mới cũng được đánh giá cao. Đảng ta coi sự nghiệp giáo
dục, nhất là giáo dục đại học và chuyên nghiệp, trực tiếp góp phần vào việc đổi
mới công tác quản lý kinh tế và xã hội [1].
Trước những đòi hỏi cấp bách về nguồn nhân lực chất lượng cao đáp
ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng khẳng định,
một trong những nhiệm vụ cốt yếu để phát triển trí tuệ cho nhân dân ta là
nâng cao chất lượng, hiệu quả GD-ĐT và khoa học công nghệ. Vì vậy, từ
Nghị quyết Đại hội VII, Đảng ta đã coi khoa học và công nghệ, GD-ĐT là
quốc sách hàng đầu. Đến các Đại hội Đảng VIII, IX, X, XI, Đảng ta tiếp tục
khẳng định đường lối phát triển GD-ĐT, khoa học và công nghệ, quán triệt
quan điểm coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu [1], [2].
Như vậy, nhận thức được tầm quan trọng của GD-ĐT đối với sự phát triển
kinh tế - xã hội đất nước nói chung và phát triển con người nói riêng, Đảng ta đã


7
và đang quan tâm, chăm lo cho phát triển một nền giáo dục Việt Nam tiên tiến,
hiện đại, chất lượng cao. Trong Nghị quyết Đại hội lần thứ XI đã khẳng
định“Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng xây dựng đất nước, xây dựng nền
văn hóa và con người Việt Nam" [2].
1.1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới Giáo dục - Đào tạo
phù hợp với sự phát triển của xã hội
Đổi mới GD-ĐT phù hợp với sự phát triển của xã hội luôn được Đảng và
nhà nước ta đặt ra như một trong những yêu cầu cấp thiết nhất trong sự nghiệp
phát triển đất nước. Quan điểm đó đã được thể hiện xuyên suốt trong các văn

kiện Đại hội đại biểu toàn quốc từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI cũng như trong các chỉ thị, nghị quyết của
Đảng về GD-ĐT.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng đã chỉ ra rằng cần phải tiến
hành cải cách giáo dục trong cả nước; phát triển giáo dục phổ thông; sắp xếp,
từng bước mở rộng và hoàn chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và
trung học chuyên nghiệp; phát triển rộng rãi các trường dạy nghề. Quan điểm về
cải cách giáo dục đó tiếp tục được bổ xung và hoàn thiện trong các Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng. Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng nhấn
mạnh: "Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam... trong đó, đổi mới cơ
chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục là
khâu then chốt” [2].
Để cụ thể hoá nghị quyết của các đại hội đại biểu toàn quốc cũng như phù
hợp với sự phát triển của đất nước ở mỗi giai đoạn khác nhau, Đảng và Nhà
nước đã ra nhiều văn bản, chỉ thị và nghị quyết về cải cách giáo dục như Nghị
quyết số 14-NQ/TW ngày 11-1-1979 về “cải cách giáo dục”. Nguyên lý cải cách
giáo dục là việc học phải đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản
xuất, nhà trường gắn với xã hội. Đây là Nghị quyết đầu tiên về chuyên đề giáo
dục sau khi đất nước được thống nhất và nó đã đặt nền móng cho công cuộc cải
cách giáo dục của đất nước trong những năm 80 của thế kỷ XX; Nghị quyết số
04-NQ/HNTW ngày 14/1/1993 về “Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục và đào
tạo”; Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 2/11/2005 về “Đổi mới cơ bản và toàn
diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2010”;... và hiện nay là Nghị


8
quyết số 29 NQ/TW ngày 4/11/2013 về “đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” [4]. Nghị quyết đã
đưa ra 7 quan điểm chỉ đạo: 1- Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là sự

nghiệp của Đảng, Nhà nước và của toàn dân. 2- Đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo là đổi mới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết, từ quan điểm, tư tưởng
chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, phương pháp, cơ chế, chính sách, điều kiện bảo đảm
thực hiện; đổi mới từ sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đến hoạt động
quản trị của các cơ sở giáo dục - đào tạo và việc tham gia của gia đình, cộng đồng, xã
hội và bản thân người học; đổi mới ở tất cả các bậc học, ngành học. Trong quá trình
đổi mới, cần kế thừa, phát huy những thành tựu, phát triển những nhân tố mới,
tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm của thế giới; kiên quyết chấn chỉnh
những nhận thức, việc làm lệch lạc. Đổi mới phải bảo đảm tính hệ thống, tầm
nhìn dài hạn, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học; các giải pháp phải
đồng bộ, khả thi, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp. 3- Phát
triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; lý luận
gắn với thực tiễn; giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục
xã hội. 4- Phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc; với tiến bộ khoa học và công nghệ; phù hợp quy luật
khách quan. Chuyển phát triển giáo dục và đào tạo từ chủ yếu theo số lượng
sang chú trọng chất lượng và hiệu quả, đồng thời đáp ứng yêu cầu số lượng. 5Đổi mới hệ thống giáo dục theo hướng mở, linh hoạt, liên thông giữa các bậc
học, trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo. Chuẩn hóa, hiện đại
hóa giáo dục và đào tạo. 6- Chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu
cực của cơ chế thị trường, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển
giáo dục và đào tạo. Phát triển hài hòa, hỗ trợ giữa giáo dục công lập và ngoài
công lập, giữa các vùng, miền. Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối
với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo, vùng
sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách. Thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo
dục và đào tạo. 7- Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và
đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để


9

phát triển đất nước [4]. Các quan điểm chỉ đạo đó đã được cụ thể hóa trong nghị
quyết số 44/NQ-CP ngày 9/6/2014 và kế hoạch hành động của ngành Giáo dục
(Ban hành kèm theo Quyết định số 2653 /QĐ-BGDĐT ngày 25 tháng 7 năm 2014
của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) [27].
Như vậy, quan điểm về đổi mới giáo dục và đào tạo của Đảng ta đã không
ngừng được bổ xung và phát triển cho phù hợp với những yêu cầu của thời đại
mới. Những quan điểm này là cơ sở, là nền tảng để Bộ, các Sở, Phòng GD-ĐT,
các trường học trên cả nước tiến hành đổi mới công tác dạy và học mang lại hiệu
quả giáo dục ngày càng cao.
1.1.3. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác Giáo dục thể chất
Giáo dục thể chất“là một trong những hình thức hoạt động cơ bản có định
hướng rõ của TDTT trong xã hội” [78], TDTT là một bộ phận của nền văn hóa,
trình độ phát triển TDTT là một trong những tiêu chí đánh giá trình độ văn hóa và
năng lực sáng tạo của dân tộc, là phương tiện giao lưu văn hóa nói chung, văn hóa
thể chất nói riêng, mở rộng các mối quan hệ quốc tế. Vì vậy, Đảng và Nhà nước
ta luôn chú trọng đến công tác đổi mới nhằm phát triển hơn nữa công tác GDTC.
Đảng và Nhà nước ta đã chỉ rõ, nhiệm vụ chính của GDTC là: Nâng cao sức
khỏe, đảm bảo sự phát triển bình thường của cơ thể học sinh, sinh viên; phát triển
thể lực, trang bị những kỹ năng vận động cơ bản và cần thiết cho cuộc sống; hình
thành thói quen rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh và giữ phẩm chất đạo đức, nhân
cách học sinh, sinh viên, những chủ nhân tương lai của đất nước [66], [78].
Đảng, Nhà nước ta khẳng định, sự phát triển GDTC phải đảm bảo theo
quan điểm đường lối chung của Đảng, Nhà nước, của ngành TDTT và Ngành
GD-ĐT, phải đảm bảo tính dân tộc, tính khoa học và tính nhân dân. Trong đó,
Đảm bảo tính dân tộc có nghĩa là: Hình thức, nội dung các hoạt động GDTC phải
mang bản sắc dân tộc, vì mục đích, lợi ích dân tộc. Đảm bảo tính khoa học là: Kế
thừa có chọn lọc các tri thức về TDTT của nhân loại; mọi hoạt động GDTC phải
phù hợp với quy luật phát triển tâm, sinh lý của con người [26], [78].
Trong công tác đổi mới GDTC trường học thì nhiệm vụ đổi mới CTĐT
nhằm bồi dưỡng, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên GDTC đóng vai trò là nòng cốt.

Giáo viên GDTC không chỉ đóng vai trò truyền đạt các tri thức về GDTC, mà
đồng thời phải là người tổ chức và trực tiếp thực hiện các hoạt động giáo dục,
hoạt động TDTT trong nhà trường và địa phương nơi công tác. Điều đó đòi hỏi


10
cần phải đào tạo đội ngũ giáo viên GDTC có đủ năng lực hoạt động nghề
nghiệp, là một công dân gương mẫu, hăng hái tham gia vào sự phát triển TDTT
quần chúng.
Quan điểm đó đã được khẳng định trong chiến lược phát triển TDTT Việt
Nam đến năm 2020, chiến lược đã nêu lên những tồn tại, yếu kém của TDTT
nước ta, từ đó đưa ra các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể trong đổi mới công tác
TDTT là tăng cường xây dựng cơ chế, chính sách, đào tạo, chuẩn hóa đội ngũ
giáo viên, hướng dẫn viên thể dục, thể thao và Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 01
tháng 12 năm 2011 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ, một trong những nhiệm vụ cơ
bản được đặt lên hàng đầu là “…mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên thể dục cho trường học” [5].
Theo Luật Thể dục, Thể thao được ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006
của Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: GDTC và thể thao
trong nhà trường bao gồm 2 nội dung chính: [60]
“Giáo dục thể chất là môn học chính khoá thuộc chương trình giáo dục
nhằm cung cấp kiến thức, kỹ năng vận động cơ bản cho người học thông qua các
bài tập và trò chơi vận động, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện”,
đây còn được gọi là Thể dục nội khóa;
“Hoạt động thể thao trong nhà trường là hoạt động tự nguyện của người
học được tổ chức theo phương thức ngoại khoá phù hợp với sở thích, giới tính,
lứa tuổi và sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho người học thực hiện quyền vui
chơi, giải trí, phát triển năng khiếu thể thao”, còn được gọi là thể dục, thể thao
ngoại khóa [60].
Luật Giáo dục (2005) tại điều 39 quy định về mục tiêu của giáo dục đại học

là: Đào tạo người học có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân
dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ
đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngay trong
Luật Giáo dục, vấn đề giáo dục sức khỏe cho học sinh, sinh viên trong trường
học các cấp đã được quan tâm chú ý [61].
1.2. Những yêu cầu cấp bách trong đổi mới giáo dục và giáo dục thể
chất thời kỳ hội nhập
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, giữa một thế
giới đầy biến động, nhiều cơ hội và nhiều thách thức, mỗi người Việt Nam và cả


11
dân tộc Việt Nam đang đối mặt với những yêu cầu gay gắt về kinh tế, văn hóa,
khoa học, công nghệ, quốc phòng, an ninh... thì rất cần nghiên cứu, bổ sung để
có một xác định cụ thể, đầy đủ về sứ mạng và mục tiêu của giáo dục.
Hơn hai chục năm qua, Đảng đã nêu ra một loạt quan điểm về giáo dục
theo đường lối đổi mới kinh tế - xã hội. Khẳng định: “Giáo dục và đào tạo, cùng
với khoa học và công nghệ, là quốc sách hàng đầu”, “coi đầu tư cho giáo dục là
một trong những hướng chính của đầu tư phát triển tạo điều kiện cho giáo dục đi
trước và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh tế - xã hội”... Nhưng nhìn lại, những
quan điểm đúng đắn đó mới dừng ở nhận thức ban đầu, chưa được cụ thể hóa và
quán triệt đầy đủ trong hành động. Vì vậy, giáo dục chưa thực sự chuyển biến.
Tình trạng yếu kém, lạc hậu về giáo dục đang là nỗi bức xúc của cả xã hội và là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự yếu kém, lạc hậu trong phát triển kinh tế - xã hội
nói chung.
Vừa qua, Đại hội XI đặt vấn đề: “Đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục
và đào tạo”, qua đó có thể nói, Đảng đã thấy sự cấp bách và bức xúc của vấn đề
này. Đổi mới hay cải cách, trong trường hợp này, không đơn thuần là khác biệt
về câu chữ. Đổi mới chắp vá, thiếu một tầm nhìn tổng thể, một kế hoạch đồng
bộ, như những năm qua và ngay như hiện nay, thì còn xa mới có tính căn bản và

toàn diện. Còn cải cách giáo dục, theo đề nghị của các nhà giáo, nhà khoa học,
không chỉ nhằm khắc phục những thiếu sót có tính cục bộ mà là chuyển hệ
thống giáo dục sang mô hình mới nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước
trong bối cảnh mới [2].
Sau Đại hội XI, đang có một cuộc thảo luận về triết lý giáo dục. Quan niệm
một cách đơn giản, triết lý giáo dục là hệ thống quan điểm chi phối, dẫn dắt, tạo
nền cho hoạt động thực tiễn về giáo dục, mà quan trọng trước hết là quan điểm
về sứ mạng và mục tiêu giáo dục. Tất nhiên, tùy tình hình và nhiệm vụ của đất
nước ở từng giai đoạn, triết lý giáo dục có thể sửa đổi, bổ sung, phát triển.
Ngày nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, thì rất
cần nghiên cứu, bổ sung để có một xác định cụ thể và đầy đủ về sứ mạng và
mục tiêu của giáo dục. Đối chiếu với thực trạng giáo dục của nước nhà và những
yêu cầu mà đất nước và dân tộc kỳ vọng ở hệ thống giáo dục, tôi thấy điều cốt
lõi rất cần phải nhấn mạnh lúc này là dạy và học làm người, chứ không thể lấy
thi cử và bằng cấp làm cứu cánh, che lấp cả sứ mạng và mục tiêu phát triển nhân


12
cách của nhà trường. Dù mỗi cấp học có mục tiêu cụ thể khác nhau nhưng mục
tiêu số một phải là phát triển nhân cách, cốt lõi của nguồn nhân lực có chất
lượng. Dĩ nhiên, xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam là
nhiệm vụ của toàn xã hội, nhưng nhà trường phải đóng vai trò tiên phong và nền
tảng. Đấy là sứ mạng không thể thoái thác của nhà trường. [2]
Xem xét cả hệ thống giáo dục, thì vấn đề hết sức cấp thiết là tình trạng mất
cân đối giữa ba bộ phận chính: giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và
giáo dục đại học. Do đó, cần phải rà soát, xác định rõ vị trí và mục tiêu cụ thể
của từng bộ phận, cũng như từng cấp học, từ đó cơ cấu lại hệ thống giáo dục
nghĩa là điều chỉnh về tổ chức và hoạt động của mỗi bộ phận và cả hệ thống.
Giáo dục phổ thông là nền tảng của cả hệ thống giáo dục quốc dân và là
pha đầu của quá trình học suốt đời. Hiện nay, với chất lượng yếu kém và cách

tiến hành phổ cập còn nặng tính hình thức, hai cấp tiểu học và trung học cơ sở
chưa bảo đảm cho mọi công dân đạt được một trình độ giáo dục tối thiểu cần
thiết để hưởng sự công bằng về cơ hội phát triển. Để giải quyết vấn đề này, đã
có nhiều ý kiến đề nghị cấu trúc lại để tiểu học và trung học cơ sở gắn kết thành
một tổng thể hoàn chỉnh, có tính chất bắt buộc đối với mọi công dân và không
thu học phí. Còn sau giáo dục cơ sở, để thực hiện phân luồng, thì có thể mở ra
nhiều loại trường trung học có đào tạo nghề, trong đó trung học phổ thông tập
trung chuẩn bị cho việc học tiếp ở cấp sau trung học.
Về giáo dục nghề nghiệp, là bộ phận có nhiệm vụ đào tạo ra những người
lao động có tay nghề, trải qua mấy lần thay đổi về tổ chức và cũng được quan
tâm đầu tư, nhưng vẫn chưa ra khỏi tình trạng bất cập. Việc nhiều công trình xây
dựng phải sử dụng lao động nước ngoài, ngay cả đối với những công việc không
đòi hỏi kỹ thuật cao, tất nhiên có khuyết điểm, sai lầm trong quản lý lao động...
song không thể không thấy đó là sự yếu kém trong công tác dạy nghề. Rõ ràng,
cùng với việc mở mang kinh tế, tạo thêm việc làm, rất cần nâng cấp hệ thống
giáo dục nghề nghiệp để đạt chất lượng cao trong đào tạo và có sức thu hút thế
hệ trẻ.
Về giáo dục đại học, không thể cắt nghĩa nổi sự gia tăng ồ ạt về số lượng
các trường trong mấy năm vừa qua. Chỉ từ 2006 đến 2010, đã có thêm 64 trường
đại học và cao đẳng, trong khi các trường hiện có vẫn thiếu giảng viên có đủ
trình độ để bảo đảm chất lượng. Hơn nữa, không ít giáo sư, phó giáo sư vẫn phải


13
“chạy sô”, với số giờ dạy vượt xa mức quy định, khiến không thể có thời gian
nghiên cứu khoa học, mà nghiên cứu khoa học lại là yêu cầu bắt buộc ở cấp học
này. Bước vào thời kỳ đổi mới, đã từng có chủ trương “mở rộng đầu vào, sàng
lọc trong quá trình đào tạo, thắt chặt đầu ra” nhưng rồi quy trình này bị dỡ bỏ và
các trường đại học, cao đẳng đang thực hiện một quy trình đảo ngược: “thắt chặt
đầu vào, đã vào là tốt nghiệp”. Đến năm học này, cả đầu vào cũng phải nới rộng

vậy mà các trường đại học vẫn thiếu sinh viên, đến nỗi có trường đang tính
chuyện bỏ bớt một số ngành đào tạo [50].
Bên cạnh những vấn đề nêu trên về ba bộ phận chính của hệ thống giáo
dục, với quan điểm “học suốt đời”, “giáo dục cho mọi người” và mong muốn
“xây dựng xã hội học tập”, không thể bỏ qua vị trí quan trọng của phương thức
giáo dục không chính quy cũng như không thể không giải quyết các vấn đề nổi
cộm về xã hội hóa giáo dục. Hiện nay, giáo dục không chính quy vẫn đóng vai
trò phần phụ của giáo dục chính quy, cốt tạo cơ hội cho người học lấy văn bằng,
chứng chỉ bất chấp yêu cầu chất lượng. Còn về chủ trương xã hội hóa, trong các
trường ngoài công lập, phần lớn đều vì lợi nhuận, loại trường không vị lợi vẫn
chưa định hình. Chủ trương phổ cập hóa giáo dục đã được triển khai nhưng trẻ
em 3 đến 5 tuổi cư trú tại các các khu công nghiệp và thành phố vẫn thiếu chỗ
học mẫu giáo.
Hiện nay, ngành giáo dục đang chuẩn bị xây dựng chương trình giáo dục
mới. Đây là công việc hết sức khó khăn. Bởi vì muốn có chương trình mới cần
phải đổi mới quan niệm về sứ mạng và mục tiêu giáo dục, về kiến thức và kỹ
năng, về cách dạy và cách học, để chọn ra được những nội dung đích thực là phổ
thông, đích thực là cơ bản. Những quan niệm mới không chỉ phù hợp với hoàn
cảnh và yêu cầu hiện tại mà còn phải phù hợp với hoàn cảnh và yêu cầu trong
tương lai, khi chương trình được triển khai. Muốn thế phải có tầm nhìn xa và dự
báo được xu thế phát triển.
Về phương pháp dạy và học, cần phải rũ bỏ mọi hình thức áp đặt, thay vào
đó, hết sức coi trọng việc bồi dưỡng năng lực tư duy độc lập, sáng tạo cho học
sinh. Yêu cầu đổi mới phương pháp theo hướng đó không chỉ đặt ra đối với


14
thầy, cô giáo mà phải được thể hiện ngay trong chương trình và sách giáo khoa.
Vì có sự khác biệt về trình độ phát triển giữa các vùng miền (chưa thể thu hẹp
trong một thời gian ngắn) và sự đa dạng về văn hóa trong cộng đồng 54 dân tộc

anh em (cần bảo tồn và phát triển), cho nên trong cuộc cải cách sắp tới, phải có
những phương án xử lý khác nhau đối với chương trình giáo dục phổ thông cũng
như cần có nhiều bộ sách giáo khoa.
Về nội dung đào tạo đại học, cao đẳng, rất cần loại bỏ những kiến thức lạc
hậu, bảo đảm để chương trình, giáo trình cập nhật với những thành tựu mới
trong khoa học (cả tự nhiên và kỹ thuật, cả xã hội và nhân văn). Về phương
pháp đào tạo, phải lấy tự học là chính, đồng thời tạo cơ hội để sinh viên tham gia
các hoạt động nghiên cứu, giải quyết những vấn đề do xã hội đặt ra. Chỉ có thực
sự đổi mới một cách căn bản nội dung và phương pháp đào tạo thì các trường
đại học và cao đẳng mới đóng góp có hiệu quả vào việc thực hiện chủ trương
“phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” và
“gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa
học, công nghệ” [65].
Thay đổi căn bản và toàn diện một nền giáo dục là một công trình lớn của
quốc gia, không thể một vài năm mà xong. Tình thế rất bức thiết, phải khẩn
trương nhưng lại phải căn cơ, bài bản, không thể riêng một mình ngành giáo dục
làm nổi. Trước mắt, Trung ương cần bàn và ra nghị quyết, xác định mục tiêu,
yêu cầu và những vấn đề trọng tâm cần tập trung để nền giáo dục thực sự đổi
mới căn bản và toàn diện. Trong đó, rất quan trọng là quyết định thành lập một
tổ chức làm nhiệm vụ xây dựng đề án tổng thể, nêu ra được giải pháp và lộ trình,
để trình Trung ương và Quốc hội theo quy định của pháp luật. Tổ chức này, có
thể là Ủy ban Cải cách giáo dục, cần bao gồm các nhà khoa học, các chuyên gia
trong nước và nước ngoài, am hiểu và có kinh nghiệm về giáo dục và các lĩnh
vực liên quan đến giáo dục. Bộ Giáo dục và Đào tạo có vai trò quan trọng trong
hoạt động của Ủy ban nên cần chấn chỉnh, kiện toàn, đổi mới thật sự về năng lực
và cung cách quản lý [82].
Một trong những mục tiêu đổi mới mạnh mẽ nhằm hiện thực hóa Nghị
quyết 29/NQ-TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT chính là đổi mới



15
chương trình, tài liệu phục vụ giảng dạy [4]. Trong cuộc họp Ủy ban Quốc gia
đổi mới GD-ĐT năm 2014, Phó thủ tướng Vũ Đức Đam cho rằng, trong Nghị
quyết 29/NQ-TƯ về đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT có nêu, trước mắt giữ
cơ bản hệ thống giáo dục nhưng có những vấn đề cần phải xem xét ngay vì liên
quan đến đổi mới chương trình, tài liệu giảng dạy.
Về chương trình, theo đề xuất của Bộ GD-ĐT, tập trung đổi mới ở từng cấp
học theo hướng tăng cường các môn và chủ đề tích hợp; phân hóa mạnh với việc
tăng các môn tự chọn, giảm số môn bắt buộc.
Việc chấn hưng giáo dục có rất nhiều nội dung, yêu cầu nhưng cần đột phá
nhất ở 3 điểm. Thứ nhất, đó là đổi mới chương trình. Sau nhiều năm tổng kết lại
thì thấy rằng chương trình GD-ĐT đã quá lạc hậu so với yêu cầu đổi mới đất
nước, yêu cầu công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Thứ hai, là chương trình nói
chung chưa đáp ứng được, ngay cả chương trình Đại học cũng lạc hậu. Vì thế,
CTĐT của chúng ta và bằng của chúng ta cấp không tương thích với bằng nước
ngoài nên không được các nước trong khu vực cũng như các nước trên thế giới
công nhận. Vì chương trình và tài liệu còn lạc hậu như vậy nên chúng ta không
có được những trường đứng ở những tốp đầu của thế giới. Một vấn đề nữa là,
bên cạnh đổi mới chương trình, tài liệu giảng dạy, phương pháp giảng dạy thì
phải cần đổi mới hệ thống đánh giá khảo thí kiểm định chất lượng và cấp văn
bằng chứng chỉ [75], [76].
Nghị quyết 29-NQ/TW nhấn mạnh tới: Đối với giáo dục đại học, tập trung
đào tạo nhân lực trình độ cao, bồi dưỡng nhân tài, phát triển phẩm chất và năng
lực tự học, tự làm giàu tri thức, sáng tạo của người học. Hoàn thiện mạng lưới
các cơ sở giáo dục đại học, cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với
quy hoạch phát triển nhân lực quốc gia; trong đó, có một số trường và ngành đào
tạo ngang tầm khu vực và quốc tế. Đa dạng hóa các cơ sở đào tạo phù hợp với
nhu cầu phát triển công nghệ và các lĩnh vực, ngành nghề; yêu cầu xây dựng,
bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế [4].
Đất nước ta sau 30 năm đổi mới đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức,

đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Chứng kiến cuộc cách mạng


×