Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BÀI TẬP LỚN SỞ HỮU TRÍ TUỆ ĐỀ TÀI SỐ 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.74 KB, 17 trang )

MỞ BÀI
Sở hữu trí tuệ là những sản phẩm của tư duy được coi là tài sản của trí tuệ. Đó có thể
là một tác phẩm văn học, một phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, bí mật kinh
doanh hay kiểu sáng công nghiệp…Theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Luật Sở hữu
trí tuệ năm 2005 được sửa đổi bổ sung năm 2009 quy định: “quyền sở hữu trí tuệ là
quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả, quyền liên
quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây
trồng.”
Như vậy tổ chức, cá nhân có quyền đối với những sản phẩm trí tuệ của mình, tuy
nhiên hiện nay vẫn còn nhiều vụ việc xâm phạm đến quyền sở hữu đó nhằm mục
đích thu lợi bất hợp pháp. Bên cạnh những quyền đó pháp luật cũng quy định những
giới hạn quyền sở hữu trí tuệ đối với cá nhân, tổ chức. Nhằm bảo đảm quốc phòng,
an ninh, dân sinh, công cộng và bảo đảm quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức. Để
hiểu rõ hơn về vấn đề này em xin chọn đề tài số 3 làm bài tập nhóm của mình.
Đề bài 3:
1. Phân tích tính giới hạn của quyền sở hữu trí tuệ?
2. Rượu mạnh Cognac của Pháp đã đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam năm 2002. Ngày 08/8/2008, Hải quan tỉnh Lạng Sơn
nhận được yêu cầu tạm dừng lô hàng rượu cognac do công ty Minh Hải nhập từ
Trung Quốc, trên sản phẩm có ghi “bottled in Hong Kong” (đóng chai tại Hong
Kong) . Ban quảng lí rượu cognac cho biết tiêu chuẩn rượu gắn chỉ dẫn địa lý
cognac là sản phẩm phải được đóng chai tại Cognac.
- Anh (chị) hãy xác định công ty Minh Hải có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
không?
- Ban quản lý rượu cognac có thể ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng chỉ dẫn
địa lý rượu mạnh cognac cho một doanh nghiệp nhập khẩu rượu này tại Việt Nam
không? Vì sao.

1



NỘI DUNG
I. TÍNH GIỚI HẠN CỦA QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Sở hữu trí tuệ được hiểu là việc sở hữu các tài sản trí tuệ – những kết quả từ hoạt
động tư duy, sáng tạo của con người. Đối tượng của loại sở hữu này là các tài sản phi
vật chất nhưng có giá trị kinh tế, tinh thần to lớn góp phần quan trọng trong quá trình
hình thành và phát triển nền văn minh, khoa học, công nghệ của nhân loại.
Quyền sở hữu trí tuệ là quyền của cá nhân, tổ chức đối với các sản phẩm trí tuệ do
mình sáng tạo ra. Đó là độc quyền được công nhận cho một người, một nhóm người
hoặc một tổ chức, cho phép họ được sử dụng hay khai thác các khía cạnh thương mại
của một sản phẩm sáng tạo.
Đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ bao gồm: quyền tác giả và quyền liên quan
đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây trồng.
Quyền sở hữu trí tuệ không phải là quyền tuyệt đối mà là quyền có giới hạn, theo
Điều 7 Luật sở hữu trí tuệ thì tính giới hạn của quyền sở hữu trí tuệ được xác định
như sau:
“1. Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi
và thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật này.
2. Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của nhà nước,
lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không
được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan.
3. Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và các
lợi ích khác của Nhà Nước, xã hội quy định tại Luật này, Nhà Nước có quyền cấm
hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc chủ
thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một
số quyền của mình với những điều kiện phù hợp; việc hạn chế quyền đồi với sáng
chế thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của chính phủ.”

2



Như vậy có ba loại giới hạn cơ bản sau:
Thứ nhất, giới hạn về phạm vi và thời hạn bảo hộ.
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và
thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật Sở hữu trí tuệ. Nên việc bảo hộ không được
mở rộng ra các hành vi ngoài quy định, phạm vi có thể được giới hạn và việc bảo hộ
này là có thời hạn.
Đối với quyền tác giả thì tác giả được hưởng quyền nhân thân và quyền tài sản
theo quy định tại Điều 19 và Điều 20 Luật Sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó chủ sở hữu
tác phẩm cũng có nghĩa vụ thực hiện một số thủ tục bắt buộc theo quy định của pháp
luật trong quá trình khai thác tác phẩm của mình. Việc giới hạn thể hiện ở chỗ pháp
luật quy định trong những trường hợp nhất định thì cá nhân, tổ chức, khác có quyền
sử dụng tác phẩm được công bố mà không phải xin phép, không phải trả tiền bản
quyền (Điều 25 Luật sở hữu trí tuệ). Và quyền sử dụng tác phẩm đã công bố không
phải xin phépnhưng phải trả tiền nhuận bút thù lao theo Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ.
Tuy nhiên việc sử dụng quyền này phải tuân theo những điều kiện và cách thức hợp
lý do luật SHTT và các văn bản khác có liên quan quy định.
Về thời hạn bảo hộ, trong thời hạn bảo hộ, thời gian, chủ sơ hữu có quyền hưởng
nhuận bút thù lao hoặc lợi ích việc cho phép người khác sử dụng sản phẩm của mình.
Sau khi hết thời hạn, các chủ thể được tự do sử dung tác phẩm nên tác giả chỉ còn
một số quyền nhân thân không thể chuyển giao mà không thể chi phối việc sử dụng
nó hoặc yêu cầu bất cứ lợi ích nào (quyền tài sản). Thời hạn bảo hộ quyền sở hữu trí
tuệ được quy định tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ, theo đó có thể xác định về thời
hạn bảo hộ quyền tác giả như sau: thứ nhất, bảo hộ vô thời hạn, các quyền được bảo
hộ vô thời hạn là các quyền nhân thân gắn liền với tác giả không thể chuyển dịch như
quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên thật,…; thứ hai, bảo hộ có thời hạn, các
quyền đối với tác phẩm được bảo hộ có thời hạn bao gồm các quyền nhân thân có thể
chuyển dịch và các quyền tài sản.

3



Đối với quyền liên quan đến quyền tác giả Quyền liên quan đến quyền tác giả
được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Tuy nhiên, việc bảo hộ quyền liên quan không
phải là độc quyền mà còn có những giới hạn nhất định, những giới hạn này giới hạn
sự độc quyền của chủ sở hữu quyền liên quan ở mức hợp lý vì lợi ích chung của cộng
đồng. Thứ nhất là các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép,
không phải trả nhuận bút quy định tại điều 32 Luật Sở hữu trí tuệ. Thứ hai: đối với
các trường hợp sử dụng quyền liên quan không phải xin phép nhưng phải trả tiền
nhuận bút, thù lao theo thỏa thuận của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả , người biểu
diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng quy định tại Điều 33 Luật
Sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên việc sử dụng quyền này phải tuân theo những điều kiện và
cách thức hợp lý do luật SHTT và các văn bản khác có liên quan quy định.
Về thời hạn bảo hộ của quyền liên quan, theo quy định của pháp luật thì các quyền
của chủ thể quyền liên quan có thời hạn bảo hộ chung là năm mươi năm, không phân
biệt đó là quyền nhân thân hay là quyền tài sản. Thời hạn bảo hộ quyền liên quan
được quy định tại Điều 34 Luật sở hữu trí tuệ. Hết thời hạn này thì quyền liên quan
này sẽ không được bảo hộ nữa kể cả quyền nhân thân, do đó chủ sở hữu quyền này
cũng không còn quyền đối và cũng không đòi hỏi bất cứ lợi ích nào nữa.
Đối với quyền sở hữu công nghiệp.Theo quy định tại Điều 16 Nghị định số
103/2006/NĐ-CP thì phạm vi quyền sở hữu công nghiệp được xác định như sau:
1. Phạm vi quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết
kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý được xác định theo phạm vi bảo hộ được ghi
nhận trong Văn bằng bảo hộ.
2. Phạm vi quyền đối với tên thương mại được xác định theo phạm vi bảo hộ tên
thương mại, gồm tên thương mại, lĩnh vực kinh doanh và lãnh thổ kinh doanh trong
đó tên thương mại được chủ thể mang tên thương mại sử dụng một cách hợp pháp.
Việc đăng ký tên gọi của tổ chức, cá nhân kinh doanh trong thủ tục kinh doanh

4



không được coi là sử dụng tên gọi đó mà chỉ là một điều kiện để việc sử dụng tên gọi
đó được coi là hợp pháp.
3. Phạm vi quyền đối với bí mật kinh doanh được xác định theo phạm vi bảo hộ bí
mật kinh doanh, gồm tập hợp các thông tin tạo thành bí mật kinh doanh, được sắp
xếp theo một trật tự chính xác và đầy đủ đến mức có thể khai thác được.
4. Các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp được hưởng các quyền và thực hiện các
nghĩa vụ theo phạm vi bảo hộ với các điều kiện quy định tại các Điều 132, 133, 134,
135, 136, 137 của Luật Sở hữu trí tuệ.
Về nguyên tắc, các quyền của chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp được pháp
luật bảo hộ tuyệt đối trong thời gian còn hiệu lực bảo hộ. chủ sở hữu có độc quyền
trong việc khai thác, sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp. Nếu có bất kỳ chủ thể
nào khác muốn có được các quyền đối với đối tượng sở hữu công nghiệp đó đều
phải xin phép chủ sở hữu và trả tiền thù lao thông qua việc kí kết các hợp đồng
chuyển quyền sử dụng hoặc chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp hoặc họ phải
là người thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật của chủ sở hữu đối tượng sở hữu
công nghiệp. Tuy nhiên trong một số trường hợp cụ thể, pháp luật lại quy định hạn
chế quyền nêu trên của chủ sở hữu xuất phát từ nhũng lí do nhất định. Việc hạn chế
quyền này có thể theo hướng như: Thứ nhất, chủ sở hữu đối tượng sở hữu công
nghiệp vẫn thực hiện các quyền của mình nhưng lại không được hoàn toàn tự do ý
chí của họ, phải thực hiện quyền đó theo mệnh lện bắt buộc của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền (như trong trường hợp bắt buộc chuyển quyền sử dụng đối với sáng chế).
Thứ hai, các chủ thể trong những trường hợp nhất định pháp luật cho phép được tự ý
sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp thuộc quyền của người khác mà không
cần phải xin phép hay trả thù lao (như khoản 2 Điều 125 Luật sở hữu trí tuệ).
Về thời hạn bảo hộ, quyền sở hữu công nghiệp có ba loại: thứ nhất là xác định được
thời hạn bảo hộ, tức là đối với những đối tượng được phải đăng ký và được cấp văn
bằng bảo hộ, thì thời hạn được xác định theo thời hạn của văn bằng bảo hộ (theo

5



Điều 93 Luật sở hữu trí tuệ); thứ hai, không xác định thời hạn, tức là đối với những
đối tượng không phải đăng ký như bí mật kinh doanh, nhãn hiệu nổi tiếng,… ; thứ ba
là vô thời hạn ví dụ như chỉ dẫn địa lý.
Đối với giống cây trồng, chủ thể có toàn quyền đối với giống cây trồng mới do
mình chọn tạo hoặc phát hiện hoặc phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu. Bên
cạnh đó pháp luật có quy định cho phép các chủ thể khác thực hiện các hành vi các
hành vi đối với giống cây trồng như: Sử dụng giống cây trồng phục vụ nhu cầu cá
nhân và phi thương mại; Sử dụng giống cây trồng nhằm mục đích thử nghiệm; Sử
dụng giống cây trồng để tạo ra giống cây trồng khác, trừ trường hợp quy định
tại Điều 187 của Luật sở hữu trí tuệ; Hộ sản xuất cá thể sử dụng sản phẩm thu hoạch
từ giống cây trồng để tự nhân giống và gieo trồng cho vụ sau trên diện tích đất của
mình. Và quyền đối với giống cây trồng không được áp dụng đối với các hành vi liên
quan đến vật liệu của giống cây trồng được bảo hộ do chủ bằng bảo hộ hoặc người
được chủ bằng bảo hộ cho phép bán hoặc bằng cách khác đưa ra thị trường Việt Nam
hoặc thị trường nước ngoài, trừ các hành vi sau đây:Liên quan đến việc nhân tiếp
giống cây trồng đó; Liên quan đến việc xuất khẩu các vật liệu của giống cây trồng có
khả năng nhân giống vào những nước không bảo hộ các chi hoặc loài cây trồng đó,
trừ trường hợp xuất khẩu vật liệu nhằm mục đích tiêu dùng (Điều 190 Luật Sở hữu
trí tuệ). Bên cạnh đó chủ bằng bảo hộ và tác giả giống cây trồng còn phải thực hiện
các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 191 Luật Sở hữu trí tuệ.
Về thời hạn bảo hộ giống cây trồng, thời hạn được bảo hộ đối với giống cây trồng
được xác định theo thời hạn của văn bằng bảo hộ theo đó thì văn bằng bảo hộ giống
cây trồng có hiệu lực kể từ ngày cấp đến hết hai mươi lăm năm đối với giống cây
thân gỗ và cây nho; đến hết hai mươi năm đối với các giống cây trồng khác. Văn
bằng bảo họ giống cây trồng có thể bị đình chỉ hoặc hủy bỏ hiệu lực (Điều 169 Luật
Sở hữu trí tuệ).

6



Thứ hai, Việc thực hiện quyền sở hữu trí tuệ không được xâm phạm lợi ích của nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và
không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Ngoài những giới hạn về phạm vi và thời hạn bảo hộ nêu trên, chủ thể quyền sở hữu
trí tuệ có hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và vi phạm các quy định của pháp luật có
liên quan thì sẽ phải chịu trách nhiệm của mình đối với hành vi đó .
Bất kỳ cá nhân, tổ chức nào cũng có quyền đối với sản phầm trí tuệ của mình, tuy
nhiên việc thực hiện các quyền năng đó không được xâm phạm tới lợi ích của Nhà
nước như là không được xâm phạm, gây ra thiệt hại về tài sản của Nhà nước ; không
được xâm phạm tới lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân khác như lạm dụng quyền sở hữu trí tuệ của mình hiện quyền gây ảnh hưởng
tới lợi ích công cộng và lợi ích hợp pháp cho người khác, hoặc trong quá trình sử
dụng gây thiệt hại cho tới người khác; việc thực hiện quyền sở hữu công nghiệp
không được vi phạm các quy định khác của pháp luật khác có liên quan, tức là việc
thực hiện quyền này phải đúng pháp luật nếu vi phạm thì sẽ bị xử lý theo quy định
của pháp luật mà hành vi đó xâm phạm.
Thứ ba, Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh và
các lợi ích khác của Nhà Nước, xã hội quy định tại Luật này, Nhà Nước có quyền
cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền của mình hoặc buộc
chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc
một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp; việc hạn chế quyền đồi với
sáng chế thuộc bí mật nhà nước được thực hiện theo quy định của chính phủ.”.
Chẳng hạn như đối với quyền sở hữu công nghiệp.
Nhà nước có quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền sở hữu trí tuệ thực hiện quyền
của mình hoặc buộc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ phải cho phép tổ chức, cá nhân khác
sử dụng một hoặc một số quyền của mình với những điều kiện phù hợp.


7


Việc bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng chỉ đặt ra đối với sáng chế. Có thể nhận
thấy đây là những đối tượng có một ý nghĩa vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự
phát triển của nền kinh tế đất nước nếu chúng được đưa vào ứng dụng triển khai
trong thực tiễn. Việc chuyển giao quyền sử dụng bắt buộc đối với các đối tượng trên
còn tránh tình trạng lãng phí sự đầu tư chất xám trong nghiện cứu phát triển khoa học
kỹ thuật nếu như những thành tựu được thể hiện trong sáng chế đó không được áp
dụng vào cuộc sống. Việc chuyển quyền sử dụng sáng chế bắt buộc chỉ có hiệu lực
khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Bộ khoa học và công nghệ là
cơ quan có thẩm quyền quyết định việc chuyển quyền sử dụng bắt buộc đối với sáng
chế. Theo điểm a khoản 1 điều 145 quy định “việc sử dụng sáng chế nhằm mục đích
công cộng, phi thương mại, phục vụ quốc phòng an ninh, phòng bện chữa bệnh, dinh
dưỡng cho nhân dân hoặc đáp ứng các nhu cầu cấp thiết của xã hội” là một trong
những trường hợp mà quyền sử dụng sáng chế bắt buộc phải chuyển giao
Ý nghĩa của việc giới hạn quyền sở hữu trí tuệ, chủ thể quyền sở hữu trí tuệ nói
chung được trao những quyền mang tính độc quyền, việc thực hiện những quyền này
có thể bóp méo cạnh tranh, cản trở lưu thông hàng hóa, dịch vụ và hạn chế khả năng
tiếp cận của cộng đồng với sản phẩm sáng tạo do đó việc giới hạn quền sở hữu trí tuệ
sẽ nhằm giúp duy trì cạnh tranh lành mạnh và đảm bảo lưu thông của thị trường, cân
bằng giữa lợi ích của chủ thể nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ với bảo vệ lợi ích của
cộng đồng, tạo điều kiện để công chúng được tiếp cận những sản phẩm trí tuệ của
con người. Bên cạnh đó việc giới hạn này đảm bảo ích của nhà nước, lợi ích công
cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác, nhằm bảo đảm mục tiêu
quốc phòng, an ninh, dân sinh và các lợi ích khác của Nhà Nước, xã hội.
II. GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
1. Các khái niệm

8



Quyền sở hữu trí tuệ có thể hiểu là của chủ thể được pháp luật bảo hộ. Do đó hành
vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có thể hiểu là hành vi của một chủ thể không có
quyền tác động đến việc thực hiện quyền năng của chủ thể sở hữu, chủ thể liên quan
đến đối tượng được bảo hộ.
Chỉ dẫn địa lí là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực. địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể (khoản 22 Điều 4 Luật SHTT). Trong
Hiệp định TRIPS thì “chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh
thổ của một Thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất
lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý quyết định.”
Rượu Cognac là một loại rượu mạnh sản xuất tại vùng Cognac của Pháp,
được chưng cất từ loại rượu nhẹ sản sinh trong tiến trình lên men nho quả, sau một
thời gian ủ trong thùng gỗ sồi được đem ra đóng chai và bán khắp thế giới.
2) Giải quyết tình huống
2.1 Công ty Minh Hải có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ không?
Trong tình huống, công ty Minh Hải có nhập khẩu lô rượu Cognac “bottled in Hong
Kong” và theo Ban quản lý rượu Cognac thì chỉ những sản phẩm rượu được đóng
chai tại Cognac mới được đóng chai tại Cognac mới được gắn chỉ dẫn Rượu Cognac.
Trong tình huống trên liệu có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ hay cụ thể hơn
là có hành vi xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý theo khoản 3 Điều 129 luật sở
hữu trí tuệ hay không? Thì chúng ta cần xem xét các căn cứ quy định tại Điều 5 Nghị
định 105/2006/NĐ-CP: “Hành vi bị xem xét bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở
hữu trí tuệ quy định tại các Điều 28, 35, 126, 127, 129 và 188 của Luật Sở hữu trí
tuệ, khi có đủ các căn cứ sau đây:
1. Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ.
2. Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.

9



3. Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và
không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy
định tại các Điều 25, 26, 32, 33, khoản 2 và khoản 3 Điều 125, Điều 133, Điều 134,
khoản 2 Điều 137, các Điều 145, 190 và 195 của Luật Sở hữu trí tuệ.
4. Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam”.
Như vậy khi xác định một hành vi có phải là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
hay không, cần căn cứ đủ trên 4 yếu tố trên. Cụ thể là:
Thứ nhất, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ.
Đối tượng bị xem xét ở đây là rượu Cognac của Pháp. Loại rượu này đã được đăng
ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý tại Việt Nam từ năm 2002. Theo Khoản 2 Điều 6 Nghị định
105/2006/NĐ-CP quy định: “2. Đối với các loại quyền sở hữu trí tuệ đã được đăng
ký tại cơ quan có thẩm quyền, đối tượng được bảo hộ được xác định theo giấy chứng
nhận đăng ký, văn bằng bảo hộ và các tài liệu kèm theo giấy chứng nhận đăng ký,
văn bằng bảo hộ đó’’
Trong tình huống rượu Cognac của Pháp đã được cấp văn bằng bảo hộ ở Việt Nam từ
năm 2002, chứng tỏ loai Rượu này đã đáp ứng được các điều kiện để được cấp giấy
chứng nhận đăng ký bảo hộ chỉ dẫn đại lí như về chủ thể đăng ký (theo Điều 8 Nghị
định số 103/2006), về điều kiện được bảo hộ: sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có
nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng lãnh thổ; Sản phẩm mang chỉ dẫn địa
lý có danh tiếng, chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do điều kiện địa lý của khu vực,
địa phương, vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó quyết định
(Điều 79 Luật Sở hữu trí tuệ) và không thuộc các đối tượng không được bảo hộ chỉ
dẫn địa lý tại Điều 80 Luật sở hữu trí tuệ.
Căn cứ quy định tại khoản 7 Điều 93 Luật Sở hữu trí tuệ: “giấy chứng nhận đăng ký
chỉ dẫn địa lý có hiệu lưc vô thời hạn kể từ ngày cấp”. Mà thời hạn bảo hộ quyền sở
hữu trí tuệ được xác định theo thời hiện của văn bằng bảo hộ, do đó thời hạn bảo hộ


10


đối với chỉ dẫn địa lý sẽ là vô thời hạn, vì vậy Rượu Cognac này sẽ được bảo hộ vô
thời hạn.
Do vậy rượu Cognac của Pháp thuộc đối tượng đang được bảo hộ quyền sở hữu
trí tuệ .
Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
ở đây công ty Minh Hải đã có hành vi nhập khẩu hàng có chỉ dẫn địa lý trùng với chỉ
dẫn địa lý được bảo hộ
Thứ nhất mặt hàng công ty Minh Hải nhập về có yếu tố xâm phạm đến quyền sở
hữu trí tuệ.
“Yếu tố xâm phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý được thể hiện dưới dạng dấu hiệu
gắn trên hàng hóa, bao bì hàng hóa, phương tiện dịch vụ, giấy tờ giao dịch, biểu
hiện, phương tiện quảng cáo và các phương tiện kinh doanh khác, trùng hoặc tượng
tự tới mức gây nhầm lẫn với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ” (khoản 1 Điều 12 Nghị
định 105/006/NĐ-CP). Để xác định dấu hiệu bị nghi ngờ có phải là yếu tố xâm phạm
quyền đối với chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hay không, cần phải so sánh dấu hiệu đó
với chỉ dẫn địa lý và so sánh sản phẩm bị nghi ngờ với sản phẩm mang chỉ dẫn chỉ
dẫn địa lí được bảo hộ. Trên chai rượu mà công ty Minh Hải nhập khẩu có dấu hiệu
“Cognac” trùng với dấu hiệu của rượu Cognac (Pháp) mang chỉ dẫn địa lý.
Theo điểm d, khoản 3, điều 129 Luật Sở hữu trí tuệ, hành vi: “sử dụng chỉ dẫn địa lý
được bảo hộ đối với rượu vang, rượu mạnh cho rượu vang, rượu mạnh không có
nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường
hợp có nêu chỉ dẫn về nguồn gốc xuất xứ thật của hàng hóa hoặc chỉ dẫn địa lý được
sử dụng dưới dạng dịch nghĩa phiên âm hoặc được sử dụng kèm theo các từ loại,
kiểu, dạng, phỏng theo hoặc những từ tương tự như vậy” là hành vi xâm phạm quyền
đối với chỉ dẫn địa lí được bảo hộ. Điều này phù hợp với quy định của Hiệp định
TRIPS: “Mỗi Thành viên phải quy định những biện pháp pháp lý để các bên liên
quan ngăn ngừa việc sử dụng một chỉ dẫn địa lý của các rượu vang cho những loại


11


rượu vang không bắt nguồn từ lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó hoặc sử
dụng chỉ dẫn địa lý của rượu mạnh cho những loại rượu mạnh không bắt nguồn từ
lãnh thổ tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó, kể cả trường hợp có nêu chỉ dẫn về xuất xứ
thật của hàng hoá hoặc chỉ dẫn địa lý được sử dụng dưới dạng dị hoặc được sử
dụng kèm theo các từ như "loại", "kiểu", "dạng", "phỏng theo" hoặc những từ tương
tự như vậy.”
Do đó bất cứ hành vi sử dụng chỉ dẫn địa lý được bảo hộ đối với rượu vang, rượu
mạnh cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý
tương ứng với chỉ dẫn địa lý đó đều bị coi là vi phạm quyền đối với chỉ dẫn địa lý.
Trong tình huống trên thì: Thứ nhất sản phẩm rượu mà công ty Minh Hải nhập khẩu
có tên trùng với tên của chỉ dẫn địa lý đã được bảo hộ, đó là rượu “Cognac”; Thứ hai
sản phẩm rượu này không được sản xuất tại Cognac (một thị xã thuộc tỉnh charente
nước Pháp), mà được đóng chai tại Hong Kong, bên cạnh đó ở Trung Quốc cũng
không có khu vực, địa phương nào có tên trùng với chỉ dẫn đại lý đó. Ban quảng lí
rượu cognac cũng cho biết tiêu chuẩn rượu gắn chỉ dẫn địa lý cognac là sản phẩm
phải được đóng chai tại Cognac; Thứ ba mặc dù sản phẩm này có ghi xuất xứ thật
trên sản phẩm “bottle in Hong Kong” tuy nhiên điều này cũng không phản ánh được
sự trung thực về nguồn gốc địa lý của sản phẩm được, điểm này khác với những đối
tượng được bảo hộ chỉ dẫn địa lý khác, nếu sản phẩm chứng minh được sự trung thực
của mình và hoàn toàn không có ý lợi dụng danh tiếng của chỉ dẫn địa lý thì hành vi
đó không bị coi là vi phạm.
Do đó sản phẩm rượu mà công ty Minh Hải nhập về là sản phẩm vi phạm quyền sử
hữu trí tuệ.
Theo khoản 4 Nghị định số 105/2006/NĐ-CP : “Trường hợp sản phẩm mang dấu
hiệu trùng hoặc khó phân biệt về tổng thể cấu tạo và cách trình bày so với chỉ dẫn
địa lý được bảo hộ cho sản phẩm cùng loại thuộc phạm vi bảo hộ thì bị coi là hàng

hoá giả mạo chỉ dẫn địa lý quy định tại Điều 213 của Luật Sở hữu trí tuệ.” Do đó

12


sản phẩm rượu mà công ty Minh Hải nhập khẩu có thể bị coi là hàng giả mạo chỉ dẫn
địa lý.
Thứ hai, công ty Minh Hải có hành vi nhập khẩu hàng vi phạm quyền sở hữu trí
tuệ
Công ty Minh Hải là công ty nhập khẩu rượu chắc hẳn cũng phải biết các quy định
của pháp luật về sở hữu trí tuệ như về nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lí. Hơn nữa sản phẩm
rượu Cognac của Pháp đã được đăng ký bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam từ năm
2002, cho nên đến 2008 thì sản phẩm này bán trên thị trường Việt Nam cũng không
phải là hiếm. Do đó công ty này Minh Hải chắc chắn phải biết hoặc cố ý nhập khẩu
loại rượu này nhắm mục đích thu lợi nhuận bất chính, gây nhầm lẫn cho người dùng
về nguồn gốc cũng như chất lượng của sản phẩm.
Hành vi của công ty này trái với quy định tại điểm b khoản 2 Điêu 125 Luật sở hữu
trí tuệ: “Lưu thông, nhập khẩu, khai thác công dụng của sản phẩm được đưa ra thị
trường, kể cả thị trường nước ngoài một cách hợp pháp, trừ sản phẩm không phải do
chính chủ sở hữu nhãn hiệu hoặc người được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu đưa ra
thị trường nước ngoài”
Thứ ba, yếu tố chủ thể.
Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ và
không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy
định tại các Điều 25, 26, 32, 33, khoản 2 và khoản 3 Điều 125, Điều 133, Điều 134,
khoản 2 Điều 137, các Điều 145, 190 và 195 của Luật Sở hữu trí tuệ
Chủ thể được phép sử dụng chỉ dẫn địa lý phải là tổ chức, cá nhân nằm trong khu
vực địa lý chỉ dẫn rượu Cognac hoặc những chủ thể được sự cho phép của cơ quan
có thẩm quyền mới có quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý đó đối với sản phẩm của mình.
Tuy nhiên, công ty Minh Hải không nằm trong khu vực địa lý của chỉ dẫn địa lý rượu

mạnh Cognac đã được bảo hộ, không được sự cho phép sử dụng chỉ dẫn địa lý của
rượu Cognac theo quy định tại khoản 2 Điều 123 Luật Sở hữu trí tuệ. Mặt khác, công

13


ty Minh Hải nhập khẩu rượu Cognac từ Trung Quốc có ghi đóng chai tại HongKong,
trong khi sản phẩm được bảo hộ phải được đóng chai tại Cognac (Pháp). Đây là hành
vi không trung thực trong việc sử dụng sản phẩm sai nguồn gốc địa lý, vi phạm điểm
h khoản 2 điều 125 Luật Sở hữu trí tuệ “sử dụng một cách trung thực tên người, dấu
hiệu mô tả chủng loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và
các đặc tính khác của hàng hóa, dịch vụ”.
Do đó, công ty Minh Hải không phải là chủ thể được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm
quyền cho phép thực hiện quyền quy định tại khoản 2 Điều 125.
Thứ 4, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Theo đề bài thì, ngày 08/8/2008, Hải quan tỉnh Lạng Sơn nhận được yêu cầu tạm
dừng lô hàng rượu cognac do công ty Minh Hải nhập từ Trung Quốc, trên sản phẩm
có ghi “bottled in Hong Kong” (đóng chai tại Hong Kong). Do vậy Hành vi này xảy
ra trên lãnh thổ Việt Nam nên sẽ chịu sự ràng buộc pháp lý bởi pháp luật Việt Nam.
Như vậy trong tính huống trên hành vi của công ty Minh Hải chính là hành vi xâm
phạm quyền sở hữu trí tuệ, cụ thể là quyền đối với chỉ dẫn địa lý theo Luật sở hữu trí
tuệ Việt Nam.
2.2 Bạn quản lý rượu cognac có thể ký hợp đồng chuyền giao quyền sử dụng chỉ
dẫn địa lý rượu mạnh cognac cho một doanh nghiệp nhập khẩu rượu này tại Việt
Nam không? Vì sao
“Chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp là việc chủ sở hữu đối tượng
sở hữu công nghiệp cho phép tổ chức, các nhân khác sử dụng đối tượng sở hữu công
nghiệp thuộc phạm vi quyền sử dụng của mình” (khoản 1 Điều 141Luật Sở hữu trí
tuệ)
Theo Khoản 1 Điều 142 Luật sở hữu trí tuệ: “ quyền sử dụng chỉ dẫn địa lí. Tên

thương mại không được chuyển giao” . Theo căn cứ trên Ban quản lí rược Cognac
không thể kí hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng chỉ dẫn địa lí rượu mạnh cognac
cho một doanh nghiệp nhập khẩu tại Việt Nam. Điều này hoàn toàn phù hợp với pháp

14


luật và thực tế, sở dĩ có điều này do chỉ dẫn địa lý đóng vai trò như sự đảm bảo rằng
sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có được chất lượng nhất định theo phương pháp sản
xuất truyền thống hoặc có được uy tín nhờ xuất xứ địa lý vùng miền. Yếu tố tự nhiên
bao gồm yếu tố về khí hậu, thuỷ văn, địa chất, địa hình, hệ sinh thái và các điều kiện
tự nhiên khác. Yếu tố về con người bao gồm kỹ năng, kỹ xảo của người sản xuất, quy
trình sản xuất truyền thống của địa phương là những điều kiện tiên quyết đặc trưng
riêng có của vùng miền, nước, quốc gia. Chỉ dẫn địa lý được coi là tài sản quốc gia.
Chỉ dẫn địa lý không thuộc độc quyền của riêng tổ chức, cá nhân nào mà thuộc
quyền sử dụng của tất cả các cơ sở sản xuất, đưa ra thị trường đặc sản đó, kể cả các
cơ sở chế biến và đóng gói. Vì vậy quy định này hoàn toàn phù hợp xu thế hội nhập
kinh tế thế giới và các yêu cầu nhập khẩu của các nước và tập quán thương mại quốc
tế.

KẾT LUẬN
Qua đó chúng ta hiểu hơn về tính giới hạn của quyền sở hữu trí tuệ, quyền sở hữu trí
tuệ không phải là quyền tuyệt đối mà là quyền có giới hạn, giới hạn về phạm vi, thời
hạn bảo hộ, vì mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh,.. Quyền sở hữu trí tuệ là
quyền của môt lĩnh vực sở hữu trí tuệ, là một lĩnh vực khá phức tạp, đòi hỏi phải
được xem xét một cách chính xác và phù hợp nhất.Qua giải quyết tình huống thì
chúng ta thấy xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là một vấn đề khá nhức nhối và khó
giải quyết, cần có sự phối hợp của cơ quan chức năng và cả người sử dụng. Do hiểu
biết còn hạn chế nên không tránh khỏi nhứng sai sót, em rất mong nhận được sự góp
ý của quý thầy cô để bài làm của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm

ơn.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009
2. Trường đại học Luật Hà Nội, “Giáo trình luật sở hữu trí tuệ Việt Nam” , Nxb
Công an nhân dân, 2009.
3. Khoa luật Đại học Huế, Ts Đoàn Đức Lương, “giáo trình Pháp luật sở hữu trí
tuệ”, Nxb chính trị quốc gia, 2012.
4. T.s Lê Đình Nghị- Ts Vũ Thị Hải Yến, “giáo trình Luật sở hữu trí tuệ”, NXB
giáo dục Việt Nam 2016.
5. Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ Quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ và quản lý Nhà
nước về sở hữu trí tuệ.
6. Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/09/2006 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về sở hữu công
nghiệp.
7. Vũ Thị Hải Yến, luân án tiến sỹ luật học, “bảo hộ chỉ dẫn địa lý ở Việt Nam
trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế”, 2008
8. />9. />
16


17




×