Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Quá trình hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (78.44 KB, 9 trang )

Mở đầu
Công chứng là hoạt hoạt động mang tính chất pháp lý, được thực hiện
thường xuyên và phổ biến trong đời sống của người dân. Khi cần chứng nhận tính
xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch người ta đi công chứng, khi cần xác
định tính xác thực hợp pháp của các bản dịch người ta cũng đi công chứng. Vậy
công chứng là gì? Công chứng được hình thành và phát triển như thế nào? Ý nghĩa
của nó ra sao? Để trả lời cho các câu hỏi này em xin lựa chọn đề số 1: “Quá trình
hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam”

Nội dung
I.
1.

Khái niệm công chứng
Định nghĩa

Công chứng được hiểu là việc công quyền đứng ra làm chứng, do các công
chứng viên chuyên nghiệp trong các tổ chức hành nghề công chứng thực hiện và
việc thực hiện thông qua việc ghi lời chứng của mình trong các hợp đồng giao dịch
dân sự, thương mại.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 2 Luật Công chứng 2014 thì công chứng được
định nghĩa như sau: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức hành
nghề công chứng chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch
dân sự khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp không
trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước
ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo
quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng”


2.



Đặc điểm của hoạt động công chứng

Thứ nhất, hoạt động công chứng do công chứng viên của các tổ chức hành nghề
công chứng thực hiện;
Thứ hai, hoạt động công chứng tạo lập và cung cấp văn bản công chứng có giá
trị pháp lý. Các hợp đồng, giao dịch khi đã đucợ công chứng có giá trị chứng cứ
khi xảy ra tranh chấp, giúp tòa án có cơ sở pháp lý để giải quyết.
Thứ ba, hoạt động công chứng góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa,
phòng ngừa vi phạm pháp luật và tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật.
3.

Vai trò của hoạt động công chứng

Thứ nhất, hoạt động công chứng góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho các
giao dịch;
Thứ hai, phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa;
Thứ ba, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân;
Thứ tư, góp phần hội nhập, hòa nhập với các nước trên thế giới;
Thứ năm, thu hút đầu tư, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
II.
1.

Quá trình hình thành và phát triển của công chứng ở Việt Nam
Công chứng thời kỳ Pháp thuộc 1886

Hoạt động công chứng xuất hiện khá sớm ở Việt Nam từ những năm 30 của thế
kỉ XX, do người Pháp du nhập vào nước ta để phục vụ cho các hoạt động giao dịch
dân sự và thương mại của các thương nhân người Pháp và thương nhân người Việt

và các tầng lớp thị dân ở các thành thị. Thời kỳ này, công chứng được tổ chức và


hoạt động theo nguyên tắc cơ bản của hệ thống pháp luật Pháp chủ yếu phục vụ
cho chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng.
Tiêu biểu là sắc lệnh ngày 24 tháng 5 năm 1931 của Tổng thống Cộng hòa Pháp về
tổ chức công chứng. Theo đó, người thực hiện hoạt động công chứng là công
chứng viên (hay còn gọi là Chưởng khế) mang quốc tịch Pháp, do Tổng thống
Pháp bổ nhiệm và giữ chức vụ suốt đời. Công chứng viên hoạt động với tư cách
người thi hành công vụ, vừa như với tư cách người hành nghề tự do. ở thời kỳ này,
ở nước ta chỉ có một văn phòng công chứng tại Hà Nội, ba văn phòng công chứng
tại Sài Gòn, tại các tòa án sơ thẩm ở Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng có Chánh
Lục sự kiêm công chứng viên. Được xếp và trường phái công chứng thuộc hệ pháp
luật La Mã
2.

Công chứng thời kỳ dân chủ cộng hòa

Sau khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ngày mùng 1 tháng 10 năm
1945 Bộ trưởng Bộ Tư pháp Vũ Trọng Khánh kí Nghị định quyết định về một số
vấn đề liên quan đến hoạt động công chứng như: bãi chức công chứng viên của
ông Deroche người Pháp và bổ nhiệm một công chứng viên người Việt Nam là ông
Vũ Quý Vỹ thay thế công chứng viên người Pháp tại Hà Nội, những luật lệ về công
chứng vẫn đươc áp dụng trừ những điều trái với chính thể nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa. Thời kỳ này, công chứng viên phải chịu trách nhiệm và chịu sự kiểm tra
giám sát của Ủy ban hành chính các cấp.
Để đáp ứng nhu cầu gia dịch của nhân dân, ngày 15 tháng 11 năm 1945 chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc Lệnh số 59/SL quy định thể lệ việc thị thực các giấy tờ.
Xét về trình tự, thủ tục, nội dung và thẩm quyền thì việc thị thực này chỉ là một thủ
tục hành chính, càng về sau việc áp dụng nội dung của Sắc Lệnh này càng mang



nặng tính hình thức, chủ yếu xác nhận ngày, tháng, năm, chữ ký và địa chỉ thường
chú của đương sự.
Ngày 29/2/1952 Hồ Chủ Tịch ký Sắc Lệnh số 85/SL ban hành thể lệ trước bạ về
các việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Do hoàn cảnh lịch sử mà Sắc Lệnh
này chỉ được áp dụng ở các vùng tự do và các vùng còn duy trì được Ủy ban kháng
chiến hành chính đến cấp xã. Theo Sắc lệnh này, Ủy ban kháng chiến cấp xã hay
thị xã có thẩm quyền: nhận thực chữ ký cho các bên mua, bán, đổi, cho ruộng đất,
nhà cửa; nhận thực người đứng ra bán, cho, đổi là chủ của những nhà cửa, ruộng
đất đem ra bán, cho, đổi. Có thể thấy rằng hoạt động công chứng trong giai đoạn
này không được phát triển do rất nhiều nguyên nhân, cụ thể:
Thứ nhất, là do hoàn cảnh đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh khó khăn,
thiếu thốn nhiều mặt, đặc biệt là nền kinh tế thời kì này rất kém phát triển.
Thứ hai, do nhà nước ta thời kỳ này không chấp nhận chế độ sở hữu của các
thành phần kinh tế khác ngoài quốc doanh và tập thể, trong khi đó hoạt động công
chứng lại chủ yếu chứng thực các quan hệ sở hữu tư nhân. Mọi giao lưu kinh tế,
dân sự chủ yếu được xác lập theo quan hệ hành chính, thương mại gần như không
phát triển. Do vậy nên các tổ chức công chứng không được thành lập trong giai
đoạn này.
3.

Công chứng thời kỳ xã hội chủ nghĩa

Sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc, do hoàn cảnh của công cuộc thống nhất
đất nước và điều kiện kinh tế xã hội một số yêu cầu công chứng được giao cho Ủy
ban nhân dân các cấp thị thực.
Trong giai đoạn 1954- 1981 không có văn bản quy phạm nào của Nhà nước về
công tác này. Để đáp ứng công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, 10/10/1987



Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 574/QLTP về công tác công chứng với nội dung:
công tác công chứng của Ủy ban nhân dân các địa phương được cải tiến nâng cao
chất lượng; thành lập Phòng công chứng tại Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố
Hà Nội và một số địa phương khác nếu có nhu cầu lớn về công chứng và đủ các
điều kiện cần thiết. Sau đó, để tạo điều kiện hơn nữa cho các địa phương tiếp cận
với hoạt động công chứng, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư số 858/QLTPK ngày
15/10/1987 hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng, tại thời điểm này chủ
thể duy nhất được thực hiện công chứng là phòng công chứng. Căn cứ vào văn bản
này thì các tỉnh thành trên cả nước đã lập ra các phòng công chứng và dần dần hình
thành mạng lưới các phòng công chứng trên cả nước.
Tại miền Nam Việt Nam sau hiệp định Giơ ne vơ 1954, công chứng dưới thời
Ngụy-Sài Gòn đucợ điều chỉnh bởi Dụ 43 ngày 29/11/1954quy định về ngạch
Chưởng khế do Bảo Đại ký với tư cách là quốc trưởng. Mục đích là thiết lập trong
mỗi quản hạt của mỗi tòa sơ thẩm thuộc Bộ Tư pháp một phòng công chứng,
nhưng trên thực tế thì chỉ thiết lập được một phòng công chứng tại Sài Gòn và tồn
tại đến năm 1975.
Kể từ sau đại hội Đảng lần VI năm 1986 nước ta có những chuyển biến lớn
sang thời kỳ của mở của và hội nhập. Nhằm đáp ứng nhu cầu của nhân dân và theo
quan điểm chỉ đạo của Đảng ngày 27/2/1991 Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành
Nghị định 45/1991/NĐ-HĐBT về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước.
Theo quy định của Nghị định này thì: “phòng công chứng Nhà nước là cơ quan
thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, có tư cách pháp nhân, có tài khoản riêng ở ngân
hàng, có con dấu mang hình quốc huy”
Ngày 18/5/1996 Chính phủ ban hành Nghị định 31/1996/NĐ-CP về tổ chức
hoạt động công chứng Nhà nước thay thế cho nghị định 45/1991/NĐ-HĐBT. Theo


đó phòng công chứng là thuộc Sở tư pháp, quy định này nhằm chuyên môn hóa
cho hoạt động công chứng à giảm tải cho Ủy ban nhân dân.

Do tình hình kinh tế ngày càng phát triển, khiến cho các quy định của Nghị định
31/1996/NĐ-CP trở nên lạc hậu, vì vậy, ngày 8/12/2000 Chính phủ ban hành Nghị
định 75/2000/NĐ-CP về công chứng, chứng thực. Nghị định này quy định về phạm
vi công chứng, chứng thực; tổ chức phòng công chứng,chứng thực; nguyên tắc
hoạt động, trình tự thủ tục của công chứng,chứng thực…Cũng từ Nghị định này thì
thuật ngữ “ Phòng công chứng Nhà nước” đã được thay thế bằng “Phòng công
chứng”
Đây là Nghị định có nhiều điểm mới so với các văn bản trước đây như khái
niệm công chứng, chứng thực được phân biệt rạch ròi; phạm vi công chứng được
quy định rộng hơn; trình tự, thủ tục được quy định rõ ràng, cụ thể…
Để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, xã hội hóa hoạt động công chứng, ngày
29/11/2006 Quốc hội đã thông qua Luật công chứng, chính thức có hiệu lực vào
ngày 1/7/2007 từ đây hai hành vi công chứng, chứng thực được phân biệt rõ ràng,
cụ thể. Luật công chứng là bộ luật đầu tiên của nước ta quy định về hoạt động công
chứng bao gồm 8 chương, 67 điều với các nội dung về công chứng viên, tổ chức
hành nghề công chứng, thủ tục công chứng hợp đồng giao dịch, lưu trữ hồ sơ, phí
công chứng, thù lao công chứng, xử lí vi phạm, khiếu nại, giải quyết tranh chấp.
Điểm mới của Luật Công chứng 2006 so với các nghị định trước đây là:
Thứ nhất, chỉ quy định các vấn đề về công chứng không quy định các vấn đề về
chứng thực.


Thứ hai, có các quy định về các tổ chức hành nghề công chứng và chế định
công chứng viên. Theo đó công chứng viên không nhất thiết phải là công chứng
nhà nước.
Để tổ chức thực hiện Luật công chứng, ngày 4/1/2008 Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 02/2008/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật công
chứng 2006.
Sau đó một thời gian, Chính phủ đã ban hành Nghị định 04/2013/NĐ-CP ngày
7/1/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật công chứng 2006 thay thế

cho Nghị định 02/2008/NĐ-CP.
Do thực tiễn triển khai Luật công chứng 2006 cho thấy hoạt động công chứng
đã bộc lộ nhiều tồn tại, bất cập: nhiều quy định không còn phù hợp hoặc thiếu, một
số điều không phù hợp với thông lệ quốc tế về hành nghề công chứng..vì vậy, cần
thiết phải sửa đổi, bổ sung để khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật công
chứng 2006, tăng cường hiệu quả quản lý nhà nước về hoạt động công chứng. Do
đó ngày 20/6/2014 Quốc hội đã thông qua Luật công chứng 2014 để đáp ứng yêu
cầu của xã hội.
Điểm mới so với Luật công chứng 2006 thì Luật công chứng 2014 đã mở rộng
quyền cho công chứng viên cụ thể: thêm quyền công chứng bản dịch giấy tờ, văn
bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài và ngược lại; thêm quyền chứng thực bản
sao từ bản chính, chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản. Siết chặt đào tạo nghề
công chứng, Tăng thời gian đào tạo công chứng lên 12 tháng;Tăng thời gian hành
nghề lên 05 năm đối với thẩm phán, kiểm sát viên, điều tra viên, luật sư đồng thời
phải tham gia khóa bồi dưỡng nghề trong 03 tháng mới được miễn đào tạo nghề.
Cho phép văn phòng công chứng được chuyển nhượng nếu đã hoạt động được 2
năm.


Và gần đây nhất, để tổ chức thực hiện luật công chứng 2014, ngày 15/3/2015
Chính phủ đã ban hành Nghị định 29/2015/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn
thi hành một số điều của Luật công chứng.

Kết luận
Như vậy hoạt động công chứng đã xuất hiện ở nước ta từ khá sớm vào
khoảng những năm 30 của thế kỷ XX, ngay từ những ngày đầu xây dựng nhà nước
pháp quyền Đảng và nhà nước ta đã chú trọng công tác hoàn thiện hơn nữa đội ngũ
cán bộ làm công tác công chứng đảm bảo cho người dân thực hiện đủ và tốt hoạt
động pháp lý thiết yếu này. Trên đây là bài làm của em, do kiến thức còn hạn chế
nên bài làm vẫn còn nhiều thiếu xót mong thầy cô góp ý để bài làm được hoàn

thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


Danh mục tài liệu tham khảo
1.
2.
3.
4.

Luật Công chứng 2014
/> /> />


×