ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỒNG TRUNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- QUA THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2017
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN HỒNG TRUNG
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
- QUA THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số:
60 38 01 01
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN MINH TUẤN
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Hồng Trung
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian thực hiện đề tài “Thực hiện pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Nghệ An” mặc dù có
nhiều khó khăn, song bên cạnh những cố gắng của bản thân, tôi đã nhận đƣợc
sự giúp đỡ rất lớn từ thầy cô, gia đình và bè bạn.
Trƣớc hết, tôi xin đƣợc gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Giảng viên
- TS. Nguyễn Minh Tuấn - ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, tạo điều kiện cho
tôi hoàn thành đề tài luận văn. Đồng thời, tôi cũng xin đƣợc gửi lời cảm ơn tới
Ban chủ nhiệm Khoa, Bộ môn Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật, các
cán bộ trực tiếp giảng dạy, hƣớng dẫn, các cơ quan thi hành án dân sự trong
tỉnh Nghệ An, cùng các bạn học viên đã đóng góp ý kiến và cung cấp một số
tài liệu cho tôi thực hiện đề tài này.
Do thời gian có hạn và khả năng nhận thức của bản thân cũng nhƣ kinh
nghiệm nghiên cứu khoa học, luận văn không thể tránh khỏi những hạn chế,
thiếu sót. Tôi rất mong nhận đƣợc sự góp ý của các thầy cô giáo cùng các bạn
để đề tài đƣợc hoàn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 9 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Hồng Trung
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
Từ viết tắt
Từ đầy đủ
1
ĐKTHA
Điều kiện thi hành án
2
TAND
Tòa án nhân dân
3
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
4
THA
Thi hành án
5
THADS
Thi hành án dân sự
6
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
7
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
8
XMĐKTHA
Xác minh điều kiện thi hành án
9
XMĐKTHADS
Xác minh điều kiện thi hành án dân sự
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BIỂU
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ .............. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hiện pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án dân sự.................................................................................... 9
1.2. Cơ sở của việc thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án
dân sự .............................................................................................................. 18
1.3. Quy định pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự ................ 23
1.4. Những điều kiện đảm bảo cho việc thực hiện pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án dân sự.................................................................................... 31
1.5. Những tiêu chí đánh giá hiệu quả thực hiện pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án dân sự.................................................................................... 33
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 36
CHƢƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ QUA THỰC TIỄN TỈNH NGHỆ AN .................................................. 37
2.1. Thực trạng pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự ............. 37
2.1.1. Ƣu điểm ................................................................................................. 37
2.1.2. Bất cập, hạn chế .................................................................................... 48
2.2. Thực tiễn thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
qua thực tiễn của tỉnh Nghệ An....................................................................... 52
2.2.1. Các yếu tố đặc thù của Nghệ An ảnh hƣởng đến thực hiện pháp luật về
xác minh điều kiện thi hành án dân sự ............................................................ 52
2.2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
ở tỉnh Nghệ An ................................................................................................ 55
2.3. Những khó khăn, bất cập trong thực tiễn thực hiện pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự qua thực tiễn của tỉnh Nghệ An ........................ 58
2.3.1. Những khó khăn, bất cập giữa quy định pháp luật và thực tế thực hiện ở
địa phƣơng ....................................................................................................... 58
2.3.2. Những khó khăn, vƣớng mắc trong thực hiện pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự ở tỉnh Nghệ An.................................................. 63
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 67
CHƢƠNG 3 PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
NHỮNG TỒN TẠI, HẠN CHẾ TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................. 68
3.1. Phƣơng hƣớng .......................................................................................... 68
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự .......... 68
3.1.2. Xây dựng đội ngũ Chấp hành viên đáp ứng đƣợc các tiêu chuẩn và nhu
cầu công việc ................................................................................................... 68
3.1.3. Tiếp tục xã hội hóa, mở rộng thẩm quyền xác minh điều kiện thi hành
án cho Thừa phát lại ........................................................................................ 68
3.1.4. Đảm bảo kinh phí xác minh điều kiện thi hành án cho các cơ quan thi
hành án dân sự ................................................................................................. 68
3.2. Một số giải pháp cụ thể ............................................................................ 69
3.2.1. Giải pháp áp dụng đối với tỉnh Nghệ An .............................................. 69
3.2.2. Giải pháp chung khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện pháp
luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự cho cả nƣớc............................ 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 86
DANH MỤC BIỂU
Biểu đồ 2.1 Số việc phải thi hành ................................................................... 54
Biểu đồ 2.2. Số tiền phải thi hành ................................................................... 54
Biểu đồ 2.3. Bình quân số việc chấp hành viên của các cơ quan THADS tỉnh
Nghệ An đảm nhiệm trong năm ...................................................................... 59
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Vai trò của cơ quan thi hành án trong "Chính Trị luận" của Aristotle
[384-322TCN], Quyển VI: Phƣơng thức thiết lập chế độ dân chủ và quả đầu,
tại Chƣơng 8, ghi: "...Một cơ quan mà nhiệm vụ rất cần thiết cho xã hội và
cũng rất khó điều hành, đó là cơ quan phụ trách việc thi hành hình phạt, hay
thu tiền phạt, cũng nhƣ giam giữ tù nhân. Sự khó khăn của cơ quan này xuất
phát từ cái tiếng xấu dính liền với nó; chẳng ai muốn làm việc này, trừ phi họ
thu đƣợc nhiều lợi nhuận, và những ngƣời chịu làm thì cũng chỉ thi hành luật
pháp cho có lệ. Thế nhƣng, cơ quan này rất cần thiết vì những phán quyết của
tòa sẽ chẳng có ý nghĩa gì, nếu không đƣợc thi hành. Và vì xã hội không thể
hiện hữu đƣợc nếu không có luật pháp, thì xã hội cũng sẽ không thể hiện hữu
đƣợc nếu luật pháp không đƣợc thi hành...".
Phân tích về mối quan hệ giữa công tác thi hành án dân sự với công tác
xét xử, giữa Nhà nƣớc và Pháp luật, trong bài phát biểu mở đầu Hội nghị:
“Hài hòa hóa thủ tục thi hành án dân sự nhằm thực thi công lý xuyên biên
giới”, đƣợc tổ chức tại Washington, Mỹ năm 2006, đã nhấn mạnh: “Không có
Nhà nƣớc nào lại không có Pháp luật, không Pháp luật nào lại không có Thẩm
phán, không có bản án nào lại không có Cán bộ Thi hành án”. Từ quan điểm
này có thể hiểu rằng sự ra đời và tồn tại của lĩnh vực thi hành án dân sự nhƣ
một thực thể tự nhiên của loài ngƣời, gắn liền cùng với sự ra đời của các chế
định nhƣ Tòa án, Nhà nƣớc và Pháp luật [28].
Bàn về vai trò của thi hành án dân sự trong một nhà nƣớc pháp quyền,
tại hội nghị: “Thi hành Quyết định của Tòa án trong thế giới Pháp ngữ” đƣợc
tổ chức tại Paris, Pháp năm 2012 đã cho rằng, công lý chỉ có ý nghĩa khi và
chỉ khi quyết định của Tòa án đƣợc thi hành. Nguyên tắc bảo đảm an toàn của
1
Luật pháp và bảo đảm hiệu lực điều chỉnh của nó trên thực tế trong một nhà
nƣớc thƣợng tôn pháp luật đã chỉ ra rằng cần có sự phân định giữa quyền lực
của Thẩm phán với tƣ cách là ngƣời thực hiện việc xét xử với quyền lực của
Cán bộ Thi hành án, với tƣ cách là ngƣời bảo đảm thực hiện Quyết định của
Tòa án. Nội hàm các khái niệm nguyên tắc Pháp luật và sự an toàn của Pháp
lý có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhà nƣớc có trách nhiệm bảo đảm an
toàn cho hệ thống pháp luật do mình ban hành, nhƣng Cán bộ Thi hành án lại
giữ vị trí trung tâm [28].
Đề cập đến mối quan hệ giữa pháp luật thi hành án dân sự với Hiến
pháp cũng nhƣ với Pháp luật Quốc tế, năm 1996 Giáo sƣ Luật học
Konstantinos D. Kerameus khi đó là Chủ tịch Hiệp hội Hợp tác Khoa học của
Bỉ đã vui mừng chỉ ra rằng các nhà nghiên cứu pháp luật thi hành án dân sự
trên thế giới đã nhận thức đƣợc vai trò ngày càng quan trọng của công tác thi
hành án dân sự cũng nhƣ mối quan hệ và đóng góp của nó đối với sự phát
triển của pháp luật quốc tế và nền kinh tế quốc tế. Sự tƣơng tác qua lại giữa
công pháp quốc tế và tƣ pháp quốc tế với pháp luật về thi hành án dân sự ngày
càng chặt chẽ và cùng hƣớng tới nhiều mục đích điều chỉnh chung, đặc biệt là
những vấn đề có tính nguyên tắc trong việc bảo vệ quyền con ngƣời và những
quyền cơ bản của công dân, ví dụ, các vấn đề về quyền tài sản, quyền tự do
thông tin và quyền đƣợc tôn trọng bí mật đời tƣ, v.v.. [28].
Nói về vai trò của thi hành án dân sự trong bối cảnh cải cách tƣ pháp
đối với yêu cầu phát triển kinh tế ở Châu Âu, bà Viviane Reding - Phó Chủ
tịch Ủy ban Châu Âu cho rằng: “Một hệ thống tƣ pháp hiệu quả và độc lập là
một yếu tố then chốt để một quốc gia có thể thu hút đầu tƣ và kinh doanh. Đó
là lý do vì sao một quyết định tƣ pháp đƣợc thi hành kịp thời, hiệu quả lại trở
nên quan trọng và cũng là lý do mà yêu cầu cải cách nền tƣ pháp ở mỗi quốc
gia thành viên Châu Âu đƣợc coi là một trong những yêu cầu quan trọng bắt
buộc trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của Châu Âu” [28].
2
Ở Việt Nam, Thi hành án dân sự (THADS) có vai trò quan trọng trong
hoạt động tố tụng nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Đây là
công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho bản án, quyết định
của Tòa án đƣợc chấp hành nghiêm chỉnh, góp phần tăng cƣờng tính nghiêm
minh của pháp luật, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và
Nhà nƣớc, qua đó góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cƣờng
hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nƣớc.
Thi hành án dân sự (THADS) có vai trò quan trọng trong hoạt động tƣ
pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của
Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi đƣợc thi hành trên thực tế. Hoạt động
THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án đƣợc chấp hành, góp
phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cƣờng pháp chế xã hội
chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích
của Nhà nƣớc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cƣờng hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy nhà nƣớc. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến pháp năm
2013 của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Bản án,
quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải đƣợc cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành” [34]. Ngoài quy định của Hiến pháp năm 1992, tại Nghị
quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VII
(1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
khóa VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới (sau đây
gọi tắt là Nghị quyết số 08/NQ-TW), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX (2004) và Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số
3
48/NQ-TW), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số
49/NQ-TW) cũng đã đề cao tầm quan trọng của hoạt động THADS. Với
nhiệm vụ thể chế đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc vào hệ thống
pháp luật, tại kỳ họp thứ 5, ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII đã
thông qua Luật THADS và đƣợc sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ
8, Quốc hội khóa XIII ngày 25/11/2014.
Quá trình thi hành án dân sự phải thực hiện nhiều trình tự, thủ tục và
trải qua nhiều giai đoạn thi hành án, trong đó xác minh điều kiện thi hành án
là một trong những thủ tục có vai trò quan trọng nhất. Kết quả xác minh là cơ
sở để Chấp hành viên thuyết phục đƣơng sự tự nguyện, thỏa thuận thi hành
án, là cơ sở để Thủ trƣởng cơ quan thi hành án ra các quyết định ủy thác,
hoãn, đình chỉ thi hành án hay Chấp hành viên lựa chọn biện pháp cƣỡng chế
thi hành án thích hợp. Có thể nói, xác minh điều kiện thi hành án chính là căn
cứ làm phát sinh hàng loạt các tác nghiệp khác trong quá trình tổ chức thi
hành các bản án, quyết định, đòi hỏi Chấp hành viên cần thiết phải nắm vững
cơ sở pháp lý của việc xác minh, kỹ năng xác minh và xử lý kết quả xác minh
phù hợp với quy định của pháp luật về thi hành án dân sự [39].
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện pháp luật về THADS nói chung,
thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện THADS còn có những bất cập,
vƣớng mắc từ thể chế và trong thực tiễn tổ chức thi hành án. Xuất phát từ lý
do đó, học viên đã chọn đề tài “Thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện
thi hành án dân sự - qua thực tiễn tỉnh Nghệ An” nghiên cứu làm luận văn
thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xác minh điều kiện THADS mặc dù đƣợc xem là hoạt động trung tâm,
rất quan trọng trong quá trình tổ chức THADS nhƣng nội dung thực hiện pháp
4
luật về XMĐKTHADS chƣa có đề tài nào nghiên cứu. Trƣớc đó đã có một số
công trình nghiên cứu, bài viết về xác minh điều kiện thi hành án nhƣng chỉ
dừng lại ở việc nghiên cứu về những quy định của pháp luật thi hành án dân
sự hoặc những vấn đề về kỹ năng XMĐKTHADS nhƣ: "Giáo trình Luật Thi
hành án dân sự Việt Nam", Trƣờng Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản Công
an nhân dân, 2010; “Giáo trình nghiệp vụ thi hành án dân sự”, Học viện Tƣ
pháp, Nhà xuất bản Tƣ pháp, 2016; Tài liệu bồi dƣỡng nghiệp vụ thƣ ký thi
hành án năm 2016, tài liệu bồi dƣỡng ngạch Chấp hành viên trung cấp năm
2015 của Tổng cục THADS, Bộ Tƣ pháp; "Bàn thêm về nghĩa vụ thông tin,
xác minh về tài sản, điều kiện thi hành án của đương sự khi yêu cầu thi hành
án", Bùi Thái Bình, Số chuyên đề về THADS của Tạp chí Dân chủ và pháp
luật năm 2010; “Xác minh điều kiện thi hành án”, Bùi Nguyễn Phƣơng Lê,
Số chuyên đề Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật THADS, Tạp chí
Dân chủ và pháp luật năm 2015, “Hoàn thiện quy định pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự”, Hoàng Thị Thu Trang, tham luận Hội thảo tiếp
tục hoàn thiện pháp luật về THADS của Ủy ban Tƣ pháp Quốc Hội tháng
3/2016, tại thành phố Vinh, Nghệ An; Luận văn thạc sỹ luật học, Đinh Thanh
Hƣơng, Khoa Luật Đại học Quốc gia, năm 2013, “Thông tin về tài sản của
người thi hành án nhìn từ kinh nghiệm của Cộng hòa liên bang Đức”,
Nguyễn Văn Nghĩa, Cổng Thông tin điện tử Tổng cục THADS ngày
27/6/2017…
Có thể khẳng định rằng đến thời điểm hiện nay, chƣa có công trình nào
nghiên cứu, phân tích một cách trực tiếp, đầy đủ và toàn diện các vấn đề về
xác minh điều kiện thi hành án. Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kết quả các
công trình nghiên cứu, các bài viết, đồng thời bằng kinh nghiệm thực tiễn và
những hiểu biết của mình, tác giả trình bày trong luận văn cơ sở lý luận, nội
dung thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự, thông qua
5
thực tiễn thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Nghệ An, đƣa ra nhóm giải pháp
khắc phục những tồn tại, hạn chế trong thực hiện pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án dân sự trong toàn quốc cũng nhƣ ở địa phƣơng tỉnh Nghệ An.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tƣợng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về xác minh điều
kiện thi hành án, các quy định của pháp luật THADS về XMĐKTHA, hoạt
động thực hiện pháp luật của các chủ thể trong thực tiễn.
Thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự bao gồm
nhiều nội dung khác nhau. Tuy vậy, trong phạm vi của đề tài luận văn thạc sĩ
này, việc nghiên cứu chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhƣ: khái niệm,
đặc điểm, ý nghĩa của việc thực hiện pháp luật về XMĐKTHADS; nội dung,
những điều kiện đảm bảo và tiêu chí đánh giá hiệu quả của việc thực hiện
pháp luật về XMĐKTHADS; hoạt động thực hiện pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án dân sự của các chủ thể: Chấp hành viên, Thừa phát lại, ngƣời
phải thi hành án, ngƣời đƣợc thi hành án, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên trên địa bàn tỉnh Nghệ An từ năm 2013 đến nay.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
thực hiện pháp luật về xác minh ĐKTHADS, đánh giá thực trạng thực hiện
pháp luật về XMĐKTHADS, chỉ ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế, trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần bảo đảm thực hiện pháp luật về
XMĐKTHADS ở tỉnh Nghệ An cũng nhƣ trong toàn quốc trong thời gian tới.
Để đạt đƣợc mục đích đã nêu trên, luận văn có một số nhiệm vụ sau:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc thực hiện pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án dân sự;
- Phân tích, đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án dân sự qua thực tiễn tại tỉnh Nghệ An
6
- Xác định quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu qủa thực
hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu đƣợc học viên tiến hành trên cơ sở phƣơng pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng của Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và
pháp luật, những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nƣớc về cải cách hành
chính, cải cách tƣ pháp và xây dựng Nhà nƣớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài cũng đƣợc
thực hiện bằng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống
nhƣ phƣơng pháp phân tích, so sánh, tổng hợp... Từ đó, rút ra những đánh giá,
kết luận và đề xuất các kiến nghị.
6. Những điểm mới của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ thống về những
vấn đề liên quan đến việc thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án
dân sự. Những điểm mới của luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
Phát triển khái niệm XMĐKTHADS, khái niệm thực hiện pháp luật về
XMĐTHADS theo hƣớng toàn diện hơn, làm rõ đƣợc đặc điểm, ý nghĩa của
việc thực hiện pháp luật về XMĐKTHADS. Là công trình đầu tiên đƣa ra
đƣợc các tiêu chí đánh giá hiệu quả của việc thực hiện pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự
Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật về xác minh điều
kiện thi hành án dân sự. Khảo sát toàn diện tình hình thực hiện pháp luật về
xác minh điều kiện THADS trên địa bàn tỉnh Nghệ An, tìm ra đƣợc những
khó khăn, vƣớng mắc trong tổ chức thực hiện; Đề xuất đƣợc những kiến nghị
cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện những quy định của pháp luật về
XMĐKTHADS.
7. Kết cấu của luận văn
7
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chƣơng:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của thực hiện pháp luật về xác minh
điều kiện thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp luật về xác
minh điều kiện thi hành án dân sự qua thực tiễn tỉnh Nghệ An
Chương 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn
chế trong việc thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự.
8
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA THỰC HIỆN PHÁP LUẬT
VỀ XÁC MINH ĐIỀU KIỆN THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của thực hiện pháp luật về xác
minh điều kiện thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm về xác minh điều kiện thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự xuất phát và gắn liền với hoạt động xét xử của Tòa
án. Tuy nhiên, còn có nhiều quan điểm khác nhau về THADS. Loại ý kiến thứ
nhất cho rằng, THADS là một dạng của hoạt động hành chính, bởi THADS là
hoạt động mang tính điều hành và chấp hành, đây là đặc điểm đặc trƣng của
hoạt động hành chính [42, tr.10]. Loại ý kiến thứ hai lại cho rằng, THADS là
một dạng của hoạt động hành chính - tƣ pháp vì THADS là hoạt động mang
tính điều hành và chấp hành quyết định của Tòa án. Hơn nữa, trong quá trình
THADS còn tiến hành các hoạt động mang tính hành chính nhƣ chứng thực
bản sao giấy tờ, ủy quyền THADS… Hoạt động xét xử và THA là hai giai
đoạn kế tiếp nhau, không cắt khúc và gián đoạn, do đó, luôn luôn có sự gắn
kết, liên thông giữa Tòa án đã ra bản án, quyết định đó bằng việc giao cho
Tòa án ra quyết định THA; cơ quan THA tổ chức thi hành theo quyết định
THA của Tòa án [42, tr.10]. Loại ý kiến thứ ba cho rằng, THADS là một dạng
của hoạt động tƣ pháp vì THADS gắn liền với hoạt động xét xử và do cơ quan
tƣ pháp có thẩm quyền tổ chức thực hiện [42, tr.10]. Do vậy, việc xác định
bản chất của THADS vẫn là vấn đề còn nhiều tranh luận cả từ góc độ lý luận
và thực tiễn. Có thể thấy, xuất phát từ các quy định của pháp luật hiện hành và
thực tiễn công tác THADS ở nƣớc ta, nhiều ý kiến đồng tình với quan điểm
cho rằng THADS là hoạt động đặc thù, vừa có tính chất của hoạt động hành
chính, vừa có tính chất của hoạt động tƣ pháp bởi những lý do sau đây:
9
Thứ nhất, cơ sở của hoạt động THADS là các bản án, quyết định dân sự
của Tòa án; các cơ quan tham gia vào quá trình THADS chủ yếu là cơ quan tƣ
pháp (theo nghĩa rộng).
Thứ hai, THADS là giai đoạn kế tiếp sau giai đoạn xét xử, có mối quan
hệ mật thiết, đan xen với các giai đoạn tố tụng trƣớc đó. Tuy nhiên, THADS
lại có tính độc lập tƣơng đối thể hiện ở chỗ hoạt động này đƣợc bắt đầu bằng
quyết định của Thủ trƣởng Cơ quan THADS đối với THADS. Những quyết
định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả chủ thể có trách nhiệm
và nghĩa vụ liên quan đến việc THADS.
Thứ ba, THADS và các giai đoạn tố tụng trƣớc đó có mối quan hệ
nhân quả với nhau. Nếu bản án, quyết định của Tòa án tuyên rõ ràng, cụ thể
thì việc THADS sẽ dễ dàng, nhanh chóng. Ngƣợc lại, nếu bản án, quyết định
đó không rõ ràng, không khách quan, thiếu tính khả thi sẽ gây khó khăn cho
việc THADS. Đồng thời, việc THADS nhanh chóng, kịp thời sẽ có tác động
tích cực trở lại đối với hoạt động xét xử, góp phần củng cố, tăng cƣờng uy
tín của cơ quan xét xử.
Thứ tư, bản chất của THADS là dạng hoạt động chấp hành nhƣng là
chấp hành phán quyết của cơ quan xét xử với các cách thức và biện pháp khác
nhau nhằm buộc ngƣời có nghĩa vụ đƣợc xác định trong bản án, quyết định
của Tòa án phải thực hiện đúng các nghĩa vụ của mình. Mục đích cuối cùng
của THADS là bảo đảm cho các quyết định của Tòa án đƣợc ghi trong bản án,
quyết định đƣợc thực thi trên thực tế chứ không phải là ra văn bản áp dụng
pháp luật hoặc quyết định có tính điều hành - nét đặc trƣng của hoạt động
hành chính.
Với cách hiểu về THADS nhƣ trên thì khái niệm "thủ tục thi hành án
dân sự" đƣợc hiểu là toàn bộ các công việc đƣợc tiến hành theo một trình tự
nhất định để đƣa một bản án, quyết định của Tòa án, Trọng tài thƣơng mại
10
hoặc của Hội đồng xử lý cạnh tranh ra thi hành theo quy định của pháp luật.
Quá trình THADS đƣợc bắt đầu từ khi Tòa án cấp bản án, quyết định, cơ quan
THADS tiếp nhận, thụ lý đơn yêu cầu THA, ra quyết định THA và tiến hành
các tác nghiệp cụ thể cho đến khi quyền và nghĩa vụ của đƣơng sự đƣợc thực
hiện trên thực tế. Trong quy trình THADS, tùy theo từng vụ việc cụ thể mà
Thủ trƣởng cơ quan THADS, Chấp hành viên hoặc Thừa phát lại có thể thực
hiện các thủ tục cần thiết khác nhau để tổ chức THA.
Theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam do Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí
Minh xuất bản năm 1998 thì "xác minh" đƣợc hiểu là làm cho rõ với chứng cứ
cụ thể [25, tr.2061], còn theo Đại Từ điển Tiếng Việt do Nhà xuất bản Văn
hóa Thông tin xuất bản năm 1998 thì "xác minh" đƣợc hiểu là làm rõ thực
chất sự việc với những chứng cứ cụ thể [47, tr.1848]. Nhƣ vậy, có thể hiểu
"xác minh" là việc đi tìm các chứng cứ, tài liệu để tìm hiểu, làm rõ một hoặc
nhiều vấn đề nào đó. Xác minh đƣợc tiến hành bởi chủ thể nhất định, tùy theo
mục đích và yêu cầu của vấn đề cần đƣợc xác minh mà chủ thể tiến hành xác
minh là chủ thể nào. Cũng theo Từ điển Từ và ngữ Việt Nam thì "điều kiện"
là điều cần thiết phải có để đạt đƣợc mục đích [25, tr.629] còn theo Đại Từ
điển Tiếng Việt thì "điều kiện" là điều cần phải có để có thể thực hiện đƣợc,
đạt đƣợc mục đích [47, tr.637].
Từ những phân tích trên đây có thể hiểu: XMĐKTHADS là việc Chấp
hành viên, Thừa phát lại hoặc người được THA tiến hành thu thập các chứng
cứ, tài liệu về tài sản, thu nhập của người phải THA để làm căn cứ tổ chức
THADS theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi
hành án dân sự
Pháp luật là một công cụ quản lý xã hội sắc bén, song pháp luật chỉ
có thể phát huy đƣợc vai trò và những giá trị của mình trong việc duy trì
11
trật tự và tạo điều kiện cho xã hội phát triển khi nó đƣợc tôn trọng và thực
hiện trong cuộc sống. Vì vậy, thực hiện pháp luật là hoạt động không thể
thiếu [41, tr.465].
Xây dựng những quy phạm pháp luật nhà nƣớc nhằm mục đích điều
chỉnh các quan hệ xã hội đáp ứng lợi ích của nhân dân và tiến bộ xã hội. Mục
đích đó chỉ có thể đạt đƣợc khi pháp luật đƣợc các chủ thể nghiêm chỉnh thực
hiện trong đời sống xã hội. Thực hiện pháp luật là một hiện tƣợng xã hội
mang tính pháp lý. Quá trình hoạt động thực hiện pháp luật đƣợc diễn ra đồng
thời và tiếp nối với quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của Nhà nƣớc.
Về khái niệm thực hiện pháp luật đƣợc đƣa ra tại Giáo trình LLNN và
PL, Trƣờng ĐH Luật HN, NXB CAND 2009 nhƣ sau: Thực hiện pháp luật là
hoạt động có mục đích nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật, làm
cho chúng đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế, hợp pháp của
các chủ thể pháp luật [41, tr.468].
Vì thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự là thực hiện pháp luật
trong một lĩnh vực cụ thể (lĩnh vực thi hành án dân sự) cho nên khái niệm
thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự cũng có đầy đủ các nội dung cơ bản
của khái niệm thực hiện pháp luật nói chung. Trên cơ sở đó, có thể nêu khái
niệm thực hiện pháp luật về thi hành án dân sự nhƣ sau: Thực hiện pháp luật
về thi hành án dân sự là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các quy
định pháp luật về thi hành án dân sự trở thành những hoạt động thực tế, hợp
pháp của các chủ thể pháp luật và được thực hiện trong thực tế cuộc sống,
trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật nhằm
phát huy hiệu lực của các bản án, quyết định của Toà án, đảm bảo các bản
án, quyết định được tôn trọng và thi hành nghiêm chỉnh.
Với phạm vi hẹp hơn, có thể nêu khái niệm thực hiện pháp luật về xác
minh điều kiện thi hành án dân sự nhƣ sau: Thực hiện pháp luật về xác minh
12
điều kiện thi hành án dân sự là quá trình hoạt động có mục đích làm cho các
quy định pháp luật thi hành án dân sự về xác minh điều kiện thi hành án trở
thành những hoạt động thực tế, hợp pháp của các chủ thể pháp luật và được
thực hiện trong thực tế cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp
của các chủ thể pháp luật.
Thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi hành án dân sự có các
hình thức sau:
Tuân theo (tuân thủ) pháp luật (xử sự thụ động) là một hình thức thực
hiện pháp luật, trong đó các chủ thể pháp luật kiềm chế không tiến hành
những hoạt động mà pháp luật ngăn cấm.
Liên quan đến XMĐKTHADS, có nhiều quy định cấm nhƣ: cấm ngƣời
phải thi hành án che dấu, không cung cấp thông tin hoặc không kê khai trung
thực tài sản, điều kiện thi hành án... Ví dụ: Điều 52 Nghị định số
110/2013/NĐ-CP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tƣ pháp, hành chính tƣ pháp, hôn
nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã (đƣợc
sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số 67/2015/NĐ-CP) quy định Hành vi vi phạm
quy định trong hoạt động thi hành án dân sự “...2. Phạt tiền từ 1.000.000
đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
a) Không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản
bị xử lý để thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà
không có lý do chính đáng;
b) Không thông báo cho cơ quan thi hành án khi có thay đổi về địa chỉ
và nơi cư trú;
c) Không kê khai trung thực tài sản, điều kiện thi hành án.”
Thi hành (chấp hành) pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật,
trong đó các chủ thể pháp luật thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình bằng hành
13
động tích cực. Ví dụ, điểm b, khoản 6, Điều 44 Luật THADS quy định: “Bảo
hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng ký quyền sử
dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tổ
chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của
ngƣời phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi
hành án của ngƣời phải thi hành án”.
Sử dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó các
chủ thể pháp luật thực hiện quyền chủ thể của mình (thực hiện những hành vi
mà pháp luật cho phép). Ví dụ: khoản 5, Điều 44 Luật THADS quy định:
“Ngƣời đƣợc thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho ngƣời khác xác
minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện
thi hành án của ngƣời phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự”.
Áp dụng pháp luật là một hình thức thực hiện pháp luật, trong đó Nhà
nƣớc thông qua các cơ quan nhà nƣớc hoặc nhà chức trách có thẩm quyền tổ
chức cho các chủ thể pháp luật để tạo ra các quyết định làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt những quan hệ pháp luật cụ thể. Trong trƣờng hợp này các
chủ thể thực hiện pháp luật thực hiện các qui định của pháp luật có sự can
thiệp của Nhà nƣớc. Trong áp dụng pháp luật thi hành án dân sự, tính chủ
động trong hoạt động tác nghiệp của chấp hành viên đƣợc đề cao. Chấp hành
viên căn cứ vào các quy định của pháp luật về thi hành án dân sự, căn cứ vào
tình hình thực tế của vụ việc để lựa chọn các biện pháp thi hành phù hợp. Ví
dụ: vụ việc đơn giản, ý thức chấp hành pháp luật của ngƣời phải thi hành án
tốt, thì chấp hành viên lựa chọn biện pháp giáo dục, thuyết phục ngƣời phải
thi hành án tự nguyện thi hành. Ngƣợc lại, nếu sau khi xác minh thấy đƣơng
sự có điều kiện để thi hành án, nhƣng xét thấy ngƣời phải thi hành án ý thức
chấp hành pháp luật không tốt, có biểu hiện tẩu tán tài sản, hoặc cố tình chây
ỳ không tự nguyện thi hành án, thì chấp hành viên lựa chọn, áp dụng một
hoặc nhiều biện pháp cƣỡng chế để tổ chức thi hành.
14
1.1.3. Đặc điểm của thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi
hành án dân sự
Thực hiện xác minh điều kiện thi hành án dân sự có chung đặc điểm
với các hoạt động xác minh của các cơ quan khác nhƣ: hoạt động xác minh
của Tòa án, Công an, cơ quan nhà nƣớc… đều là hoạt động thu thập thông tin
để giải quyết vụ việc. Nhƣng thực hiện pháp luật về XMĐKTHADS có đặc
điểm riêng cơ bản sau:
Thứ nhất, việc XMĐKTHADS đƣợc thực hiện bởi các chủ thể là Chấp
hành viên, Thừa phát lại, ngƣời đƣợc thi hành án hoặc ngƣời đƣợc thi hành án
ủy quyền. Trong khi đó, chủ thể xác minh, thu thập chứng cứ của cơ quan Tòa
án là Thẩm phán, cơ quan Điều tra là Điều tra viên…
Nghĩa vụ làm rõ điều kiện thi hành án của ngƣời phải THA là Chấp
hành viên; Thừa phát lại chỉ thực hiện việc XMĐKTHADS trong trƣờng hợp
có yêu cầu của đƣơng sự; ngƣời đƣợc THA thực hiện việc xác minh ĐKTHA
với tƣ cách thực hiện quyền của mình.
Thứ hai, nội dung hƣớng tới trong XMĐKTHADS chủ yếu là làm rõ
thông tin về thu nhập, tài sản của ngƣời phải THA.
Trong khi đó, hoạt động xác minh của Tòa án là hoạt động thu thập
chứng cứ từ các đƣơng sự để giải quyết vụ án, hoạt động xác minh của các cơ
quan khác đều có đối tƣợng và mục đích hƣớng tới khác nhau.
Ngay trong quá trình tổ chức thi hành án, có nhiều hoạt động xác minh,
đối tƣợng hƣớng tới khác nhau nhƣng đều có mục đích chung là để giải quyết
vụ việc có hiệu quả. Chấp hành viên có thể xác minh hoàn cảnh của ngƣời
đƣợc thi hành án để nắm bắt tâm tƣ, suy nghĩ của họ để phục vụ cho việc vận
động đƣơng sự thỏa thuận, thƣơng lƣợng giải quyết việc thi hành án hoặc xác
minh ngƣời thân của ngƣời phải THA, thu thập các thông tin về địa hình nơi
tổ chức thi hành án nhằm phục vụ cho công tác tổ chức cƣỡng chế… Có thể
15
nói chung đó là hoạt động xác minh trong thi hành án dân sự nhƣng nó chỉ
mang tính bổ trợ, còn XMĐKTHADS là hoạt động chủ yếu.
Thứ ba, việc XMĐKTHADS phải đƣợc thực hiện một cách đầy đủ,
chính xác theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật thi hành án dân sự và các
quy định pháp luật khác có liên quan.
Pháp luật THADS quy định cụ thể về trình tự, thủ tục THADS nhằm
đảm bảo hiệu quả THADS. Xác minh điều kiện thi hành án dân sự là một
khâu của quá trình THADS.
Vì vậy, việc XMĐKTHADS phải đƣợc thực hiện một cách đầy đủ,
chính xác theo đúng trình tự, thủ tục mà pháp luật quy định từ chủ thể yêu cầu
xác minh, thể thức văn bản yêu cầu xác minh, chủ thể tiến hành xác minh,
thời hạn thực hiện việc xác minh; nơi thực hiện việc xác minh, biên bản xác
minh… để tránh những trƣờng hợp áp dụng một cách tùy tiện.
1.1.4. Ý nghĩa của thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi
hành án dân sự
Kết quả xác minh là căn cứ để xác định ngƣời phải thi hành án có điều
kiện hay chƣa có điều kiện thi hành án. Là cơ sở để Chấp hành viên lựa chọn
biện pháp tổ chức thi hành án phù hợp và tham mƣu cho Thủ trƣởng cơ quan
thi hành án dân sự ra các quyết định ủy thác, đình chỉ, hoãn thi hành án, quyết
định xác định việc chƣa có điều kiện thi hành án. Xác minh chính xác điều
kiện thi hành án của ngƣời phải THA là yếu tố quyết định đến hiệu quả công
tác thi hành án, đảm bảo đƣợc sự công bằng, khách quan [40]. Vì vậy, thực
hiện pháp luật về XMĐKTHADS có các ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất, giúp cho việc phân loại án đƣợc chính xác, góp phần nâng
cao chất lƣợng và hiệu quả công tác THADS, giảm bớt áp lực đối với cơ quan
THADS vì không mất nhiều thời gian, công sức để giải quyết những việc
THADS chƣa có điều kiện thi hành.
16
Căn cứ để phân loại án dân sự có điều kiện thi hành và án dân sự chƣa
có điều kiện thi hành dựa trên điều kiện THADS. Vì vậy, XMĐKTHADS là
thủ tục quan trọng, cần thiết để xác định xem việc THADS đó có điều kiện thi
hành hay chƣa có điều kiện thi hành. Nếu XMĐKTHADS đƣợc thực hiện đầy
đủ và đúng quy định của pháp luật thì việc phân loại việc THADS (có điều
kiện thi hành và chƣa có điều kiện thi hành) sẽ chính xác, từ đó cơ quan
THADS sẽ tập trung thời gian, nhân lực, chi phí cho việc thi hành những việc
THADS có điều kiện thi hành và không phải mất thời gian, công sức vào
những việc THADS chƣa có điều kiện thi hành. Do đó, việc XMĐKTHA có ý
nghĩa quan trọng trong việc góp phần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của
công tác THADS, giảm án tồn đọng, giảm áp lực đối với cơ quan THADS.
Thứ hai, góp phần bảo đảm quyền của đƣơng sự.
Thực hiện pháp luật về XMĐKTHADS giúp bảo vệ quyền lợi của các
đƣơng sự và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đối với ngƣời đƣợc thi hành án là ngƣời có quyền lợi đƣợc bảo vệ, nếu
việc xác minh ĐKTHADS đƣợc Chấp hành viên tiến hành kịp thời, chính xác
sẽ giúp cho việc tổ chức thi hành đƣợc nhanh hơn, hiệu quả hơn. Từ đó bảo
vệ đƣợc quyền, lợi ích chính đáng của ngƣời đƣợc THA.
Cũng thông qua công tác xác minh, làm rõ điều kiện thi hành án, góp
phần bảo vệ quyền lợi của ngƣời phải THA và ngƣời có quyền, nghĩa vụ liên
quan. Ví dụ: Nếu xác minh cụ thể, Chấp hành viên có thể vận động các bên
thỏa thuận thi hành, tránh đƣợc việc áp dụng biện pháp cƣỡng chế…, cũng
qua xác minh giúp Chấp hành viên xác định đúng chủ sở hữu tài sản, tránh kê
biên sai, nhầm tài sản, hoặc kê biên tài sản vƣợt quá nhiều so với nghĩa vụ
phải thi hành án…
Thứ ba, thực hiện pháp luật về XMĐKTHADS còn góp phần nâng cao
ý thức của ngƣời dân trong việc THA.
17