Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Thị trườn chứng khoán ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.74 KB, 37 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
Từ năm 1986, Đảng và Nhà nước ta bắt đầu thực hiện đường lối đổi
mới nhằm chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường có sự quản lí của Nhà nước. Công cuộc đổi mới kinh tế này của nước
ta trong những năm qua đã và kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo
nên những cơ sở quan trọng ban đầu để tiến tới một thị trường tài chính đảm
bảo cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế một cách bền vững.
Để có thể xây dựng và phát triển một nền kinh tế với sự tham gia của
nhiều thành phần kinh tế như ở nước ta hiện nay đòi hỏi ngày càng nhiều vốn.
Bên cạnh vốn của Nhà nước cần phải huy động vốn của dân cư trong nước và
nước ngoài. Vấn đề huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn là một
trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng. Thực tiễn sinh động của công
cuộc đổi mới ỏ nước ta đã chỉ ra rằng để đáp ứng yêu cầu về vốn đặc biệt là
vốn trung và dài hạn nhằm thực hiện sự nghiêp CNH- HĐH đất nước thì việc
xây dựng TTCK ở nước ta trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết như trong
Nghị quyết đại hội Đảng VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định “phải
xây dựng thị trường vốn từng bước hình thành TTCK”. Việt Nam hiện nay tín
dụng thương mại về cổ phiếu mới ra đời TTCK chính thức hoạt động từ tháng
7/ 2000 chính là sự đòi hỏi cấp thiết của đời sống kinh tế những kiến thức về
TTCK- một vấn đề bức xúc đang được rất nhiều các ngành các cấp, các nhà
nghiên cứu, các doanh nghiệp và sinh viên quan tâm. Thị trường vốn nói
chung và TTCK nói riêng là một thực thể phức tạp và là hình thức phát triển
cao của kinh tế đối với nước ta.
Đây là một vấn đề còn mới mẻ, trong đề tài nghiên cứu này chúng em
chỉ nêu ra một vài suy nghĩ bước đầu, cơ bản về TTCK và còn phải nghiên
cứu chi tiết học tập nhiều hơn. Vì vậy khi nghiên cứu đề tài này chúng em

1


không thể nào tránh được những hạn chế và sai sót, rất mong sự quan tâm góp


ý, giúp đỡ của các thầy cô và các bạn.

2


PHẦN I: LÝ LUẬN CHUNG

I. Những vấn đề cơ bản về thị trường chứng khoán.
1. Khái niệm và quá trình hình thành, phát triển thị trường chứng khoán.
a. Khái niệm.
Khái niệm về thị trường chứng khoán rất đa dạng và phong phú cho đến
nay chưa có một định nghĩa chung cho “thị trường chứng khoán (TTCK)”.
Theo nghiên cứu của các nhà chuyên môn thì thị trường chứng khoán có
tiếng Latinh là Btursa, có nghĩa là “cái ví đựng tiền! Còn gọi là “Sở giao dịch
chứng khoán”. Đó là một thị trường có tổ chức và hoạt động có điều khiển (The
Stock Exchange- dịch ra tiếng Việt là thị trường chứng khoán, theo chữ Hán là
chứng khoán giao dịch sở, Sở là nơi chốn, còn giao dịch là hoạt động mua bán trao
đổi).
Theo “Longman Dictionary of Business English-1985” thì TTCK được
định nghĩa như sau: “An organized market Where Securities are Bought Sold
undiel fixed rule”. Dịch ra tiếng Việt đó là một thị trường có tổ chức là nơi chứng
khoán được mua bán tuân theo những qui tắc đã ấn định. Định nghĩa này đã đưa ra
một định nghĩa nêu lên được các loại chứng khoán (Securities) đó là cổ phiếu
(Share) và trái phiếu (Bond). Chứng khoán thực ra là từ ghép của hai từ đồng
nghĩa. Chứng và khoán đều có nghĩa là bằng cứ (Evidence). Trong tiếng Anh người
ta dùng từ Secueitier có nghĩa Writen Evidence of Ownership. Từ những phân tích
trên có thể hiểu một cách căn bản “chứng khoán” là bằng chứng giấy trắng mực
đen về quyền sở hữu.
Cùng với sự phát triển đổi mới của thị trường vốn, thị trường tiền tệ, sự đa
dạng hoá trong đời sống kinh tế. Thuật ngữ thị trường chứng khoán đã thoát ly

định nghĩa ban đầu và có thêm những nội dung mới.
3


Dù có rất nhiều định nghĩa về “TTCK” nhưng mỗi định nghĩa chỉ cung cấp
một khái niệm tổng quát về một vấn đề nào đó. Vì vậy sẽ thật là thiếu sót khi 0ta
nghiên cứu về “TTCK” mà chỉ đứng trên góc độ một định nghĩa nào đó mà muốn
hiểu được vấn đề thì phải nghiên cứu quá trình phát sinh và phát triển lâu dài của
nó.
b. Lịch sử hình thành phát triển “TTCK”
Lịch sử loài người đã ra đời và tồn tại hàng ngàn năm nay. Trong đó lịch sử
phát triển xã hội loài người đã trải qua các hình thái xã hội khác nhau từ thấp đến
cao. ứng với mỗi hình thái xã hội khác nhau thì có một lực lượng sản xuất và quan
hệ sản xuất khác nhau tương ứng với chúng xã hội muốn tồn tại thì phải lao động
sản xuất ra hàng hoá, của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người.
Trong đó thị trường chứng khoán là hình thức phát triển cao của nền sản
xuất hàng hoá. Thị trường chứng khoán nguyên thuỷ đã tồn tại hàng trăm năm nay.
Vào khoảng giữa thế kỷ XI ở tại những thành phố trung tâm buôn bán ở phương
Tây, các thương gia thường tụ tập tại các quán Cafe để thương lượng việc mua bán,
trao đổi các loại hàng hoá (nông sản, khoáng sản, ngoại tệ và giá khoán động ...).
Điểm đặc biệt là tại các cuộc thương lượng này, các thương gia chỉ dùng lời nói để
trao đổi với nhau, không có hàng hoá, ngoại tệ, giá khoán động sản, hay bất cứ một
loại giấy tờ nào. Những cuộc thương lượng này nhằm thống nhất với nhau, hợp
đồng mua bán, trao đổi. Không biết do sự phát triển của các thương gia hay hiệu
quả của kiểu “thương lượng” này mà số lượng người tham gia ngày càng đông lên.
Đến cuối thời Trung cổ, phiên chợ riêng này trở thành một thị trường và khoảng
cách các phiên chợ ngày càng rút ngắn. Những qui ước trao đổi dần dần được tu bổ
thành các qui tắc có giá trị bắt buộc đối với người tham gia. Từ đó thị trường
chứng khoán bắt đầu được hình thành.
Buổi họp đầu tiên của giai đoạn này xảy ra năm 1453. Trong một lữ quán

của gia đình Vanber tại Beug (Bỉ). Đánh dấu một bước phát triển mới của cái gọi là
4


“Trao đổi đặc biệt”. Trước lữ quán có một bảng hiệu và vẽ hình 3 túi dạ và 1 từ
tiếng Pháp “Borrse” (Sở mậu dịch), hay gọi là “Sở giao dịch”. Hình ảnh 3 túi da có
ý nghĩa tượng trưng cho 3 nội dung của mậu dịch trường: hàng hoá, ngoại tệ và giá
khoán động sản.
Do một điều kiện khách quan, eo biển dẫn tàu bè vào thị trấn bị cát lấp mất.
Nên sự trao đổi, mua bán hàng hoá (giao dịch), gặp rất nhiều khó khăn nên đến
1947. Mậu dịch trường tại thành phố Bruges (Bỉ) bị suy sụp. Nhưng không vì thế
mà thị trường “tan rã”, thị trường được dời đến hải cảng Auvers (Bỉ). Mậu dịch thị
trường lại một lần nữa phát triển nhanh chóng và ngày càng bộc lộ sức mạnh của
nó. Do đó mậu dịch thị trường đã bắt đầu lan rộng sang các nước khác. Tại London
vào thế kỉ 18. Mậu dịch thị trường kiểu Auvers được thành lập và có tên là “Stock
Exchange”, nơi mà sau này gọi là Sở giao dịch chứng khoán London. Theo đó các
mậu dịch trường lần lượt được thành lập tại Pháp, Ý, Đức và lan rộng các nước
Bắc Âu. Sau một thời gian hoạt động từng nội dung của mậu dịch trường phát triển
mạnh mẽ và dần dần đã tách ra làm 3 nội dung hoàn toàn khác nhau. Giao dịch
hàng hoá tách ra thành “Khu thương mại”, giao dịch ngoại tệ tách ra thành “Thị
trường hối đoái”, giao dịch giá khoán động sản tách ra thành “Thị trường chứng
khoán”. Đến đây chúng ta đã hiểu được nguồn gốc của sự ra đời của thị trường
chứng khoán. Thị trường chứng khoán xuất hiện vào thế kỉ 15 và để có sự phát
triển như ngày nay thì thị trường chứng khoán cũng đã trải qua rất nhiều những
bước thăng trầm. Thời kì huy hoàng nhất của “TTCK” là vào những năm 18751913, “TTCK” phát triển mạnh và sôi động. Nhưng đến ngày 29.10.1929, ngày
được gọi là “ngày thứ năm đen tối” ngày mở đầu cho cuộc khủng hoàng TTCK
New York, kéo theo đó là sự khủng hoảng của các “TTCK”. Tây Âu, Bắc Âu và
Nhật Bản. Cùng với sự phục hồi của nền kinh tế, sau chiến tranh thế giới II,
“TTCK” lại phát triển mạnh ở các nước. Nhưng rồi sự khủng hoảng thị trường tài
chính 1987 lại kéo tụt TTCK thế giới đi vào ngõ hẻm mà hậu quả lần này còn nặng

hơn năm 1929. Chỉ sau hai năm tức 1989, TTCK lại khẳng định vị trí không thể
5


thiếu của mình. Nó phát triển ổn định và trở thành một định chế tài chính không
thể thiếu trong đời sống kinh tế của các quốc gia có nền kinh tế thị trường.
Do các biến động trong bối cảnh kinh tế, những xu hướng kinh tế mới đã
làm cho TTCK cũng phải thay đổi cho phù hợp với tình hình chung đó. Các cuộc
cách mạng diễn ra với nhiều hình thức khác nhau.
+ Cải cách các chế độ thuế nhằm thu hút người có tiền tích luỹ ra TTCK,
như giảm thuế thu nhập đánh vào các khoản đầu tư vào cổ phiếu.
+ Thành lập các thị trường không chính thức: tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp trung bình tham gia thị trường chứng khoán.
+ Tạo ra các hình thức chứng phiếu mới: bằng cách xây dựng các sản phẩm
tài chính mới để đáp ứng tốt hơn hình thức tài trợ qua thị trường chứng khoán cho
các nhu cầu vay vốn.
+ Hiện đại hoá thị trường vay nợ nước ngoài: Tạo điều kiện cho Nhà nước
vay vốn trên các thị trường. Thị trường tín phiếu đã được hiện đại hoá rất nhiều so
với mô hình của Mỹ. Tạo ra tư cách pháp nhân cho các chuyên gia về tín phiếu kho
bạc, kĩ thụât mới phát hành tín phiếu...
+ Đổi mới kỹ thuật: các chức năng của TTCK được tin học mạnh mẽ. Đẩy
nhanh sự giao dịch và các nghiệp vụ giao dịch.
Đến 1986 ở một số nước, các giá trị động sản đã lần lượt được yết giá trên
hệ thống vi tính các (yết giá liên tục) như vậy việc yết giá cổ phiếu, trái phiếu,
không còn được tập trung nữa, không được giao dịch dưới dạng giao miệng. Các
nhà giao dịch sẽ truyền lệnh cho công ty chứng khoán của mình thông qua điểm
cuối mạng vi tính.
Năm 1991, hệ thống RELIT đã tiêu chuẩn hoá tiến trình thanh toán tiền và
giao dịch chứng khoán. Sau khi đã giao dịch thương lượng trên thị trường.


6


+ Thành lập các thị trường biến tướng: 1986 ở Pháp lập thị trường Matif,
1987 thị trường Monep. Các thị trường này lập ra cho các nhà quản lý hồ sơ chứng
khoán phòng ngừa các rủi ro liên quan đến biến động về cổ phiếu, tỉ lệ lãi suất, tỉ
giá hối đoái. Và thị trường này cũng có mục đích tăng vốn khả duy trên thị trường
giao ngay qua khả năng kinh doanh chênh lệch giá. Và đây cũng là thị trường thực
sự trong thời đại mới.
Sự hình thành của “TTCK” trên thế giới vào thế kỉ 15 và cùng với thăng
trầm của lịch sử nó vẫn tồn tại đến ngày nay. Sau nhiều năm chờ đợi và chuẩn bị
vào ngày 11.7.1998. Chính phủ nước ta đã ký nghị định 18/CP ban hành về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Và ngày đó cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
2. Vai trò TTCK trong nền kinh tế thị trường.
Với quá trình phát triển lâu dài của mình, TTCK đã cho thấy vị trí không
thể thiếu của mình trong nền kinh tế thị trường. Nó có vai trò quan trọng trong sự
nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. TTCK là kênh bổ
sung nguồn vốn trung và dài hạn cho Nhà nước và các doanh nghiệp. Nó là yếu tố
hạ tầng quan trọng nhất một công cụ đem lại nhiều lợi ích. Vai trò của TTCK thì rất
là nhiều nhưng nhìn chung lại thì nó có các vai trò chủ yếu sau:
a) Tạo vốn cho nền kinh tế quốc dân.
Như ta đã thấy trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung không có khái
niệm về giao lưu vốn và cũng không có nhu cầu về tiền và vốn để đầu tư cho sản
xuất. Nền kinh tế hoạt động như một cỗ máy chứng nhắc dưới sự chỉ đạo tập trung
của Nhà nước. Cơ chế phân phối bình quân theo giá cả bao cấp đã làm tê liệt chức
năng của đồng tiền phá vỡ quan hệ cung cầu và qui luật giá trị. Nền kinh tế phát
triển què quặt.
Khi chuyển sang chơ chế thị trường doanh nghiệp chủ động trong sản xuất
kinh doanh các vấn đề đều do thị trường quyết định. Tạo môi trường cạnh tranh

7


cho các doanh nghiệp. Nhu cầu giao lưu về vốn đã xuất hiện, phản ánh qui luật
cung cầu và qui lụât giá trị. Nhu cầu này bắt nguồn từ hai phía: người cần vốn và
người có vốn.
Trong cơ chế thị trường quan hệ tiền và vốn không phải là quan hệ phụ cho
mối quan hệ cung cầu hàng hoá, mà nó đã đang khẳng định vai trò là một quan hệ
cơ bản trong cơ chế thị trường. Quan hệ này tất yếu sẽ dẫn đến sự vận động của
vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Nhưng sự vận động của vón là rất phức tạp, để thoả
mãn nhu cầu này cần có tổ chức tài chính thích ứng với các công cụ thuận lợi nhất
để thực hiện quá trình vận động của vốn. Hai công cụ được sử dụng đó là: cổ
phiếu và trái phiếu. Thị trường vốn tạo ra môi trường thuận lợi để dung hoà các lợi
ích kinh tế nhằm hạn chế các rủi ro. Thị trường vốn là một yếu tố không thể thiếu
của nền kinh tế thị trường nó tồn tại khách quan và ra đời tự phát trong nền kinh tế
thị trường.
Người ta ví thị trường chứng khoán, như một trung tâm thu gom mọi nguồn
vốn tiết kiệm lớn nhỏ của từng bộ phận dân cư, như một nam châm cực mạnh thu
hút nguồn vốn to lớn từ nước ngoài, thu hút nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi từ các
doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, chính phủ, tạo thành một nguồn vốn khổng lồ
cho nền kinh tế quốc dân. Đồng thời nó tạo ra cho các doanh nghiệp có vốn để mở
rộng sản xuất kinh doanh và thu được lợi nhuận nhiều hơn, kích thích doanh
nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả bằng cách vừa sản xuất vừa mua bán chứng
khoán. TTCK giúp Nhà nước giải quyết các vấn đề cơ bản như ngân sách, hạ tầng
cơ sở, trực tiếp cải thiện đời sống của người tiêu dùng.
b. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sử dụng vốn
kinh doanh và có hiệu quả hơn.
Khả năng linh động tức thì của chứng phiếu là một yếu tố rất cần đối với
nhà đầu tư khi đầu tư vốn.


8


Thị trường chứng khoán giúp doanh nghiệp sử dụng vốn linh hoạt và tối
ưu. Khi một doanh nghiệp cần vốn để mở rộng qui mô doanh nghiệp có thể phát
hành các loại chứng khoán để huy động vốn. Phương thức này còn gọi là “vay vốn
qua phát hành”. Doanh nghiệp vay vốn của người có tiền tích luỹ. Những người
này mong muốn đầu tư tiền nhàn rỗi vào giá trị động sản. Doanh nghiệp phát hành
cổ phiếu hoặc trái phiếu để người dân ghi mua, phát hành cổ phiếu doanh nghiệp
tăng vốn tự có bằng cách góp vốn, cổ phiếu. Khi phát trái phiếu doanh nghiệp đã
tăng nguồn vốn vay dân.
Ngược lại khi doanh nghiệp chưa có cơ hội sản xuất kinh doanh, doanh
nghiệp có thể dự trữ chứng khoán như một tài sản kinh doanh.
Mặt khác TTCK còn giúp doanh nghiệp xâm nhập lẫn nhau thông qua việc
mua bán cổ phiếu việc sát nhập mở rộng hợp đồng kinh doanh của doanh nghiệp
đều được thực hiện thông qua TTCK.
Mặc dù các chứng khoán được mua bán trên thị trường như mua bán tài sản
doanh nghiệp, nhưng vốn khả dụng của nền kinh tế luôn được phát triển và duy trì.
Thậm chí khi một doanh nghiệp bị phá sản nó cũng không mất đi nó sẽ bám vào
tay một cổ đông khác và cổ đông này sẽ duy trì và phát triển các HDDN.
c. Công cụ đánh giá doanh nghiệp, dự đoán tương lai.
Thị trường chứng khoán biến động rất phức tạp và nhanh chóng. Để lựa
chọn phương án đầu tư thích hợp người ta phải có phương pháp xác định cho từng
tình hình cụ thể với tham vọng theo dõi sự biến động chung của giá cả của chứng
khoán người ta đã cố gắng tìm các biện pháp xác định khác nhau. Đó là lí do ra đời
chỉ số thị trường (market index) các chỉ số cung cấp thông tin về thị trường nói
chung.
Sự hình thành thị trường chứng khoán của một doanh nghiệp trên thị
trường chứng khoán đã bao hàm sự đánh giá thực trạng của doanh nghiệp đó.
Trong hiện tại và dự đoán trong tương lai. Thị trường cổ phiếu cao hay thấp biểu

9


hiện mức độ đầu tư tài chính. Trạng thái kinh tế của doanh nghiệp đặc biệt là mức
độ cổ tức mà các cổ đông được hưởng và giá thặng dư của cổ phiếu thể hiện ở khả
năng mang lại lợi tức và thu nhập cho doanh nghiệp cho cổ đông của mình.
Thuờng những doanh nghiệp làm ăn tốt, thì có khả năng trả lợi tức cổ phần cao và
chỉ có doanh nghiệp có quản lý tốt mới ăn lên làm ra. Tuy nhiên có những cổ phiếu
cổ tức khiêm tốn vẫn có giá trị thị trường cao. Vì đó là doanh nghiệp có nhiều triển
vọng trong tương lai.
Triển vọng tương lai của các doanh nghiệp cũng được thể hiện trực tiếp
trên trị giá cổ phiếu và sự diễn biến quá trình biến động thị giá cổ phiếu công ty.
Nhìn chung thị trường chứng khoán còn vốn vào các chức năng khác như
chức năng TTCK khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng nguồn vốn tiết
kiệm vào công cuộc đầu tư. TTCK là công cụ làm giảm áp lực lạm phát, TTCK
đảm bảo tính thanh khoản cho số tiền tiết kiệm đầu tư dài hạn TTCK tạo thói quen
đầu tư... nhưng ba chức năng trên là ba chức năng quan trọng đặc biệt, dù để ý ở
tầm vi mô hay vĩ mô.
3. Nguyên tắc hoạt động và điều kiện cho sự hình thành TTCK
a. Nguyên tắc hoạt động.
Sự hoạt động của TTCK là rất phức tạp, nhưng nhìn chung nó hoạt động
tuân theo các nguyên tắc sau:
+ Nguyên tắc trung gian thị trường chứng khoán hoạt động không phải trực
tiếp do những người muốn mua hay bán chứng khoán thực hiện mà do người môi
giới trung gian thực hiện. Đây là nguyên tắc trung gian cơ bản cho tổ chức và hoạt
động của thị trường chứng khoán.
Nguyên tắc trung gian nhằm bảo đảm các loại chứng khoán được giao dịch
là chứng khoán thực và thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, đều đặn, hợp
pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ lợi ích của người đầu tư. Trong đó có môi
giới trung gian và thương gia chứng khoán.

10


* Nguyên tắc đấu giá: mọi việc mua bán chứng khoán đều phải tuân thủ
theo nguyên tắc đấu giá. Vì vậy không phải bạn muốn mua là mua được ngay mà
nó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác. Hiện nay có ba hình thức đấu giá cơ bản.
+ Đấu giá trực tiếp: các nhà môi giới trực tiếp gặp nhau. Thông qua một
trung gian (chuyên gia chứng khoán tại quầy giao dịch trong sân).
+ Đấu giá gián tiếp: là hình thức các môi giới không trực tiếp gặp nhau.
+ Đấu giá tự động: là hình thức đấu giá qua hệ thống Computer nối mạng
giữa máy chủ và các cơ sở giao dịch với hệ máy và công ty chủ máy khoán thành
viên.
* Nguyên tắc công khai: là nguyên tắc mà tất cả các hoạt động trên thị
trường chứng khoán ra công chúng đều được công khai, như là các loại chứng
khoán trên thị trường chứng khoán, tình hình tài chính. Kết quả kinh doanh của các
công ty có chứng khoán đăng ký niêm yết trên thị trường, số lượng và giá cả từng
loại chứng khoán đã mua bán đều được thông báo công khai trên thị trường và trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
* Nguyên tắc thị trường.
Mọi hoạt động mua bán chứng khoán đã phát hành rộng rãi ra công chúng
phải được tập trung vào sở giao dịch chứng khoán để bảo đảm việc hình thành giá
cả được công bằng hợp lý.
Trên là bốn nguyên tắc cơ bản mà bất kì một cá nhân hoặc tổ chức khi tham
gia vào thị trường chứng khoán đều phải thực hiện.
b) Điều kiện cho sự hình thành TTCK
Không phải bất kì lúc nào ta muốn thành lập TTCK là có thể thành lập
được ngay. Mà muốn thành lập TTCK và hoạt động có hiệu quả thì phải đảm bảo
một số những điều kiện nhất định.

11



* Điều kiện về cổ phần hoá có nền kinh tế ổn định rồi vấn đề tạo nguồn
hàng cho thị trường. Gắn liền với lĩnh vực này là chương trình cổ phần hoá và việc
phát hành trái phiếu công ty cũng như trái phiếu chính phủ.
Để tạo môi trường cho cổ phần hoá chúng ta phải: xây dựng cơ sở dữ liệu
để phân loại các doanh nghiệp Nhà nước, trên cơ sở đó quản lý và áp dụng hình
thức cổ phần hoá cho từng loại hình. Xử lý vấn đề nợ tồn đọng, trên cơ sở nâng cao
tài sản có của doanh nghiệp tạo điều kiện cho quá trình cổ phần.
Xây dựng hệ thống kế toán và đánh giá giá trị doanh nghiệp.
* Điều kiện pháp lý: thị trường chứng khoán liên quan đến vấn đề sở hữu,
quan hệ vay mượn và quan hệ kinh tế giữa chủ thể và toàn bộ đời sống kinh tế xã
hội. Bởi vậy có rất nhiều văn bản pháp lý liên quan đến hoạt động của TTCK. Do
nhu cầu về vốn cao nên trong giai đoạn đầu TTCK hoạt động sẽ không có tổ chức
nếu không có hệ thống pháp lí điều chỉnh kịp thời. Vì vậy xây dựng hệ thống pháp
lý là điều kiện quan trọng tạo hành lang pháp lý cho TTCK phát triển là tiêu đề duy
trì lòng tin và bảo vệ các nhà đầu tư.
Có nhiều văn bản pháp lí được xây dựng.
+ Luật /pháp lệnh nghị định về CK và TTCK.
+ Luật /nghị định về lưu giữ CK.
+ Luật/ nghị định về Uỷ ban CK quốc gia.
+ Quy định về niêm yết, giao dịch, quĩ đầu tư...
Những văn bản gián tiếp tác động đến TTCK:
+ Luật dân sự
+ Luật thương mại.
+ Luật Thuế.
+ Luật doanh nghiệp.
12



+ Luật đầu tư.
* Điều kiện kĩ thuật và tổ chức.
Để giúp cho hoạt động trên thị trường diễn ra trôi chảy, hiệu quả cần xây
dựng một hệ thống giao dịch, hệ thống xử lý dữ liệu, hệ thống thông tin, hệ thống
thanh toán bù trừ, lưu giữ chứng khoán với mô hình và mức độ tự động hoá thích
hợp đáp ứng được khối lượng giao dịch ban đầu, mặt khác tính được xu hướng mở
rộng của thị trường và khả năng có thể nâng cấp trên cơ sở có sẵn. Bên cạnh xây
dựng cơ sở hạ tầng cho TTCK cần phát triển các tổ chức hoạt động trên thị trường.
+ Các công ty bảo hành phát hành CK.
+ Các công ty môi giới CK.
+ Các công ty giao dịch CK cho chính mình.
+ Các quĩ đầu tư.
+ tổ chức tư vấn.
+ Nhân viên giao dịch C/I.
Xây dựng hệ thống tiêu chuẩn kế toán quốc tế áp dụng thống nhất trong
toàn ngành. Đồng thời phát triển các công ty kiểm toán trong và ngoài nước đáp
ứng yêu cầu thẩm định cả hai phía các tổ chức CK các tổ chức KDCK.
* Điều kiện về con người.
Nhân tố con người đóng vị trí hết sức quan trọng đối với sự thành công của
TTCK. Vì đây là một ngành mới, rủi ro cao nên phải có đội ngũ cán bộ nhanh
nhậy, tinh thông nghiệp vụ và có tư cách. Vì vậy cần đào tạo cán bộ cho TTCK,
cần thực hiện trước khi thành lập TTCK khoảng ba năm các đối tượng cán bộ cần
đào tạo.
+ Cán bộ quản lý giám sát thị trường, công tác tại Ủy ban chứng khoán.

13


+ Cán bộ quản lý, điều hành tại sở giao dịch CK và tại các hệ thống phụ
trợ.

+ Nhân viên KDCK tại các công ty KDCK.
4. Ưu và nhược điểm của TTCK.
a. Những ưu điểm.
+ Thị trường chứng khoán khuyến khích dân chúng tiết kiệm và thu hút
mọi nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư. Nhờ TTCK mà đại đa số dân chúng đều có thể
tha gia được và công cuộc đầu tư ít ỏi của mình làm cho vốn đầu tư sẽ sinh lời và
lại làm cho kích thích ý thức tiết kiệm để đầu tư trong dân chúng.
+ Thị trường chứng khoán là phương tiện huy động vốn. Trước đây các đơn
vị kinh doanh phụ thuộc lớn vào ngân này để có vốn kinh doanh. Ngày nay các
đơn vị kinh doanh cũng như Nhà nước huy động vốn trực tiếp từ các nguồn tiết
kiệm bằng cách phát hành cổ phiếu hay trái phiếu.
+ Thị trường chứng khoán là công cụ giúp Nhà nước thực hiện chương
trình phát triển kinh tế xã hội về mặt kinh tế Nhà nước vay tiền của dân là thiết
thực và lành mạnh. Vì chính phủ không phải thông qua ngân hàng để phát hành
thêm tiền vào lưu thông. Tạo ra sức ép lạm phát thông qua TTCK việc phát hành
trái phiếu hết sức thuận lợi.
+ TTCK là công cụ kiểm soát thu hút vốn đầu tư nước ngoài. TTCK là
công cụ cho phép kiểm soát vốn ĐTNN tốt nhất vì nó hoạt động công khai.
+ TTCK lưu động hoá mọi nguồn vốn trong nước. Một khi việc đầu tư vào
doanh nghiệp là có lợi cho tầng lớp dân từ thì qua TTCK các khoản tiết kiệm sẵn
sàng từ bỏ bất động hoá, chấp nhận vào quá trình đầu tư.
+ Thị trường CK là điều kiện cho quá trình cổ phần hoá: cổ phần hoá là quá
trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang công ty cổ phần. Đòi hỏi phải có
TTCK, TTCK là cơ sở, là tiền đề vật chất cho quá trình cổ phần hoá đi đúng trật tự
pháp luật, phù hợp với tâm lý người đầu tư.
+ TTCK kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn: Nhờ TTCK
các doanh nghiệp mới có thể đem bán phát hành cổ phiếu; trái phiếu của họ mà ban
quản lý TTCK chỉ chấp nhận cổ phiếu, trái phiếu hợp lệ: như kinh doanh hợp pháp,
14



tài chính lành mạnh... dân chúng cũng mua cổ phiếu của công ty thành đạt. Vì vậy
sẽ kích thích doanh nghiệp hoạt động đàng hoàng hơn.
b. Những nhược điểm.
Như đã nêu trên TTCK có vai trò tích cực trong huy động vốn song nó chỉ
phát huy khi hoạt động tốt, đảm bảo lành mạnh cần thiết.
Nhưng bên cạnh đó TTCK có nhiều mặt tiêu cực cần tránh để hạn chế thấp
nhất những rủi ro tạo điều kiện cho nó phát huy hết vai trò của nó.
+ Yếu tố đầu cơ: yếu tố này làm ảnh hưởng dây truyền làm cho cổ phiếu có
thể tăng giá cao giả tạo, điều này có thể dẫn đến sự khan hiếm hay thừa thãi làm
cho giá cổ phiếu tăng giảm đột biến.
+ Mua bán nội gián: Đây là hiện tượng một cá nhân nào đó lợi dụng việc
làm thu được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ
phiếu của đơn vị đó nhằm thu lợi cho mình, gây ảnh hưởng giá cổ phiếu trên thị
trường đó.
+ Mua bán cổ phiếu ngoài TTCK luật về TTCK cũng đã hạn chế các nhà
môi giới mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán, vì nếu để việc này xảy ra
sẽ gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý không hề nào biết được việc chuyển
nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của đơn vị đó. Mọi sự mua bán ngoài có khả năng
tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác.
+ Phao tin đồn không chính xác, hay thông tin lệch lạc về một đơn vị kinh
tế.
+ Liên tục mua một loại cổ phiếu nào đó: với giá cao và bán giá thấp với
mục đích ảnh hưởng giá cổ phiếu để đầu tư.

15


PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở
VIỆT NAM


I/ Tính tất yếu của việc thành lập TTCK ở Việt Nam
1. Bối cảnh kinh tế Việt Nam và chủ trương đổi mới cơ chế quản lý theo cơ chế
thị trường
Trong mấy chục năm qua khi nền kinh tế của nước ta đang ở trong cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp nền kinh tế phát triển rất chậm, có thời gian rơi vào
khủng hoảng nghiêm trọng, cùng với nạn lạm phát phi mã, cơ cấu kinh tế mất cân
đối lớn và đặc biệt là những khó khăn to lớn trong đời sống của nhân dân.
Từ những yếu kém của cơ chế cũ đến năm 1986 Đảng và Nhà nước đã
chuyển sang cơ chế mới : cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Sau hơn
15 năm tồn tại và phát triển theo cơ chế này nền kinh tế đã có những biến đổi đáng
mừng và đem lại một số thành quả quan trọng bước đầu.
Theo cơ chế mới, các hình thức được đa dạng hoá, nền kinh tế trở thành nền
kinh tế hỗn hợp có nhiều thành phần: kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá
thể... Cùng với nó trong nông nghiệp cũng có nhiều thay đổi, ruộng đất giờ đây đã
trao cho các hộ gia đình sử dụng dài hạn. Nhờ đó mà lương thực thực phẩm không
những đủ tiêu dùng trong nước mà còn có để xuất khẩu. Cụ thể là từ năm 1989
nước ta bắt đầu xuất khẩu gạo và hiện nay đang đứng thứ 3 trên thế giới. Trong
công nghiệp và dịch vụ Nhà nước đã giao quyền tự chủ kinh doanh cho doanh
nghiệp và doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về hoạt động sản xuất kinh doanh và
kết quả kinh doanh của mình. Do đó đã làm giảm sự mất cân đối giữa cung và cầu
hàng hoá đồng thời Nhà nước thả nổi giá cho phép hình thành thị trường vàng và
ngoại tệ, xoá bỏ hệ thống bao cấp giá. Việc làm này đã khống chế và làm giảm lạm
phát từ đó đời sống nhân dân được cải thiện hơn. Đặc biệt mấy năm nay Nhà nước
16


đã đưa ra một loạt chính sách thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong đó có
việc khuyến khích thành lập các công ty liên doanh, đưa ra bộ luật mới về đầu tư
nước ngoài 12/1987. Ngoài ra còn ban hành các pháp lệnh về ngân hàng và luật về

các công ty TNHH và công ty cổ phần nhằm đẩy nhanh quá trình chuyển sang cơ
chế thị trường. Chính những thay đổi tích cực trên đã tạo nên một cơ sở để thành
lập nên thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Thực ra, chứng khoán đã xuất hiện từ lâu ở Việt Nam, đó là những công trái
dài hạn, những trái phiếu ... được phát hành và thường áp đặt cho công chúng mua
khi Nhà nước cần vốn để làm một việc lớn nào đó. Với lãi suất thấp giá trị đồng
tiền không được bảo đảm và biện pháp hành chính thiếu hấp dẫn nên kết quả của
chứng khoán không cao. Khi nền kinh tế có nhiều thành phần, khu vực kinh tế tư
nhân được mở rộng, luật công ty ra đời. Theo đó các công ty cổ phần được phát
hành cổ phiếu, trái phiếuvà chúng trở thành những mặt hàng của thị trường chứng
khoán. Nếu một TTCK được thành lập việc mua bán các mặt hàng trên sẽ dễ dàng
hơn và do đó việc thu hút vốn sẽ thuận tiện hơn.
Qua mấy năm đổi mới, nước ta đã đẩy lùi được lạm phát mà vẫn đạt được
mức tăng trưởng tương đối cao. GDP tăng bình quân trong 5 năm 1991- 1995 là
8,2%, đặc biệt năm 1995 đạt 9,5%. Lạm phát giảm từ 67,1 năm 1991 xuống 14,4%
năm 1994 và là 12,7% năm 1995. Với một đất nước kém phát triển như nước ta,
việc phát triển kinh tế trong hoàn cảnh lạm phát cao và đang trong thời kì quá độ
như lúc này là rất khó khăn. Sự tăng trưởng phát triển đồng nghĩa với quá trình
CNH- HĐH đất nước. Vì vậy nhu cầu về vốn ngày càng tăng lên và cần có tín
dụng trung và dài hạn do các chế định đặc biệt cung cấp. TTCK là một trong các
chế định ấy. TTCK có tổ chức sẽ đẩy nhanh việc tập trung vốn để đẩy mạnh CNH
đất nước.
2) Môi trường tăng trưởng kinh tế và nhu cầu đòi hỏi thành lập TTCK
a- Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển kinh tế
17


Ngày nay phát triển kinh tế đã trở thành một thách thức thường xuyên đối
với một quốc gia, một dân tộc. Phát triển nhanh hay chậm trong điều kiện bùng nổ
dân số không chỉ đem lại sự giàu có thịnh vượng hay nghèo nàn lạc hậu mà còn

củng cố, nâng cao hoặc làm xói mòn, hạ thấp vị trí và vai trò của một nước trong
cộng đồng quốc tế. Quy luật của phát triển là: các nguồn tiết kiệm, tích luỹ trong
xã hội phải được huy động, tập trung hầu hết vào lĩnh vực đầu tư nhanh, nhiều, đều
đặn thì nền kinh tế đất nước sẽ phát triển với tốc độ cao. Bắt đầu từ tiết kiệm
chuyển sang đầu tư tạo nên sự phát triển rồi trở lại tiết kiệm được nhiều hơn,
chuyển sang đầu tư lớn hơn tạo nên tốc độ phát triển cao hơn...
b- Tiết kiệm- nguồn gốc của đầu tư
Một nền kinh tế chỉ có thể phát triển nhanh khi có đủ vốn đầu tư và tốc độ
tăng của lượng vốn đầu tư hăng năm lớn gấp ba, bốn lần tốc độ tăng của tổng sản
phẩm quốc dân(GDP). Tiết kiệm là nguồn gốc sản sinh ra đầu tư. Quy mô vốn đầu
tư lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào hai nhân tố: qui mô tiết kiệm lớn hay nhỏ và khả
năng huy động tập trung các nguồn tiết kiệm chuyển giao vào đầu tư cao hay thấp.
Nhưng qui mô của đầu tư lại phụ thuộc vào qui mô và hiệu số giữa thu nhập và chi
tiêu thì qui mô của thu nhập tăng nhanh hơn chi tiêu thì qui mô tiết kiệm tăng và
ngược lại qui mô tiết kiệm giảm. Điều này thể hiện rõ trong kinh tế vĩ mô qua công
thức :
S = Yd - C
Trong đó : S là qui mô tiết kiệm
Yd là thu nhập thoả dụng
C là qui mô tiêu dùng
Trên thế giới hầu hết các nước đều xem tiết kiệm là nguồn đầu tư chính và
tiết kiệm là một quốc sách. Với việc làm này Nhật Bản đã đạt được thành công to
lớn. Mỗi năm nhân dân Nhật Bản tiết kiệm 20% thu nhập của mình dùng để đầu tư
và gần 50 sau đại chiến thế giới thứ hai Nhật đã trở thành nước công nghiệp hiện
18


đại nhất nhì thế giới. Nguồn tiết kiệm của cả nước gọi là tổng tiết kiệm và nó bao
gồm:
- Nguồn tiết kiệm trong dân cư

- Nguồn tiết kiệm trong các doanh nghiệp
- Nguồn tiết kiệm của Chính Phủ
Nhưng trong ba nguồn này thì nguồn tiết kiệm trong dân cư là lớn nhất. Nó
là nguồn vốn cơ bản để phát triển đầu tư tạo lợi nhuận. Có đủ vốn đầu tư và sử
dụng nó có hiệu quả sẽ dẫn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Lãng phí vốn đầu tư
là loại lãng phí lớn nhất của một nền kinh tế, là hoạt động làm xói mòn hiệu quả
của tiết kiệm, làm hạn chế một phần tốc độ tăng trưởng kinh tế.
c- Vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư ngoài nước
Tổng nguồn vốn đầu tư do hai nguồn cung ứng là nguồn vốn trong nước và
nguồn vốn ngoài nước .
Nếu sử dụng nguồn vốn trong nước thì sẽ tiết kiệm được chi phí đầu tư kiềm
chế lạm phát, không bị tác đông bởi sự biến động của thị trường vốn quốc tế,
không phải trả lợi tức bằng ngoại tệ, không bị người nước ngoài bóc lột và bị
chuyển lợi nhuận bằng ngoại tệ về nước họ; toàn bộ tài sản tăng lên đều của nước
mình. Tuy nhiên, nguồn vốn ngoài nước có tác dụng nhanh chóng trong việc thúc
đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế .
3. Những thuận lợi và khó khăn của TTCK Việt Nam
a. Những thuận lợi
Năm 1986 đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối đổi mới của Chính phủ
nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước. Cuộc cải cách đã và đang kéo theo hàng loạt những thay đổi
tích cực tạo nên tiền đề để hình thành một thị trường tài chính ở Việt Nam.
19


Điều hết sức quan trọng là Nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hoá các hình
thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép giải phóng mọi năng lực
sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả các năng lực cho công cuộc
phát triển đất nước.
Những thành tựu kinh tế đáng khích lệ trong mấy năm qua khá khả quan, lạm

phát được giảm xuống còn 17,2% năm 1992 và 5,2% năm 1993, ổn định kinh tế đi
đôi với tăng trưởng, đầu tư nước ngoài lên tới gần 15 tỷ đô la... thì ý tưởng hình
thành một thị trường chứng khoán ở Việt Nam là có thể khả thi trong một tương lai
gần .
Trong lĩnh vực phân phối lưu thông, một thị trường hàng hoá thống nhất trong
phạm vi cả nước đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chính sách một giá và nới
lỏng kiểm soát hối đoái đã tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận lợi giữa các
miền trong cả nước. Lãi suất tín dụng và tiết kiệm đã được ấn định trên cơ sở
tương quan cung cầu vốn trên thị trường và có tác dụng chống lạm phát. Quy luật
cung cầu và quy luật giá trị đang được phát huy tác dụng vốn của nó .
Tiến trình cải cách đã cho ra đời hàng loạt các tổ chức tín dụng. Ngân hàng cổ
phần, công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng bên cạnh hệ thống ngân hàng quốc
doanh đang ngày càng được hoàn thiện, cùng với sự có mặt của các ngân hàng liên
doanh, ngân hàng ngoài nước trên lãnh thổ. Yếu tố này là hết sức quan trọng trong
việc hình thành thị trường tài chính ở Việt Nam.
Nền kinh tế đã thay đổi sắc thái, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển
khá nhanh. Kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị. Ở
nông thôn, các hộ nông dân đã được giao ruộng đất để sử dụng lâu dài và có quyền
chuyển nhượng. Chính sách này đã tạo cơ sở vững chắc và động lực mới cho kinh
tế nông thôn. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh trong lĩnh vực và có xu hướng phát
triển rộng trong các ngành sản xuất. Số doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút
vốn của nhiều hình thức sở hữu ở trong nước và nước ngoài đã xuất hiện ngày
20


càng nhiều. Sự ra đời của các tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu do một số công ty,
doanh nghiệp và Nhà nước phát hành là những dấu hiệu đầu tiên manh nha cho sự
xuất hiện của các công cụ tài chính trên thị trường chứng khoán.
Đất nước đã bước đầu chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh
nhằm tạo cơ sở cần thiết cho các doanh nghiệp, các công ty trong quá trình tham

gia thị trường vốn tại Việt Nam. Đây là một điều kiện hết sức quan trọng, là một
trong những yếu tố cơ bản tạo tiền đề thành công cho thị trường chứng khoán .
Chúng ta đã có luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân và Luật đầu tư nước
ngoài đã được bổ sung, hoàn thiện, bước đầu đã có sức hấp dẫn và tạo môi trường
pháp lý nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài với số lượng
ngày càng lớn. Cùng với chính sách mở cửa của chính phủ, hoạt động kinh tế đối
ngoại của đất nước có những thành quả đáng kể. Một hệ thống kinh tế mở hoà
nhập với thế giới bên ngoài đang là một yếu tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Nền kinh tế thị trường đang thay đổi dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng
trong việc sử dụng vốn tích luỹ của mình.
Là nước có nền kinh tế phát triển sau nên có thuận lợi là tiếp thu được khoa học
tiên tiến của thế giới, có thời cơ và điều kiện để rút ra kinh nghiệm bổ sung những
khiếm khuyết của mô hình thị trường chứng khoán các nước.
Những điều kiện thuận lợi trên đây là những tiền đề để có thể chuẩn bị ra đời
một thị trường chứng khoán ở nước ta. Chính vì vậy, từ năm 1990 trong pháp lệnh
ngân hàng (điều 32 và điều 49) Chính phủ đã cho phép ngân hàng phối hợp với Bộ
Tài chính tổ chức và thực hiện một số nghiệp vụ về thị trường chứng khoán. Tháng
8/92 Chính phủ ra văn bản số 4396-KTĐN chỉ rõ “Để chuẩn bị việc cho ra đời thị
trường chứng khoán ở Việt Nam mà hiện nay đã xuất hiện một số tiền đề, các nội
dung cần thiết từ vấn đề pháp quy, tổ chức bộ máy điều hành, địa điểm triển khai
và các bước triển khai “ .
b. Những khó khăn
21


Nền kinh tế chưa thật ổn định, hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích luỹ
đầu tư còn nhỏ. Năng suất lao động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm còn kém
sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp. Trình độ quản lý yếu kém, nhiều sơ hở,
chưa đẩy lùi được nạn tham nhũng, buôn lậu, kinh doanh gian dối.
Về môi trường pháp lý, hệ thống pháp luật của chúng ta những năm nay tuy đã

được củng cố, bổ sung nhưng thực sự đang còn rất yếu, chưa đồng bộ và kém hiệu
lực .
Đặc biệt chúng ta chưa có những bộ luật liên quan đến sự ra đời và hoạt động
của thị trường chứng khoán như: luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư trong
nước, luật chứng khoán và một số bộ luật đã có nhưng chưa hoàn chỉnh cần được
sửa đổi, bổ sung. Nghiêm trọng hơn nữa là việc chấp hành những luật đã có không
nghiêm minh, nên đã kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực làm giảm sút lòng tin.
Đây là một khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dẫn đến sự thành công hay
thất bại của thị trường chứng khoán.
Quá trình sắp xếp, chấn chỉnh lại khu vực kinh tế quốc doanh còn chậm, hiệu
quả thấp. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới được đổi mới bước đầu, chưa
phát huy được năng lực sản xuất tiềm tàng vốn có của nó .
Quá trình tư nhân hoá (cổ phần hoá doanh nghiệp) là một cuộc đổi mới về chiều
sâu trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường nhưng triển khai rất chậm và
hiệu quả rất thấp do thiếu vốn trong nước và sự không rõ ràng trong cơ cấu sở hữu.
Đây là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc hình thành và hoạt động của thị
trường vốn bởi quá trình tư nhân hoá sẽ cho ra đời những doanh nghiệp, công ty có
đủ điều kiện và tư cách tham gia trong thị trường chứng khoán.
Một yếu tố quan trọng để thành công trong thị trường chứng khoán phải kể đến
là lòng tin của dân chúng. Điều này ở đất nước chúng ta còn hết sức khó khăn bởi
dân chúng chưa quen với hoạt động kinh tế thị trường và còn bị ám ảnh bởi dư âm
của sự đổ vỡ của các trung tâm tín dụng trước đây và sự thiếu ổn định của nền kinh
22


tế đất nước. Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý của chúng ta còn thiếu những
kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán.
Chúng ta chưa có một hệ thống kế toán hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên
cạnh đó công tác kiểm toán đối với chúng ta còn mới mẻ, số lượng các công ty
kiểm toán còn ít. Điều đó gây khó khăn cho việc đánh giá tình hình tài chính của

các doanh nghiệp.
4. Tình hình hoạt động TTCK ở Việt Nam hiện nay.
TTCK đã ra đời từ lâu trên thế giới nhưng ở Việt Nam đây vẫn còn là một khái
niệm khá mới mẻ. Tuy nhiên để Việt nam có thể hoà vào cùng với sự phát triển của
thế giới và tạo đà thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển chúng ta phải cố gắng
để xây dựng nên một TTCK. Đây là một công việc rất khó khăn đòi hỏi sự cố
gắng, quyết tâm của nhiều ban ngành cũng như của các cấp lãnh đạo. Sau ba tháng
ráo ríêt chuẩn bị, một sự kiện đáng ghi nhớ và có ý nghĩa trong đời sống kinh tế
chính trị của nước ta đó là việc khai trương TTCK đầu tiên của nước ta ngày 20/ 7/
2000.
a) Về các doanh nghiệp tham gia vào TTCK
Tại thời điểm thành lập, nước ta có 600 công ty cổ phần, trong đó có 60
công ty đủ điều kiện niêm yết trên TTCK nhưng chỉ có 5 công ty tham gia niêm
yết. Hiện nay đã có sự biến đổi nhưng chưa đáng kể đã có tới 660 công ty cổ phần
trong đó có 80 công ty có đủ tiêu chuẩn tham gia niêm yết nhưng số lượng các
công ty tham gia niêm yết vẫn chỉ dừng lại ở con số 5 gồm : Hpaco, REE, SAM,
Lafooco và TMS. Với cầu cổ phiếu từ lúc đầu và sau khi thành lập tăng nhanh
nhưng số công ty tham gia niêm yết ít nên hàng hoá trên TTCK thiếu rất nhiều,
cung không đáp ứng đủ cầu. Để giúp cho TTCK hoạt động sôi động và có hiệu
quả, Nhà nước đã có những chính sách ưu đãi về thuế, phí... nhằm kích thích sự
tham gia niêm yết của các công ty cổ phần. Tuy nhiên, cho đến nay những chính

23


sách ấy vẫn chưa có hiệu quả, thể hiện ở chỗ số lượng các công ty tham gia niêm
yết vẫn chưa tăng thêm. Vậy vì sao các công ty chưa tham gia niêm yết?
Một thực tế cho thấy qua khảo sát có tới 62% các công ty chưa có ý định hoặc
chưa đủ điều kiện tham gia trên TTCK. Nguyên nhân chủ yếu là do các công ty
chưa nhận thức được dầy đủ lợi ích của việc niêm yết chứng khoán trong hoạt

động kinh doanh của các doanh nghiệp, thiếu hụt các kiến thức cơ bản về các
nghiệp vụ tiền tệ , ngân hàng và chứng khoán. Trong 100 doanh nghiệp được khảo
sát có nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực không liên quan đến hoạt động
kinh doanh chứng khoán trên thị trường. Nhiều khả năng có thể họ chỉ tham gia
dưới hình thức phát hành cổ phiếu chứ không thành lập công ty chứng khoán. Khi
được hỏi về mục đích tham gia TTCK thì 38 doanh nghiệp đều có chung mục đích
là nhằm đa dạng hoá hoạt động của công ty, tạo chỗ đứng trên TTCK, sử dụng tốt
nguồn vốn và kinh doanh chứng khoán để kiếm lời. Một số rất ít các công ty có
mục tiêu thành lập quỹ đầu tư chứng khoán và có công ty tham gia để thực hiện
nhiệm vụ chính trị và thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các DNNN trên địa bàn tỉnh
như công ty XNK tỉnh Bình Dương. 35 doanh nghiệp phản ánh những vướng mắc
kiến thức về TTCK, chỉ có 5 trong số 38 công ty đã từng hoạt động trong lĩnh vực
tài chính, 10 công ty có đội ngũ cán bộ am hiểu về tài chính, tiền tệ, ngân hàng và
7 doanh nghiệp có đội ngũ nhân viên được đào tạo về lĩnh vực tài chính, tiền tệ,
ngân hàng. Còn về dự kiến mô hình công ty chứng khoán và các hoạt động kinh
doanh chứng khoán thì cả 38 doanh nghiệp đều băn khoăn không biết thành lập
theo mô hình nào cho phù hợp. Sau khi được các điều tra viên giải thích thì hầu hết
đều muốn thành lập theo mô hình công ty cổ phần vì khả năng huy động vốn của
loại hình công ty này cao, phù hợp với tính năng động của cơ chế thị trường. Tỷ lệ
cụ thể là:
+ Công ty cổ phần: 28 DN
+ Công ty TNHH: 8 DN
24


+ Công ty liên doanh: 2 DN
+ Công ty trực thuộc : không có
+ Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán: không có
Trong năm hình thức hoạt động hầu hết các doanh nghiệp xin hoạt động môi
giới sau đó tới tư vấn đầu tư và quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, hai nhiệm

vụ còn lại là tư doanh và bảo lãnh phát hành thì rất ít các doanh nghiệp xin hoạt
động vì vốn pháp định của những hoạt động này thì khá cao so với khả năng tài
chính của doanh nghiệp. Tỷ lệ hoạt động cụ thể như sau:
+ Môi giới : 36 DN
+ Tư doanh: 13 DN
+ Bảo lãnh phát hành : 4 DN
+ Tư vấn đầu tư : 35 DN
+ Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán : 19 DN
Như vậy cần có biện pháp điều chỉnh để tỷ lệ này được cân đối, giúp cho hoạt động
kinh doanh trên TTCK được đầy đủ và trọn vẹn hơn.
b. Về chủng loại hàng hoá trên thị trường
Phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/ 7/ 2000 chỉ có 2 loại cổ phiếu được niêm
yết trên thị trường giao dịch chứng khoán thành phố HCM là cổ phiếu của công ty
cơ điện lạnh REE và Công ty cáp và vật liệu viễn thông SACOM. Đến phiên giao
dịch thứ 4 có thêm 3 loại chứng khoán nữa là cổ phiếu của công ty cổ phần giấy Hải
Phòng (HAPACO), công ty cổ phần kho vận giao nhận ngoại thương
(TRANSIMEX) và trái phiếu Chính phủ CP1- 0200 và tiếp đến phiên giao dịch thứ
12 lại đưa tiếp trái phiếu Chính phủ CP1- 0100 vào giao dịch và đến phiên thứ 34
thì có CP1A- 0100 nhưng không có người mua và người bán loại trái phiếu này.
Đến tháng 11, kể cả trái phiếu ngân hàng đầu tư và phát triển đã được cấp giấy phép
25


×