CHUYÊN ĐỀ MÔN NGỮ VĂN
TÊN CHUYÊN ĐỀ:NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI THOẠI
NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH
TRONG TIẾT HỌC MÔN NGỮ VĂN Ở TRƯỜNG THCS.
Tháng 8 năm 2018.
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương1
MỤC LỤC :
TÊN CHUYÊN ĐỀ : NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI THOẠI NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG TIẾT HỌC MÔN NGỮ VĂN
Ở TRƯỜNG THCS.
I . LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II . CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA CHUYÊN ĐỀ :
1/ Cơ sở lí luận
2/ Cơ sở thực tiễn
III. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ:
1/Về mục đích cụ thể của việc nâng caohiệu quả của hoạt động đối thoại với việc học tập của học
sinh
2/ Nâng cao hiệu quả của hoạt động đối thoại nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh
trong tiết học bộ môn Ngữ văn, đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực ở học sinh và yêu cầu đổi mới
kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực và năng lực đời sống
2.1 Về nội dung của hoạt động đối thoại
2.2Về cách nêu vấn đề cho hoạt động đối thoại
2.3Về hiệu quả qua hoạt động đối thoại
2.4Rèn kĩ năng đối thoại cho học sinh để đáp ứng với yêu cầu nâng cao hiệu quả năng lực học tập,
năng lực đời sống của học sinh, nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong tiết học Ngữ
văn.
2.5 Việc xây dựng tình huống đối thoại cũng góp phần vào việc nâng cao chất lượng của hoạt động
đối thoại
3/ Một số điểm lưu ý :
3.1Giáo viên cần tự rèn nâng caonăng lực tổ chức hoạt động đối thoại
3.2Tổ chức hoạt động đối thoại cần chú ý đến đặc trưng bộ môn và đặc trưng của phân môn
3.3Tổ chức hoạt động đối thoại trong giờ học cần chú ý chọn lựa thời điểm hợp lí
3.4Cần có sựkhuyến khích phù hợp khi học sinhtham gia hoạt động đối thoại
IV. KẾT LUẬN
* Tài liệu tham khảo :
. Giáo viên viết chuyên đề
Chuyên đềNgữ văn 2018
: Tạ Thị Thanh Phương
Người viết Tạ Thị Thanh Phương2
TÊN CHUYÊN ĐỀ : NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI THOẠI NHẰM PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC HỌC TẬP CỦA HỌC SINH TRONG TIẾT HỌC
BỘ MÔN NGỮ VĂNỞ TRƯỜNG THCS.
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Ở trường THCS,trong tiết học bộ môn Ngữ Văn nói riêng và các bộ môn khác nói chung, hiệu quả tiết dạy
và sự hứng thú của học sinh là thước đo của chất lượng dạy học. Với mục đích ấy, chuyên đề dựa trên
những cơ sở sau:
- Trước hết là xuất phát từ yêu cầu thực hiện nhiệm vụđổi mới phương pháp dạy học: phát huy tính tích
cực của học sinh trong học tập là một trong những yêu cầu của đổi mới phương pháp dạy học nói
chung( trong đó có sự đổi mới các hoạt động dạy học)
- Sau nữa là xuất phát từ thực tế dạy học hiện nay:giáo viên thường chú trọng vào hình thức tổ chức hoạt
động nhóm để thực hiên việc đổi mới phương pháp dạy học. Trong khi đó, hoạt động dạy học phát huy
năng lực, phát huy tính tích cực của học sinh còn được thể hiện qua rất nhiều các hoạt động dạy học khác
trong một tiết học. Trong đó, có hoạt động đối thoại. Đây là hoạt động thường xuyên của giáo viên và học
sinh trong tiết học cũng góp phần hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động học tập của học sinh nhưng ít được giáo
viên lưu tâm và dành cho hoạt động đối thoại một vị trí tương xứng với tầm quan trọng của nó.
Vì thế, chuyên đề Nâng cao hiệu quả hoạt động đối thoại nhằm phát huy tính tích cực học tập của học
sinh trong tiết học bộ môn Ngữ văn ở trường THCSlànhằm để tiếp tục thực hiện việc nâng cao chất
lượng dạy học môn Ngữ văn.
Đây là một giải pháp cụ thể góp phần quan trọng đểthực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học hiệu
quả.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHUYÊN ĐỀ:
1/ Cơ sở lí luận :
*Về đối thoại, theo Từ điển tiếng Việt 1994-NXB Khoa học xã hội có nghĩa lànói chuyện qua lại giữa
hai hay nhiều người với nhau.
*Về việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ở trường trung học : Về đổi mới PPDH nhằm chú
trọng phát triển năng lực của học sinh, một trong những định hướng tổng quát về đổi mới PPDH theo định
hướng phát triển năng lực là phải phát huy tính tích cực tự giác, chủ động của người học , hình thành và
phát triển năng lực tự học ( sử dụng SGK, nghe, ghi chép, tìm kiểm thông tin … ) trên cơ sở trau dồi
phẩm chất độc lập, sáng tạo của tư duy. (Tài liệu tham khảo số 1, trang 27)
*Quan niệm mới về tổ chức các hoạt động học tập (“Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn
Ngữ Văn” –Nguyễn Thúy Hồng – Nguyễn Quang Ninh–NXB Giáo Dục năm 2008)
- Nét nổi bật về đổi mới trong PPDH Ngữ Văn là hoạt động của học sinh chiếm tỷ trọng cao hơn hoạt
động của giáo viên về thời gian và cường độ làm việc. Giáo viên giúp học sinh tích cực, chủ động suy
nghĩ và sáng tạo tham gia các hoạt động học tập. Ngoài ra, giáo viên còn giúp học sinh mạnh dạn trình
bày bảo vệ ý kiến, quan điểm cá nhân trước các vấn đề đặt ra trong văn bản, tác phẩm và biết tự đánh giá
ý kiến, quan điểm của cá nhân, của người khác, nhóm khác.
*Về phương pháp dạy học Ngữ văn theo hướng phát triển năng lực ( “ Dạy học Ngữ văn theo yêu cầu
phát triển năng lực.” – Đỗ Ngọc Thống – Tạp chí văn học và tuổi trẻ số tháng 1.2018, trang 25)
Do yêu cầu dạy cách học và phát triển năng lực giao tiếp giáo viên cần chú ý hình thành cho học sinh khả
năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Nhiệm vụ của GV là tổ chức các hoạt động học tập cho học
sinh; hướng dẫn, hỗ trợ học sinh để các em từng bước hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực mà
chương trình giáo dục mong đợi. Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu khám phá để tự mình bổ sung,
điều chỉnh, hoàn thiện những hiểu biết đã có về vấn đề đang học. Cần khuyến khích học sinh trao đổi và
tranh luận, đặt câu hỏi cho chính mình và cho người khác khi đọc, viết, nói và nghe.
2/ Cơ sở thực tiễn:
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương3
.Từ thực tế dạy học, qua các tiết dự giờ, giáo viên thường đầu tư nhiều công sức cho hoạt động nhóm, các
hoạt động trò chơi phục vụ cho tiết dạy rất hiệu quả nhưng chưa chú ý nhiều đến hoạt động đối thoại với
học sinh.
.Và cũng từ thực tế việc học tập của học sinhtrong các tiết học, chỉ tập trung ở một nhóm học sinh có sự
mạnh dạn trao đổi với các học sinh trong lớp và giáo viên trong hoạt động nhóm hay ở các hoạt động lên
lớp khác.Còn đa số học sinh thường rất ngại nói, thiếu tự tin khi phát biểu trước lớp, do sợ nói sai, sợ các
bạn cười vì sự thiếu sót; phần lớn,học sinhcòn rụt rè khi tranh luận hay trao đổi về suy nghĩ của riêng cá
nhân trước tập thể,kĩ năng nói của học sinh hiện nay còn yếu; nhất là học sinh khối lớp 8 và 9 (do sự thay
đổi về tâm lí lứa tuổi). Vậy nên kĩ năng đối thoại của học sinh THCS trong học tập còn nhiều hạn chế.
Đây là những trở ngại có ảnh hưởng nhất định trong đổi mới phương pháp dạy học môn Ngữ văn.
3/Nêu vấn đề :
Xuất phát từ các cơ sở lí luận và thực tiễn trên, nâng cao hiệu quả hoạt động đối thoại nhằm phát huy
năng lực học tập bộ môn, bồi dưỡng về năng lực đời sống cho học sinhlà việc làm cần thiết. H oạt động
đối thoại cũng góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập bộ môn Ngữ văn, giúp cho việc phát huy
năng lực chung ( năng lực nghe, nói, năng lực sử dụng ngôn ngữ, năng lực đọc – hiểu, năng lực vận dụng
kiến thức, năng lực sáng tạo…) và các năng lực chuyên biệt của môn Ngữ văn ( cảm thụ văn học, tiếp
nhận văn bản, tạo lập văn bản).
III. NỘI DUNG CỦA CHUYÊN ĐỀ :
Trong tiết dạy các bộ môn khác nói chung và tiết dạy bộ môn Ngữ văn nói riêng theo tinh thần đổi mới
phương pháp dạy học cần chú trọng dạy cách học. Để thực hiện việc ấy thì chú trọng nâng cao hiệu quả
đổi mới cách tổ chức các hoạt động dạy học trong tiết dạy Ngữ văn là việc làm thiết thực hiện nay.
Ở đây, chuyên đề chỉ đề cập đến mộthoạt động thường xuyên trong dạy học là hoạt động đối thoại.
1/Về mục đíchcụ thể của việc nâng caohiệu quả của hoạt động đối thoại với việc học tập của học
sinh:
*Để thực hiện việc nâng cao hiệu quả hoạt động đối thoại nhằm phát huy năng lực học tập, năng lực đời
sống của học sinh, phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong tiết học bộ môn Ngữ văn ở trường
THCS bắt đầu từ điều quan trọng đầu tiên đối với giáo viên làsự nhìn nhậnvề hoạt động đối thoại trong
việc học tập của học sinh.
Trước hết, hoạt động đối thoại được sử dụng trong tiết học bộ môn Ngữ văn là nhằm mục đích xây dựng
“giờ học đối thoại”vàở chuyên đề này,đối thoại được xem xét theo góc nhìn là một hoạt độngdạy học không phải là một phương pháp hay một thủ thuật dạy học
-Để thực hiện giờ học đối thoại có hiệu quả, giáo viên cần biết tổ chức học sinh tham gia vào cuộc đối
thoại theo định hướng của giáo viên để thực hiện yêu cầu , mục tiêu của một tiết học cụ thể.
Hoạt động đối thoại, trong các tiết dạy học nói chung và tiết dạy bộ môn Ngữ văn nói riêng thực hiện qua
hai hình thức cơ bản là hoạt động đối thoại giữa học sinh và học sinh và hoạt động đối thoại giữa giáo
viên và học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của người chủ trì là giáo viên. Đây là hoạt động chiếm lượng
thời gian lớn trong tiết dạy, bảo đảm cho việc thông hiểu giữa học sinh và giáo viên khi giáo viên thực
hiện yêu cầu lên lớp - truyền thụ, trang bị kiến thức và hướng dẫn kĩ năng thực hành kiến thức cho học
sinh, bảo đảm cho việc tiếp nhận và vận dụng, thực hành kiến thức ở học sinh .
Trước hết, việc làm quen và có thói quen đối thoại chỉ là bước đầu, còn để nâng cao hoạt động đối thoại
trong tiết học bộ môn Ngữ văn, giáo viên cần tập trung vào việc rèn kĩ năng đối thoại và rèn năng lực
giao tiếp, học sinh biết tham gia vào hoạt động đối thoại một cách hợp lí, tùy theo năng lực cá nhân của
mỗi học sinh và cuối cùng là có ý thức tham gia vào đối thoại trong tiết học và có kỹ năng đối thoại
thành thục như là một nhu cầu học tập.
Hoạt động đối thoại cần thiết với học sinh để duy trì và làm phong phú thêm cho hoạt động học tập của
học sinh. Và giáo viên là người quyết địnhchất lượng đối thoại với vai trò là người tổ chức, người dẫn dắt,
người duy trì, phát triển và cũng chính là người kết thúc đối thoại theo một mục đích nhất định.
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương4
2/ Nâng cao hiệu quả của hoạt động đối thoại nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh
trong tiết học bộ môn Ngữ văn đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực ở học sinh và yêu cầu đổi mới
kiểm tra đánh giá theo định hướng phát triển năng lực và năng lực đời sống :
Giáo viên cần tổ chức được hoạt động đối thoại có chất lượng, phục vụ hiệu quả cho nội dung dạy học
trong một tiết học; cụ thể như sau:
2.1 Về nội dung của hoạt động đối thoại :
Nội dung của hoạt động đối thoại rất đa dạng, phong phú: thường là vấn đề kiến thức bộ môn, rèn năng
lực bộ môn , có khi là hiểu biết về đời sống, có khi là kiến thức về kĩ năng diễn đạt, có khi là sự kết hợp
của các vấn đề trên, …. có khi đó là nội dung kiến thức trong một tiết học nhưng cũng có khi là kiến thức
tích hợp của chương hay của các khối lớp ….tùy vào mục đích của giáo viên và năng lực học tập của từng
học sinh hay nhóm học sinh.
Việc chọn vấn đề để tổ chức học sinh đối thoại có ý nghĩa góp phần quyết định cho hiệu quả chất lượng
hoạt động đối thoại. Không chỉ là dựa vào nội dung bài dạy, mục tiêu dạy học của mỗi bài , giáo viên cần
ưu tiên chọn vấn đề phù hợp với sự quan tâm của lứa tuổi mới lớn sẽ thu hút được sự quan tâm của học
sinh, các em sẽ chủ động hơn khi tham gia vào đối thoại để được bày tỏ quan điểm riêng, học sinh được
thể hiện cái tôi cá nhân hay ít nhất được bảo vệ ý kiến của bản thân trước một vấn đề; có khi đó là nội
dung có nhiều cách hiểu khác nhau để có định hướng đúng đắn về vấn đề của tiết học. Và với thực tế học
môn Ngữ văn của học sinh hiện nay- phần lớn chỉ dựa vào các loại sách giải - việc chọn nội dung cho
hoạt động đối thoại thu hút sự chú ý của học sinh, cho các em góc nhìn mới hay khác hay sâu hơn với
những gì học sinh đã tiếp nhận từ các sách tham khảo ấy, hay tránh cho học sinh lối nghĩ sáo mòn lại càng
có ý nghĩa quan trọng
Không chỉ dạy kiến thức về bài học, thông qua hoạt động đối thoại, giáo viên còn nhằm rèn năng lực
đời sống cho học sinh. Khi thực hiện nội dung này, giáo viên cần có sự lựa chọn vấn đề quan trọng nhất
của cuộc sống mà kiến thức bài học đặt ra có mối quan hệ mật thiết với xã hội hiện tại làm nội dung cho
hoạt động đối thoại. Nội dung đối thoại cần vừa phù hợp và vừa sức với sự tiếp nhận của học sinh và cần
đưa các nội dung kiến thức trong tiết học đến gần hơn với đời sống xã hội .
Mỗi giáo viên có điểm mạnh riêng, có sự chọn lựa riêng tâm đắc, phù hợp nhất với năng lực của bản
thân. Việc chọn lựa nội dung đối thoại giúp giáo viên phát huy tốt ưu điểm riêng của bản thân. Đây là
“khoảng trời tự do” cho những sáng tạo, có thể là điều tâm đắc của Gv. Vì thế đó sẽ là điều đặc biệt, sẽ là
những bài học cuộc sống khó quên với học sinh; có thể là những chuẩn mực để học sinh tự giáo dục
mình, có khi là việc cần làm để học tốt bộ môn…... Học sinh sẽ tự nhận ra sự cần thiết của các kiến thức
được học trên lớp một cách rõ nét.
Bằng cách này giáo viên thực hiện dạy học phát triển năng lực bộ môn và năng lực đời sống hiệu quả.
2.2 Về cách nêu vấn đề cho hoạt động đối thoại:
Để nêu vấn đề đối thoại, giáo viên sử dụng các dạng câu hỏi khác nhau để nêu vấn đề cần đối thoại
Giáo viên cần đặt được những vấn đề bám sát yêu cầu của tiết dạy, bài học cụ thể,có tình huống, và phù
hợp sự tiếp nhận của học sinh. Câu hỏi nêu vấn đề để thực hiện đối thoại cần phù hợp, vừa sức và phát
huy được trí tuệ và năng lực, các năng lực tổng hợp của học sinh. Điều này cũng ảnh hưởng quyết định
đến chất lượng của hoạt động đối thoại.
Do đặc điểm của hoạt động đối thoại, giáo viên rèn kĩ năng đối thoại cho học sinh cũng là lúc giáo viên
kết hợp rèn các năng lực khác liên quan trực tiếp đến hoạt động đối thoại như năng lực sử dụng ngôn ngữ,
năng lực nghe – hiểu (đọc – hiểu),năng lực vận dụng kiến thức… và các năng lực cảm thụ văn học, năng
lực tạo lập văn bản nói…. Giáo viêncần có thêm sự dẫn dắt, khơi gợi để học sinh có thể bộc lộ cảm xúc,
suy nghĩ, sự đánh giá hay sự nhận xét, phân tích của bản thân một cách tự nhiên và sâu sắc đối với vấn đề
giáo viên đặt ra qua tình huống.
Điều quan trọng nhất giúp cho việc tổ chức hoạt động đối thoại chất lượng là giáo viên có thể đan xen
câu hỏi gợi mở giúp học sinh xem xét vấn đề ở nhiều khía cạnh, nhiều góc nhìn khác nhau để đào sâu vấn
đề của bài học. Hoạt động đối thoại khi tổ chức trao đổi trực tiếp với giáo viên hay trong hoạt động nhóm,
giáo viên cần khai thác các ý kiến hay câu trả lời có nội dung trái chiều cần có sự tranh luận hay có nhiều
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương5
góc nhìn…. để tìm ra sự đúng đắn của vấn đề của tiết học. Cần tránh câu hỏi gượng ép hay áp đặt, giáo
viên cần phát huy vai trò làm người định hướng tốt thì hoạt động đối thoại mới thành công. Học sinh có
thể nói chưa đúng, nói chưa sâu hay chưa đúng hướng, giáo viên nên khuyến khích hay điều chỉnh cũng
bằng các câu hỏi nêu vấn đề khác. Việc làm này giúp học sinh từng bước có năng lực tư duy độc lập và
biết cách tư duy giải quyết vấn đề.
-Mặt khác, năng lực tiếp nhận vấn đề của mỗi nhóm học sinh sẽ khác nhau; và năng lực, sở thích, cá tính
của mỗi học sinh cũng khác nhau nên cách tiếp cận vấn đề đối thoại chắc chắn sẽ không giống nhau. Nếu
không phân hóa đối tượng, giáo viên khó có thể thành công trong hoạt động đối thoại. Và tùy vào năng
lực của từng lớp, từng học sinh mà mức độ đối thoại của giáo viên với học sinh sẽ rất khác nhau: bước
đầu là có thói quen→ có kỹ năng đối thoại, biết tham gia vào đối thoại→ cuối cùng là có kỹ năng thành
thục. Giáo viên là người quyết định ở mức độ nào và tăng dần ở những thời điểm nào là thích hợp trong
năm học, với từng đối tượng học sinh để phát huy được tính tích cực của học sinh trong tiết học Ngữ văn.
* Như vậy,để nâng cao chất lượng của hoạt động đối thoại thì cần nhận thấy được việc chọn nội dung đối
thoại và cách nêu vấn đề đối thoại có mối quan hệ chặt chẽ. Việc nêu vấn đề tốt sẽ làm rõ giá trị của nội
dung của hoạt động đối thoại,sẽ thu hút được sự chú ý của học sinh, đem lại sự hứng thú trong học tập với
bộ môn. Làm tốt điều này sẽ thúc đẩy nhu cầu học tập tích cực ở học sinh.
* Ví dụ : Giáo viên cần thể hiện sự dẫn dắt , thu hút sự chú ý của học sinh tổ chức học sinh tham gia vào
vấn đề đối thoại qua việc chọn nội dung và cách nêu vấn đề
.Vd1: Chương trình Ngữ văn lớp 9 - tiết 17, với bài dạy về tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam
Xương” – Nguyễn Dữ, giáo viên có thể chọn các nội dung đối thoại sau:
- Theo em, nguyên nhân nào dẫn đến cái chết thương tâm của nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm ?
- Liên hệ với cách kết thúc truyện cổ tích “ Vợ chàng Trương”, em hiểu như thế nào về ý nghĩa của cách
kết thúc truyện của tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ?
- Đoạn truyện viết thêm có giá trị sâu sắc về nội dung và nghệ thuật?Em hãy làm rõ điều ấy.
- Có thể khai thác thêm: Em có đồng tình với sự chọn lựa của nhân vật Vũ Nương trong truyện không
( chọn cái chết, từ chối trở lại dương gian)? Vì sao?
Sau khi gọi từ một đến hai học sinh nêu suy nghĩ, dựa vào câu trả lời của học sinh giáo viên hệ thống và
nêu vấn đề để học sinh đã có câu trả lời bảo vệ quan điểm của bản thân hay trình bày suy nghĩ mới hoặc
nêu thêm câu hỏi để các học sinh khác phản biện . Từ đó, giáo viên đúc kết kiến thức trọng tâm của tiết
dạy và dạy học sinh cách suy nghĩ, cách suy xét vấn đề trong tác phẩm.
Nếu tổ chức hoạt động nhóm, giáo viên tổ chức cho 2 nhóm trình bày kết quả và 2 nhóm khác phản biện .
Sau đó , giáo viên nêu vấn đề dựa trên kết quả của các nhóm, học sinh chọn câu trả lời đúng nhất cho đơn
vị kiến thức của tiết dạy
.Vd2:Chương trình Ngữ văn lớp 6, văn bản“Ếch ngồi đáy giếng” chọn các nội dung đối thoại khác nhau
như sau:
+Gv hướng dẫn khai thác nội dung:
-Theo em,vì sao chú ếch trong truyện lại có kết cuộc bất ngờ như thế?
- Nếu ở vào hoàn cảnh như của chú ếch trong truyện, em sẽ làm gì để không bị “giẫm bẹp”?
→ chính thái độ đối với hoàn cảnh sống là câu trả lời cho kết quả hay hậu quả .
+Từ nguyên nhân dẫn đến cái chết của con ếch trong truyện “Ếch ngồi đáy giếng”, em rút rabài học gì cho
bản thân?
-Em thấy ý kiến của bạn có đúng không ? Vì sao?
( Bài học :
.Khi thay đổi hoàn cảnh sống,cần tìm hiểu môi trường xung quanh để có sự thích nghi với điều kiện sống
mới.
.Cần khiêm tốn học hỏi, mọi nơi, mọi lúc;không nên có thái độ kiêu ngạo. )
2.3Về hiệu quả qua hoạt động đối thoại:
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương6
Qua hoạt động đối thoại, giáo viên thực hiện dạy học theo định hướng phát triển năng lực.Điều quan
trọng là qua hoạt động đối thoại, giáo viên chú trọng dạy cách học- nhất là năng lực tự học, dạy cách suy
nghĩ, cách phân tích đánh giá chính xác, đúng đắn trước các vấn đề học tập để từ đó học sinh có năng
lực giải quyết các vấn đề trong học tập và vấn đề của đời sống, đáp ứng với yêu cầu đổi mới kiểm tra
đánh giá theo định hướng năng lực đời sống.
Tùy vào mục đích thực hiện đối thoại, giáo viên truyền thụ kiến thức bài học hay giáo dục năng lực đời
sống, rèn năng lực giao tiếp, hay năng lực sử dụng ngôn ngữ cho học sinh... Bằng việc tổ chức giải quyết
một vấn đề của bài họchay liên quan đến bài học, thông qua hình thức đối thoại,giáo viên hướng dẫn cách
suy nghĩ,cách phân tích đánh giá chính xác, đúng đắn trước các vấn đề học tập bằng việc rèn năng lực vận
dụng kiến thức, sự hiểu biết của bản thân để giải quyết vấn đề. Đồng thời, giáo viên cần hướng dẫn học
sinh kĩ năng đối thoại hợp lí ( lượt lời, vai hội thoại,vận dụngcác phương châm hội thoại phù hợp như
phương châm lịch sự, phương châm cách thức……), kết hợp lưu ý khắc phục những lỗi sai thường mắc
phải của học sinh qua hội thoại, nếu cần thiết.
* Ví dụ 1:Chương trình Ngữ văn lớp 8 với bài dạy tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” – O Hen-ri hay tác
phẩm “ Cô bé bán diêm” – An-đéc-xen , khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu giá trị nội dung của văn bản,
giáo viên nêu câu hỏi tình huống: - Hãy nêu bức thông điệp mà nhà văn muốn thể hiện qua văn bản?
Nếu học sinh nêu không đúng , giáo viên nêu lại chi tiết truyện hay yêu cầu học sinh nêu lại chi tiết quan
trọng có thể hiện nội dung thông điệp , từ đó gợi ý bằng câu hỏi gợi sự tranh luận
+ Với tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” – O Hen – ri, giáo viên dẫn dắt như sau :
.Theo em, vì sao cụ Bơ-men lại vẽ bức tranh chiếc lá thường xuân trên tường ?
.Từ cái chết bất ngờ của cụ Bơ-men và sự hồi sinh bất ngờ của nhân vật Giôn – xi , em suy nghĩ gì về
những điều bất ngờ ấy ?
.Em có đồng ý với ý kiến của bạn không ? Vì sao?
.Vậy theo em, nội dung bức thông điệp nhà văn O Hen – ri muốn thể hiện qua văn bản là gì?
Sau khi hoàn chỉnh về giá trị của văn bản , giáo viên rèn năng lực giải quyết các vấn đề của đời sống với
một hay nhiều câu hỏi sau và chọn câu hỏi nào và mấy câu là tùy thuộc vào năng lực của mỗi lớp.
Một số câu hỏi năng lực đời sống tham khảo như sau:
. Em hiểu như thế nào về tình yêu thương trong cuộc sống giữa con người và con người?
( về giá trị ? những biểu hiện cụ thể ? )
.Theo em, đâu là thái độ đúng đắn cần có khi em muốn giúp đỡ một người khác đang trong hoàn cảnh
cần sự giúp đỡ? (bạn cùng lớp, cùng trường, hay người có hoàn cảnh éo le trong đời sống ngày thường…)
.Em hiểu như thế nào là sự hi sinh và vẻ đẹp của sự hi sinh trong cuộc sống?
+ Với tác phẩm “ Cô bé bán diêm” – An-đéc-xen dùng các câu hỏi sau:
.Ở phần cuối truyện, từ cái chết của em bé và thái độ hờ hững của mọi người trước cái chết thương tâm,
hai hình ảnh đối lập ấy cho em hiểu điều gì về thái độ của tác giả?
.Đối với những người có hoàn cảnh không may mắn, đáng thương ở xung quanh, em cần cư xử như thế
nào cho đúng dắn ? Vì sao?
(Gv có thể định hướng thái độ, cách giúp đỡ với những người có hoàn cảnh đáng thương, hay bạn bè gặp
khó khăn sao cho tế nhị , tránh ban ơn, tránh gây tổn thương,….Từ đó, giáo viên liên hệ với những biểu
hiện tiêu cực, lệch lạc lợi dụng lòng thương người, lòng trắc ẩn một số người trong đời sống để học sinh
có nhận thức đúng với muôn mặt của cuộc sống, đểtránh bị những người xấulợi dụng, lòng tốt không
được phát huy tích cực khi không dành cho đúng đối tượng, đúng hoàn cảnh cần giúp đỡ ; và học sinh
không mất niềm tin trong cuộc sống.. .)
-Từ các câu trả lời của học sinh, giáo viên cần chú ý thêm cách diễn đạt, dùng từ để có uốn nắn kịp thời ,
nếu cần – cũng bằng câu hỏi nêu vấn đề ( Bạn dùng từ … , em thấy có phù hợp không? Nếu thay bằng từ
…, em thấy từ nào hợp lí hơn? Vì sao? ) hay sử dụng lời nhận xét về cách dùng từ tốt của học sinh
* Ví dụ 2:giáo viên chọn tình huống
+ Ngữ văn lớp 8 – bài Tiếng Việt “ Hội thoại”, về lượt lời, BT 3/ 107:
Gv hướng dẫn khai thác sâu thêm tình huống đời sống như sau :
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương7
-Em có nên sử dụng thái độ im lặng trong giao tiếp không? Nếu có, thì em sử dụng trong trường hợp
nào? Vì sao em lại chọn thái độ im lặng như thế trong tình huống giáo tiếp ấy?
- Gv có thể chọn nêu các tình huống khác như :
Tình huống có thái độ im lặng (có hàm ý khác với BT) em hiểu như thế nào về ý nghĩa của sự im
lặng ấy? Dựa vào cơ sở nào mà em hiểu như thế?
Tình huống có thể dùng im lặng hay dùng lời thoại
em chọn cách trả lời nào trong tình huống ấy? vì sao?
-Em có đồng tình với sự chọn lựa của bạn không? Vì sao?
( hay Em có cách chọn lựa khác không? Hãy giải thích về sự chọn lựa của em? …. )
+ Nếu dạy ở CT 9: bài “ Nghĩa tường minh và hàm ý”, BT4b/76 giáo viên dùng đoạn trích đối thoại giữa
ông Hai và bà Hai trong văn bản” Làng”
Tình huống tượng tự : thái độ im lặng của ông Hai trong hội thoại để từ đó khắc sâu kiến thức bài học
* Ví dụ 3: giáo viên chọn tình huống vận dụng chọn cách biểu cảm ( ở chương trình Ngữ văn 7) vào đời
sống hiệu quả
*Hoạt động đối thoại liên quan trực tiếp đến việc hình thành năng lực giao tiếp : thể hiện ở những kĩ năng
ứng xử trong mối quan hệ với mọi người trong cuộc sống hàng ngày, ở các tình huống phong phú, khác
nhau thường gặp trong nhiều mối quan hệ đa dạng của đời sống…; thường là nên chọn các tình huống để
tăng khả năng giao tiếp cho học sinh.
. Đặc điểm của kĩ năng này là sẽ có nhiều cách ứng xử khác nhau tùy thuộc vào sự hiểu biết, kiến
thức “nền” về văn hóa của từng cá nhân chịu ảnh hưởng từ gia đình, môi trường sống…. và sự tự rèn
hàng ngày. Vì thế, sự tinh tế có vai trò rất quan trọng và giáo viên cần chấp nhận sự đa dạng của nhiều
cách ứng xử khác nhau - dựa trên những nét qui chuẩn chung khi giao tiếp.Với năng lực giao tiếp, giáo
viên cần có sự liên hệ với phong tục,tập quán, thói quen văn hóa của vùng miền hay một dân tộc, có khi
cả chuẩn mực nếp sống văn minh đô thị , những qui định bất thành văn ở những nơi công cộng, các sinh
hoạt cộng đồng về trang phục, thái độ, cách nói năng …
*Vd: kết hợp ở chương trình Ngữ văn 7 với thực hiện phương châm lịch sự ở chương trình Ngữ văn 9:
thái độ biểu cảm khi nói lời xin lỗi hay cảm ơn như thế nào; thái độ biểu cảm lời chào, cách chào sao cho
hợp lí, hiệu quả, đúng cách; hay hiểu về sự chọn lựa từ ngữ xựng hô và hiểu về cách ứng xử ( lời nói,
hành động ) như thế nào cho đúng nhất… Nó liên quan đến đánh giá nhân cách, tính cách con người.
Dođáp ứng với yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng năng lực đời sống, năng lực riêng của
học sinh nên giáo viên cần có sự chấp nhận những điều khác biệt một cách linh hoạt , cần khuyến khích
những cái riêng một cách đúng đắn, tránh rập khuôn, phát huy được sự sáng tạo ở học sinh.Giáo viên
khuyến khích ở học sinh sự chủ động, sự độc lập trong suy nghĩ, cách phân tích , đánh giá….với vấn đề
học tập và vấn đề đời sống. Nếu giáo viên không có sự luyện tập, định hướng cho học sinh làm quen và
có kĩ năng với các yêu cầu của đổi mới kiểm tra đánh giá về nội dung và câu hỏi , học sinh sẽ không đáp
ứng tốt yêu cầu của bộ môn.
-Vd: Từ lời của Dế Choắt khuyên Dế Mèn ở văn bản Bài học đường đời đầu tiên( trích chương I truyện
Dế Mèn phiêu lưu kí của Tô Hoài ), em rút ra được bài học gì cho bản thân ?
Mỗi học sinh có nhận thức riêng , giáo viên không nên đòi hỏi học sinh phải trả lời tất cả các nội dung.
HS nêu ý kiến cá nhân do có các góc nhìn khác nhau, có thể đúng với một đến hai ý trong các ý sau:
-Cần biết khiêm nhường; không nên kiêu căng, tự phụ, ỷ mạnh để bắt nạt kẻ yếu
- Cần suy nghĩ kĩ trước khi một làm việc trong cuộc sống, để tránh hành động sai lầm, phải hối hận
- Nếu có gây ra lỗi, cần phải dũng cảm nhận lỗi, tránh gây tai họa cho người khác.
- Không nên trêu chọc bạn bè dẫn đến ẩu đả, mất đoàn kết.
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương8
- HS rút ra những bài học khác, chỉ cần phù hợp đúng đắn.
2.4 Rèn kĩ năng đối thoại cho học sinh để đáp ứng với yêu cầu nâng cao hiệu quả năng lực học tập,
năng lực đời sống của học sinh, nhằm phát huy tính tích cực học tập của học sinh trong tiết học Ngữ
văn :
*Do đặc điểm của hoạt động đối thoại để phát huy tích tích cực của học sinh trọng học tập bộ môn Ngữ
văn nên giáo viên cần từng bước rèn và nâng cao các kĩ năng liên quan một cách hợp lí, khoa học như kĩ
năng sử dụng ngôn ngữ, kĩ năng vận dụng kiến thức, kĩ năng nói, thuyết trình, kĩ năng tranh luận, kĩ năng
phân tích, tổng hợp, kĩ năng giao tiếp…
*Việc rèn kĩ năng đối thoại và các kĩ năng liên quan hỗ trợ cho kĩ năng đối thoại được thực hiện kết hợp
trong quá trình dạy học. Đây là việc làm đòi hỏi thực hiện thường xuyên và liên tục mới có hiệu quả. Liên
hệ với thực tế dạy học hiện nay, có những khi giáo viên thường phải độc thoại trong giảng dạy vì tâm lí
của học sinh khối 8 và 9 hoặc vì năng lực yếu kém về kiến thức và sự lười biếng của học sinh…. Để tăng
cường sự đối thoại, giáo viên cần có biện pháp để học sinh vượt qua tâm lí ngại nói hay lười nói và có kĩ
năng nói tốt trong học tập và trong cuộc sống. Đó là việc giáo viên cần làm, là con đường giáo viên phải
đi nếu muốn thành công trong tiết dạy. Dù biết là khó nhưng “ đi mãi sẽ thành đường”, sẽ có “đường” để
giáo viên và học sinh tìm được tiếng nói chung.
*Việc rèn kĩ năng để nâng cao chất lượng của hoạt động đối thoại cho học sinhthường chú trọng các nội
dung sau:
a.Trước hết giáo viên cần giúp học sinh có sự tự tin khi tham gia đối thoại và qua mỗi đối thoại, giáo
viên cần giúp cho học sinh cảm nhận bản thân sẽ làm được, “đừng sợ vấp ngã” bằng việc tạo sự đồng
cảm, thấu hiểu với những khó khăn của học sinh khi thực hiện đối thoại. Và giáo viên cần có cách hỗ trợ,
rèn cho học sinh sự tự tin trong giao tiếp.
Thực tế giảng dạy cho thấy, không phải học sinh nào cũng tự tin khi đối thoại nên giáo viên cần có biện
pháp hỗ trợ cho học sinh sự tự tin trong tham gia đối thoại. Trong giao tiếp nói chung và đối thoại nói
riêng, sự tự tin đóng vai trò hỗ trợ đắc lực cho hiệu quả đối thoại.Vậy nên, giáo viên cần động viên học
sinh khi các em lúng túng bằng việc chủ động gợi về vấn đề hay dùng lời khích lệ để trấn an học sinh ( em
đã đi đúng hướng nhưng cần làm rõ hơn về nội dung hay em bình tĩnh , ý của em đúng rồi nhưng hãy nói
thêm cho các bạn hiểu về nội dung em muốn nói…) có thể là câu gợi ý liên quan đến vấn đề kiến thức khi
thấy học sinh phân vân, có khi là kết hợp với sự thể hiện đồng tình với vấn đề học sinh trình bày với
những học sinh quá nhút nhát hay chưa quen với việc nói trước tập thể ( cô đồng ý với điều em đã trình
bày nhưng em thấy sao nếu…).
Giáo viên cần đặt bản thân ở vị trí học sinh để hiểu được khó khăn, thì mới có biện pháp giúp đỡ học
sinh tháo gỡ, tìm ra cách khắc phục trở ngại bằng các gợi ý. Mặt khác, giáo viên cũng tạo sự gần gũi để
học sinh có sự mạnh dạn nhất định khi trình bày ý riêng cá nhân hay khi tranh luận….
Ngoài ra, giáo viên có thể chú ý nhắc học sinh về tư thế khi đối thoại, cách hướng tầm mắt về người đối
thoại, giọng điệu và các yếu tố phi ngôn ngữ khác ; cử chỉ, nét mặt ….. nếu cần thiết. Với kĩ năng giao
tiếp này, lời nhắc nhở cần thực hiện nhẹ nhàng, có khi là chút đùa vui, hay nêu hiệu quả của việc cần thực
hiện đúng…. sẽ có tác dụng tốt với học sinh.
b. Tiếp theo làtạo thói quen tốt và cách thực hiện đối thoại; nâng cao từng bước để học sinh có kĩ năng đối
thoại thành thục như là một nhu cầu học tập
-Giáo viên cần chuẩn bị câu hỏi hợp lí với năng lực chung của học sinh và khi lên lớp thì tùy đối tượng
học sinh mà có sự điều chỉnh linh hoạt để bảo đảm tính vừa sức của năng lực học tập của mỗi học sinh.
-Giáo viên cần lưu ý đưa học sinh cùng bước vào đối thoại một cách tự nhiên. Nếu cảm thấy học sinh
chưa có sự chuẩn bị tinh thần tốt cho hoạt động đối thoại thì có thể chuyển gọi học sinh khác để hoạt động
đối thoại thành công. Hoặc giáo viên dẫn dắt học sinh tham gia vào đối thoại, nếu chọn cách này, giáo
viên cần thêm những câu hỏi phụ khác. Khi thực hiện mở đầu đối thoại theo cách này, giáo viên nên dùng
câu hỏi phản đề hay đưa ý kiến trái ngược để học sinh dễ tiếp cận hoạt động đối thoại. Đây cũng điểm
thuận lợi, điều dễ dàng khi thực hiện hoạt động đối thoại.
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương9
- Sử dụng hoạt động đối thoại: linh hoạt tùy vào năng lực và mục đích rèn luyện của giáo viên – có thể
thực hiện là hoạt động riêng biệt, độc lập hay kết hợp với hoạt động nhóm, các hoạt động học tập khác…
-Sau cùng là việc GV hướng dẫn học sinh cách tự học hợp lí ( nêu cách thức đọc tác phẩm hay cách tìm
hiểu vấn đề kiến thức, cách dùng từ ngữ hợp lí, hướng dẫn sử dụng SGK… )
Việc hướng dẫn cách tự học là việc cần thiết và quan trọng, nó thể hiệu rõ hiệu quả đối thoại. Giáo viên
cho học sinh con đường cần đi, việc cần làm, cách thức để tiếp cận hay giải quyết nội dung vấn đề học
tập. Việc hướng dẫn tự học tùy vào mức độ nhận thức của trình độ khối lớp . Ở bước này, để có hiệu quả
giáo viên cần thực hiện tích hợp một cách hiệu quả hay hướng dẫn kĩ năng tổng hợp, liên kết các kiến
thức đê cho học sinh hướng đi tốt nhất về cách tự học; giáo viên hướng dẫn và dạy cách suy nghĩ, cách
phân tích đánh giá chính xác, đúng đắn trước các vấn đề học tập ( bộ môn , đời sống)
-Vd: với việc dạy học sinh cách tiếp cận văn bản tự sự ( phần Đọc – Hiểu văn bản) ở chương trình HKI
lớp 6 và chương trình HKI lớp 8,9 , về cách tìm hiểu ý nghĩa, giá trị của các tác phẩm tự sự ở mỗi khối
lớp rất khác nhau
c.Và cuối cùng là điều chỉnh những tồn tại, yếu kém và phát huy những điểm mạnh của học sinh qua hoạt
động đối thoạitrong tiết học.
- Giáo viên thường dựa vào đặc điểm của từng nhóm học sinh sau khi phân nhóm năng lực và đặc điểm
riêng của mỗi học sinh để có cách rèn hợp lí. Và sau khi đối thoại trực tiếp với học sinh ở một nhóm
năng lực, giáo viên cần có sự liên hệ đến các nhóm đối tượng khác để hướng dẫn tự rèn. Vì không phải
lúc nào giáo viên cũng có thời gian để rèn cho tất cả các nhóm đối tượng học sinh trong một tiết dạy, nên
việc rút kinh nghiệm để học sinh tự rèn là một trong các biện pháp rút ngắn từng bước con đường rèn kĩ
năng cho học sinh, trong đó có kĩ năng đối thoại.
* Việc thực hiện các nội dung trên cần linh hoạt,phù hợp và mang lại hiệu quả giáo dục tùy vào năng lực
của học sinh, tình huống cụ thế khi lên lớp và khả năng xử lí tình huống của giáo viên
2.5 Việc xây dựng tình huống đối thoại cũng góp phần vào việc nâng cao chất lượng của hoạt
độngđối thoại:
Do yêu cầu dạy cách học và hình thành, phát triển năng lực cho người học là hướng tới yêu cầu thực
hành, vận dụng, không chỉ nắm kiến thức mà quan trọng hơn là vận dụng các kiến thức để giải quyết các
vấn đề đặt ra trong học tập cũng như trong đời sống.
Tình huống trong học tập cũng như tình huống trong đời sống, giáo viên xây dựng tình huống đối
thoạitrong tiết dạy thường là các tình huống mới, có khi là tình huống giả định có thể xảy ra. Vì thế, kết
quả giải quyết tình huống đối thoại thường có nhiều khả năng, và phụ thuộc vào cá tính của từng học sinh.
Chính vậy khi xây dựng tình huống đối thoại để phục vụ cho tiết học giáo viên cần có sự cân nhắc và dự
đoán phản ứng của học sinh trước vấn đề đặt ra.
Tình huống đối thoại cần vừa sức, có thể huy động, thu hút được nhiều học sinh ở nhiều trình độ khác
nhau tham gia . Gv cần linh hoạt xây dựng tình huống đối thoại trong học tập và cả trong đời sống, cần có
sự kết hợp hợp lí tùy theo nội dung bài dạysẽ phát huy tính tích cực học tập, sự hứng thú của học sinh
trong tiết học bộ môn Ngữ văn.
3/ Một số điểm lưu ý :
3.1Giáo viên cần tự rèn nâng cao năng lực tổ chức hoạt động đối thoại
- Giống như tổ chức hoạt động nhóm, việc tổ chức cuộc đối thoại cũng phụ thuộc vào việc chọn thời
điểm, chọn nội dung, cách tổ chức học sinh tham gia vào hội thoại, cách kết thúc, tổng kết hoạt động.Bên
cạnh việc chuẩn bị tốt về kiến thức, để hoạt động đối thoại thành công phục vụ hiệu quả cho tiết dạy tùy
thuộc nhiều vào năng lực năng lực điều khiến, tổ chứchoạt động hội thoại của giáo viên.
Năng lực điều khiến, tổ chức hoạt động đối thoạicủa giáo viên liên quan đến nhiều yếu tố: tùy thuộc vào
khả năng riêng của mỗi giáo viên, phụ thuộc kinh nghiệm đứng lớp, kinh nghiệm tổ chức các hoạt động
lên lớp, sự linh hoạt xử lí tình huống của giáo viên trong đối thoại, năng lực nêu vấn đề, dẫn dắt tạo tranh
luận, khả năng thu hút học sinh, sự nhạy bén trong giao tiếp: nắm tâm lí người giao tiếp, nắm tình hình
diễn biến cuộc đối thoại, dự đoán được khả năng phát triển của đối thoại….Thực tế của việc tổ chức đối
thoại đòi hỏi ở giáo viên có khả năng vận dụng tổng hợp các kĩ năng một cách hợp lí, vừa sức với học
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương10
sinh. Nếu giáo viên không có sự tự rèn sẽ không đáp ứng được việc năng cao chất lượng đối thoại đáp
ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học.
Đây là việc giáo viên cần tự thực hiện và rút kinh nghiệm hay tự rút kinh nghiệm qua dự giờ đồng nghiệp.
Điều quan trọng nhất ở đây là sự trải nghiệm những kinh nghiệm đã được bồi đắp ấy .
-Ngoài ra, việc hiểu và nắm vềnội dung đánh giá chất lượng đối thoại sẽ giúp giáo viên rất nhiều trong
việc nâng cao chất lượng đối thoại phục vụ cho tiết dạy.Cần tránh tổ chức đối thoại hời hợt, qua loa, tổ
chức cho lấy có, gượng ép hay áp đặt sẽ không đem lại hiệu quả như mong muốn.Giáo viên cần luôn quan
tâm đến chất lượng đối thoại và hiểu về nội dung đánh giá chất lượng đối thoại. Cụ thể là:
+ Sự tương tác ănkhớp giữa các đối tượng trong hội thoại (học sinh và học sinh và giữa học sinh với giáo
viên ), sự tương ứng giữa các lượt lời trao và lời đáp.
+ Hiệu quả giải quyết của vấn đề đối thoại.
+ Thái độ hài lòng của các đối tượng tham gia hội thoại.
+ Cách sử dụng từ ngữ phù hợp với nội dung, tính chất, đối tượng của cuộc đối thoại.
3.2Khi tổ chức hoạt động đối thoại, cần chú ý đến đặc trưng của bộ môn và đặc trưng của mỗi
phân môn:
Việc giảng dạy nói chung và việc tổ chức hoạt động đối thoại nói riêng không thể không dựa vào nét
đặc trưng của bộ môn và phân môn. Đặc điểm riêng của bộ môn và của phân môn sẽ làm nên vẻ hay riêng
của các đối thoại vàcó tác động tích cực đến nội dung dạy học. Vì đối thoại ở đây là để phục vụ cho hoạt
động dạy học, đối thoại thực hiện mục đích giảng dạy nên không thể tách rời với đặc trưng của bộ môn và
đặc trưng của mỗi phân môn. Nội dung dạy học khác nhau thì nội dung đối thoại khác nhau là điều tất
yếu. Nội dung đối thoại trong tiết dạy Tiếng Việt khác với vấn đề trong tiết dạy văn bản vàcũng khác so
vớinội dung đối thoại trong tiết dạy Tập làm văn
- Và để dạy học bảo đảm việc phát huy tính tích cực của học sinh, giáo viên đặc biệt thực hiện liên kết
liên môn và liên kết phân môn hợp lí. Sự liên kết kiến thức ấy nhằm giúp học sinh hiểu sâu về kiến thức
bài học và biết cách tư duy giải quyết vấn đề học tập một cách chủ động.
*Ví dụ:
+Chương trình Ngữ văn lớp 8, sau tiết dạy về Hội thoại, giáo viên tích hợp hợp lí kiến thức ở 2 tiết
dạy khi tiến hành tổ chức hoạt động đối thoại: về lượt lời, vai hội thoại ở các tiết dạy lớp 8 và ở lớp 9
+Chương trình Ngữ văn lớp 9, sau tiết dạy Xưng hô trong hội thoại, vận dụng ở các tiết dạy lớp 9.
Lời xưng hô cũng giúp đánh giá về con người, đánh giá nhân vật . Vậy nên trong cuộc sống cần chú ý lựa
chọn từ xung hô hợp lí với hoàn cảnh giao tiếp, thể hiện tính cách của bản thân
3.3Tổ chức hoạt động đối thoại trong giờ học, cần có sự chọn lựa thời điểmhợp lí , không thể tùy tiện
hoặc tùy thích,cũng giống như việc tổ chức hoạt động nhóm.
Giáo viên có thể linh hoạt tổ chức từ 1 đến 3 hoạt động đối thoại ở nhiều mức độ đối thoại khác nhau,
với nhiều đối tượng học sinh khác nhau. Việc tổ chức hoạt động đối thoại trong tiết học có thể điều chỉnh
khá thoải mái. Nếu đã thực hiện đối thoại không thành công, giáo viên có thể thực hiện tiếp ở lần thứ 2
hoặc thứ 3. Đây chính là nét riêng của hoạt động đối thoại.
Cho dù là hoạt động với tư cách là hoạt động riêng biệt, độc lập hay kết hợp với hoạt động nhóm thì đối
thoại đóng vai trò chủ đạo phát huy được tích cực ở học sinh và khơi gợi được hứng thú ở học sinh, tạo ở
học sinh nhu cầu học tập.
*Ví dụ : Chương trình Ngữ văn lớp 9, văn bản “ Lặng lẽ Sa Pa” , có thể tổ chức 2 hoạt động đối thoại
+ Tìm hiểu về nhân vật anh thanh niên , chọn đối thoại ở ý nhận xét về hoàn cảnh sống và làm việc
của nhân vật hay nhận xét về nhân vật anh thanh niên qua suy nghĩ của về công việc, lẽ sống.
+ Sau tiết học, chọn đối thoại ở nội dung giáo dục năng lực đời sống, sau này khi chọn nghề, em có
chọn công việc có hoàn cảnh sống như anh thanh niên không? Vì sao? Hay sau này, khi trưởng thành
nếu công việc đòi hỏi, em có chọn lựa như anh thanh niên trong truyện không? Vì sao?
3.4Cần có sựkhuyến khích phù hợp khihọc sinhtham gia hoạt động đối thoại
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương11
Giáo viên có thể dùng lời khen hay ghi điểm, đây là động lực học tập với học sinh và khích lệ học sinh
tham gia vào hoạt động đối thoại, cho học sinh niềm vui trong học tập.
Giáo viên có thể dùng lời khen để động viên khi học sinh có cái nhìn sâu sắc, ý tốt, hiệu quả về nội
dung đối thoại hay học sinh có thay đổi tích cực trong thái độ học tập
Việc ghi điểm cho học sinh qua hoạt động đối thoại cũng là một giải pháp khuyến khích sự đối thoại ở
học sinhvà góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động đối thoại. Ghi điểm là sự đánh giá của giáo viên về
chất lượng câu trả lời của học sinh về nội dung kiến thức của bài học, đồng thời giáo viên đánh giá cách
trình bày, diễn đạt bằng hình thức nói, cách dùng từ và kĩ năng trình bày vấn đề của học sinh. Điều lưu ý ở
đây là đánh giá, ghi điểm qua hoạt động đối thoại và có khi kết hợp với sự thay đổi tích cực trong thái độ
học tập của học sinh. Vậy nên, có thể xem đây là một giải pháp tốt hỗ trợ cho hoạt động đối thoại, vì học
sinh được nhận xét đánh giá một cách toàn diện, thuận lợi cho việcrút kinh nghiệm để tự rèn, học
sinhđược khuyến khích khi có cố gắng trong tự rèn nâng cao chất lượng học tập, vừa có tác dụng nêu
gương, động viên học sinh trong lớp nỗ lực phấn đấu vươn lên.
Giáo viêncần công bằng và không nên dễ dãi trong đánh giá, cho điểm.
IV. KẾT LUẬN :
Hình thức tổ chức dạy học cần tạo ra môi trường học tập bảo đảm được mối quan hệ tương tác giữa hoạt
động của giáo viên và hoạt động của học sinh.Trong đó hoạt động đối thoại với tư cách là một hoạt động
dạy học có một vai trò quan trọng riêng. Và việc “Nâng cao hiệu quả hoạt động đối thoại nhằm phát
huy tính tích cực học tập của học sinh trong tiết học bộ môn Ngữ văn ở trường THCS” ở chuyên
đềgóp phần tích cực vào việc đổi mới phương pháp dạy học và nâng cao chất lượng dạy học.
Mỗi sự đổi mới tích cực của giáo viên trong các hoạt động dạy học luôn đem đến sự đổi thay làm
phong phú thêm các nội dung kiến thức và hình thức tổ chức ở các tiết dạy. Từ đó, giúp giáo viên làm mới
tiết dạy hiệu quả,đem lại nhiều hứng thú cho học sinh. Qua những đổi thay tích cực như thế, giáo viên
giúp học sinh tự tin trong hoạt động học tập và tạo thêm động lực tích cực, niềm vui học tập cho học
sinh.
Rất mong sự đóng góp của quí thầy cô giúp cho nội dung chuyên đề được hoàn thiện hơn và giúp học
sinh học tập bộ môn Ngữ văn một cách tốt nhất..
Xin được chân thành cảm ơn quí thầy cô về những đóng góp cho sự thành công của chuyên đề.
* Tài liệu tham khảoNgười viết chuyên đề
Tạ Thị Thanh Phương
1.Tài liệu tập huấn “ Dạy học và kiểm tra, đánh giá kết quả
học tập theo định hướng phát triển năng lực học sinh môn
Ngữ Văn cấp THCS.”
2.Sách giáo khoa Ngữ Văn THCS hiện hành -Xuất bản năm 2011
3.Tạp chí văn học và tuổi trẻ số tháng 1.2018
Chuyên đềNgữ văn 2018
Người viết Tạ Thị Thanh Phương12