Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

Chỉ đạo nâng cao hiệu quả hoạt động thư viện đối với thư viện trường đạt CQG - trường THCS Quang Hiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.52 KB, 20 trang )

I. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Thư viện trường học là một bộ phận vô cùng quan trọng, không chỉ là nơi lưu
trữ và cho mượn tài liệu, thư viện còn là cơ quan truyền thông, nhằm mục đích
cung cấp thông tin để giải đáp thắc mắc, thỏa mãn óc tò mò, tìm hiểu của học
sinh; là động lực đóng góp vào việc cải tiến giáo dục trong nhà trường, nhằm
mục đích sử dụng các nguồn tài liệu để hỗ trợ cho sự thay đổi cách học tập và
giảng dạy trong nhà trường. Điều 1, Chương 1, Quyết định số 61/1998/QĐBGD&ĐT ngày 06 tháng 11 năm 1998 về Quy chế tổ chức và hoạt động thư
viện trường phổ thông đã nêu rõ: Thư viện trường phổ thông là một bộ phận cơ
sở vật chất trọng yếu, trung tâm sinh hoạt văn hoá và khoa học của nhà trường.
Thư viện góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy của giáo viên, bồi dưỡng kiến
thức cơ bản về khoa học thư viện và xây dựng thói quen tự học, tự nghiên cứu
cho học sinh tạo cơ sở từng bước thay đổi phương pháp giảng dạy và học, đồng
thời thư viện tham gia tích cực vào việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị xây dựng
nếp sống văn hoá mới cho các thành viên của nhà trường. [2]
Đối với một đơn vị trường học đã được công nhận trường đạt chuẩn quốc gia
(CQG) thì thư viện lại càng quan trọng, bởi đây không chỉ là điều kiện để công
nhận và công nhận lại một trường đạt CQG (Điều 7-Thông tư 47/2012/TTBGDĐT quy định: “Có thư viện theo tiêu chuẩn quy định về tổ chức và hoạt
động của thư viện trường học”[3]), mà thư viện góp phần vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục của nhà trường. Nó là công cụ phục vụ mục tiêu đổi mới phương
pháp dạy học (PPDH), là linh hồn của một nhà trường, là nơi hội tụ kiến thức, tri
thức của loài người. Nó không chỉ giúp cho Thầy và trò nhà trường dạy tốt, học
tốt mà nó còn góp phần mở mang trí óc, bồi đắp nhân cách, xây dựng nền tảng
và phông văn hóa cá nhân. [1]
Trên cơ sở nền tảng trường trung học cơ sở (THCS) Quang Hiến đã được
UBND tỉnh công nhận trường THCS đạt CQG, thư viện nhà trường đã được
công nhận là thư viện Tiên tiến; trong cương vị là một lãnh đạo quản lý, bản
thân tôi luôn quan tâm đến việc phát huy hiệu quả nền tảng các tiêu chuẩn của
một trường CQG mà đơn vị đã phấn đấu đạt được, trong đó đặc biệt ưu tiên cho
chỉ đạo tổ chức hoạt động thư viện nhằm nâng cao chất lượng dạy - học của giáo
viên và học sinh. Vì vậy, tôi chọn đề tài“Chỉ đạo nâng cao hiệu quả hoạt động


thư viện đối với thư viện trường đạt CQG - trường THCS Quang Hiến” làm đề
tài sáng kiến kinh nghiệm của mình với mong muốn vận dụng những kiến thức,
kinh nghiệm trong quản lý trường học để từ đó nghiên cứu và đề xuất những giải
pháp khả thi nhằm thực hiện tốt hơn nữa hoạt động thư viện ở trường THCS
Quang Hiến.
1


2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm tổ chức các hoạt động của thư viện trường học đảm bảo các tiêu chuẩn
của thư viện Tiên tiến và thực sự trở thành địa chỉ tin cậy để cán bộ, giáo viên,
nhân viên, học sinh thường xuyên khai thác, tìm kiếm các thông tin, bồi dưỡng
năng lực, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập. Đồng thời xây dựng thư
viện là nơi có thể thực hiện các hoạt động giải trí, giảm bớt căng thẳng sau các
giờ học trên lớp của học sinh theo tinh thần học mà chơi - chơi mà học.
3. Đối tượng nghiên cứu
Các mô hình thư viện và các loại hình hoạt động thư viện hiệu quả, phù hợp
đối với thư viện trường THCS Quang Hiến, là nhà trường đã đạt chuẩn quốc gia,
thư viện đạt tiêu chuẩn tiên tiến.
4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp nghiên cứu, quan sát và nhận định, đánh giá vấn đề;
- Phương pháp thực nghiệm và tổng kết kinh nghiệm.
B. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN

Theo UNESCO thì thư viện được hiểu “...là bất cứ bộ sưu tập có tổ chức nào
của sách, ấn phẩm định kỳ hoặc các tài liệu khác, kể cả đồ họa, nghe nhìn và
nhân viên phục vụ có trách nhiệm tổ chức cho bạn đọc sử dụng các tài liệu đó
nhằm mục đích thông tin, nghiên cứu khoa học, giáo dục hoặc giải trí”[1]. Thư

viện ra đời với sứ mệnh gắn liền với tri thức. Thư viện luôn đồng hành với con
người với sự tiến hóa của nhận thức, mở mang tầm nhìn, phát triển khoa học,
bảo tồn và phát huy văn hóa. Đối với xã hội học tập ngày nay, tầm quan trọng
của thư viện chưa hề giảm đi, với sự trỗi dậy mạnh mẽ của công nghệ thông tin
và truyền thông, thư viện vẫn chưa mất đi những giá trị nhân văn của mình, có
chăng là sự thay đổi vai trò để thích ứng.
Khi nói đến thư viện người ta nghĩ ngay đến sách và ngược lại nói đến sách
chúng ta phải nói đến thư viện. Thư viện trường học là nơi lưu giữ sách, tài liệu,
là nơi bạn đọc đến để mượn sách, tìm kiếm thông tin, đáp ứng mọi nhu cầu đọc
của bạn đọc. Trong Điều 2, Chương 2, Quyết định số 61/1998/QĐ-BGD&ĐT
ngày 06 tháng 11 năm 1998 về Quy chế tổ chức và hoạt động thư viện trường
phổ thông đã nêu: Thư viện có nhiệm vụ “Cung ứng cho giáo viên và học sinh
đầy đủ các loại sách giáo khoa, sách tham khảo, sách nghiệp vụ, các loại từ điển,
tác phẩm kinh điển để tra cứu, và các sách báo cần thiết khác, nhằm góp phần
nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập và tự bồi dưỡng thường xuyên của giáo
viên và học sinh”; “Sưu tầm và giới thiệu rộng rãi trong cán bộ, giáo viên và học
2


sinh những sách báo cần thiết của Đảng, Nhà nước và của Ngành Giáo dục và
Đào tạo, phục vụ giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học giáo dục, bổ sung
kiến thức của các bộ môn khoa học, góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo
dục toàn diện”. [2]
Nhằm thực hiện Nghị quyết số 29/NQ-TW “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”; hoàn thành
mục tiêu chiến lược phát triển giáo dục của Đảng là “đến năm 2020 nước ta có một
nền giáo dục tiên tiến, lành mạnh, mang đậm bản sắc dân tộc, đáp ứng nhu cầu
nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc
tế”[4], chúng ta không thể bỏ qua sự tham gia tích cực của thư viện trường học.

Có thể nói thư viện là một trong những yếu tố cấu thành chất lượng giáo dục,
thư viện trường học là một bộ phận không thể thiếu trong việc hình thành môi
trường văn hóa học đường. Thư viện trường học sẽ khơi nguồn và thỏa mãn
những nhu cầu về thông tin, tri thức của thầy cô giáo và học sinh.
Thư viện trường học là một bộ phận cơ sở trọng yếu, là trung tâm sinh hoạt
văn hóa, khoa học của nhà trường. Thư viện trường học góp phần nâng cao chất
lượng giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. Mặt khác, thư viện trường
học còn tạo cơ sở từng bước thay đổi phương pháp dạy và học, xây dựng nếp
sống văn hóa cho các thành viên trong nhà trường. Thư viện giúp học sinh tự bổ
sung kiến thức. Cũng chính ở thư viện trường học, các em tự rèn luyện tính độc
lập, tư duy và thói quen tự học. Qua các ấn phẩm mà học sinh đã đọc, sẽ hình
thành cho các em tình cảm đúng đắn, giúp các em hiểu thêm về con người, về
đất nước, về khoa học và về cuộc sống. Qua những trang sách, các em thấy được
ý nghĩa to lớn của lao động trí óc, sự kiên trì và cần cù của nhiều thế hệ trong và
ngoài nước. Từ đó hình thành những đức tính tốt đẹp trong nhân cách của các
em, nuôi dưỡng ý chí phấn đấu để đạt được ước mơ hoài bão của cuộc đời.
Tuy nhiên, vai trò quan trọng và giá trị của thư viện mang lại cho người đọc chỉ
được quản lý và phát huy tác dụng tích cực khi công tác thư viện được tổ chức
tốt. Tổ chức hoạt động thư viện nhằm thoả mãn nhu cầu tìm hiểu kiến thức cho
giáo viên và học sinh là một yêu cầu khách quan không thể thiếu được. Chỉ có
như vậy mới phát huy văn hóa đọc cho thế hệ tương lai của đất nước, và hướng
tới cho thế hệ ấy một thói quen tốt sao cho không thờ ơ với những kho tri thức
vô tận ngay trong chính ngôi trường của mình.
Hoạt động thư viện bao gồm các công việc trong một quy trình xử lý nghiệp
vụ sách báo: bổ sung, tổ chức tài liệu, mô tả nội dung và hình thức tài liệu, xây
dựng bộ máy lưu trữ và tra cứu thông tin, bảo quản tài liệu, nghiên cứu nhu cầu
đọc, hướng dẫn và tổ chức hoạt động đọc, biên soạn thư mục và một số công tác
3



khác. Đây cũng chính là nội dung để xem xét, đánh giá chất lượng của một thư
viện trường học theo tiêu chí CQG. Điều 12, chương IV, Quyết định số
61/1998/QĐ-BGD&ĐT cũng nêu rõ: “Công tác tổ chức và hoạt động thư viện
phải là một nội dung quan trọng trong đánh giá để công nhận trường đạt chuẩn
quốc gia và danh hiệu thi đua hàng năm”[2].
II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

1. Thực trạng chung
Ngày nay, Internet ngày càng phát triển và phủ sóng rộng khắp, các thiết bị
thông minh đáp ứng mọi nhu cầu cho việc truy cập, tiếp cận thông tin ở mọi lúc,
mọi nơi trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết. Chỉ cần một cú click chuột là có thể
tìm được nhanh chóng thông tin mình cần, và lẽ dĩ nhiên nhiên nhiều người sẽ
chọn cách này hơn là cất công lên thư viện, rồi phải làm thẻ, tra cứu sách… có lẽ
bởi vậy mà học sinh ngày càng thờ ơ với thư viện, không thích cách đọc sách
báo, tìm kiếm thông tin theo cách truyền thống.
Xây dựng thư viện chuẩn là một tiêu chí của trường CQG, để xây dựng được
một thư viện đạt tiêu chuẩn phải đầu tư một khoản kính phí khá lớn cho cơ sở
vật chất (CSVC), trang thiết bị bao gồm: kho sách, phòng đọc, bàn ghế, giá để
sách, máy tính kết nối Internet, các loại sách giáo khoa (SGK), sách nghiệp vụ,
sách tham khảo, sách pháp luật, sách thiếu nhi, báo, tạp chí và rất nhiều các điều
kiện khác kèm theo...Mặc dù thế, thư viện trường học vẫn chưa được bạn đọc
mặn mà lui tới thường xuyên, công suất sử dụng thư viện ở trường học còn rất
nhiều hạn chế. Số học sinh đến đọc sách ở thư viện thì chủ yếu đọc truyện các
loại, các tài liệu, sách chuyên môn ít được học sinh quan tâm. Đấy là một lãng
phí để lại những hệ lụy thật đáng buồn. Đáng lo ngại hơn khi mà những kho tri
thức trong sách báo giấy nơi thư viện được đầu tư tiền tỷ đặt ngay giữa môi
trường sư phạm hiện đại đạt tiêu chuẩn quốc gia đang dần mất đi hoặc bị tước đi
chức năng vốn có của nó. Một khi những thế hệ tương lai của chúng ta xa rời
kho tri thức thì sẽ kéo theo một nền giáo dục què quặt. Kiến thức ở trường là cần
nhưng chưa đủ, bài tập ở nhà là đủ nhưng chưa sâu. Muốn cho kiến thức sâu thì

các em cần tìm đến thư viện trường học. Có thể ví thư viện trường học như cánh
tay phải của nền giáo dục, một khi cánh tay phải ấy yếu thì làm mọi việc đều vô
cùng khó khăn.
Bên cạnh vấn đề về bạn đọc, một thực tế không thể làm ngơ là cán bộ thư
viện (CBTV) trong các trường học hiện nay cơ cấu chưa đủ và chưa có chuyên
môn cao. Trình độ chuyên môn của họ hoặc là được đào tạo theo “cơ chế” mở
một thời của các trung tâm đào tạo; hoặc là do giáo viên dôi dư làm kiêm nhiệm đi
tiếp thu nghiệp vụ từ 10 ngày đến 1 tháng lấy chứng chỉ để làm công tác thư
viện; có một bộ phận thậm chí chưa được tập huấn nghiệp vụ nên năng lực về
4


chuyên môn nghiệp vụ rất hạn chế. Mặt khác, CBTV trường học hiện nay phải
kiêm nhiệm rất nhiều công việc khác như văn thư, tạp vụ, thủ quỹ; mức lương
của họ khá thấp do không có phụ cấp ưu đãi do vậy họ chưa thực sự tâm huyết
với nghề.
Đối với ngành giáo dục huyện Lang Chánh có 12 trường THCS, ở tất cả các
trường đều có một hệ thống thư viện, đã có 7/12 thư viện chuẩn, trong đó có 5
thư viện Tiên tiến. CBTV có 7 biên chế trên tổng số 12 nhu cầu. Điều đáng quan
tâm là do thuyên chuyển công tác và do định mức biên chế của ngành trong
những năm vừa qua nên đã chấm dứt hợp đồng một số CBTV, dẫn đến có 3/7
thư viện đã đạt chuẩn nhưng không còn có CBTV, làm ảnh hưởng không nhỏ tới
chất lượng hoạt động thư viện tại các nhà trường nói riêng và toàn ngành nói
chung. Đây là một thực trạng mà bản thân nội lực của nhà trường hay của ngành
không thể tự tháo gỡ.
2. Thực trạng hoạt động thư viện ở trường THCS Quang Hiến
Trường THCS Quang Hiến được tách lập từ năm 1996, ngay từ khi mới tách
lập nhà trường đã có thư viện riêng. Tuy nhiên hoạt động thư viện trong suốt
hơn 15 năm tiếp theo chỉ với chức năng là kho sách nghèo nàn chủ yếu là SGK
do nhà nước cấp hàng năm, thủ thư là giáo viên kiêm nhiệm tổ chức cho học

sinh mượn vào đầu năm học, thu về cuối mỗi năm học. Đứng trước yêu cầu đổi
mới giáo dục, hoạt động thư viện của nhà trường cũng đổi mới nhằm đáp ứng
yêu cầu ngày càng cao của nền giáo dục tiên tiến, hiện đại, đồng thời cũng là để
đáp ứng nhu cầu của bạn đọc trong nhà trường. Bám vào hướng dẫn nhiệm vụ
hàng năm, căn cứ vào các văn bản của Chính phủ và của Bộ giáo dục và đào tạo
(GD&ĐT) như: Pháp lệnh Thư viện; Quyết định ban hành tiêu chuẩn thư viện
trường phổ thông; Quy chế tổ chức hoạt động thư viện trường phổ thông; Hướng
dẫn thực hiện tiêu chuẩn thư viện trường phổ thông... Nhà trường đã xây dựng
kế hoạch thực hiện lộ trình xây dựng thư viện chuẩn song song với việc củng cố,
hoàn thiện các tiêu chí xây dựng trường đạt CQG.
Tháng 6/2013, thư viện nhà trường đã được công nhận thư viện Tiên tiến
trước khi công nhận trường CQG một năm (năm 2014 trường đạt CQG). CBTV
có trình độ trung cấp Thư viện - thiết bị, nhà trường phân công nhiệm vụ quản lý
và tổ chức hoạt động thư viện. Do cơ cấu nhân viên hành chính của nhà trường
chỉ có 02 người (01 kế toán) nên trường bố trí kiêm nhiệm thêm văn thư, thủ quỹ
và tạp vụ. Có thể nói nhiệm vụ của CBTV khá nặng nề nên không thể chỉ tập
trung chuyên tâm cho công tác thư viện.
Mặc dù đã đạt tiêu chuẩn thư viện tiên tiến song hoạt động thư viện còn có
nhiều khó khăn dẫn đến những tồn tại hạn chế cơ bản trong tổ chức hoạt động
thư viện của nhà trường. Có thể dẫn ra 5 vấn đề cùng nguyên nhân của những
tồn tại hạn chế cơ bản đó như sau:
5


+ Thứ nhất: Vốn tài liệu chưa được phong phú, đa dạng; số lượng và chủng
loại sách, báo, tài liệu đủ tiêu chuẩn quy định nhưng nội dung chưa thực sự bắt
kịp với sự phát triển và đổi mới của đất nước; những tài liệu mới phát hành
thường là cập nhật không kịp thời; tài liệu bổ sung không thường xuyên, chủ yếu
nguồn tài liệu của thư viện là do nhà nước cấp và một phần kinh phí của đơn vị.
Nguyên nhân là do điều kiện kinh phí của nhà trường eo hẹp không đủ trang

trải cho nhu cầu phục vụ chuyên môn ngày càng cao, trong khi nhà trường chưa
có giải pháp huy động các nguồn lực để bổ sung tài liệu cho thư viện.
+ Thứ hai: Mô hình tại trường là Thư viện truyền thống, hoạt động được tổ
chức theo hình thức kho đóng, bạn đọc tự tra cứu thư mục, đăng ký mượn (ghi
sổ mượn) đọc tại chỗ (phòng đọc) hoặc mượn về nhà theo lịch hoạt động quy
định thời gian phục vụ trong tuần, rồi đến lịch trả sách cũng phải tuân thủ quy
trình khá mất thời gian, bất tiện cho học sinh.
Nguyên nhân là CBTV phải kiêm nhiệm nhiều việc nên buộc phải quy định
lịch cho việc mượn và trả sách, không thể phục vụ liên tục, đáp ứng nhu cầu bạn
đọc như một người chỉ chuyên tâm cho một công việc.
+ Thứ ba: Thư viện có phòng đọc đủ chỗ ngồi tối thiểu theo quy định cho
giáo viên và học sinh, nhưng là phòng chung nên rất bất tiện cho việc đọc sách
của học sinh, các em ít đến thư viện đọc sách.
Nguyên nhân tại bởi tâm lý e ngại khi ngồi chung cùng thầy cô giáo, cảm giác
mất tự do không được thoái mái như khi chỉ có bạn bè.
+ Thứ tư: Hơn 90% học sinh của trường là người dân tộc thiểu số, bản tính
nhút nhát, khả năng ngôn ngữ hạn chế, thiếu tự tin trong giao tiếp. Hầu như học
sinh chưa có thói quen tự đọc sách báo, đặc biệt sách báo giấy. Trong khi đó
chúng ta đứng trước sự bùng nổ của ngành công nghệ thông tin, với chiếc điện
thoại thông minh trên tay, những trò chơi online, các trang mạng xã hội với
nhiều thông tin HOT thực sự hấp dẫn hơn nhiều so với trang sách tẻ nhạt. Vì vậy
việc thờ ơ với sách, không thích đọc, báo của học sinh trở nên dễ hiểu.
Nguyên nhân là do nhà trường mà trực tiếp là các giáo viên chưa định hướng
tốt cho học sinh, chưa có giải pháp tạo thói quen đọc sách và hình thành văn hóa
đọc cho học sinh; thư viện chưa tổ chức được các hoạt động hấp dẫn nhằm thu
hút bạn đọc đến với thư viện.
+ Thứ năm: Chuyên môn nghiệp vụ của CBTV chưa sâu, năng lực và kinh
nghiệm tổ chức các hoạt động thư viện còn hạn chế, kĩ năng phục vụ chưa cao
nên chưa thực sự trở thành cầu nối giữa bạn đọc và vốn tài liệu.
Nguyên nhân một phần do trình độ đào tạo của CBTV thấp, ít được tham gia

thực tế học hỏi kinh nghiệm tổ chức hoạt động và giao tiếp với bạn đọc; mặt
khác chưa phát huy tốt vai trò của tổ công tác thư viện để trợ giúp tổ chức hoạt
động hiệu quả.
6


Để khắc phục 5 vấn đề nêu trên cần phải có hệ thống giải pháp phù hợp,
thực hiện linh hoạt, đúng thời điểm mang tính đồng bộ sẽ nâng cao hiệu quả
hoạt động của thư viện trong nhà trường đã đạt tiêu chuẩn quốc gia.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Bổ sung và phát triển vốn tài liệu có chất lượng cho thư viện một cách
thường xuyên
Tài liệu là một trong 4 yếu tố cấu thành nên thư viện. Trong 4 yếu tố, tài liệu
là yếu tố đầu tiên mang tính quyết định trong việc xây dựng và phát triển thư
viện. Vốn tài liệu không chỉ là tài sản mà còn là cơ sở cho hoạt động hiệu quả
của mỗi thư viện, vốn tài liệu càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu đọc
càng lớn và càng có sức thu hút bạn đọc[1]. Bổ sung tài liệu là việc làm hằng
năm của mọi thư viện, đây là công đoạn đầu tiên và rất quan trọng trong quy
trình nghiệp vụ thư viện, bởi vậy cần bổ sung hợp lý và chuẩn xác theo danh
mục quy định. Đối với một trường CQG, để duy trì và phát huy các tiêu chuẩn
để được công nhận lại ở giai đoạn sau thì hàng năm Hiệu trưởng phải cân đối tài
chính mua sắm bổ sung CSVC, trang thiết bị dạy học trong đó có vốn tài liệu
cho thư viện. Việc bổ sung và phát triển vốn tài liệu cho thư viện phải tuân thủ
nguyên tắc và thực hiện đồng bộ bằng nhiều biện pháp mới đạt hiệu quả.
* Nguyên tắc bổ sung và phát triển vốn tài liệu:
Việc bổ sung vốn tài liệu phải được thực hiện bằng kế hoạch do CBTV xây
dựng cuối mỗi năm học, số liệu cần bổ sung dựa trên cơ sở kết quả kiểm kê,
đánh giá tình hình vốn tài liệu cần bổ sung là bao nhiêu? Chủng loại sách thiếu
là gì? nhu cầu dùng thường xuyên là những loại sách nào? Ưu tiên loại tài liệu

nào để đáp ứng mục tiêu phát triển giáo dục theo chỉ đạo của ngành... từ đó xác
định tài liệu phù hợp với chương trình đào tạo của nhà trường, phù hợp với nhu
cầu số đông người sử dụng cả về số lượng và chủng loại sách. Với xu hướng
như hiện nay, thư viện nhà trường cần ưu tiên các đầu sách dành cho tuổi mới
lớn, sách khám phá về khoa học, lịch sử...
* Biện pháp phát triển vốn tài liệu:
Với một nhà trường, để có thể đáp ứng tốt yêu cầu ngày càng cao của công
tác giáo dục, hàng năm bộ phận tài vụ phải rà soát, kiểm kê và đề xuất xây dựng,
sửa chữa, mua sắm bổ sung rất nhiều hạng mục CSVC. Trong khi đó nguồn kinh
phí do ngân sách nhà nước cấp cho các nhà trường ở miền núi thuộc vùng kinh
tế đặc biệt khó khăn như trường THCS Quang Hiến rất khiêm tốn (bình quân đạt
100.000.000đ chi cho chuyên môn, sửa chữa nhỏ và chi khác). Vì vậy, Hiệu
trưởng nhà trường cần vận dụng linh hoạt các biện pháp huy động tài vật để bổ
sung và phát triển vốn tài liệu cho thư viện đạt hiệu quả. Sau đây là các biện
pháp chỉ đạo thực hiện đã đem lại hiệu quả cao:
7


Một là: Điều phối, ấn định kinh phí mua bổ sung sách hằng năm bằng nguồn
ngân sách nhà nước. Nghĩa là sau khi có Quyết định giao dự toán đầu năm, Hiệu
trưởng chỉ đạo cho kế toán xây dựng kế hoạch chi tiêu tài chính, phân bổ dự
toán dành cho phát triển thư viện tối thiểu là 5% kinh phí. Nguồn tài chính này
chủ yếu để mua bổ sung các loại tài liệu phục vụ chuyên môn hàng năm. Đây là
nguồn tài chính bất di bất dịch thường xuyên hàng năm, không có bất cứ lý do gì
cho phép thay đổi mục đích sử dụng.
Hai là: Xây dựng tủ sách dùng chung tại thư viện. Mục đích là góp những tài
liệu của mỗi người lại để cho tất cả mọi người cùng sử dụng và làm phong phú
thêm nguồn tài liệu của thư viện. Có 2 tủ sách riêng cho 2 đối tượng là giáo viên
và học sinh. Cách làm như sau:
+ Tủ sách nghiệp vụ của giáo viên: nhà trường phối hợp với tổ chức công

đoàn kêu gọi cán bộ giáo viên (CBGV), nhân viên trong nhà trường tặng hoặc
cho thư viện mượn những tài liệu chuyên môn hay, có giá trị mà cá nhân đang sở
hữu. Tài liệu này sẽ được CBTV xử lý nghiệp vụ (vào sổ riêng) và quản lý việc
mượn/trả theo đúng quy định.
+ Tủ sách học sinh: giao cho Tổng phụ trách Đội phối hợp với tổ giáo viên
chủ nhiệm (GVCN) tổ chức phong trào “Góp một cuốn sách để được đọc trăm
cuốn sách”. Theo đó kêu gọi CBGV và học sinh trong nhà trường tự nguyện
tặng sách cho thư viện. Sách mang tặng bao gồm SGK đã học xong mà không có
nhu cầu dùng lại; sách từ điển; sách tham khảo; sách truyện các loại; sách văn
học; sách về kỹ năng sống (KNS).... Số sách tặng sẽ được sàng lọc, loại trừ
những sách có nội dung xấu, CBTV xử lý nghiệp vụ và quản lý việc mượn/trả
theo đúng quy định. Với tủ sách này khi tổ chức cho mượn SGK sẽ có điều
khoản riêng, theo đó có 2 đối tượng được ưu tiên mượn gồm: những học sinh có
hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo và những học sinh có SGK cũ đã học qua tặng
cho thư viện (hình thức đổi chuyển để được sử dụng SGK ở bậc cao hơn).
Chính nhờ vào biện pháp này mà hàng năm thư viện đã bổ sung được một
lượng sách lớn cho thư viện. Đặc biệt giải quyết được lượng SGK thiếu cho
những em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, hộ nghèo không có điều kiện mua
sách. Đồng thời giáo dục tính tiết kiệm, sẻ chia và ý thức giữ gìn, trân trọng sách
cho học sinh.
Ba là: Vận động, tiếp nhận tài trợ sách từ các tổ chức, nhóm thiện nguyện
trong và ngoài nước. Biện pháp này bắt buộc Hiệu trưởng hoặc các thành viên
trong đơn vị phải có được các mối quan hệ, sự liên kết chính đáng với thành
viên của tổ chức hoặc nhóm thiện nguyện đang có mục tiêu làm về sách. Sau khi
nắm bắt và sàng lọc thông tin và chủ động đề xuất tài trợ. Tiếp tục thuyết phục
đối tác bằng việc trao đổi với họ một số thông tin về nhu cầu của học sinh mong
8


muốn được đọc sách; mục tiêu hướng tới của nhà trường là xây dựng văn hóa

đọc; cách thức mà nhà trường tổ chức hoạt động thư viện để học sinh dễ dàng
tiếp cận với sách nhanh nhất, dễ nhất có thể. Nếu đã thuyết phục được đối tác
đồng ý tài trợ cần nắm rõ yêu cầu của họ cụ thể là gì và đưa ra bàn bạc trong nhà
trường để có quyết định tiếp nhận hay không tiếp nhận tài trợ.
Trong trường hợp tiếp nhận tài trợ sách từ các tổ chức hoặc nhóm thiện
nguyện bắt buộc phải kiểm tra, sàng lọc sách theo tiêu chuẩn sử dụng trong nhà
trường phổ thông, tiếp tục xử lý nghiệp vụ và quản lý việc mượn/trả theo đúng
quy định.
Bốn là: Kết nối lưu động thư viện huyện và lưu động tủ sách tại địa phương.
Thư viện huyện là nơi có nguồn tài liệu phong phú, đa dạng hơn thư viện
trường; còn tủ sách ở cơ quan ủy ban nhân dân (UBND) xã có sách về kỹ thuật,
về sức khỏe và sách pháp luật. Đây là một cách làm sáng tạo trong điều kiện
kinh phí bổ sung tài liệu hạn chế, vốn tài liệu thư viện nhà trường chưa đáp ứng
được nhu cầu của bạn đọc. Để thực hiện, Hiệu trưởng cần làm việc trực tiếp với
người quản lý thư viện huyện và người quản lý tủ sách tại địa phương xin ý kiến
cho phép và thỏa thuận thời gian lưu động sách. Bằng biện pháp này sẽ giúp gia
tăng số lượng và chủng loại tài liệu trong thư viện nhanh và hiệu quả mà không
phải đầu tư kinh phí mua mới.
2. Đa dạng hóa mô hình thư viện để mở rộng các hoạt
động phục vụ bạn đọc.
Bạn đọc quan trọng nhất của thư viện trường học là học sinh, các em là trung
tâm trong mọi hoạt động của thư viện, tất cả mọi hoạt động của thư viện đều
nhằm một mục đích là thỏa mãn tối đa nhu cầu của bạn đọc. Hoạt động của thư
viện trường học không chỉ đơn giản là các hoạt động tuyên truyền, giới thiệu và
phục vụ tài liệu mà còn là những hoạt động và dịch vụ hỗ trợ cho học sinh trong
quá trình học tập và phát triển toàn diện. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nhu cầu
đọc, hướng dẫn để tổ chức hoạt động đọc là công việc hết sức cần thiết.
Ở trường THCS Quang Hiến, kể từ khi được công nhận trường đạt CQG, thư
viện đạt tiêu chuẩn tiên tiến thì việc tổ chức mô hình thư viện truyền thống cùng
phương thức phục vụ bạn đọc “duy nhất” dưới hình thức “kho đóng” không còn

phù hợp nữa, nó không thỏa mãn tối đa nhu cầu của bạn đọc. Bởi vậy đòi hỏi
nhà trường phải thay đổi theo hướng đa dạng hóa mô hình thư viện. Chúng tôi
kết hợp và tổ chức song song nhiều loại hình thư viện trong nhà trường, cũng
đồng nghĩa với việc mở rộng các hoạt động phục vụ bạn đọc. Sau đây là các mô
hình thư viện và các hình thức phục vụ mà chúng tôi đã sử dụng:

9


* Thư viện truyền thống: Duy trì hiệu quả thư viện truyền thống, học sinh vẫn
đến thư viện tra cứu mục lục, viết phiếu yêu cầu và được CBTV lấy sách từ kho
cho mượn đọc tại phòng đọc hoặc mượn mang về.
* Thư viện tự chọn (kho mở): Đầu tiên chỉ là một bàn lớn đặt tại phòng đọc.
Các loại sách chủ yếu là sách dành cho tuổi mới lớn, sách khám phá về khoa
học, sách lịch sử, truyện thiếu nhi, báo, tạp chí... được xếp theo từng loại ngăn
nắp có nhãn dán phân loại cho từng loại sách. Học sinh đến phòng đọc có thể
trực tiếp xem xét tỉ mỉ về nội dung, chủ đề của sách và lựa chọn mà không phải
làm các thủ tục mượn sách, không phải chờ đợi qua khâu trung gian là CBTV đi
lấy sách từ kho.
Mô hình và hình thức hoạt động này rất tiện lợi, nó khắc phục được tồn tại
vấn đề CBTV phải làm nhiều công tác kiêm nhiệm; có thể phục vụ được mọi lúc
trong giờ hoạt động của nhà trường mà vẫn không mất thời gian, công sức của
CBTV cũng như bạn đọc; không những thế nó còn phát huy tính độc lập, tự chủ
của bạn đọc học sinh thông qua việc để bạn đọc được tiếp xúc trực tiếp với
nguồn tài liệu của thư viện.
Nhằm nâng cao hiệu quả của mô hình thư viện tự chọn, cuối năm học 20162017, nhà trường đã đầu tư xây dựng một phòng riêng rộng trên 20m 2 cho hoạt
động này tại vị trí thuận lợi cho việc đi lại, sinh hoạt và học tập của học sinh, có
không gian thoáng mát, rộng rãi, xung quanh có cây xanh lại gần mái che sân
khấu của nhà trường. Nhờ vậy mà số lượng bạn đọc đến với thư viện đông hơn,
văn hóa đọc trong nhà trường được cải thiện, nhận thức của học sinh cũng được

nâng lên.
* Thư viện xanh và thư viện ngoài trời: là hình thức ghép của 2 mô hình thư
viện hiện nay. Thư viện xanh được thiết kế ở những khu vực có nhiều cây xanh;
thư viện ngoài trời lại có thể tận dụng không gian trống của trường để hoạt động.
Đây là mô hình thư viện mang tính bền vững và thân thiện với môi trường, tiết
kiệm tối đa nguồn tài nguyên (nước, năng lượng điện…). Dưới tán những cây
xanh có bóng mát che phủ lớn, chúng tôi bố trí chỗ ngồi là ghế đá hoặc là thành
bồn cây lớn; tại những không gian trống có thể hoạt động lại luôn được quan
tâm chăm sóc vệ sinh sạch sẽ, trang trí thêm những chậu cây, hoa nhỏ cho không
gian thêm hấp dẫn. Ở trường THCS Quang Hiến, mô hình thư viện xanh và thư
viện ngoài trời được cách tân cho phù hợp với điều kiện của thực tiễn, nó được
gắn kết trực tiếp với thư viện tự chọn và là anh em sinh ba với thư viện tự chọn
của nhà trường. Thay vì bố trí những kệ sách, tủ sách dưới tán cây, học sinh sẽ
chọn sách từ kho mở và lựa chọn một chỗ ngồi bên ngoài sân trường, dưới
những tán cây hoặc mái che để đọc sách; hoặc có thể chọn bất kỳ một không
gian nào đó trong khuôn viên nhà trường để đọc sách. Bằng mô hình này, học
10


sinh có được khu vực đọc sách theo sở thích, thoải mái, gần gũi với thiên nhiên.
Các em học sinh được đọc sách, thảo luận trong một môi trường mát mẻ, trong
lành và đẹp mắt. Không chỉ vậy, chúng tôi còn mang đến cho các em không chỉ
một thế giới sách gần gũi, mà có thể kết hợp giáo dục các em tình yêu thiên
nhiên, ý thức bảo vệ môi trường sống ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường.
* Tủ sách lớp học (thư viện lớp học): Từ năm học 2017-2018, chúng tôi triển
khai thêm một mô hình thư viện đặt tại các lớp học. Mỗi lớp có 01 tủ sách nhỏ
treo tại một góc cuối lớp và một cuốn sổ bạn đọc do cộng tác viên thư viện của
lớp quản lý và duy trì hoạt động. Sách sẽ được luân chuyển từ thư viện của nhà
trường vào tủ sách lớp học theo chủ đề hoặc theo chuyên đề tùy thuộc vào
chương trình hoạt động của lớp, của khối hoặc của nhà trường, nhằm thu hút học

sinh và tạo thói quen đọc sách cho các em. Mặt khác sách cũng có thể huy động
từ nguồn tài trợ của phụ huynh, giáo viên hoặc của chính học sinh trong lớp.
Mô hình này có nhiều ưu điểm vượt trội. Trước hết là tiết kiệm chi phí thực
hiện lại tiện lợi dành cho cả học sinh và giáo viên. Đặc biệt với học sinh THCS
lịch học gần như cả ngày, các em chỉ có thể đến thư viện vào giờ ra chơi ngắn
ngủi (5 phút giữa các giờ và 15 phút giữa buổi); Tiếp đó là việc đặt tủ sách tại
các lớp học sẽ tăng cơ hội để các em học sinh tiếp xúc với tài liệu, khiến học
sinh đọc sách thường xuyên hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên giúp đỡ
học sinh tự rèn luyện thói quen đọc sách, hình thành khả năng tư duy và tự học
suốt đời, từ đó góp phần hình thành và hoàn thiện nhân cách; Mặt khác hình
thức này giúp cho những bạn học sinh nhút nhát, ngại đến thư viện vẫn có thể dễ
dàng tiếp cận được với sách, báo, tài liệu.
Có thể nói những mô hình thư viện và các hoạt động phục vụ bạn đọc mà nhà
trường đã triển khai áp dụng nêu trên đã khắc phục được rất nhiều tồn tại cơ bản
mà thư viện nhà trường THCS Quang Hiến đang gặp phải. Tồn tại đó bao gồm
các vấn đề về: vốn tư liệu; sự bất tiện, mất thời gian trong thủ tục mượn sách; sự
bất cập trong thực hiện nhiệm vụ được giao của CBTV làm ảnh hưởng đến chất
lượng phục vụ bạn đọc; và cả sự e ngại, sự mất tự do, không thoải mái của học
sinh khi ngồi chung phòng đọc với giáo viên...
Hơn thế nữa, các mô hình thư viện đã thu hút đông đảo học sinh đến với thư
viện hơn, bước đầu hình thành nhu cầu đọc sách nhằm xây dựng và phát triển
văn hoá đọc, một hoạt động mang tính độc lập. Qua những hoạt động được tổ
chức trong các mô hình thư viện tại trường THCS Quang Hiến, chúng tôi nhận
thức rõ ràng hơn vai trò của thư viện không chỉ dừng lại ở việc cung cấp tài liệu
mà còn đào tạo cho học sinh những kỹ năng cơ bản như: kỹ năng làm việc
nhóm, kỹ năng nghiên cứu, kỹ năng giao tiếp… rèn luyện cho học sinh tư duy
11


độc lập và học tập một cách tự giác. Như vậy, thư viện đã hỗ trợ nhà trường

trong quá trình đào tạo học sinh phát triển toàn diện.
3. Đẩy mạnh các hoạt động về sách đảm bảo tính sáng tạo, hấp dẫn, kích
thích được ham muốn tìm tòi, khám phá nơi học sinh nhằm khơi dậy và
nâng cao văn hóa đọc trong nhà trường.
Thư viện trường học có vị trí vai trò, nhiệm vụ và chức năng vô cùng quan
trọng. Nó là động lực đóng góp vào việc cải tiến giáo dục nhà trường nhằm sử
dụng các nguồn tài liệu để hỗ trợ cho việc học tập, giảng dạy. Cả hai hoạt động
này đều sử dụng công cụ là sách báo (bao gồm cả sách báo điện tử).
Đã từ bao đời nay sách luôn là món ăn tinh thần không thể thiếu được trong
cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Sách luôn là kho tàng huyền bí làm kích
thích sự tò mò của biết bao người. Sách càng bí ẩn bao nhiêu thì càng gợi sự say
mê của con người bấy nhiêu. Nếu chúng ta không thể sống thiếu bạn thì ta cũng
không thể sống thiếu sách được. Sách là chiếc chìa khóa vạn năng mở mang sự
hiểu biết và làm đẹp cuộc đời[1]. Nhà văn Maxim Gorki nói “Sách mở rộng ra
trước mắt tôi những chân trời mới”. Vâng, sách có vai trò quan trọng trong đời
sống xã hội. Đọc sách là việc từ xa xưa được xem là một việc hết sức thanh tao,
người đọc là người có phẩm chất cao quý. Đọc sách để bổ sung, nâng cao tri
thức là một cách học truyền thống mang lại hiệu quả cao của học sinh ở các nhà
trường phổ thông[1].
Ngày nay văn hóa đọc đã có những thay đổi so với trước, tác động không nhỏ
tới nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của đọc sách, vai trò của những
cuốn sách hay trong việc bổ trợ tri thức học đường. Sự lệ thuộc vào tri thức trên
mạng kèm theo những hệ lụy như tri thức không chính xác, tản mạn, không hệ
thống, không rõ nguồn trích dẫn khiến việc tư duy và phương pháp học của học
sinh thiếu khoa học và sự sáng tạo. Trong khi đó, nguồn sách của thư viện ở
nhiều nhà trường rất dồi dào thì lại không được khai thác triệt để. Học sinh chưa
thấy được điều thú vị, cái hay của việc cầm trên tay cuốn sách mới và bổ ích.
Khơi dậy văn hóa đọc là một việc làm đặc biệt quan trọng đối với các nhà
trường trong giai đoạn hiện nay. Việc học tập, tìm hiểu tri thức bộ môn và cuộc
sống qua kênh sách bằng hình thức đọc tuy là phương pháp truyền thống nhưng

không hề cũ đối với người học. Chính vì thế, nhà trường cần có những phương
pháp tổ chức để khơi dậy văn hóa đọc trong học sinh. Để hướng tới mục tiêu đó,
chúng tôi đã có những cách làm rất hiệu quả sau đây:
* Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức cho học sinh: Thông
qua tiết sinh hoạt tập thể đầu tuần, các giờ hoạt động ngoại khóa cần tuyên
truyền để học sinh nhận thức được sách là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá,
một cuốn sách tốt giống như một người bạn hiền; học sinh hiểu được vai trò, giá
12


trị to lớn của sách trong học tập và cuộc sống, tầm quan trọng của việc đọc sách
trong quá trình nhận thức và hoàn thiện nhân cách của mỗi con người.
* Thường xuyên tổ chức giới thiệu sách đối với học sinh toàn trường. Hoạt
động này có một số hình thức cơ bản như sau:
+ Điểm sách: Là một cuộc nói truyện ngắn gọn, giới thiệu một hay nhiều
cuốn sách đã viết sẵn theo một dàn bài định trước. Giới thiệu sách một cách
ngắn gọn gồm tên sách, tên tác giả, hình thức cuốn sách, nhà xuất bản, nội dung
chủ yếu của cuốn sách, đối tượng của cuốn sách. Bằng phương pháp này có thể
giới thiệu được nhiều sách bao gồm cả giới thiệu sách mới và có nội dung tập
trung.
+ Kể truyện sách: là thuật lại những điều đã ghi trong sách cho người khác
nghe. Muốn làm được điều này thì người kể phải tiếp thu nhuần nhuyễn nội
dung của sách và trước khi kể phải biết chọn nội dung, chọn đề tài cho phù hợp
với trình độ, lứa tuổi của học sinh. Người kể có thể là CBTV, là giáo viên hoặc
là học sinh.
Hoạt động giới thiệu sách có thể thực hiện bằng nhiều hình thức như: giới
thiệu trên bảng tin; niêm yết tại thư viện và các vị trí thuận lợi quan sát trong
khuôn viên, trong các lớp học; lồng ghép vào giờ sinh hoạt dưới cờ đầu tuần.
Hoạt động này muốn đạt hiệu quả phải tổ chức thường xuyên theo định kỳ, mỗi
tuần nên giới thiệu kĩ lưỡng một đến hai cuốn sách mới hay một ấn phẩm mới

xuất bản liên quan đến tri thức học đường và cuộc sống; cũng có thể giới thiệu
về cuốn sách hay ấn phẩm đã cũ nhưng lại có giá trị cao về tư tưởng hay giáo
dục; cũng có thể giới thiệu sách theo chủ điểm, chuyên đề...
* Định kỳ tổ chức hoạt động ngoại khóa “Ngày hội đọc” theo quy mô toàn
trường.
Vào đầu năm học, Hiệu trưởng nhà trường giao cho tổ hoạt động giáo ngoại khóa
xây dựng kế hoạch tổ chức “Ngày hội đọc” từ 1-2 lần/năm, chủ động phối hợp với
CBTV và GVCN các lớp để tổ chức thực hiện. Trọng tâm của hoạt động là tập trung
cao điểm cho dịp kỷ niệm “Ngày sách Việt Nam” (ngày 21 tháng 4 hàng năm).
Trong các năm học trước nhà trường tổ chức mỗi năm một lần, năm học 2017-2018
nhà trường đã tổ chức lần 1 vào tháng 10/2017, theo kế hoạch lần 2 sẽ tổ chức vào
tháng 4/2018 (sau khi thi học kỳ II).
“Ngày Hội đọc sách” là một hoạt động ngoại khoá mang tính sáng tạo trên cơ
sở phối kết hợp cả hai hình thức tuyên truyền miệng và trực quan nhằm hưởng
ứng “Ngày Sách Việt Nam” và khơi dậy sự hứng thú của học sinh với sách, phát
triển văn hóa đọc trong nhà trường. Với hoạt động ngoại khóa “Ngày Hội đọc
sách”, chúng ta có thể tổ chức nhiều hoạt động phong phú như tuyên truyền
sách, trưng bày, triển lãm sách, quyên góp sách và tổ chức các cuộc thi như: thi
13


giới thiệu sách, thi thuyết trình sách, thi vẽ tranh theo sách, thi viết cảm thụ về
sách, thi xếp sách nghệ thuật, thi nhập vai nhân vật...
* Quy định giờ đọc sách bắt buộc vào các ngày thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần.
Với mục tiêu nâng cao hiệu quả hoạt động thư viện, phát triển văn hóa đọc trong
nhà trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đối với nhà trường
đã đạt CQG như trường THCS Quang Hiến. Sau khi đã hoàn thiện các mô hình
thư viện, thực hiện đa dạng các hình thức phục vụ bạn đọc, bên cạnh các hoạt
động về sách nêu trên, nhà trường còn có chế tài quy định bắt buộc giờ đọc sách
trong toàn trường. Theo đó, giờ sinh hoạt 15 phút hàng ngày các thứ 3,4,5,6 là

giờ đọc sách bắt buộc để tạo thói quen tự học, tự nghiên cứu cho học sinh, đồng
thời giúp học sinh duy trì văn hóa đọc.
4. Nâng cao trình độ, bồi dưỡng năng lực cho CBTV. Xây dựng và phát
triển đội ngũ cộng tác viên cho thư viện.
* Đề cao vai trò của CBTV trong công tác thư viện nhà trường.
Chúng ta đều nhận thấy rằng vai trò của thư viện trường học là yếu tố cấu
thành chất lượng giáo dục, là bộ phận không thể thiếu trong việc hình thành môi
trường văn hóa học đường. Trong công tác thư viện, CBTV là “chiếc cầu nối”
giữa bạn đọc với tài liệu, hướng dẫn cho bạn đọc khai thác được nguồn tài liệu
tốt nhất có trong thư viện. Nếu như được đầu tư thỏa đáng, CBTV sẽ đóng một
vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao chất lượng giáo dục, hỗ trợ cho
học sinh rèn luyện để trở thành những người có khả năng tư duy sáng tạo và biết
tự học tập suốt đời. Chính vì vậy, người CBTV trong nhà trường phải được đào
tạo bài bản, chuyên sâu về nghiệp vụ. Bản thân CBTV phải thường xuyên tự bồi
dưỡng, tham gia đào tạo để nâng cao trình độ và năng lực quản lý, tổ chức các
hoạt động thư viện. Đồng thời chủ động tích cực học hỏi kinh nghiệm của các
thư viện bạn để hoàn thành tốt công tác của mình. Bên cạnh đó phải chú ý rèn
luyện tác phong nhanh nhẹn, thái độ phục vụ bạn đọc niềm nở, thân thiện và
nhiệt tình, luôn vui vẻ hoà nhã, phát huy vai trò của CBTV trong trường học,
thực hiện nếp sống văn minh lành mạnh[1].
Đối với nhà trường và công đoàn phải quan tâm tạo mọi điều kiện để CBTV
đi học chuẩn hóa và nâng cao trình độ đào tạo. Bố trí cử tham gia các đợt tập
huấn về nghiệp vụ, cập nhật kỹ thuật quản lý thư viện bằng công nghệ thông tin.
Hiệu trưởng cần giao nhiệm vụ cụ thể, chi tiết hàng năm cho CBTV; đôn đốc,
kiểm tra công tác xử lý nghiệp vụ, công tác phục vụ bạn đọc và công tác tổ chức
các hoạt động về sách trong nhà trường theo kế hoạch do CBTV lập đã được phê
duyệt.
Để thực hiện mục tiêu phát triển thư viện trường học thực sự trở thành trung
tâm sinh hoạt văn hóa, khoa học trọng yếu, tạo cơ sở từng bước thay đổi phương
pháp dạy và học, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà

14


trường, không thể không thừa nhận vai trò của CBTV. Đồng thời không cho
phép người CBTV chỉ coi mình là “nhân viên giữ chìa khóa kho sách và phòng
đọc sách”, mà bản thân họ phải coi họ “như một người thầy trong nhà trường”,
đặt trách nhiệm của họ trong vai trò tư vấn, hướng dẫn học sinh chọn sách, đọc
sách, khích lệ đam mê đọc sách của học sinh.
* Phát huy vai trò của tổ công tác thư viện.
Điều 8, Chương 3, Quyết định số 61/1998/QĐ-BGD&ĐT ngày 06 tháng 11
năm 1998 về Quy chế tổ chức và hoạt động thư viện trường phổ thông quy định:
“Mỗi trường vào đầu năm học thành lập một tổ công tác thư viện do Hiệu trưởng
hoặc Phó hiệu trưởng trực tiếp làm tổ trưởng...”[2]. Tổ công tác thư viện sẽ phụ
trách hướng dẫn, giám sát, kiểm tra, quản lý các hoạt động của thư viện. Theo
dõi, đôn đốc các hoạt động trong thư viện. Hướng dẫn cán bộ thư viện xây dựng
quy chế hoạt động của thư viện. Hỗ trợ CBTV trong việc quản lý chung và trong
mọi công tác của thư viện, trưng cầu, thu thập ý kiến của giáo viên trong nhà
trường về công tác thư viện và về việc bổ sung sách, tài liệu thư viện.
Đội ngũ cộng tác viên (CTV) là học sinh: Giúp cán bộ thư viện trong một số
khâu kĩ thuật nghiệp vụ thư viện. Cùng cán bộ thư viện phục vụ bạn đọc, quản lý
tài liệu phục vụ bạn đọc. Trưng cầu ý kiến của học sinh trong trường về công tác
phục vụ bạn đọc và về việc bổ sung sách, tài liệu thư viện.
Trong thực tế, với vai trò và chức năng trọng yếu của thư viện đối với công
tác giáo dục của nhà trường, một mình CBTV cho dù có không kiêm nhiệm một
công việc nào khác, cũng không thể kiểm soát và thực hiện hết chức năng của
thư viện theo yêu cầu của giáo dục. Chính vì vậy cần phát huy mọi khả năng của
đội ngũ CTV thư viện bằng cách phân công cho mỗi tổ viên chủ động thực hiện
một nhiệm vụ cụ thể trong hoạt động thư viện. Định kỳ tổ chức tập huấn nghiệp
vụ cho tất cả các thành viên tổ công tác thư viện. Cần đặc biệt quan tâm đội ngũ
CTV là học sinh vì đây là lực lượng hoạt động nòng cốt trong các lớp trực tiếp

quản lý và tổ chức các mô hình thư viện hiện có của thư viện nhà trường nói
chung, mô hình Tủ sách lớp học nói riêng hoạt động đạt hiệu quả.
* Tóm lại: Từ thực trạng công tác tổ chức hoạt động thư viện của trường
THCS Quang Hiến, một trường đã được công nhận đạt CQG, thư viện đã đạt
chất lượng tiên tiến. Với mục tiêu không để thư viện chết, không để thư viện chỉ
tồn tại như một tiêu chí làm điều kiện để công nhận lại trường đạt CQG giai
đoạn 2, mà phải biến thư viện thành trung tâm văn hóa, thông tin, thành địa chỉ
rèn luyện cho học sinh năng lực tự học và sáng tạo. Bản thân là một Hiệu
trưởng, tôi đã xác định nhiệm vụ của đơn vị sau khi công nhận CQG là thúc đẩy
các hoạt động lên một tầm cao mới, khai thác tối đa và hiệu quả mọi nguồn lực
đã có từ đầu tư xây dựng trườngCQG trong đó có thư viện.

15


Phương thức tổ chức, hoạt động thư viện được đưa vào danh sách ưu tiên nên
tôi đã phân tích, đánh giá có 5 vấn đề tồn tại cơ bản, từ đó nghiên cứu, nhận định
vấn đề, tìm nguyên nhân để đưa ra các giải pháp tháo gỡ. Trong suốt 3 năm qua
(từ sau trường được công nhận đạt CQG - tháng 12/2014), tôi đã chỉ đạo thực
hiện đồng bộ một hệ thống giải pháp phù hợp, tổ chức thực hiện linh hoạt như
đã trình bày chi tiết nêu trên. Qua đó đã đạt được những kết quả rất thuyết phục,
đem đến một luồng sinh khí mới cho hoạt động thư viện tại nhà trường.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Bằng việc thực hiện 4 nhóm giải pháp để giải quyết 5 vấn đề tồn tại trong
hoạt động thư viện của nhà trường đã được xác định. Kết quả đạt được như sau:
1. Số lượng tài liệu của thư viện nhà trường tăng lên đáng kể chủ yếu từ
nguồn mua và tài trợ. Tổng số sách của thư viện tại thời điểm quý I năm 2018 so
với thời điểm tháng 01/2015 tăng 810 cuốn. Đặc biệt tủ sách thiếu nhi phục vụ
hoạt động của thư viện tự chọn được bổ sung vào kho mở trong 3 tháng đầu năm

2018 lên tới 288 cuốn bằng chương trình tài trợ, đáp ứng ngày một tốt hơn nhu
cầu đọc sách ngày càng cao của học sinh trong trường, góp phần trong công tác
giữ gìn và phát huy, phát triển văn hóa đọc. Sau đây là số liệu phát triển vốn tài
liệu đạt được trong 3 năm qua kể từ sau khi trường đạt CQG (2015):
(Đơn vị tính: cuốn)

Stt

Loại sách

Năm 2015
(Tháng 01/2015)

Năm 2016

Năm 2017

Năm 2018
(Tháng
3/2018)

1
2
3
4

Sách giáo khoa
Sách tham khảo
Sách nghiệp vụ
Sách pháp luật

Sách thiếu nhi

1991
300
131
53

1949
326
156
100

1949
361
175
100

1949
379
188
100

5

(Gồm: truyện các
loại; KH khám phá;
hạt giống tâm hồn)

1199


1364

1527

1815

Tổng số

3621

3895

4112

4431

2. Việc áp dụng đa dạng hóa mô hình thư viện và mở rộng các hoạt động
phục vụ bạn đọc một cách linh hoạt và phù hợp, thư viện đã được sự hưởng ứng
nhiệt tình của cán bộ, giáo viên, nhân viên, đặc biệt là các em học sinh trong
toàn trường. Phong trào học tập, nghiên cứu tài liệu của các em học sinh từ khối
6 đến khối 9 phát triển rõ rệt: 100 % học sinh tham gia đọc sách tại các loại hình
thư viện, nhiều nhất vẫn là tại cụm 3 mô hình thư viện (thư viện tự chọn - thư
viện xanh - thư viện ngoài trời). Qua đó tính đoàn kết, thân thiện giữa học sinh
16


với học sinh, học sinh và giáo viên, học sinh, giáo viên với môi trường thiên
nhiên được tăng lên. Đặc biệt đã tạo sự hòa đồng, giảm bớt sự e dè, tự ti - là hạn
chế lớn nhất của học sinh người dân tộc thiểu số. Sự tự tin vào bản thân nơi các
em được tăng lên, các em cảm thấy mình được tự do, bình đẳng trong việc học,

việc đọc, nghiên cứu tài liệu, củng cố và nâng cao kiến thức hỗ trợ tốt hơn cho
việc học của các em.
3. Thông qua các hoạt động về sách đã kích thích được ham muốn tìm tòi,
khám phá và sáng tạo của học sinh. Các em được biết đến và tiếp cận với nhiều
bản sách, loại sách giúp ích cho việc nâng cao kiến thức, mở rộng hiểu biết để
học tập và rèn luyện nhân cách, phẩm chất đạo đức của người học sinh. Qua mỗi
lần tổ chức hoạt động, tôi nhận thấy học sinh tham gia đông hơn, nhiệt tình hơn,
tích cực hơn và ngày càng chất lượng. Đặc biệt chế tài quy định giờ đọc sách bắt
buộc đã cải thiện đáng kể thói quen và ham muốn đọc sách của học sinh, đóng
góp rõ nét trong việc phát triển văn hóa đọc trong nhà trường.
4. Bằng việc xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn, năng lực nghiệp vụ cho CBTV, đến nay CBTV đã có trình độ đại học, có
năng lực xử lý nghiệp vụ bằng phần mềm quản lý thư viện một cách thuần thục.
Việc tổ chức mô hình thư viện tự chọn (kho mở) đã giảm áp lực phục vụ bạn
đọc cho CBTV, giúp cho VBTV có nhiều thời gian để làm tốt công tác kiêm
nhiệm khác mà không phải đóng cửa thư viện. Bên cạnh đó, việc phân công
trách nhiệm, tập huấn hướng dẫn năng lực trợ giúp một cách chuyên nghiệp
cũng như tổ chức tốt hoạt động của đội ngũ cộng tác viên thư viện, đặc biệt là tại
các tủ sách lớp học, đã góp phần không nhỏ trong nâng cao hiệu quả hoạt động
của thư viện nhà trường trong những năm qua.
* Có thể nói: Áp dụng những giải pháp và việc làm cụ thể nêu trên cho hoạt
động thư viện tại trường THCS Quang Hiến tuy thời gian chưa dài, song hiệu
quả hoạt động thư viện đã có những khởi sắc và chuyển biến tích cực so với
trước đây. Từ chỗ hoạt động công tác thư viện của nhân viên với các công việc
chỉ lặp lại một cách đơn giản, không có sự đổi mới sáng tạo. Số lượng đầu sách,
tài liệu phục vụ ít, cách tổ chức hoạt động nhàm chán, thiếu thông tin, hiệu quả
thấp... phần nào làm ảnh hưởng đến hoạt động giáo dục của nhà trường.
Với cách làm này, nhà trường đã bước đầu đáp ứng được nhu cầu đọc sách,
nghiên cứu tài liệu của giáo viên và học sinh; giải quyết được những tồn tại hạn
chế trong tổ chức hoạt động thư viện của nhà trường (5 vấn đề). Nhờ đó mà hoạt

động thư viện được duy trì ổn định, chất lượng và hiệu quả; bạn đọc đến với thư
để nghiên cứu, học tập và giải trí ngày một nhiều hơn và trở nên thường xuyên.
17


Năng lực hoạt động tập thể, hoạt động nhóm, khả năng tư duy độc lập của học
sinh được nâng lên; chất lượng hai mặt giáo dục của nhà trường tiến bộ rõ rệt.
C. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Thư viện trường phổ thông là một bộ phận quan trọng, là thành tố cấu thành
trường. Thư viện trường học góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập
cho giáo viên và học sinh. Đối với bạn đọc là giáo viên, thư viện là kho tàng lưu
giữ những kiến thức bổ ích được lưu trữ qua từng thời gian đồng thời cung cấp,
bổ sung và cập nhật khối lượng thông tin làm cho nội dung bài giảng ngày càng
phong phú. Giáo viên có thể tiếp cận nhiều nguồn thông tin khác nhau để làm
giàu vốn kiến thức của mình, truyền tải đến học sinh lượng kiến thức tốt nhất.
Đối với bạn đọc là học sinh, thư viện có vai trò gián tiếp, xây dựng thói quen tự
học tự bồi dưỡng cho học sinh trong học tập và nghiên cứu khoa học. Mặc khác
thư viện giúp bạn đọc tạo được tính chủ động và hình thành hướng phấn đấu đạt
kết quả cao trong học tập của mình.
Sách trong thư viện là tài sản vô giá, là kho tàng về tri thức, là ngọn đèn bất
diệt của trí tuệ loài người. Từ xa xưa, ông cha ta đã rất đề cao tầm quan trọng
của sách, coi sách như gia tài đáng giá nhất mà cha mẹ để lại cho con cháu: "Để
vàng để bạc chẳng bằng để sách cho con" (Ngạn ngữ Việt Nam). Danh ngôn thế
giới cũng ghi nhận sự quý báu không thể thiếu của sách đối với đời sống tinh
thần của con người, chẳng hạn, ví sách như bánh mì của tinh thần, ví căn nhà
không có sách giống như cơ thể không có linh hồn, coi sách là người bạn tốt
nhất, đặc biệt là một cuốn sách tốt được coi như một người bạn chân thực không
bao giờ phản bội. Khi chưa biết, sách là người thầy của chúng ta, khi căng
thẳng, sách là nguồn động viên an ủi giúp ta tiến bước. Khi buồn bã, giận hờn

thì sách là liều thuốc xoa dịu vết thương. Sách gợi lại cho chúng ta những kỉ
niệm đáng nhớ, liên tưởng cho chúng ta về một thế giới tưởng chừng vô hình
trừu tượng mà lại hiển hiển trong cuộc sống. Sách còn là nguồn thông tin, trao
đổi kiến thức, giao lưu giữa hàng nghìn vùng miền xa lạ, kho tàng kiến thức cho
nhân loại. Thế giới có sách vở là thế giới giàu tri thức, nhiều công nghệ. Thế
giới không có sách là thế giới nghèo nàn lạc hậu. Không chỉ có vậy, sách đã dạy
chúng ta biết bao điều kì diệu trong cuộc sống, tu dưỡng đạo đức cho ta ngày
một văn minh. Sách giúp ta tái hiện lại trạng thái, sự sống, hoạt động của con
người. Nó chỉ ra một tương lai mới, hay quay về quá khứ để lấy lại những kinh
nghiệm. Những trang sách thuần tuý ấy đã đi vào trong nền giáo dục và gắn liền
với giáo dục. Sách không chỉ là hành trang của con người trong trường học, mà
còn là hành trang của con người trong cuộc sống đời thường và ngoài xã hội. Có
thể khẳng định, một trường học có thể thiếu nhiều thứ: phòng học, bàn ghế, thiết
bị dạy học hiện đại... nhưng không thể thiếu sách.
18


Nhận thức về vai trò của thư viện, tầm quan trọng của sách trong nhà trường
và đối với giáo viên, học sinh trong giảng dạy và học tập. Bản thân tôi trong vai
trò của người lãnh đạo quản lý, đã mạnh dạn đề xuất ý tưởng, xây dựng kế
hoạch, chỉ đạo thực hiện một số mô hình thư viện phù hợp với thực tiễn nhà
trường. Đồng thời chỉ đạo đổi mới hình thức phục vụ bạn đọc, mở rộng và sáng
tạo hơn trong tổ chức các hoạt động thư viên. Nhờ có sự đồng tình ủng hộ và
tham mưu của tập thể CBGV nhà trường; có sự vào cuộc nhập vai hiệu quả của
CBTV và đội ngũ cộng tác viên mà nòng cốt là tổng phụ trách Đội, các GVCN
đã giúp tôi thực hiện thành công sáng kiến, đem lại một diện mạo mới cả về hình
thức lẫn nội dung cho thư viện nhà trường. Bản báo cáo SKKN này là sự tổng
hợp một số kinh nghiệm của bản thân trong quá trình thực chỉ đạo nâng cao hiệu
quả hoạt động thư viện trong nhà trường, áp dụng cho mô hình một trường học
đã được công nhận đạt CQG nhằm giới thiệu tới các bạn bè đồng nghiệp, nếu

được là đề xuất với ngành về một mô hình thư viện đa phương thức này với mục
đích chia sẻ kinh nghiệm để thư viện trong các nhà trường thuộc ngành giáo dục
Lang Chánh hoạt động ngày càng hiệu quả hơn.
2. Kiến nghị
Đề nghị phòng GD&ĐT sau khi thẩm định SKKN, nếu phù hợp cần triển
khai nhân rộng các mô hình thư viện; phổ biến rộng rãi hình thức phục vụ hiệu
quả cũng như phương pháp huy động vốn tài liệu cho thư viện các nhà trường./.
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
P. HIỆU TRƯỞNG

Lang Chánh, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.
NGƯỜI VIẾT

Nguyễn Ngọc Lan

19


20



×