Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt và ý kiến của nhóm thực hiện nhằm khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (96.66 KB, 15 trang )

MỞ BÀI
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một loại thuế gián thu, đánh vào một số hàng hóa,
dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế theo qui định của luật thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế tiêu thụ đặc biệt đảm bảo nguồn thu Ngân sách Nhà nước. Là công cụ rất quan
trọng để nhà nước thực hiện chức năng hướng dẫn, điều chỉnh việc sản xuất, kinh
doanh,lưu thông và tiêu dùng một số hàng hóa, dịch vụ mang tính chất xa xỉ, chưa
thật cần thiết cho nhu cầu xã hội thể hiện sự tăng cường quản lý, kiểm soát của nhà
nước một cách tập trung, chặt chẽ đối với các loại hàng hóa, dịch vụ này. Thuế tiêu
thụ đặc biệt là công cụ để nhà nước điều tiết thu nhập của người tiêu dùng vào ngân
sách nhà nước một cách công bằng hợp lý: ai tiêu dùng nhiều các hàng hóa, dịch vụ
chịu thuế tiêu thụ đặc biệt thì nộp thuế nhiều hơn người tiêu dùng ít hoặc không phải
nộp thuế nếu không tiêu dùng các hàng hóa, dịch vụ đó. Đồng thời, khắc phục tình
trạng bất đối xứng thông tin trong việc tiêu dùng hàng hóa gây ảnh hưởng đến sức
khỏe như thuốc lá, rượu…
Việc ban hành thuế tiêu thụ đặc biệt có ý nghĩa quan trọng như trên, vậy đối
với việc áp dụng thực tiễn thuế tiêu thụ đặc biệt như thế nào?
Để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm chúng em đã chọn đề bài cho bài tập
nhóm số 2 của mình như sau đề số 4 : “Thực tiễn áp dụng pháp luật thuế tiêu thụ
đặc biệt và ý kiến của nhóm thực hiện nhằm khắc phục”.
NỘI DUNG
I.
Những vấn đề chung về thuế tiêu thụ đặc biệt:
1. Khái niệm thuế tiêu thụ đặc biệt:
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế đánh vào một số loại hàng hóa dịch vụ đặc biệt, cần
điều tiết mạnh nhằm hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng đồng thời tăng nguồn thu cho
ngân sách nhà nước.
1


Các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt có tính chất như sau:
- Một số hàng hóa, dịch vụ có giá bán cao.


- Cầu của những hàng hóa này thường kém co giãn so với giá cả.
- Hàng hóa có thể có hại cho sức khỏe, làm ảnh hưởng không tốt đến môi
trường.
2. Đặc điểm của thuế tiêu thụ đặc biệt:
- Thuế tiêu thụ đặc biệt có diện đánh thuế hẹp. Việc quy định các hàng hóa, dịch
vụ nào thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt còn tùy thuộc vào chính sách
điều tiết của từng quốc gia, hoạt động sản xuất tiêu dùng của từng nước; thu nhập
quốc dân; phong tục và tập quán tiêu dùng của một số loại hàng hóa, dịch vụ trong
từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể. Nhìn chung, các quốcgia thường
đánh thuế tiêu thụ đặc biệt vào mộtsố mặt hàng được coi là cao cấp và không thiết
yếu, Nhà nước khôngkhuyến khích tiêu dùng như: thuốc hút, rượu, bia, xăng dầu.
- Thuế suất tiêu thụ đặc biệt có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỉ lệ
và thường cao hơn so với thuế suất của các loại thuế gián thu khác. Thuế
suất tiêu thụ đặc biệt có thể là thuế suất cố định hoặc thuế suất tỉ lệ, tùy
theo quan điểm của các nhà làm luật ở mỗi quốc gia.
Tại Việt Nam, áp dụng biểu thuế suất tỉ lệ cho thuế tiêu dùng đặc biệt. Ví dụ :
thuốc lá điếu, xì gà và các chế phẩm khác từ cây thuốc lá có thuế suất là 65%
( Điều 7 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2008).
Thuế tiêu thụ đặc biệt đánh vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa chịu thuế
một cách gián tiếp thông qua giá cả. Người sản xuất và kinhdoanh hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là người nộp thuế cho nhà nước, từ đó thấy đây
là một loại thuế gián thu.
Thuế tiêu thụ đặc biệt thường có mức thuế suất cao nhằm điều tiết sản
xuất và hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, thông qua đó nhằm điều tiết một phầnthu
nhập của những người tiêu dùng các hàng hoá, dịch vụ này.
2


- Thuế tiêu thụ đặc biệt được đánh giá một lần vào khâu sản xuất kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ. Đây là loại thuế tiêu dùng một giai đoạn nên

không gây sự trùng lặp qua các khâu của quá trình luân chuyển hàng hóa.
3. Nội dung pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt

Chủ thể quan hệ pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt

Chủ thể quyền lực – cơ quan nhà nước Bộ tài chính và tổng cục thuế có thẩm
quyền xem xét và quyết định các trường hợp miễn hoặc giảm thuế tiêu thụ đặc biệt.
Cơ quan thu (cơ quan thuế, hải quan, cơ quan tài chính) có thẩm quyền hướng dẫn,
kiểm tra, thanh tra việc thu nộp thuế tiêu thụ đặc biệt và áp dụng các chế tài khi cần
thiết.

Chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế tiêu thụ đặc biệt :

Đối tượng nộp thuế tiêu thụ đặc biệt, theo Điều 4, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
năm 2008, là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ
thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Trường hợp tổ chức, cá nhân có hoạt
động kinh doanh xuất khẩu mua hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt của
cơ sở sản xuất để xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ trong nước thì tổ
chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.

Đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt: Nhìn chung, các hàng hoá, dịch vụ chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt thường có các tính chất sau: Một số hàng hoá, dịch vụ có giá
bán cao. Cầu của những hàng hoá này thường kém co giãn so với giá cả. Hàng hoá
có thể có hại cho sức khoẻ, làm ảnh hưởng không tốt đến môi trường.
Theo quy định tại Điều 2 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 2008 thì các hàng hoá, dịch
vụ sau đây là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Hàng hoá: Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít,
nhai, ngửi, ngậm; Rượu; Bia; Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa
chở hàng loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang
chở người và khoang chở hàng; Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi

3


lanh trên 125cm3; Tàu bay, du thuyền; Xăng các loại, nap-ta (naphtha), chế phẩm tái
hợp (reformade component) và các chế phẩm khác để pha chế xăng; Điều hoà nhiệt
độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống; Bài lá; Vàng mã, hàng mã.
- Dịch vụ: Kinh doanh vũ trường; Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê
(karaoke); Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm trò chơi
bằng máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy tương tự; Kinh doanh
đặt cược; Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn; Kinh doanh
xổ số.

Căn cứ tính thuế tiêu thụ đặc biệt là :
Giá tính thuế là giá bán ra, giá cung ứng dịch vụ chưa có thuế tiêu thụ đặc biệt và
chưa có thuế giá trị gia tăng được quy định tại Điều 6 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
năm 2008.
Và thuế suất : Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hoá, dịch vụ được quy
định theo Biểu thuế tiêu thụ đặc biệt qui định tại Điều 7 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt
năm 2008, từ đó có thể xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp theo công thức:
Số thuế TTĐB phải nộp = Giá tính thuế TTĐB x (nhân ) thuế suất.
II.

Thực tiễn thực hiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt
1. Thành tựu
Việc thực hiện Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và các Luật sửa đổi, bổ sung đã

cho thấy về cơ bản, thuế tiêu thụ đặc biệt đã đạt được mục tiêu đặt ra là hướng dẫn
sản xuất, tiêu dùng của xã hội, điều tiết thu nhập của người tiêu dùng một cách hợp
lý, và tăng cường quản lý sản xuất, kinh doanh đối với một số hàng hoá và dịch vụ.
Thuế suất cao áp dụng đối với nhiều mặt hàng như thuốc lá, rượu, bia, ôtô du lịch,

kinh doanh vũ trường,... không chỉ nhằm mục tiêu động viên nguồn thu cho ngân
4


sách nhà nước mà còn thực hiện vai trò định hướng tiêu dùng. Chính sách miễn, giảm
thuế tiêu thụ đặc biệt được công bố trước theo lộ trình giảm dần bảo hộ đối với doanh
nghiệp sản xuất bia hơi, sản xuất, lắp ráp ôtô trong nước,... tạo điều kiện thuận lợi
cho việc sắp xếp lại sản xuất kinh doanh trong nước và cùng với thuế nhập khẩu đã
góp phần vào việc hình thành nên một ngành công nghiệp mới.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt góp phần ổn định và tang nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
Tỷ trọng thu ngân sách nhà nước từ thuế tiêu thụ đặc biệt trong tổng thu ngân sách từ
thuế, phí lệ phí đã không ngừng tăng trong những năm qua. Theo quyết toán ngân
sách nhà nước, thu ngân sách từ thuế tiêu thụ đặc biệt riêng với hàng hóa sản xuất
trong nước năm 2008 đạt 22,123 tỷ đồng, năm 2009 ước đạt 29,728 tỷ đồng, năm
2010 đạt 37,906 tỷ và tính riêng 9 tháng đầu năm 2011 đã đạt 32,425 tỷ đồng. Năm
2013 đạt 38,606 tỷ đồng.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt đã góp phần hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng theo định hướng
của Nhà nước. Đối tượng chịu thuế chủ yếu là những loại hàng hoá, dịch vụ mà Nhà
nước không khuyến khích hoặc hạn chế tiêu dùng như thuốc lá, rượu, bia, kinh doanh
vũ trường hoặc hàng hoá, dịch vụ mà Nhà nước cần điều tiết như ô tô, kinh doanh sân
gôn... Quy định này là phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của nước ta cũng như
thông lệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội, góp phần ổn định kinh tế
vĩ mô, giảm nhập siêu, kiềm chế lạm phát, không gây đột biến trong sản xuất tiêu
dùng. Báo cáo sơ bộ tổng cục thống kê cho biết nhập siêu 2011 ở mức 9,5 tỷ USD,
giảm so với 2010 ( 12,4 tỷ USD), năm 2009 (12,8 tỷ).
- Thuế tiêu thụ đặc biệt đã đáp ứng yêu cầu phục vụ cho tiến trình hội nhập kinh tế
quốc tế thông qua việc quy định lộ trình từng bước điều chỉnh thuế tiêu thụ đặc biệt
đối với một số mặt hàng như ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước; áp dụng một mức thuế
suất đối với mặt hàng thuốc lá...
- Thuế tiêu thụ đặc biệt góp phần bảo đảm nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tổng

thu thuế tiêu thụ đặc biệt tăng qua các năm, năm 2003 là 11.046 tỷ đồng, năm 2004 là
5


14.861 tỷ đồng, tăng 35% so với năm 2003; năm 2005 là 18.326 tỷ đồng, tăng 23%
so với năm 2004; năm 2006 là 20.835 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2005 và năm
2007 là 26.564 tỷ đồng, tăng 27% so với năm 2006.
Năm 2013 đạt 38,606 tỷ đồng
2. Hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, theo yêu cầu của sự phát triển hiện nay và
trong thời gian tới, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành đã bộc lộ một số hạn chế cần
được tiếp tục hoàn thiện:
Thứ nhất, công tác triển khai thực hiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt cũng như công tác
quản lí thuế còn nhiều bất cập.
Việc thiếu phương tiện kĩ thuật hỗ trợ, thiếu hệ thống điện toán toàn diện,
thiếu máy kiểm tra chuyên dụng…trong giai đoạn hiện nay gây ảnh hưởng không nhỏ
tới hiệu quả áp dụng các loại thuế nói chung và pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt nói
riêng. Đây là 1 trong những nguyên nhân dẫn đến hiện tượng gian lận trốn thuế, nhất
là trong giai đoạn hiện nay tình trạng gian lận thuế ngày càng được thực hiện bằng
những thủ đoạn tinh vi hơn.
Trong thời gian qua,việc quản lí in, phát hành, sử dụng hóa đơn đã phát huy
hiệu quả tích cực góp phần phục vụ cho công tác quản lí thu thuế. Tuy nhiên, việc sử
dụng hóa đơn cũng làm phát sinh nhiều vấn đề bất cập. Trong những năm gần đây
việc vi phạm về hóa đơn diễn ra khá phổ biến và phức tạp, ví dụ như việc lập hóa đơn
chậm, ghi sai lệch thông tin giữa các liên trên hóa đơn, chuyển nhượng hợp đồng in
hóa đơn. Chế độ hóa đơn chưa được thực hiện nghiêm chỉnh, nhiều thủ đoạn trốn lậu
tinh vi như hóa đơn giả hóa đơn khống, sử dụng hóa đơn bộ tài chính để hợp pháp
hóa việc mua bán hàng trốn lậu thuế, ghi danh thu chênh lệch giữa các liên của hóa
đơn vẫn diễn ra.
Thứ hai, về đối tượng chịu thuế và không chịu thuế:


6


Theo quy định hiện hành thuế tiêu thụ đặc biệt hiện chỉ thu vào 17 loại hàng
hóa và dịch vụ. Nhìn chung, đối tượng chịu thuế thuế tiêu thụ đặc biệt hiện nay ở
nước ta còn khá hẹp, đi sâu nghiên cứu, cho thấy: có nhiều loại hàng hóa, dịch vụ lẽ
ra phải được điều chỉnh bởi thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa được đưa vào diện chịu
thuế như các loại thiết bị điện, điện tử gia dụng cao cấp,nước uống có ga…; Ngược
lại, có trường hợp có loại hàng hóa đáng lý ra phải được khuyến khích tiêu dùng do
yêu cầu sức khỏe, văn minh đô thị thì lại chưa được xem xét đưa ra khỏi diện chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt như xe ôtô từ 16-24 chỗ ngồi; Có trường hợp lại thể hiện sự
phân biệt đối xử giữa hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu và hàng hóa sản xuất trong
nước. Ví dụ : Luật quy định: cơ sở lắp ráp sản xuất ô tô trong nước được giảm đến
95% thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp. Điều này có nghĩa là nếu ô tô nhập khẩu thì phải
chịu mức thuế suất tiêu thụ đặc biệt từ 30% - 100%, còn nếu là ô tô sản xuất trong
nước thì được giảm đến 95% thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp, tức là chỉ nộp thuế tiêu
thụ đặc biệt với mức thuế suất tương ứng từ 1,5% đến 5% mà thôi. Quy định phân
biệt này nhằm bảo hộ cho ngành lắp ráp ô tô còn khá non trẻ ở nước ta trong thời gian
qua. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang mở cửa hội nhập sâu rộng,
đang thực hiện các cam kết theo chương trình CEPT, hiệp định thương mại Việt
Mỹ…., quy định đó không còn phù hợp nữa vì đã vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc
gia ; …Đó là những hạn chế cơ bản về đối tượng chịu thuế của loại thuế này.
Theo quy định hiện hành, xì gà và thuốc lá điếu thuộc đối tượng chịu thuế
tiêu thụ đặc biệt, sau khi Việt Nam đã trở thành thành viên WTO, dự báo trên thị
trường nội địa sẽ xuất hiện một số loại sản phẩm thuốc lá khác như: thuốc lá sợi dùng
để hút tẩu và các dạng sản phẩm khác dùng để hút, nhai, ngửi. Đây cũng là các sản
phẩm thuốc lá, sử dụng là có hại cho sức khoẻ nên không khuyến khích tiêu dùng.
Như vậy, quy định như hiện hành không bao quát được tất cả các loại sản phẩm thuốc
lá khác, là những sản phẩm tiêu dùng không có lợi cho sức khoẻ.

Đối với mặt hàng điều hoà nhiệt độ: Luật hiện hành quy định điều hoà nhiệt độ
có công suất dưới 90.000 BTU là đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Tuy nhiên do
trong Luật chỉ quy định chung điều hoà nhiệt độ có công suất dưới 90.000 thuộc đối
tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nên khi thực hiện có sự chưa rõ ràng và nhất quán
trong việc thu hay không thu thuế tiêu thụ đặc biệt đối với một số loại điều hoà nhiệt
7


độ có công suất dưới 90.000 BTU sử dụng để lắp trên các phương tiện vận tải như ô
tô, tàu hoả, tàu biển. Trên thực tế các loại điều hoà này được coi là tư liệu sản xuất
phục vụ cho sản xuất, lắp ráp phương tiện vận tải và trong hoạt động vận tải hành
khách, nếu thu thuế tiêu thụ đặc biệt là không hợp lý.
Về hàng hoá nhập khẩu vào khu phi thuế quan: Theo quy định của pháp luật về
hải quan và về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, quan hệ trao đổi hàng hoá từ thị
trường nội địa và từ nước ngoài vào các khu khu phi thuế quan là quan hệ xuất khẩu,
nhập khẩu. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu của cũng đã có quy định hàng hoá từ
thị trường trong nước nhập khẩu vào khu phi thuế quan và từ khu phi thuế quan thuộc
diện không phải chịu các thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu. Thông lệ quốc tế cũng cho
thấy hàng hoá thuộc diện này đều không phải chịu các khoản thuế gián thu. Tuy
nhiên, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành lại chưa có quy định này nên đã dẫn đến
một số vướng mắc khi thực hiện.
Thứ ba, về thuế suất: Thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt hiện khá phức tạp và chưa thật
sự phù hợp
Trong 17 mặt hàng, dịch vụ chịu thuế thuế tiêu thụ đặc biệt có đến 12 mức
thuế suất cao thấp khác nhau từ 10% trở lên. Đối với mỗi loại hàng hóa, dịch vụ khác
nhau có mức thuế suất tương ứng khác nhau, trong một số trường hợp đối với cùng
một loại hàng hóa nhưng lại chia theo các tiêu chí khác nhau để áp dụng các mức
thuế suất rất chênh lệch nhau, nên biểu thuế càng thêm phức tạp, làm cho việc xác
định mức thuế suất áp dụng chính xác rất khó khăn và dễ bị vận dụng tùy tiện. Ví dụ
như cùng một mặt hàng là rượu nhưng có đến 3 mức thuế suất khác nhau : rượu từ 20

độ trở lên là 20%, từ 1/1/2010 – 31/12/2012 là 45%, từ 1/1/2013 là 50%, còn rượu
dưới 20 độ là 25% ;
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt hiện hành quy định mức thuế suất áp dụng đối với ô
tô chở người được phân biệt theo số chỗ ngồi: có tới 7 mức thuế khác nhau.Mặt khác,
việc qui định thuế suất đối với ô tô chỉ theo số chỗ ngồi cũng chưa phù hợp, cần phân
8


định theo dung tích xi lanh như đa số các nước đang thực hiện để thực hiện mục tiêu
hướng dẫn sản xuất, tiêu dùng và điều tiết thu nhập hợp lý, tiết kiệm năng lượng và
giảm ô nhiễm môi trường.
Các hoạt động kinh doanh casino, trò chơi điện tử có thưởng và kinh doanh đặt
cược là các dịch vụ Nhà nước không khuyến khích, do đó cần điều chỉnh mức thuế
suất cho phù hợp. Đối với kinh doanh gôn, thuế suất 10% cũng cần phải xem xét điều
chỉnh cho hợp lý.
Thứ ba, về văn bản pháp luật:
Thuế tiêu thụ đặc biệt được thể hiện trong các văn bản Luật khác nhau là Luật
thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu
thụ đặc biệt năm 2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ
đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng năm 2005. Hiện nay, mới nhất là Luật thuế tiêu
thụ đặc biệt 2008 và Nghị định số 26/ 2009, Nghị định số 113/2011 sửa đổi Nghị định
26. Với nhiều văn bản cùng có quy định về thuế tiêu thụ đặc biệt nên chưa tạo thuận
lợi cho việc áp dụng pháp luật. Qua thực tiễn áp dụng, chính sách thuế tiêu thụ đặc
biệt hiện hành ở nước ta đã đặt ra một số vấn đề cần phải được nghiên cứu sửa đổi,
bổ sung cho phù hợp với thực tế cuộc sống, phù hợp với yêu cầu phát triển của nền
kinh tế- xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế, cụ thể theo nhóm có một số vấn đề sau :


Về vấn đề miễn giảm thuế : Theo quy định hiện hành của chính sách thuế tiêu


thụ đặc biệt thì với các cơ sở sản xuất bia quy mô nhỏ (có công suất dưới 10 triệu
lít/năm) đang hoạt động nếu nộp đủ thuế tiêu thụ đặc biệt mà bị lỗ, thì được xét giảm
thuế tiêu thụ đặc biệt tương ứng với số lỗ trong năm xét giảm thuế. Quy định biệt
này nhằm bảo hộ cho ngành lắp ráp ô tô còn khá non trẻ ở nước ta trong thời gian
qua. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, nước ta đang mở cửa hội nhập sâu rộng,
đang thực hiện các cam kết theo chương trình CEPT, hiệp định thương mại Việt

9


Mỹ…., quy định đó không còn phù hợp nữa vì đã vi phạm nguyên tắc đãi ngộ quốc
gia.


Về giá tính thuế : Theo quy định của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt thì giá tính

thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ sở sản xuất bán ra tại nơi sản xuất chưa có thuế
tiêu thụ đặc biệt, tức là giá bán có tính cả chi phí bao bì, vỏ hộp trong đó, thế nhưng
trong thực tế thì lại áp dụng không thống nhất, có loại hàng hóa áp dụng trên cơ sở
giá bán có bao bì, có trường hợp áp dụng giá bán không có bao bì nên không đảm
bảo công bằng giữa các doanh nghiệp cũng như giữa các hàng hóa cùng loại với
nhau.
Mặt khác, do quy định hiện hành không khống chế về mức giá tính thuế đối với
hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt nên một số cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện
chịu thuế đã lách thuế bằng cách thành lập các cơ sở kinh doanh thương mại hạch
toán độc lập với cơ sở sản xuất để từ đó hạ giá bán của cơ sở sản xuất bán cho cơ sở
kinh doanh nhằm làm giảm số thuế phải nộp vào ngân sách nhà nước.
Thứ tư, về ý thức pháp luật và chấp hành pháp luật của cán bộ thuế, đối tượng nộp
thuế chưa cao.
Hiện nay, tình trạng cán bộ ngành thuế còn thiếu trách nhiệm để xảy ra tình trạng

gian lận thuế, trốn thuế còn xảy ra khá phổ biến. Thậm chí, 1 bộ phận cán bộ bị tha hóa,
biến chất còn tiếp tay cho hành vi gian lận trốn thuế, trogn khi các văn bản pháp luật hiện
nay gần như chưa có chế tài xử lí thích đáng đối với cán bộ thuế khi có vi phạm. Nếu
không có chính bản thân cán bộ sẽ gợi ý cho đối tượng nộp thuế có quen biết cách trốn
thuế.

10


Đối với đối tượng nộp thuế, khi thực hiện hành vi trốn thuế sẽ bị xử lí bằng các biện
pháp hành chính hoặc hình sự tùy vào mức độ vi phạm. Tuy nhiên, thực trạng vi
phạm pháp luật thuế vẫn diễn ra 1 cách phổ biến . Chẳng hạn như hiện nay tồn tại khá
nhiều các doanh nghiệp thành lập ra không vì mục đích kinh doanh mà để mua bán
các hóa đơn của nhà nước rồi bán lại cho các cá nhân, tổ chức khác để sử dụng vào
việc khấu trừ khống tiền thuế của nhà nước và hợp thức hóa hàng hóa buôn lậu để
trốn thuế, rút ruột tiền chi của ngân sách nhà nước ở các công trình xây dựng cơ bản,
những đơn vị hành chính sự nghiệp. Ngoài ra cũng phải kể đến tâm lí chây ỳ nộp thuế
của đối tượng nộp thuế. Các doanh nghiệp còn lợi dụng sự thông thoáng và chưa thực
sự hoàn thiện của luật doanh nghiệp để chây ỳ nộp thuế.
Thứ năm, các chế tài xử lí các trường hợp vi phạm pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
chưa đủ sức răn đe, điều này dẫn đến tâm lí coi thường nghĩa vụ nộp thuế và cố tình
trốn tránh nghĩa vụ đối với Nhà nước. Chẳng hạn như theo báo cáo thống kê của cục
hải quan Bình Dương tính đến tháng 4 năm 2012 có tới 34 doanh nghiệp có chủ nước
ngoài nợ thuế bỏ trốn, mất tích, không kinh doanh tại địa chỉ đăng kí, ngừng kinh
doanh hoặc tạm ngừng hoạt động. Tổng số tiền nợ thuế của các doanh nghiệp này lên
tới 43,4 tỷ đồng, nợ thuế tiêu thụ đặc biệt là hơn 4,4 tỷ đồng.
III.

Giải pháp hoàn thiện


Điều cần thiết hiện nay là chúng ta phải từng bước xây dựng ,triển khai ,hoàn
thiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt trong đó cần tuân thủ các yêu cầu mang tính chất định
hướng sau :
Một là hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt
Hoàn thiện luật thuế tiêu thụ đặc biệt trên cơ ở kế thừa có chọn lọc những
quy định trong pháp luật thuế hiện hành ,đảm bảo phù hợp với thực tiễn và hệ thồng
pháp luật của Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế . Ví dụ :Luật thuế tiêu thụ
11


đặc biệt hiện hành quy định mức thuế suất áp dụng đối với ô tô chở người được phân
biệt theo số chỗ ngồi: có tới 7 mức thuế khác nhau.Mặt khác, việc qui định thuế suất
đối với ô tô chỉ theo số chỗ ngồi cũng chưa phù hợp, cần phân định theo dung tích xi
lanh như đa số các nước đang thực hiện để thực hiện mục tiêu hướng dẫn sản xuất,
tiêu dùng và điều tiết thu nhập hợp lý, tiết kiệm năng lượng và giảm ô nhiễm môi
trường.Các hoạt động kinh doanh casino, trò chơi điện tử có thưởng và kinh doanh
đặt cược là các dịch vụ Nhà nước không khuyến khích, do đó cần điều chỉnh mức
thuế suất cho phù hợp. Đối với kinh doanh gôn, thuế suất 10% cũng cần phải xem xét
điều chỉnh cho hợp lý…
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt cần được đảm bảo tiếp thu những thành tựu của các
đạo luật về thuế tiêu thụ đặc biệt trước đó đồng thời có những điều chỉnh hợp lý
nhằm khắc phục những hạn chế của pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt cũ .Việc ban hành
luật thuế tiêu thụ đặc biệt lý luận,cơ sở thực tiễn để đảm bảo pháp luật thuế tiêu thụ
đặc biệt luôn phù hợp với thực tiễn kinh tế,xã hội đất nước . ( Đồng thời pháp luật
cũng phải có tính tiên liệu trước để thực tế có thể xảy ra,tránh tình trạng luật mới đã
ban hành đã bị lỗi thời ,nhất là trong điều kiện Việt Nam đã và đang có những chuyển
biến chóng mặt như hiện nay )
Với diện đánh thuế hẹp,thuế tiêu thụ đặc biệt chỉ tập trung điều tiết một số
hàng hóa và dịch vụ nhất định .Tùy theo quan điểm và chính sách của nhà nước trong
từng thời kì mà pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt cũng cần điều chỉnh và hoàn thiện

danh sách hàng hóa,dịch vụ chịu thuế cho phù hợp và kịp thời với mục tiêu phát
triển của thực tiễn và chính sách của Nhà nước . Có như vậy việc ban hành và áp
dụng luật thuế tiêu thụ đặc biệt mới đảm bảo việc động viên một bộ phận thu nhập
cao cho ngân sách nhà nước ; đảm bảo được mục tiêu hướng dẫn ,điều tiết sản xuất
và tiêu dùng một số loại hàng hóa,dịch vụ đặc biệt theo của Nhà nước,hạn chế những
xu hướng sản xuất hoặc tiêu dùng không có lợi cho nền kinh tế . Do đó pháp luật thuế
12


tiêu thụ đặc biệt phải tiếp tục là công cụ điều tiết thu nhập trong xã hội ,góp phần bớt
phân hóa giàu nghèo,thực hiện công bằng xã hội. Ví dụ nên mở rộng đối tượng chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt đối với các loại hàng hóa, dịch vụ sau : các thiết bị điện, điện tử
gia dụng cao cấp; điện thoại di động và dịch vụ kinh doanh nó; vật dụng cao cấp làm
bằng pha lê, thảm len; mỹ phẩm cao cấp,… không phân biệt đó là hàng hóa sản xuất
trong nước hay hàng hóa nhập khẩu. Bởi đây là những loại hàng hóa, dịch vụ cao cấp
mà thành phần sử dụng đa số là tầng lớp giàu có. Việc mở rộng diện chịu thuế tiêu
thụ đặc biệt với những loại hàng hóa dịch vụ này sẽ góp phần điều tiết thu nhập, định
hướng tiêu dùng, mở rộng thêm được nguồn thu. Qua việc mở rộng đối tượng chịu
thuế tiêu thụ đặc biệt trên đây, sẽ cho phép tăng thu từ loại thuế này góp phần bù đắp
cho việc giảm thu từ các loại thuế khác (thuế nhập khẩu , thuế sử dụng đất nông
nghiệp…).
Hay như việc không nên áp dụng chế độ miễn giảm thuế tiêu thụ đặc biệt cho
các cơ sở sản xuất hàng hóa thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bởi đây là loại thuế
gián thu do người tiêu dùng chịu thuế, các cơ sở sản xuất chỉ là người nộp hộ nên
việc quy định miễn giảm thuế đối với loại thuế này là không hợp lý.Vì đây là những
loại hàng hóa dịch vụ mà Nhà nước cần điêu tiết, định hướng cho việc sản xuất, tiêu
dùng để đảm bảo lợi ích cộng đồng, hầu hết những loại hàng hóa dịch vụ này không
phải là những mặt hàng thiết yếu cho đời sống nhân dân, không thuộc diện khuyến
khích tiêu dùng (ngoại trừ những mặt hàng cá biệt như xăng), nên việc quy định miễn
giảm thuế đối với các mặt hàng này là không cần thiết.

Xây dựng ,hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt bảo đảm tính minh
bạch ,rõ ràng ,dễ hiểu,dễ thực hiện . Điều này không những góp phần tạo điều kiện
cho việc thực thi pháp luật tiêu thụ đặc biệt mà còn giúp công tác thanh tra ,kiểm tra
được thực hiện dễ dàng hơn.

13


Hai là, nâng cao ý thức pháp luật cho người dân bằng cách tuyên truyền, giáo dục một
cách sâu rộng tới tất cả các tầng lớp. Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế mà nhiều người đã
nộp mà không biết. Không phải riêng các đối tượng có thu nhập cao mới là người sử dụng
các hàng hóa, dịch vụ là đối tượng của thuế này. Có những đối tượng là người dân bình
thường khi sử dụng hàng mã, vàng mã, thuốc lá…Họ không biết mình đang phải nộp thuế
tiêu thụ đặc biệt và như vậy cần việc hướng dẫn và điều tiết chi tiêu của Nhà nước.
Ba là,cần xác định mức ấn định thuế tiêu thụ đặc biệt tối thiểu có thể sẽ cao hơn mức cần
phải nộp thực tế của doanh nghiệp nhưng phải có biện pháp mạnh thì mới có thể răn de và
hạn chế sự vi phạm. Tránh hành vi “thỏa thuận ngầm” giữa cán bộ thuế và đối tượng nộp
thuế về mức ấn định thấp. Muốn thực thi được thuế tiêu thụ đặc biệt tốt thì trước hết cần
có sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ. Các yếu kém của đội ngũ cán bộ có thể do 2 lý do:
Thứ nhất là sự yếu kém trong trình độ, thứ hai là sự yếu kém trong quản lý. Đối với yếu
kém trong trình độ thì cần có chính sách để đào tạo lại những cán bộ đã làm việc lâu năm,
tránh việc hiểu sai, áp dụng sai. Và tạo nguồn cán bộ mới phù hợp với yêu cầu. Đối với
yếu kém trong quản lý thì cần có chế tài xử lý nghiêm khắc để răn đe và cần quy định
thêm hệ thống cán bộ thanh tra các bộ thuế.
KẾT LUẬN
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt đã đạt được những thành tựu nhất định khi đặt ra
mục tiêu và đi vào thực tiễn.Song, để đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế - xã hội
thì luật thuế TTĐB cần đẩy mạnh hơn nữa những quy định này trong thực tiễn để linh
hoạt và đồng bộ hơn; đồng thời cần phải xem xét, sửa đổi và bổ sung kịp thời để khắc
phục những hạn chế.


DANH MỤC THAM KHẢO

14


1. Giaó trình Luật Thuế Việt Nam – Trường Đại học Luật Hà Nội ( Nhà xuất bản
tư pháp).
2. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt 2008
3. />4. />%C3%AAu+th%E1%BB%A5+%C4%91%E1%BA%B7c+bi%E1%BB%87t
5. />6. />
15



×