Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

SANG KIEN KINH NGHIEM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.52 KB, 10 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện.
Trong quá trình đấu tranh, xây dựng và trưởng thành Đảng đã lãnh đạo Nhân dân,
dân tộc Việt Nam giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong hơn 86 năm
lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, Đảng ta luôn khẳng định: Công tác dân vận là một
lĩnh vực quan trọng của Đảng, để lãnh đạo cách mạng tuyên truyền giáo dục, động
viên và tổ chức Nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị trong từng giai đoạn cách
mạng. Công tác đó đã trở thành một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong
toàn bộ hoạt động cách mạng của Đảng ta. Chính vì vậy, Đảng ta luôn coi công tác
dân vận như một sức mạnh to lớn, là vũ khí sắc bén trong quá trình tiến hành cách
mạng. Từ cách mạng dân tộc, dân chủ, giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa, những thành công trong sự nghiệp cách mạng của Nhân dân, dân tộc ta.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kể từ Đại hội lần thứ VI của
Đảng diễn ra vào tháng 12/1986), công tác dân vận đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng, nhưng vẫn còn không ít yếu kém, bất cập. Sự phát triển của công cuộc
đổi mới ngày đi vào chiều sâu trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội cùng những
diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình trong nước và quốc tế. Đất nước ở
giai đoạn đầu của thế kỷ XXI với những thời cơ và vận hội lớn, song cũng phải đối
mặt với rất nhiều những thách thức, nguy cơ, đòi hỏi công tác dân vận của Đảng
phải được đổi mới mạnh mẽ hơn nữa, phục vụ có hiệu quả công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa Việt Nam vì mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”,
vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội, sánh vai cùng các nước tiên tiến trên thế giới.
Hội nghị Trung ương 7 (khoá XI) đã ban hành Nghị quyết số 25 “về tăng
cường và đổi mới công tác dân vận trong tình hình mới”. Đây là một nghị quyết có
giá trị lịch sử, mang ý nghĩa sâu sắc và toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận, trong đó “Tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ
quan nhà nước” là một trong bảy nhiệm vụ, giải pháp được nêu trong nghị quyết.
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân, vì dân;
nước ta là nước dân chủ, nhà nước mà trong đó người dân được thực sự làm chủ,


Chính phủ là đầy tớ của nhân dân. Cơ quan chính quyền từ Trung ương đến địa
1


phương đều do nhân dân trực tiếp bầu ra, do đó chính quyền phải phục vụ nhân
dân. Thực hiện tư tưởng của Bác Hồ nêu trong bài "Dân vận" phần “Ai phục trách
Dân vận”, Người chỉ rõ: "Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất
cả hội viên các tổ chức Nhân dân đều phải phụ trách dân vận", như vậy Bác chỉ rõ
phụ trách dân vận đầu tiên phải là cán bộ chính quyền. Quan điểm của Đảng ta là
công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, trong đó
chính quyền có vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị. Do tầm quan
trọng của công tác dân vận nên ngày 21/9/2000 Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị
số 18/CP về tăng cường công tác dân vận, nay là Chỉ thi số 16/CT-TTg; UBND tỉnh
Nghệ An ra Chỉ thị 42 năm 2001, nay là Chỉ thị số 13/CT-UBND về tăng cường
công tác dân vận ở Nghệ An.
II. Lý do chọn đề tài:
Trong bối cảnh chung của đất nước, với tình hình thực tiễn của địa phương,
Đảng bộ xã Tràng Sơn luôn xác định công tác dân vận là công tác của toàn Đảng
bộ, là nhiệm vụ của chính quyền, của các đoàn thể xã hội và toàn thể cán bộ, đảng
viên và các tổ chức trong hệ thống chính trị, là một trong ba mặt của công tác xây
dựng Đảng. Những năm qua xã đã tích cực kiện toàn bộ máy làm công tác dân
vận, đổi mới hình thức tổ chức và phương pháp hoạt động, vận dụng sáng tạo bài
học về sức mạnh tổng hợp vào công tác dân vận. Chất lượng và hiệu quả của công
tác dân vận được nâng cao, góp phần tăng cường sự thống nhất trong Đảng, đồng
thuận trong xã hội. Là một lãnh đạo của địa phương trực tiếp phụ trách chính
quyền, bản thân tôi rất quan tâm đến công tác Dân vận của Đảng và Nhà nước.
Nhận thức được tính cấp bách của công cuộc đổi mới công tác Dân vận hiện nay
của Chính quyền; Xuất phát từ tình hình thực tế của UBND xã Tràng Sơn, tôi chọn
đề tài “Thực trạng và giải pháp công tác Dân vận của chính quyền xã Tràng
Sơn” để nhằm gắn những vấn đề lý luận đã được nghiên cứu vào thực tiễn để làm

cơ sở lâu dài, có tính chất định hướng cho công tác của bản thân cũng như đồng
nghiệp trong thời gian tới.
PHẦN NỘI DUNG
I. Lý luận về công tác dân vận
Theo quan điểm của Mác- Ăng ghen: Quần chúng Nhân dân là những cộng
đồng xã hội bao gồm các giai cấp, các tầng lớp Nhân dân nhưng không bao gồm
2


toàn bộ dân cư mà những người không đủ tư cách công dân đi ngược lợi ích trào
lưu chung, chống phá cách mạng thì không coi họ là thành viên trong Nhân dân.
Theo quan điểm trên, Lênin đã định nghĩa:” quần chúng là toàn bộ những
người lao động và những người bị Tư bản bóc lột, đặc biệt là những người ít được
tổ chức và giáo dục nhất, bị áp bức nhất và khó đưa và tổ chức nhất". Lênin cho
rằng khái niệm “quần chúng” có thể thay đổi tuỳ theo sự thay đổi tính chất của cuộc
đấu tranh, thay đổi theo cái nghĩa người ta hiểu quần chúng là đa số những người bị
bóc lột. Người cách mạng không thể khác thế được theo quan điểm của chủ nghĩa
Mác, cơ sở của quần chúng nhân dân ở mọi giai đoạn phát triển của lịch sử bao giờ
cũng là những người lao động- nhân tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Vì
vậy Lênin nhấn mạnh rằng: Khi sử dụng từ quần chúng nhân dân Mác không làm lu
mờ sự khác nhau giữa các giai cấp bằng danh từ đó, mà ông luôn luôn làm nổi bật
lực lượng có khả năng tiến hành cách mạng đến cùng.
Quần chúng Nhân dân không chỉ là người sản xuất ra của cải vật chất mà còn
là người sáng tạo ra những giá trị tinh thần, để phản ánh những hiểu biết về thiên
nhiên, xã hội những cảm xúc trong lao động sản xuất, trong đấu tranh bảo tồn và
phát triển nòi giống với nhiều hình thức phong phú và đa dạng.
Trong xã hội có đối kháng giai cấp, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới
với quan hệ sản xuất cũ lỗi thời, lạc hậu là mâu thuẫn chủ yếu, mâu thuẫn này sớm
muộn sẽ dẫn đến cuộc đấu tranh một mất, một còn, giữa quần chúng bị áp bức bóc
lột với giai cấp thống trị, trong đấu tranh quần chúng ngày càng được giác ngộ, lực

lượng ngày càng phát triển, khi đó cuộc đấu tranh Nhân dân thành cuộc cách mạng
xã hội, cách mạng sẽ xoá bỏ chế độ xã hội cũ, tức phương thức sản xuất cũ và xác
lập một chế độ xã hội mới với phương thức sản xuất mới, tiến bộ hơn.
Chủ tich Hồ Chí Minh có tư tưởng hết sức phong phú về công tác dân vận.
Người chỉ rõ: Dân vận “là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không
để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công
việc nên làm, những công viêc của Chính phủ và đoàn thể giao cho”. Nhiệm vụ của
công tác dân vận là chăm lo và không ngừng cải thiện, nâng cao mọi mặt đời sống
của Nhân dân. Phương thức cơ bản của công tác dân vận là: phải sâu sát Nhân dân,
biết tuyên truyền giải thích, biết học hỏi và lắng nghe ý kiền Nhân dân; phải có sự
phối hợp của nhiều lực lượng làm dân vận, trong đó vai trò của tổ chức Đảng, chính
3


quyền có vị trí đặc biệt quan trọng; kết hợp nhiều hình thức, phương pháp và phải
nêu gương trước Nhân dân; cách tổ chức, cách làm việc phải phù hợp với quần
chúng.
Ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác dân vận.
Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930 đã quyết định tổ chức các ban chuyên
môn về các giới vận động (công nhân, nông dân, binh lính, phụ nữ…), tiền thân của
ban Dân vận hiện nay. Từ đó, rất nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác
dân vận đã được ban hành, góp phần quan trọng việc động viên nhân dân lập nên
những chiến công oanh liệt và đạt được những thành tựu to lớn.
Ý nghĩa quan trọng của công tác dân vận được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát
đầy đủ, sâu sắc trong bài báo “Dân vận” đăng trên báo Sự thật ngày 15-10-1949: “Lực
lượng của dân rất to, việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém.
Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”.
II. Thực trạng công tác dân vận của chính quyền xã Tràng Sơn
1. Kết quả công tác dân vận chính quyền
Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy, công tác dân vận nói chung,

công tác dân vận của chính quyền của Tràng Sơn nói riêng đã có chuyển biến rõ
nét, đã phát huy dân chủ trong xây dựng, thực hiện các cơ chế, chính sách, chủ
động nắm tình hình đời sống, tâm tư nguyện vọng, giải quyết kịp thời những kiến
nghị, những vấn đề bức xúc của Nhân dân; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
thực hiện công khai các chủ trương, quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa
vụ của Nhân dân, góp phần tích cực vào việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết
toàn dân, vận động Nhân dân thi đua thực hiện các chương trình phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng - an ninh và xây dựng Nông thôn mới.
Quán triệt các quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân
vận công tác dân vận của hệ thống chính trị trong xã Tràng Sơn luôn được Đảng ủy và
chính quyền quan tâm, tăng cường và có nhiều đổi mới góp phần quan trọng thực hiện
thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội của xã, đặc biệt là trong phong trào chung tay xây dựng Nông thôn mới.
Chính quyền xã triển khai thực hiện nghiêm túc quy chế công tác dân vận của hệ
thống chính trị, phân công trực tiếp cán bộ, công chức tham gia chỉ đạo công tác dân
4


vận. Thường xuyên tổ chức tuyên truyền, vận động cán bộ, công chức, Đảng viên và
các tầng lớp Nhân dân chấp hành tốt các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nước, các quy định của địa phương. Thực hiện tốt công tác tiếp dân, giải quyết
đơn thư, đẩy mạnh công tác hòa giải ở cơ sở, công tác cải cách thủ tục hành chính, tập
trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các kiến nghị, đề xuất của Nhân dân, vận động
xây dựng nông thôn mới, trồng rừng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế... mặc dù còn gặp
không ít khó khăn nhưng dưới sự lãnh đạo của BCH Đảng bộ xã, sự năng động,
chủ động trong chỉ đạo, điều hành của chính quyền, sự nỗ lực cố gắng của các
ngành và nhân dân, nên các chỉ tiêu đều đạt và vượt kế hoạch đề ra.
Năm 2016, tổng giá trị sản xuất ( theo giá hiện hành ) năm 2016 ước đạt
347,65/350,56 tỷ đồng, đạt 99,2 kế hoạch. Trong đó: Nông – Lâm – Thủy sản:
54,92/55,0 tỷ, đạt 99,85% kế hoạch; TTCN – XDCB : 110,2/ 112,0 tỷ, đạt 98,4%
kế hoạch; Dịch vụ thương mại và thu khác: 182,53/183,56 tỷ, đạt 99,44% kế hoạch.

Bình quân thu nhập đầu người đạt (giá trị tăng thêm) là 25,6 triệu đồng. Trong chăn
nuôi, không để xảy ra dịch bệnh lớn, nên đàn gia súc, gia cầm phát triển ổn định.
Triển khai thực hiện tốt phong trào xây dựng nông thôn mới, huy động nhân dân
đóng góp hàng vạn ngày công, hiến hơn 200 mét vuông đất, đóng góp gần 10 tỷ
đồng, bê tông hơn 15 km đường giao thông nông thôn, hoàn thành 19/19 tiêu chí và
đã được UBND tỉnh Nghệ An công nhận xã đạt chuẩn nông thôn mới năm 2016.
Các lĩnh vực: giáo dục- đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, giải quyết việc làm, thực
hiện chính sách xã hội, xoá đói giảm nghèo, cải cách hành chính cũng đạt nhiều
tiến bộ; quốc phòng – an ninh được đảm bảo. Đời sống nhân dân trong xã được
quan tâm, bộ mặt nông nghiệp nông thôn được đổi thay. Hệ thống chính trị được
củng cố, kiện toàn. Nhân dân phấn khởi tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và
chính quyền.Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của Đảng bộ được
quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Chương trình công tác kiểm tra, giám sát toàn
khoá, hàng năm được xây dựng và tổ chức thực hiện theo quy định của Điều lệ
Đảng.
Công tác xây dựng chính quyền luôn được chú trọng, hiệu lực, hiệu quả quản
lý, điều hành từng bước nâng cao một cách rõ nét, sự phối hợp hoạt động giữa
UBND xã và HĐND xã nhịp nhàng, hiệu quả, đã ra được nhiều nghị quyết, kế
hoạch sát đúng với tình hình thực tế của địa phương. Tích cực đổi mới cơ chế và
phương pháp hoạt động, thực hiện tốt vai trò giám sát và chất vấn của các đại biểu
5


HĐND, nội dung giám sát tập trung vào những vấn đề bức xúc, thiết thực đối với
đời sống Nhân dân, các kiến nghị của cử tri được xem xét giải quyết kịp thời.
UBND xã chủ động trong chỉ đạo điều hành, sâu sát tận từng xóm, thường
xuyên tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ
đề ra. Công tác cải cách hành chính có tiến bộ, cơ chế “Một cửa” được thực hiện
ngày càng có hiệu quả, đã giảm bớt được các thủ tục hành chính, giảm bớt phiền hà
cho dân, lề lối làm việc hợp lý, khoa học hơn, cải thiện mối quan hệ của cơ quan

nhà nước, cán bộ, công chức với Nhân dân và các doanh nghiệp. Đảng bộ xã hiện
đã có 16 chi bộ Đảng với 286 đảng viên. Đội ngũ cán bộ, công công chức xã được
bầu cử, cấp trên tuyển dụng, bố trí sắp xếp cơ bản đủ cơ cấu, đảm bảo chất lượng.
Hiện nay, xã Tràng Sơn có 22 biên chế cán bộ, công chức (thiếu 1 công chức văn
phòng – thống kê) và hơn 15 người hoạt động không chuyên trách. Công tác tiếp
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và những đề nghị, kiến nghị của nhân dân được
quan tâm chỉ đạo thực hiện tốt.
Trên cơ sở quán triệt và triển khai nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Ban
chấp hành Trung ương, Tỉnh ủy về công tác vận động quần chúng. BCH Đảng bộ
xã đã ban hành nghị quyết về "Một số nhiệm vụ trọng tâm trong công tác vận động
quần chúng giai đoạn 2015-2020" ; hàng năm Ban dân vận đều xây dựng kế hoạch
xây dựng mô hình, điển hình "Dân vận khéo" và chỉ đạo thực hiện nhằm tăng
cường hiệu quả công tác tuyên truyền vận động Nhân dân.
Với chủ trương hướng mạnh về cơ sở xóm, lấy địa bàn dân cư của từng xóm,
đoàn viên, hội viên và từng người dân làm đối tượng vận động; Đảng ủy, UBND xã
đã tổ chức nhiều buổi làm việc và đối thoại trực tiếp để nắm tâm tư, nguyện vọng
và giải đáp những kiến nghị, thắc mắc của Nhân dân; tích cực cải cách các thủ tục
hành chính nhằm giảm bớt phiền hà cho Nhân dân. Phát huy được quyền làm chủ
của Nhân dân và người lao động, đảm bảo thực hiện quyền đi đôi với nghĩa vụ của
công dân. Tập trung mọi nguồn lực để đầu tư hạ tầng, nâng cao đời sống Nhân dân,
chăm lo an sinh xã hội, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
trên địa bàn.
Hệ thống tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận từ xã đến
xóm thường xuyên được củng cố nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tham mưu
đề xuất với Đảng ủy, chính quyền địa phương trong công tác vận động quần chúng.
6


Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân của khối dân vận-MTTQ và các đoàn
thể đã khắc phục được tình trạng hành chính hóa, nội dung hoạt động đã bám sát

vào nhiệm vụ chính trị của xã, có nhiều cách làm mới, sáng tạo, góp phần nâng cao
nhận thức và chấp hành chính sách pháp luật của Nhân dân. Mối quan hệ giữa
Đảng và Nhân dân được tăng cường, tạo đồng thuận xã hội để thực hiện thắng lợi
các nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, đặc biệt là trong năm 2016 đã hoàn thành
chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng Nông thôn mới.
2. Một số khó khăn, tồn tại trong công tác dân vận chính quyền.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác dân vận của chính quyền xã Tràng
Sơn còn tồn tại những hạn chế sau:
- Một số cán bộ công chức chưa thường xuyên quan tâm đến công tác dân vận,
có lúc thực hiện chưa hết chức trách, nhiệm vụ được giao; chưa nắm được nội dung
và chưa hiểu được ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận; đôi khi vẫn có
biểu hiện mất dân chủ, quan liêu, gây dư luận không tốt trong nhân dân.
- Việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính có nhiều chuyển biên tốt song vẫn
chưa được phát huy hết tính tích cực và chưa đáp ứng yêu cầu của Nhân dân.
- Một số chi ủy, chi bộ, xóm còn hạn chế trong việc vận động quần chúng nên
tình trạng nợ đóng góp xây dựng Nông thôn mới vẫn còn xẩy ra.
- Một bộ phận nhân dân còn có tư tưởng trông chờ, ỉ lại vào sự hỗ trợ của nhà
nước, chưa cố gắng vươn lên.
III. Những giải pháp nâng cao hiệu quả công tác dân vận của chính quyền
xã Tràng Sơn.
1. Luôn xác định rõ chất lượng công tác dân vận của chính quyền phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ quan (năng lực của chính quyền) và yếu tố
khách quan (sự lãnh đạo của các Đảng ủy, sự phối hợp hoạt động của các tổ chức
trong hệ thống chính trị; hướng dẫn giúp đỡ của cấp trên; sự ủng hộ tham gia của
Nhân dân; các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội...). Trong các yếu tố tạo nên chất
lượng công tác dân vận của chính quyền, yếu tố chủ quan luôn đóng vai trò quyết
định trực tiếp; các yếu tố khách quan có vai trò quan trọng và không thể thiếu.

7



2. Tiếp tục bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho đội ngũ cán bộ công chức,
người hoạt động không chuyên trách, đoàn viên, hội viên về vai trò, vị trí của công
tác dân vận; những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của
Đảng ta về công tác dân vận trong thời kì mới; nhiệm vụ dân vận do Đảng ủy đề ra.
Trên cơ sở nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác dân vận, mỗi cán
bộ công chức, người hoạt động không chuyên trách theo chức trách của mình xác
định nhiệm vụ trọng tâm thực hiện công tác dân vận, đồng thời vận dụng phương
châm, phương pháp dân vận phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế ở địa phương
và xóm mình phụ trách.
3. Thường xuyên chăm lo kiện toàn tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán
bộ, công chức, người hoạt động không chuyên trách có phẩm chất đạo đức, có trình
độ chuyên môn, nghiệp vụ. Thực thi có hiệu quả cải cách thủ tục hành chính. Đổi
mới phương thức, quản lí, điều hành, xây dựng phong cách làm việc "trọng dân,
gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân". Đảm bảo để chính quyền có
đủ năng lực, hiệu quả, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu và đòi hỏi của người dân.
4. Triển khai thực hiện có hiệu quả Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường,
thị trấn, các Nghị định của Chính phủ quy định thực hiện dân chủ ở các loại hình cơ
sở; Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị xã Tràng Sơn. Có quy định cụ
thể để các thành viên trong hệ thống chính trị xã đôn đốc theo dõi và giám sát lẫn
nhau trong việc thực hiện Quy chế.
5. Quan tâm giải quyết kịp thời những nhu cầu và đòi hỏi thiết yếu của Nhân
dân. Thực hiện tốt quy định về chế độ tiếp công dân, đối thoại trực tiếp với nhân
dân, giải quyết kịp thời những thắc mắc, kiến nghị của công dân ngay khi vụ việc
mới xuất hiện, không để vụ việc kéo dài dẫn tới đơn thư vượt cấp, hoặc hình thành
điểm nóng. Xây dựng và ban hành cơ chế cụ thể để khuyến khích, tạo điều kiện cho
mọi người dân đều có thể thực hiện quyền làm chủ theo quy định của pháp luật.
6. Chính quyền cần chủ động phối hợp và nâng cao chất lượng hoạt động phối
hợp với mặt trận tổ quốc và các đoàn thể trong công tác tuyên truyền các chủ
trương, chính sách, pháp luật; trong triển khai thực hiện các cơ chế chính sách; vận

động, hướng dẫn, giúp đỡ Nhân dân phát triển sản xuất, xây dựng đời sống văn
hóa, bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự....ở địa bàn dân cư 13 xóm.
PHẦN KẾT LUẬN
8


I. Những bài học kinh nghiệm
1. Công tác dân vận của chính quyền có vị trí đặc biệt quan trọng là trực tiếp
tổ chức và vận động Nhân dân thực hiện thành công mọi chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước. Do vậy, về nhận thức, cấp ủy, chính quyền cần xác định
phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng củng cố hệ thống chính trị là then chốt,
công tác Dân vận có ý nghĩa quyết định.
2. Công tác dân vận phải thường xuyên đổi mới cho phù hợp với yêu cầu
khách quan và có tác động mạnh mẽ trong công tác vận động mọi tầng lớp Nhân
dân ở xã để thực hiện thắng lợi những mục tiêu quan trọng mà Đại hội đại biểu
Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2015 – 2020 đã đề ra, tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất
lượng các tiêu chí xây dựng Nông thôn mới.
3. Nâng cao ý thức, nhận thức của từng cán bộ, công chức, đảng viên về trách
nhiệm thực hiện công tác dân vận, trong quá trình lãnh đạo, biết tận dụng tốt thời
cơ, các nguồn lực để tập trung cho đầu tư và phát triển, chọn những nhiệm vụ trọng
tâm, trọng điểm để lãnh đạo; phát huy dân chủ, khơi dậy truyền thống đoàn kết,
sáng tạo trong Nhân dân thông qua làm tốt công tác vận động quần chúng.
4. Quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, tăng cường công tác quản lý, giáo dục,
quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đưa yêu cầu thực hiện công tác dân vận là
nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, công chức....
5. Quan tâm đúng mức và nâng cao vai trò của công tác dân vận nói chung và
công tác dân vận chính quyền nói riêng vì công tác dân vận góp phần quan trọng
vào việc đưa chủ trương, chính sách đến với Nhân dân, làm cho dân hiểu và định
hướng Nhân dân thực hiện đúng, thực hiện tốt.
II. Khả năng áp dụng, triển khai.

Đề tài đã được tổ chức triển khai thực hiện tại Ủy ban nhân dân xã Tràng Sơn
và đã được tất cả cán bộ công chức ứng dụng thực hiện nhiệm vụ được giao đều đạt
năng suất và hiệu quả cao. Kết quả của sáng kiến kinh nghiệm được tất cả các cán
bộ, công chức và nhân viên ủy ban công nhận và tiếp tục tổ chức thực hiện trong
thời gian tới là minh chứng cho khả năng vận dụng vào thực tiễn của đề tài. Đây
cũng là những giải pháp cơ bản, hợp lý, đầy tính thực tiễn có thể giới thiệu cho các
9


đơn vị xã, thị trấn trên địa bàn huyện Đô Lương tham khảo và thực hiện linh hoạt,
sáng tạo tùy theo tình hình cụ thể của đơn vị mình để đạt hiệu quả cao nhất.
Trên đây là một số biện pháp và những công việc đã thực hiện để góp phần
nâng cao hiệu quả công tác dân vận của chính quyền xã Tràng Sơn, đề tài được
kiểm chứng và đúc kết từ thực tiễn, đạt kết quả đáng kể đã góp phần phát triển kinh
tế - xã hội, đảm bảo quốc phòng- an ninh trên địa bàn xã. Rất mong nhận được sự
góp ý của Hội đồng sáng kiến cấp huyện./.
XÁC NHẬN CỦA UBND XÃ

NGƯỜI VIẾT ĐỀ TÀI

Lê Đình Thông

10



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×