Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH (Khóa luận tốt nghiệp)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 86 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NGUYỄN THANH LOAN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH – THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG BÌNH

NGÀNH:
LUẬT HỌC
NIÊN KHÓA: 2014 - 2018

Quảng Bình, năm 2018


ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH – THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH

Ngành: Luật học
Niên khóa: 2014 - 2018

SINH VIÊN THỰC HIỆN: NGUYỄN THANH LOAN
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: Th.S NGUYỄN HOÀNG THỦY

Quảng Bình, năm 2018




LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn của Giảng viên hướng dẫn ThS. Nguyễn Hoàng Thủy. Các nội dung
nghiên cứu, kết quả trong bài nghiên cứu này là trung thực và chưa công bố
dưới bất kỳ hình thức nào trước đây. Những số liệu phục vụ cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi
rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, trong bài khóa luận tốt nghiệp còn sử dụng một số nhận xét,
đánh giá cũng như số liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có
trích dẫn và chú thích nguồn gốc rõ ràng.
Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về nội dung bài khóa luận tốt nghiệp của mình.
Quảng Bình, ngày 14 tháng 4 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thanh Loan


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên em xin chân thành cảm ơn sự dạy dỗ tận tình của tất cả các
thầy, cô giáo Trường đại học Quảng Bình- Khoa Lý luận chính trị, đã truyền
đạt cho em những kiến thức vô cùng bổ ích trong thời gian học tập tại trường.
Với vốn kiến thức được tiếp thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho
quá trình nghiên cứu khóa luận tốt nghiệp mà còn là hành trang quý báu để em
bước vào đời một cách vững chắc và tự tin.
Để hoàn thành bài khóa luận tốt nghiệp ngoài sự nỗ lực của bản thân, em
còn nhận được sự quan tâm, giúp đỡ và động viên của quý thầy cô giáo, gia
đình, tất cả các bạn sinh viên lớp Đại học Luật A-K56 và cán bộ TAND tỉnh

Quảng Bình.
Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến ThS.
Nguyễn Hoàng Thủy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt thời gian
thực hiện bài khóa luận tốt nghiệp này, để em có thể hoàn thành được bài viết
của mình.
Do điều kiện nghiên cứu, khả năng nghiên cứu và những kinh nghiệm
thực tế còn nhiều còn bỡ ngỡ và hạn chế, nên dù đã cố gắng tuy nhiên bài khóa
luận vẫn không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do đó em rất mong nhận được
sự quan tâm và những ý kiến đóng góp của quý thầy cô để em có thể bổ sung,
hoàn thiện hơn bài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng em xin kính chúc quý Thầy, Cô luôn dồi dào sức khỏe, niềm
tin để tiếp tục thực hiện sứ mệnh “trồng người” cao đẹp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!
Quảng Bình, ngày 14 tháng 4 năm 2018
Sinh viên

Nguyễn Thanh Loan


BẢNG THỐNG KÊ TRÍCH DẪN TÀI LIỆU THAM KHẢO

STT

Tác giả tài liệu trích dẫn

Trang khóa

Tần suất

luận


trích dẫn

13, 28

02

17, 20

02

GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên)
1

(2014), Giáo trình Luật Hình sự Việt
Nam (Tập 1), NXB Công an nhân
dân, Hà Nội
TS Phạm Văn Beo, (2011), Luật hình

2

sự Việt Nam (Quyển 2), phần các tội
phạm, NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội

3

Từ điển Tiếng Việt

11


01

4

Từ điển Luật học

11

01

5

Luật Quang Phong

16

01


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLHS :

Bộ luật hình sự

BLTTHS :

Bộ luật Tố tụng hình sự


TAND :

Toà án nhân dân

CTTP :

Cấu thành tội phạm

TNHS :

Trách nhiệm hình sự

LHS:

Luật Hình sự


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 4
1. Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................... 4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .................................................................... 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................... 8
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu................................... 8
6. Cơ cấu của Khóa luận.............................................................................. 9
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH . 10
1.1. Khái quát chung về tội phạm ............................................................. 10
1.2. Khái niệm tội cố ý gây thương tích ................................................... 14
1.3. Các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích ................................. 16
1.3.1. Khách thể của tội cố ý gây thương tích....................................... 17

1.3.2. Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích ............................ 18
1.3.3. Chủ thể của tội cố ý gây thương tích........................................... 27
1.3.4. Mặt chủ quan của tội cố ý gây thương tích ................................ 28
1.4. Trách nhiệm hình sự tội cố ý gây thương tích ................................. 30
1.5. Điểm mới về tội cố ý gây thương tích theo quy định của BLHS năm
2015 so với BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS năm
1999) ............................................................................................................ 33
1.6. Tiểu kết chương 1 ................................................................................ 36
Chương 2: THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ..................................................... 37
2.1. Đặc thù về điều kiện kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Bình ................... 37
2.1.1. Điều kiện kinh tế của tỉnh Quảng Bình ...................................... 37
2.1.2. Điều kiện xã hội của tỉnh Quảng Bình ........................................ 39
2.2. Thực trạng tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình giai đoạn 2013-2016 .......................................................................... 41
1


2.2.1. Tình hình tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình giai đoạn 2013-2016 qua một số vụ án tiêu biểu ............ 41
2.2.2. Cơ cấu tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình giai đoạn 2013-2016 ....................................................................... 50
2.3. Nguyên nhân của tội cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Quảng
Bình.............................................................................................................. 55
2.3.1. Nguyên nhân khách quan ............................................................ 55
2.3.2. Nguyên nhân chủ quan ................................................................. 63
2.4. Tiểu kết chương 2 ................................................................................ 63
Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẤU TRANH PHÒNG CHỐNG TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG BÌNH ............. 65
3.1. Giải pháp đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục

pháp luật ..................................................................................................... 65
3.2. Giải pháp về kinh tế - xã hội .............................................................. 68
3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tội cố ý gây thương tích ........... 70
3.4. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án ........................................................................................................ 71
3.5. Giải pháp quản lý xã hội .................................................................... 74
3.6. Giải pháp phòng ngừa để không trở thành người phạm tội hoặc
nạn nhân của tội cố ý gây thương tích ..................................................... 75
3.7. Tiểu kết chương 3 ................................................................................ 76
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 79

2


DANH MỤC BẢNG BIỂU
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Số lượng vụ án cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Quảng Bình
giai đoạn 2013-2016 ....................................................................................... 42
Biểu đồ 2.2: Số lượng người phạm tội cố ý gây thương tích bị xét xử sơ thẩm
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013-2016 ....................................... 43
Biểu đồ 2.3: So sánh số vụ án về tội cố ý gây thương tích với số vụ án hình sự
chung trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013-2016 ............................ 50
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu theo giới tính của người phạm tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013-2016 ....................................... 51
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu theo dân tộc của người phạm tội cố ý gây thương tích trển
địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013-2016 .............................................. 53
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu của tội cố ý gây thương tích theo mức hình phạt đã được
áp dụng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình giai đoạn 2013-2016 ......................... 54


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Cơ cấu theo độ tuổi của người phạm tội cố ý gây thương tích trên
địa bàn tỉnh Quảng Bình năm 2013-2016....................................................... 52

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người - Nhân tố quan trọng nhất cho mọi sự phát triển bền vững và
duy trì sự tồn tại của xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường,
trong thời đại khoa học công nghệ bùng nổ, mọi nguồn lực sẽ trở nên vô nghĩa
khi không có con người cùng với trí tuệ và sức lao động. Vì lẽ đó, bảo vệ con
người và quyền con người là một trong những chiến lược được chú trọng hàng
đầu mà mỗi quốc gia trên thế giới luôn hướng đến.
Nhận thức được vai trò to lớn của con người đối với sự phát triển, Việt
Nam ngay từ những ngày đầu thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ, cho
đến nay, hơn 40 năm đã đi qua vẫn giữ nguyên bản chất là nhà nước của dân,
do dân, vì dân, lấy dân làm gốc. Mỗi bước đi lên, mỗi bước thắng lợi của đất
nước luôn có bóng hình của toàn thể nhân dân. Nhiệm vụ phát huy nhân tố con
người, bảo vệ nhân dân chính là cốt lõi trong mọi chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước, được cụ thể hóa trong hệ thống pháp luật quốc gia mà trước
hết là đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất: Hiến pháp.
Nội dung về quyền con người được ví như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt nội
dung của tất cả các bản Hiến pháp, được kế thừa và tiếp nối từ bản Hiến pháp
đầu tiên khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa đến Hiến pháp năm
2013, là cơ sở để nhà nước bảo vệ những quyền cơ bản, thiết yếu nhất cho con
người, cho công dân, trong đó có vấn đề bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp
luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy

bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức
khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.” (Khoản 1, Điều 20, Hiến pháp năm
2013).

4


Trên bước đường đổi mới, hội nhập và phát triển, chúng ta đã có những
thành tựu đáng tự hào trong công cuộc bảo vệ quyền con người, quyền công
dân: Thực hiện xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích tăng gia lao động sản xuất,
chú trọng an sinh xã hội, mục tiêu cốt lõi là dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh. Hiện nay, cuộc sống của nhân dân đang dần cải thiện
hơn, có cơm ăn, áo mặc và được giáo dục trong môi trường hiện đại, tỷ lệ hộ
nghèo giảm xuống đáng kể, cơ sở vật chất, hạ tầng ngày càng tiện nghi, đầy
đủ,… nhờ đó thêm củng cố lòng tin của nhân dân vào Đảng, nhà nước, duy trì
trật tự xã hội ổn định. Tuy nhiên, mặt trái của nền kinh tế thị trường nảy sinh
sức ép về dân số, việc làm trở nên khan hiếm trong đời sống xã hội làm cho tỷ
lệ thất nghiệp gia tăng, các tệ nạn xã hội chưa có chiều hướng thuyên giảm
mạnh, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền bất chấp mọi thủ đoạn…. Đây
chính là một trong những tác nhân làm cho một số bộ phận người dân suy thoái
về nhân cách, đạo đức, dẫn tới các hành vi phạm tội.
Ở Việt Nam nói chung và địa bàn tỉnh Quảng Bình nói riêng, tình hình
tội phạm - cụ thể là tội phạm cố ý gây thương tích đang diễn biến hết sức phức
tạp. Các vụ án tăng lên về số lượng và tính chất ngày càng nguy hiểm để lại
nhiều hậu quả thương tâm. Không chỉ xâm phạm trực tiếp đến sức khỏe của
con người, tội phạm cố ý gây thương tích còn đe dọa đến đời sống của nhân
dân, phá vỡ nền tảng đạo đức, văn hóa, làm mất đi sự ổn định của xã hội. Nếu
không được điều tra làm rõ, đưa ra xử lý kịp thời, nghiêm minh sẽ tiềm ẩn
những nguy cơ khó lường, ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội ở
địa phương.

Những năm qua, cùng chủ trương, đường lối của các cấp chính quyền
hợp với sức mạnh tổng hợp của mọi tầng lớp nhân dân mà nòng cốt là sự cố
gắng, nỗ lực của các lực lượng chuyên trách và cơ quan bảo vệ pháp luật, công
tác đấu tranh trấn áp tội phạm cố ý gây thương tích đã thu lại nhiều kết quả
5


đáng khen ngợi: đưa ra xét xử nhiều vụ án nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm
trọng, áp dụng các mức hình phạt thích đáng đối với người phạm tội. Song bên
cạnh những nỗ lực đó vẫn gặp không ít khó khăn và muôn vàn thách thức đòi
hỏi cần phải đặt ra những nhiệm vụ, những biện pháp cụ thể để từng bước làm
giảm tình hình tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn.
Nhằm củng cố và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về loại tội phạm này,
đánh giá được tình hình trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, tìm được nguyên nhân
và điều kiện làm phát sinh, từ đó đề xuất những giải pháp phòng chống tội cố
ý gây thương tích ở Quảng Bình, tác giả chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích
- Thực trạng và giải pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu về Tội cố ý gây thương tích là vấn đề có nhiều khía cạnh
khác nhau để khai thác, luôn thu hút được sự quan tâm của các học giả, các lực
lượng bảo vệ trật tự an toàn xã hội, kể cả những sinh viên ngồi trên các giảng
đường Đại học,… Cụ thể đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả sau:
- Tác giả Nguyễn Ngọc Điệp với sách “Bình luận khoa học Bộ luật Hình
sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 phần các tội phạm”, NXB Thế giới,
năm 2017;
- Tác giả Vy Thị Thu Hà với bài viết “Phòng ngừa tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn”
trong Luận văn Thạc sĩ Luật học, năm 2011;
- Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng với bài viết “Phòng ngừa tội cố ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trên địa bàn tỉnh
Quảng Ninh” trong Luận văn Thạc sĩ Luật học, năm 2011;

6


- Tác giả Trần Thị Phượng với bài viết “Thực hành quyền công tố đối
với các tội xâm phạm sức khỏe của con người từ thực tiễn tỉnh Bình Định”,
trong Luận văn Thạc sĩ Luật học, năm 2016;
- Tác giả Đinh Văn Quế với sách ”Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự phần các tội phạm, tập I - Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm
và danh dự con người”, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2006;
- Tác giả Lê Đình Tĩnh với bài viết “ Các tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe của người khác trong luật Hình sự Việt Nam” trong Luận
văn Thạc sĩ Luật học, năm 2014;
Ngoài ra còn có nhiều bài viết trên các tạp chí Công an nhân dân, tạp chí
Tòa án nhân dân, tạp chí Viện kiểm sát nhân dân đề cập cả về lý luận và thực
tiễn đấu tranh đối với loại tội phạm này như:
- Tác giả Đinh Thế Hưng với bài viết: “Cần hướng dẫn cụ thể khoản 1
điều 104 Luật hình sự” đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân, Số 5/2001;
- Tác giả Trần Minh Hưởng với bài viết “Một số khó khăn, vướng mắc
trong việc áp dụng điều 104 Bộ luật hình sự "Tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khoẻ của người khác", đăng trên Tạp chí Kiểm sát, Số 10/2011;
Tuy nhiên, các bài viết còn chuyên sâu về một khía cạnh nhất định, chưa
có sự nghiên cứu tổng thể và toàn diện. Đặc biệt, chưa có công trình nào khảo
sát, nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Do đó, đề tài “Tội cố ý gây
thương tích - Thực trạng và giải pháp trên địa bàn tỉnh Quảng Bình” mang ý
nghĩa to lớn trong việc làm phong phú thêm lý luận và thực tiễn công cuộc đấu
tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích nói
riêng trên địa bàn. Các công trình nêu trên có thể làm tài liệu mang tính chất
tham khảo cho tác giả trong khóa luận tốt nghiệp của mình.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Về mục đích nghiên cứu, đề tài được nghiên cứu với mục đích sau đây:
7


Thứ nhất, đề tài được nghiên cứu nhằm mục đích làm rõ phần lý luận,
nội dung các quy định về tội cố ý gây thương tích trong Bộ luật Hình sự 2015
sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Thứ hai là nhằm phân tích, đánh giá thực trạng tội phạm cố ý gây thương
tích trên địa bàn tỉnh Quảng Bình. Từ đó tìm ra nguyên nhân, đề xuất đề xuất
các giải pháp để phòng chống loại tội phạm này một cách hiệu quả.
Để hoàn thành được những mục đích đã đặt ra, cần phải thực hiện các
nhiệm vụ sau:
Một là, trình bày và làm rõ các quy định của pháp luật về tội cố ý gây
thương tích theo pháp luật Việt Nam hiện hành.
Hai là, khảo sát, phân tích, đánh giá đúng thực trạng tội cố ý gây thương
tích trên địa bàn tỉnh Quảng Bình thông qua thực trạng xét xử các vụ án cố ý
gây thương tích ở các cấp Tòa án trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Ba là, tổng hợp kết quả nghiên cứu, đưa ra các đề xuất nhằm làm hoàn
thiện hơn hệ thống pháp luật Việt Nam về tội cố ý gây thương tích, đưa ra
những giải pháp thực tiễn góp phần làm cơ sở để phòng, chống tội phạm này.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những quy định pháp luật về tội cố ý
gây thương tích trong Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành, thực trạng và giải
pháp phòng chống tội cố ý gây thương tích.
Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình từ năm 2013-2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Phương pháp luận: Phương pháp luận được sử dụng chủ yếu là phương
pháp duy vật lịch sử và phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác 8


Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu, làm rõ được nội dung và hoàn
thiện hơn bài nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu: Bài khóa luận sẽ được thực hiện bằng các
phương pháp chủ yếu sau:
Thứ nhất, phương pháp phân tích được sử dụng để làm rõ các vấn đề lý
luận về tội cố ý gây thương tích trong bài khóa luận.
Thứ hai, sử dụng phương pháp thống kê số liệu, tổng hợp số liệu nhằm
đánh giá được thực trạng tội cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
Thứ ba, sử dụng phương pháp tổng hợp để rút ra những kết luận đối với
từng vấn đề mà khóa luận đã phân tích, làm cơ sở cho việc đưa ra các giải pháp
góp phần hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả trong công cuộc đấu tranh
phòng chống tội cố ý gây thương tích.
Ngoài những phương pháp nghiên cứu cơ bản trên thì bài viết còn sử
dụng các phương pháp khác như đánh giá, liệt kê, so sánh… để làm rõ hơn nội
dung của bài nghiên cứu.
6. Cơ cấu của Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
khóa luận gồm có 03 chương. Bao gồm:
Chương 1: Lý luận chung về tội cố ý gây thương tích
Chương 2: Thực trạng tội phạm cố ý gây thương tích trên địa bàn tỉnh
Quảng Bình
Chương 3: Giải pháp đấu tranh phòng chống tội cố ý gây thương tích
trên địa bàn tỉnh Quảng Bình

9



Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH
Để tìm hiểu, phân tích thực tiễn đấu tranh và đề ra các giải pháp nâng
cao công tác phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích
nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Bình, nghiên cứu về lý luận là một khâu vô
cùng quan trọng bởi đây là cơ sở cho việc nhận thức và áp dụng đúng đắn pháp
luật hình sự trong xử lý các hành vi phạm tội.
1.1. Khái quát chung về tội phạm
Xác định tội phạm là một trong những vấn đề cấp thiết và quan trọng, có
nhiều quan điểm về tội phạm được đưa ra, cụ thể:
Theo từ điển Tiếng Việt, “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
được quy định trong luật” [9].
Theo từ điển Luật học thì “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi, được quy định trong Bộ luật hình sự và phải chịu hình phạt” [8].
Nhằm hiểu một cách nhất quán và đầy đủ về tội phạm, khái niệm về tội
phạm đã được ghi nhận trong pháp luật hình sự, đánh dấu một bước tiến quan
trọng trong tư duy lập pháp hình sự. Ngày 27-11-2015, tại kỳ họp thứ 10, Quốc
hội khóa XIII đã thông qua Bộ luật hình sự năm 2015. Tiếp đó, ngày 20-62017, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XIV thông qua Luật số 12/2017/QH14
sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13 có hiệu
lực thi hành từ ngày 01/01/2018 để tiếp tục hoàn thiện các quy định về tội phạm,
đồng thời thể hiện tinh thần chủ động phòng ngừa và kiên quyết đấu tranh chống
tội phạm.
Căn cứ theo Khoản 1, Điều 8, Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung
năm 2017 (gọi tắt là BLHS năm 2015) quy định khái niệm tội phạm như sau:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình
sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực
10



hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa,
quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm
phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy
định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự”.
Dựa trên quy định về khái niệm tội phạm trong pháp luật hình sự, chúng
ta dễ dàng phân biệt với những hành vi không phải là tội phạm thông qua 4 dấu
hiệu pháp lý cơ bản: tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật
hình sự và tính chịu hình phạt.
Thứ nhất, hành vi nguy hiểm cho xã hội được xem là dấu hiệu pháp lý
cơ bản và quan trọng nhất của tội phạm, đồng thời quyết định các dấu hiệu còn
lại của tội phạm.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội nghĩa là gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt
hại đáng kể cho các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ. Có nhiều quan
hệ xã hội do nhiều ngành luật khác nhau điều chỉnh, nhưng Bộ luật hình sự chỉ
bảo vệ những quan hệ được xác định đó là độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, tính
mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền và lợi ích hợp
pháp khác của công dân và những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội khác thì không phải là tội
phạm.
Đồng thời, nếu thiệt hại gây ra hoặc đe dọa gây ra không đáng kể thì
hành vi đó không phải là hành vi nguy hiểm cho xã hội và không bị coi là hành
vi phạm tội, sẽ được xử lý bằng các biện pháp khác căn cứ theo Khoản 2, Điều
8, BLHS năm 2015.
11



Ví dụ: Anh A vô cớ gây sự với anh B tại siêu thị, có xảy ra xô xát nhưng
chưa gây thương tích cho cả hai bên, đây là lần đầu thực hiện hành vi.
Trong tình huống này có dấu hiệu của hành vi gây rối trật tự công cộng
tuy nhiên mức độ của hành vi chưa nguy hiểm, hậu quả gây ra không đáng kể.
Cho nên sẽ bị xử lý vi phạm hành chính theo Nghị định 167/2013/NĐ-CP Quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
phòng, chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng, chống bạo lực
gia đình.
Ngoài ra hành vi nguy hiểm đó phải được quy định trong Bộ luật Hình
sự, bởi chỉ có Bộ luật hình sự mới quy định về tội phạm, hình phạt nói chung
cũng như về các tội phạm cụ thể và các khung hình phạt đối với tội phạm cụ
thể đó mà không có một văn bản pháp luật nào khác được phép quy định.
Thứ hai, không thể có hành vi nguy hiểm cho xã hội mà không có lỗi của
người phạm tội, nghĩa là một người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
nếu không có lỗi thì không bị coi là hành vi phạm tội. Trong BLHS Việt Nam
hiện hành không chấp nhận quy TNHS khách quan, chỉ căn cứ vào hành vi gây
thiệt hại cho xã hội mà không căn cứ vào yếu tố lỗi. Mặc dù trong khái niệm
được quy định trong BLHS năm 2015 hai dấu hiệu độc lập với nhau nhưng có
sự liên kết chặt chẽ: Lỗi bao giờ cũng đi với hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất
định. Do đó, tính có lỗi là một trong bốn dấu hiệu quan trọng của tội phạm.
Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội
của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được thể hiện dưới dạng vô
ý hoặc cố ý [6, tr.136].
Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được xem là có lỗi khi
thỏa mãn hai điều kiện: Phải có hành vi trái pháp luật hình sự và hành vi đó là
kết quả của sự tự lựa chọn và quyết định của người thực hiện hành vi trong khi

12



có khả năng và điều kiện để lựa chọn và quyết định xử sự khác không trái pháp
luật hình sự.
BLHS năm 2015 cũng quy định một số trường hợp có hành vi nguy hiểm
cho xã hội, gây thiệt hại đến lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích của công dân,…
nhưng không bị coi là tội phạm vì người thực hiện hành vi không có lỗi như:
Sự kiện bất ngờ (Điều 20), phòng vệ chính đáng (Điều 22), tình thế cấp thiết
(Điều 23), gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội (Điều 24), rủi ro trong
nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ (Điều
25), …
Thứ ba, tính trái pháp luật hình sự chính là dấu hiệu đòi hỏi phải có đối
với hành vi bị coi là tội phạm. Dấu hiệu này mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn
to lớn bởi đây không chỉ là động lực giúp cho các cơ quan lập pháp kịp thời sửa
đổi, bổ sung BLHS bắt kịp những thay đổi trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
xã hội, để công tác đấu tranh phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao mà còn là
vạch giới hạn nhằm tránh tình trạng tùy tiện trong xác định tội phạm.
Tính trái pháp luật hình sự mặc dù là dấu hiệu biểu hiện mặt hình thức
pháp lý của dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn có tính độc lập và
quan trọng. Căn cứ theo Khoản 1, Điều 2, BLHS 2015 quy định: “Chỉ người
nào phạm một tội đã được Bộ luật Hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm
hình sự”. Do đó, một hành vi dù gây nguy hiểm cho xã hội tuy nhiên không
được quy định trong BLHS thì không phải là tội phạm. Ngược lại, nếu quá đặt
nặng tính nguy hiểm cho xã hội sẽ dẫn đến tình trạng xác định tội phạm một
cách hình thức, máy móc.
Thứ tư, một thuộc tính tất yếu nữa của tội phạm chính là tính phải chịu
hình phạt. Dấu hiệu này không được đề cập trong khái niệm tội phạm mà nó là
một dấu hiệu độc lập đi kèm theo của tính nguy hiểm cho xã hội và tính trái
pháp luật hình sự: chỉ có hành vi phạm tội mới phải chịu hình phạt, nếu không
13



có tội phạm thì cũng không có hình phạt, đồng thời căn cứ vào tính nguy hiểm
cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự nhằm cụ thể hóa tính chịu hình phạt trong
từng trường hợp phạm tội cụ thể.
Tội phạm có tính chịu hình phạt bởi bất cứ hành vi phạm tội nào cũng bị
đe doạ có thể phải áp dụng hình phạt được quy định trong BLHS - là biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước. Tuy nhiên trong một số trường hợp
trên thực tế, người phạm tội không bị áp dụng hình phạt được quy định rõ trong
BLHS năm 2015 gồm các trường hợp được miễn TNHS, miễn hình phạt, miễn
chấp hành hình phạt.
Từ khái niệm và những dấu hiệu cơ bản của tội phạm chính là cơ sở nhằm
thống nhất về nhận thức để xác định các tội phạm cụ thể trong BLHS và áp
dụng pháp luật hình sự một cách phù hợp và đúng đắn.
1.2. Khái niệm tội cố ý gây thương tích
Một trong những quyền thiêng liêng và cao quý nhất của con người đó
chính là quyền được sống, bảo vệ sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Xác định
con người là trung tâm của xã hội, dựa trên tinh thần Hiến pháp năm 2013, tại
BLHS 2015 cụ thể là chương XIV đã quy định về các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người. Đây chính là công cụ sắc bén và
hữu hiệu nhất của nhà nước trong công cuộc đấu tranh phòng chống với tội
phạm nhằm thực hiện nhiệm vụ bảo vệ con người và các quyền cơ bản của con
người.
Chương XIV của BLHS năm 2015 có tất cả 33 điều quy định về tội phạm
này cùng các hình phạt tương ứng. Căn cứ vào tính chất của tội phạm khác nhau
có thể chia thành 3 nhóm tội sau: Các tội xâm phạm tính mạng của con người
(Điều 123, 124, 125, 126, 127, 128, 129, 130, 131, 132, 133), các tội xâm phạm
sức khỏe con người (Điều 134, 135, 136, 137, 138, 139, 140, 141, 142, 143,
144, 145, 146, 147, 148, 149), các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự con người
14



(Điều 150, 151, 153, 154, 155, 156), trong đó tội cố ý gây thương tích thuộc
nhóm các tội xâm phạm sức khỏe con người.
Tội cố ý gây thương tích cùng các quy phạm pháp luật hình sự về tội cố
ý gây thương tích được gắn liền với sự hình thành và phát triển của hệ thống
pháp luật nước ta từ thời phong kiến cho đến năm 1985 với sự ra đời của Bộ
luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tiếp nối chính là là Bộ
luật năm 1999 có hiệu lực ngày 01/7/2000 được sửa đổi bổ sung 2009, cho đến
nay tội cố ý gây thương tích được quy định hoàn thiện hơn tại Điều 134, BLHS
năm 2015.
Nội dung theo Điều 134, BLHS năm 2015 quy định trong một điều luật
bao gồm “gây thương tích” hoặc “gây tổn hại sức khỏe của người khác” bởi
trên thực tế có nhiều trường hợp người phạm tội không gây thương tích mà chỉ
gây tổn hại cho sức khỏe của nạn nhân.
Ví dụ: Trường hợp gây thương tích: Anh A đã sử dụng dao chém vào tay
anh B, hậu quả làm cho anh B bị mất ngón I và ngón II của bàn tay trái.
Trường hợp gây tổn hại sức khỏe: Anh D đấm liên tục vào vùng mắt phải
của anh F, hậu quả làm mắt phải của anh F giảm thị lực từ 4/10 đến 5/10, mắt
kia bình thường.
Do đó, bài khóa luận chỉ tập trung nghiên cứu về tội cố ý gây thương
tích.
Pháp luật hình sự không định nghĩa về Tội cố ý gây thương tích, cho nên
có nhiều cách định nghĩa khác nhau về tội phạm này: “Tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi của một người cố ý
làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khoẻ [11]” hoặc một cách
tiếp cận khác đối với khái niệm tội cố ý gây thương tích: “Tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là hành vi cố ý gây ra thương

15



tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác dưới dạng những thương tích
hoặc tỷ lệ tổn hại sức khỏe cụ thể [7, tr.129]”.
Dựa trên khái niệm về tội phạm được quy định tại Khoản 1, Điều 8,
BLHS 2015, tác giả xin đưa ra định nghĩa về tội cố ý gây thương tích như sau:
“Tội cố ý gây thương tích là hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng
lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm quyền được bảo vệ sức khỏe của
người khác một cách trái pháp luật dưới dạng thương tích”.
Khái niệm trên thể hiện một cách tổng quát về tội cố ý gây thương tích,
từ đó dễ dàng phân biệt tội phạm này với các tội phạm khác trong cùng một
nhóm tội hoặc so với các tội cụ thể được quy định trong BLHS. Có thể hiểu
rằng, tội cố ý gây thương tích là hành vi trái pháp luật của một người có khả
năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình, đủ tuổi chịu TNHS theo luật
định thực hiện, tác động vào cơ thể của người khác nhằm mong muốn gây ra
những thương tích được thể hiện thông qua các dấu vết để lại trên cơ thể, có
thể nhìn thấy được.
Định nghĩa về tội cố ý gây thương tích trên đem lại nhận thức đúng đắn,
đồng thời có vai trò quan trọng trong việc làm tiền đề để nghiên cứu các quy
định về loại tội phạm này.
1.3. Các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích
Mỗi trường hợp phạm tội cụ thể của loại tội phạm nhất định đều có những
nội dung biểu hiện riêng biệt. Chúng ta không thể căn cứ vào định nghĩa của
tội phạm, tội cố ý gây thương tích để định tội và định khung hình phạt mà pháp
luật hình sự xem xét thông qua các yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) gồm:
Khách thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan. Đây là điều kiện cần thiết
để xác định hành vi là tội phạm nói chung và tội phạm cố ý gây thương tích nói
riêng mà thiếu một trong bốn yếu tố thì không thể coi là tội phạm.

16



1.3.1. Khách thể của tội cố ý gây thương tích
Khách thể của tội phạm được hiểu là những quan hệ xã hội được LHS
bảo vệ, bị tội phạm xâm hại bằng cách gây thiệt hại hoặc bị đe dọa gây ra thiệt
hại ở mức độ nhất định.
Đối với tội cố ý gây thương tích theo Điều 134, BLHS năm 2015 thì
khách thể là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe của con người. Đây là
một trong những quyền cơ bản và thiêng liêng nhất đã được hiến định tại Khoản
1, Điều 20, Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về
thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị
tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối xử nào khác xâm
phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm”. Tuy nhiên, quyền
được bảo vệ sức khỏe lại bị các hành vi phạm tội xâm phạm gây ra thương tích
cho đối tượng tác động đang trong tình trạng bình thường.
Ở đây, đối tượng tác động cũng là một trong những yếu tố mang ý nghĩa
quan trọng trong việc định tội, định khung hình phạt hoặc tình tiết tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Cụ thể, nạn nhân là người già yếu, phụ nữ mà biết là có
thai, người không có khả năng tự vệ bị người khác cố ý gây thương tích thì định
tội theo Điểm c, Khoản 1, Điều 134, BLHS năm 2015 hoặc TNHS của người
phạm tội sẽ tăng nặng theo Khoản 2 và Khoản 3, Điều 134, BLHS năm 2015.
Ngoài ra, nếu các hành vi tác động lên đối tượng là người chết, không phải con
người thì sẽ không thuộc đối tượng điều chỉnh của Điều 134, BLHS năm 2015,
nghĩa là không phạm tội cố ý gây thương tích.
Ví dụ về khách thể của tội cố ý gây thương tích:
A và B là hàng xóm sinh sống tại thôn X. Ngày 04/04/2017, do mâu
thuẫn trong lời nói giữa hai bên, A đã sử dụng gậy tre dài 75 cm, đường kính
4cm, đánh liên tục vào đầu B, gây ra tỷ lệ thương tích cho B là 15%.

17



Trong tình huống trên, khách thể của tội phạm là quyền được tôn trọng
và bảo vệ sức khỏe của B. Việc A sử dụng gậy tre dài 75 cm, đường kính 4cm
đánh liên tục vào đầu B đã xâm phạm tới khách thể mà Luật hình sự bảo vệ đó
chính là quyền được tôn trọng và bảo sức khỏe của B. Đối tượng tác động là
con người B, đang sống và tồn tại trong thế giới khách quan, chính hành vi của
A đã làm biến đổi tình trạng bình thường của B, dẫn đến hậu quả là B bị thương
tích 15%.
Khách thể của tội cố ý gây thương tích là một trong những yếu tố cấu
thành nên tội cố ý gây thương tích, người thực hiện hành vi được coi là tội
phạm nếu hành vi đó xâm hại đến quan hệ xã hội, ở đây là quyền được bảo vệ
sức khỏe mà LHS bảo vệ.
1.3.2. Mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích
Mặt khách quan của tội phạm nói chung và tội cố ý gây thương tích nói
riêng là mặt bên ngoài của tội phạm, bao gồm những biểu hiện của tội phạm
diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan mà con người có thể trực tiếp
nhận biết được với các dấu hiệu đó là: hành vi khách quan nguy hiểm cho xã
hội, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu
quả nguy hiểm đó…
Thứ nhất, hành vi khách quan nguy hiểm cho xã hội là biểu hiện cơ bản,
quan trọng, những biểu hiện khác của mặt khách quan: hậu quả, công cụ,
phương tiện,… chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan. Hành vi khách quan
được ý thức kiểm soát, ý chí điều khiển và có khả năng làm biến đổi tình trạng
bình thường của đối tượng tác động của tội phạm. Có thể nói rằng không thể
có tội phạm nếu người đó không thực hiện hành vi khách quan.
Hành vi khách quan của tội cố ý gây thương tích là dùng sức mạnh vật
chất tác động lên cơ thể của con người, để lại cho cơ thể của con người những
thương tích nhất định (ví dụ: mất ngón tay, ngón chân, bàn tay,…). Hành vi
18



này có thể được thực hiện thông qua việc dùng các công cụ, phương tiện như:
súng, dao, gậy,... để thực hiện hành vi đâm, chém, bắn,…hoặc không sử dụng
các công cụ, phương tiện phạm tội như dùng chân, tay để đấm, đá, đánh,…
Ngoài ra còn có thể thông qua súc vật (chó cắn, bò đá,…) hay cơ thể của người
khác để gây ra thương tích cho nạn nhân [7, tr.129].
Thứ hai, hậu quả của tội phạm - Một trong những nội dung biểu hiện của
yếu tố mặt khách quan của tội cố ý gây thương tích, được hiểu là những thiệt
hại do hành vi phạm tội gây ra cho quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe
của con người.
Hậu quả gây ra thương tích trên cơ thể con người là dấu hiệu bắt buộc
đối với tội cố ý gây thương tích bởi việc xác định đúng hậu quả xảy ra trên thực
tế có ý nghĩa quan trọng trong định tội và định khung hình phạt phù hợp. Người
phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về những thương tích do chính hành
vi của họ đã gây ra.
Điều 134, BLHS năm 2015 quy định về mức độ gây thương tích cho nạn
nhân với tỷ lệ tổn thương từ 11% trở lên mới cấu thành tội phạm. Đồng thời
điều luật cũng quy định về tỷ lệ % tổn thương cơ thể dưới 11% nhưng thuộc
một trong các trường hợp quy định tại Khoản 1, Điều 134, BLHS năm 2015 thì
người có hành vi vẫn bị truy cứu TNHS về tội phạm này:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả năng gây
nguy hại cho nhiều người;
Vũ khí là thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện được chế
tạo, sản xuất có khả năng gây sát thương, gây nguy hại cho tính mạng và sức
khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất, được quy định tại Khoản 1, Điều
3, Pháp lệnh số 16/2011/UBTVQH12 ngày 30/6/2011 về quản lý, sử dụng vũ
khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ bao gồm: vũ khí quân dụng, súng săn, vũ khí
thô sơ, vũ khí thể thao và các loại vũ khí khác có tính năng, tác dụng tương tự.
19



×