Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Lập ngân sách truyền thống chưa đáp ứng được ba mục tiêu và bốn yêu cầu của quản lý chi tiêu công hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.79 KB, 9 trang )

I- Khung lý thuyết:
1. Các cách lập ngân sách
1.1 Cơ chế soạn lập ngân sách truyền thống
1.1.1 Khái niệm:
Cơ chế soạn lập ngân sách truyền thống: Đó là các thông lệ hay thủ tục do Chính phủ
quy định để quyết định về lượng tiền chi ra cân đối giữa thu và chi ngân sách, và
phân bổ ngân sách đã cân đối cho các hoạt động và tổ chức công cộng.
1.1.2. Quy trình soạn lập ngân sách:
Việc soạn lập ngân sách thường được thưc hiện theo hai quy trình:


Quy trình từ trên xuống bao gồm: (i) xác định tổng nguồn lực có thể chi tiêu
trong kỳ ngân sách (dựa trên khuôn khổ kinh tế vĩ mô hợp lí); (ii) xác định các
hạn mức chi tiêu cho các ngành và địa phương tương ứng với thứ tự ưu tiên của
Chính phủ;



Quy trình từ dưới lên bao gồm: việc các ngành và địa phương hoạch định và dự
trù kinh phí cho các chương trình chi tiêu của mình trong kỳ ngân sách và trong
khuôn khổ hạn mức chi tiêu đã được phân bổ

Hai quy trình này được thực hiện đan xem nhau thông qua hàng loạt các lần đàm phán
và tổng hợp ngân sách giữa cơ quan phân bổ trung ương và các đơn vị cấp dưới cho
đến khi đạt được sự nhất trí giữa các bên.
1.1.3 Trình tự soạn lập ngân sách


Xây dựng một khuông khổ kinh tế vĩ mô;




Soạn thảo thông tư hay thông báo về ngân sách, trong đó quy định rõ các mức
trần chi tiêu cho từng ngành và hướng dẫn việc soạn lập ngân sách của ngành;



Các bộ, ngành và địa phương dự thảo ngân sách dựa trên văn bản hướng dẫn
đó;



Đàm phán ngân sách giữa các bộ, ngành và địa phương với Bộ Tài Chính;



Chính phủ và các cơ quan chức năng ở trung ương hoàn tất lần cuối dự thảo
ngân sách và trình Quốc hội;



Quốc hội thông quan ngân sách hàng năm

1.1.4 Nhược điểm của cơ chế soạn lập ngân sách truyền thống


Tách rời giữa chính sách, việc lập kế hoạch và lập ngân sách.



Không đảm bảo tính kế thừa giữa kế hoạch và ngân sách các năm.


1




Quá trình lập ngân sách truyền thống thường phát sinh hiện tượng dự toán theo
kiểu điều chỉnh tăng dần.



Việc đàm phán giữa các bộ, ngành và địa phương với Bộ Tài Chính thiếu một
cơ sở minh bạch.



Ngân sách truyền thống tách roài giữa chi thường xuyên và chi đầu tư.

2. Các mục tiêu và yêu cầu của quản lý chi tiêu công hiện đại
2.1 Ba mục tiêu của quản lý chi tiêu công hiện đại.
- Kỷ luật tài khoá tổng thể là việc quản lý các nhu cầu có tính cạnh tranh lẫn nhau,
và thường là vượt quá giới hạn ngân sách cho phép, nhằm ổn định kinh tế vĩ mô,
tức là không bị thâm hụt lớn đến mức không bền vững.
Thể hiện qua: + Trần ngân sách: chỉ được phép chi tiêu trong giới hạn ngân
sách đó.
+ Vẫn được phép thâm hụt nhưng phải có tỉ lệ khống chế nhất
định, không để rơi vào ngưỡng mất an toàn.
- Hiệu quả phân bổ nguồn lực: Chính phủ phải xác định được thứ tự ưu tiên trong
phân bổ nguồn lực và phù hợp với các chiến lược quốc gia, các bộ ngành và các
tỉnh.

- Hiệu quả hoạt động: làm thế nào để các cơ quan cung ứng dịch vụ có thể cung cấp
được hàng hóa và dịch vụ công có kết quả cao nhất trong phạm vị ngân sách cho
trước, hoặc có thể đạt được những kết quả cho trước với chi phí thấp nhất.
2.2 Bốn yêu cầu của quản lý chi tiêu công hiện đại
- Tính trách nhiệm: các cơ quan cung ứng dịch vụ và công chức nhà nước phải có
trách nhiệm thực hiện những nhiệm vụ nằm trong bổn phận của mình và giải trình
những hậu quả do quyết định mà mình đưa ra.
Theo quá trình hoạch định chính sách, Tính trách nhiệm gồm 2 bộ phận cấu
thành:
• Trách nhiệm trước: phải lường trước được những tác động có thể xảy ra khi đưa ra
các quyết định chi tiêu.
• Trách nhiệm sau hay Trách nhiệm giải trình: Cơ quan sử dụng ngân sách phải có
trách nhiệm báo cáo định kỳ về việc đã sử dụng công quỹ vào việc gì và đạt kết
quả như thế nào. Trách nhiệm giải trình không chỉ dừng lại ở việc có những báo
cáo hình thức theo quy định mà còn bao hàm cả việc sẵn sàng trả lời chất vấn của
mọi đối tượng trong xã hội về việc chi tiêu của mình.
Theo đối tượng, trách nhiệm gồm hai khía cạnh:
• Trách nhiệm đối nội: là trách nhiệm đối với các cơ quan chủ quản cấp trên, trong
đó mọi cán bộ công chức đều phải chịu sự đánh giá của cơ quan cấp trên về kết

2


quả hoạt động của mình, và mọi kết quả khen thưởng, đề bạt hay kỷ luật đều phải
dựa trên kết quả hoạt động của cá nhân.
• Trách nhiệm đối ngoại là trách nhiệm của các cán bộ và cơ quan công quyền đối
-

-


-

với các tổ chức, cơ quan khác và người dân nói chung.
Tính minh bạch: nghĩa là mọi thông tin đều công khai hóa. Các thông tin được
công bố kịp thời, đáng tin cậy và dễ hiểu nhằm đảm bảo mọi tầng lớp dân cư đều
có thể tham gia theo dõi và giảm sát chi tiêu công cộng.
Tính tiên liệu: mọi luật lệ hay quy định về chi tiêu công cộng đều phải rõ ràng, có
báo cáo trước và được thực thi một cách thống nhất, có hiệu lực. Thiếu khả năng
tiên liệu thì các cơ quan công quyền rất khó xây dựng kế hoạch chi tiêu phù hợp
với chiến lược quốc gia, và khu vực tư nhân cũng thiếu một chỉ báo quan trọng về
ý đồ và chiến lược phát triển của Chính phủ để điều chỉnh các quyết định sản xuất
và đầu tư của mình.
Sự tham gia của xã hội: Tất cả mọi đối tượng chịu tác động hoặc có liên quan
đến các chương trình chi tiêu đều phải được sử dụng những kênh để có tiếng nói
của mình trong việc xây dựng, thực hiện và giám sát đánh giá các chương trình chi
tiêu. Có như vậy mới đảm bảo các chương trình chi tiêu đó thực sự đáp ứng được
mong đợi của những người thụ hưởng và đảm bảo dân được biết, được bàn và
được kiểm tra hoạt động của chính phủ.

Chứng minh cách lập ngân sách truyền thống chưa đáp ứng được ba mục tiêu và bốn
yêu cầu của quản lý chi tiêu công hiện đại
-

Thứ nhất, lập ngân sách truyền thống tách rời giữa chính sách, việc lập kế
hoạch và lập ngân sách: Trong khi chính phủ tập trung vào việc xây dựng và
thực hiện các kế hoạch trung hạn 5 năm, và các chính sách do Chính phủ đề ra
thường có tác dụng kéo dài nhiều năm thì ngân sách lại chỉ được xây dựng cho
từng năm một. Mối liên hệ giữa ngân sách hàng năm với việc thực hiện mục
tiêu kế hoạch 5 năm là không rõ ràng. Khi lập kế hoạch ngân sách, các cơ quan
kế hoạch thường đưa ra những mục tiêu, kế hoạch lớn nhưng không tính toán

cân đối xem Việt Nam có đủ tài chính thực hiện hay không. Nếu thực hiện quy
trình lập kế hoạch từ dưới lên, nghĩa là giao hết quyền lập ngân sách cho đơn vị
chi tiêu công thì có thể dẫn đến tình trạng các đơn vị cấp dưới khai khống tiền
cần có, xin nhiều hơn nguồn thực cần chi. Hậu quả là chính sách có thể được
tài trợ trong một vài năm nhưng sau đó có thể bị cắt bỏ tùy tiện khi tình hình
ngân sách không cho phép. Khi không đủ ngân sách, kế hoạch sẽ bị treo, chính
sách bị bóp méo, ngân sách thực hiện không đúng quy định. Điều này vi phạm
mục tiêu đầu tiên của quản lý chi tiêu công, đó là đảm bảo kỷ luật tài khóa tổng

3


thể và vi phạm yêu cầu về đảm bảo tính trách nhiệm đối với quản lý chi tiêu
công hiện đại.
-

Thứ hai, lập ngân sách truyền thống không đảm bảo được tính kế thừa giữa
kế hoạch và ngân sách các năm: Ngay khi soạn lập ngân sách có tham chiếu
đến các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm hay các chương trình, chiến lược của chính
phủ, nhưng kế hoạch trung hạn hiện nay mang tính định kỳ 5 năm, tức là hết
thời kỳ 5 năm này thì chuyển sang xây dựng kế hoạch 5 năm kế tiếp. Trong khi
đó, ngân sách là ngân sách hàng năm nhưng các công trình thường kéo dài
nhiều năm. Độ rủi ro của công trình rất lớn, nguy cơ dở dang nhiều. Khi phê
duyệt vốn để nó khởi công, các nhà lập ngân sách đã không dự đoán trước
được những biến động của nền kinh tế, nên khi công trình bị kéo dài đã không
đủ vốn để hoàn thành dẫn đến công trình bị dở dang. Điều này vi phạm về mục
tiêu đảm bảo hiệu quả phân bổ nguồn lực và tính tiên liệu trong quản lý chi tiêu
công hiện đại.

-


Thứ ba, quá trình lập ngân sách truyền thống thường phát sinh hiện tượng
dự toán theo kiểu điều chỉnh tăng dần, không đảm bảo hiệu quả phân bổ
nguồn lực: Điều đó có nghĩa là, thay vì tìm cách nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn lực hay nâng cao mức đầu ra có được thì các nhà lập ngân sách lại chỉ
hướng tới việc điều chỉnh số liệu dự toán năm sau lên chút ít so với số liệu năm
trước, tùy theo điều kiện cụ thể của từng ngành và dự báo về khả năng huy
động nguồn thu. Các nhà lập ngân sách đã không tính đến sự chuyển dịch cơ
cấu kinh tế mà tư duy ngân sách theo lối mòn, không thể hiện được sự ưu tiên
chiến lược qua các thời kỳ. Khi dự toán chi vượt tổng mức chi tiêu dự kiến thì
việc cắt giảm ngân sách cho các ngành, các vùng diễn ra rất tùy tiện, thiếu hẳn
những lý giải rõ ràng về nguyên nhân cắt giảm đối với ngành này hay ngành
khác. Do đó, phân bổ chỉ tiêu theo các ưu tiên chiến lược không được đảm bảo,
và sự dàn trải trong chi tiêu là không thể tránh khỏi.

-

Thứ tư, việc đàm phán ngân sách giữa các Bộ, ngành và địa phương với Bộ
tài chính thiếu một cơ sở minh bạch: Đó là sự áp đặt chủ quan, duy ý chí của
các cơ quan chức năng trung ương đối với những bộ, ban ngành hoặc địa
phương cấp dưới. Cơ sở đàm phán ngân sách giữa các đơn vị chi tiêu công và
Bộ tài chính là cơ chế “xin – cho” . Vì vậy việc phân bổ ngân sách sẽ bị chi
phối rất lớn bởi các đơn vị chi tiêu công có nhiều ảnh hưởng và sự tùy tiện của
cơ quan chức năng trung ương. Cơ chế này đã làm tổn hại rất lớn đến sự công
khai và minh bạch, là mầm mồng cho sự tham nhũng, hối lộ. Điều này vi phạm

4


tính minh bạch và tính tiên liệu trong 4 yêu cầu của quản lý chi tiêu công hiện

đại.
-

Cuối cùng , ngân sách truyền thống đã tách rời giữa chi thường xuyên và
chi đầu tư: Hầu hết các công trình hạ tầng công cộng đều đòi hỏi ngoài những
chương trình đầu tư mang tính trung hạn còn phải có những khoản chi thường
xuyên để vận hành bảo dưỡng các công trình này sau khi chúng được xây dựng
xong. Tuy nhiên, với cách lập ngân sách truyền thống, hai loại chỉ tiêu này
được xây dựng một cách độc lập với nhau. Về tính chất của hai khoản chi, chi
đầu tư xuất hiện trước, khi công trình bắt đầu được đưa vào sử dụng thì mới
xuất hiện nhu cầu chi thường xuyên. Chi đầu tư thường kéo dài do công trình bị
chậm tiến độ, còn chi thường xuyên thường không thể lường trước được các
khoản chi. Hai khoản chi không xuất hiện cùng một lúc trong bảng kế hoạch
ngân sách hàng năm. Thứ hai là về tổ chức lập ngân sách, trong khi Bộ kế
hoạch và đầu tư chịu trách nhiệm quản lý và phân bổ các chương trình đầu tư
còn công cộng thì chi thường xuyên lại do Bộ Tài chính đảm nhận. Việc phối
hợp giữa các cơ quan chức năng ở Việt Nam thường kém nên càng làm cho chi
đầu tư và chi thường xuyên tách rời nhau. Kết quả là, trong các khoản chi
thường xuyên hàng năm thiếu hẳn phần dự toán chi vận hành và bảo dưỡng cho
những công trình công cộng đã và đang được đưa vào hoạt động. Đây là một sự
lãng phí rất lớn nguồn lực vốn eo hẹp của ngân sách nhà nước, vì các công
trình công cộng không thể phát huy tối đa công suất của mình, thậm chí còn
xuống cấp rất nhanh ngay sau khi được xây dựng xong do thiếu được duy tu
bảo dưỡng thường xuyên. Điều này vi phạm mục tiêu về đảm bảo hiệu quả hoạt
động, đảm bảo hiệu quả phân bổ nguồn lực và yêu cầu sự tham gia của xã hội
trong quản lý chi tiêu công hiện đại.

Lập ngân sách truyền thống
- Tách rời giữa chính sách, lập kế
hoạch và lập ngân sách; Thiếu tính kế

thừa giữa các kỳ kế hoạch; cách lập ngân
sách theo kiểu điều chỉnh tăng dần; tách
bạch giữa chi thường xuyên và chi đầu tư.

Lập ngân sách theo khuôn khổ chi tiêu
trung hạn ( MTEF)
- Soạn lập ngân sách trong bối cảnh
trung hạn ( 3-5 năm) nhưng chỉ phê
chuẩn ngân sách 1 năm: Ngân sách hàng
năm luôn được đặt trong bối cảnh trung
hạn nên Quốc hội hay Chính phủ đều
5


- Cơ chế đối thoại giữa các Bộ,
ngành và địa phương yếu, thiếu tính minh
bạch -> xuất hiện cơ chế xin cho, các đơn
vị chi tiêu công không được đàm phán nói
lên nhu cầu của mình

nhận thức được rõ những gì sẽ tiếp tục
được chi tiêu một cách nhất quán với kế
hoạch trung hạn trong những năm tiếp
theo. Ngoài ra còn khắc phục được sự
tách bạch giữa các giai đoạn của lập NS
truyền thống.
- Ngân sách Nhà nước được tổng
hợp từ bên dưới đưa lên. Việc điều chỉnh
các con số dự toán dựa trên cơ sở thực
hiện theo những quy định chặt chẽ nhằm

khắc phục tình trạng cơ chế xin cho. Đảm
bảo phân bổ nguồn lực cho những lĩnh
vực mà địa phương ưu tiên. Việc tái phân
bổ ngân sách cũng được thực hiện một
cách minh bạch, có luận chứng chứ
không phải là sự cắt giảm tùy tiện.

2.2. Thực trạng lập ngân sách và quản lý chi tiêu công tại Việt Nam.
Luật Ngân sách Nhà nước số 01/2002/QH11 được Quốc hội ban hành ngày
16/12/2002 có hiệu lực thi hành từ năm ngân sách 2004. Luật này thay thế Luật ngân
sách nhà nước năm 1996 và luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật ngân sách nhà
nước năm 1998. Sau hơn 7 năm đi vào thực hiện, Luật NSNN đã phát huy tác dụng
tích cực trong việc đổi mới công tác quản lý và điều hành NS, góp phần quan trọng
trong ổn định và phát triển tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, qua thực tế triển khai Luật
NSNN đã dần bộc lộ những bất cập như: vấn đề quy định quyền và trách nhiệm của
các cấp, các ngành trong quyết định NS, về công tác kiểm soát, chất lượng hiệu quả
của chi NSNN và đặc biệt là vấn đề phân cấp NS còn thiếu chặt chẽ. Hiện nay, Bộ Tài
chính và Bộ Kế hoạch & Đầu tư đang tiến hành dự thảo Luật Ngân sách mới có sửa
đổi và bổ sung một số điều.
2.2.1- Khuôn khổ pháp lý
- Luật NSNN sửa đổi được Quốc hội thông qua tháng 12/2002 và có hiệu lực từ
năm tài khóa 2004. Luật này được xây dựng trên cơ sở kế thừa những điểm mạnh của
luật NSNN 1996, củng cố nền tảng pháp lý cho các hoạt động quản lý ngân sách trên
bốn khía cạnh quan trọng:
6


+ Làm rõ thẩm quyền và trách nhiệm: Luật NSNN đã thể hiện quy định rõ
hơn quyền của Quốc hội trong việc quyết định các nội dung cơ bản nhất của dự toán
NSNN, làm rõ hơn sự phân chia trách nhiệm giữa Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và

Đầu tư cũng như các Bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương.
+ Tăng cường phân cấp: Luật mới tiếp tục làm rõ hơn vai trò và trách nhiệm
của Trung ương và các cấp chính quyền địa phương. Cụ thể, các tỉnh được trao nhiều
thẩm quyền và nghĩa vụ rõ ràng hơn trong phân bổ NS, ưu tiên các nguồn lực. Họ
cũng được trao nhiều thẩm quyền và nghĩa vụ cụ thể hơn để huy động nguồn lực, với
việc một số nguồn thu thuế trước kia chỉ do chính quyền Trung ương thu thì nay
nhiệm vụ này đã được chia sẻ giữa Trung ương và địa phương.
+ Thúc đẩy cải cách hành chính: Đơn giản hóa thủ tục quản lý tài chính công
và tăng cường chế độ báo cáo. Các đơn vị sử dụng NS ở từng cấp được giao nhiều
quyền hơn trong quản lý và sử dụng NS, với việc giảm số lượng hạng mục chi tiêu bị
khống chế theo dự toán cần kiểm soát từ 9 mục xuống còn 4 nhóm mục.
+ Tăng cường sự minh bạch và trách nhiệm giải trình: Luật mới đã củng cố
và phát huy trên những nỗ lực được thực hiện gần đây nhằm nâng cao tính minh bạch
và trách nhiệm giải trình tài chính. Theo đó, ngân sách được công bố ngay sau khi
được phê duyệt, cùng với tất cả các thủ tục và quy định.
2.2.2- Phương thức soạn lập ngân sách và quản lý chi tiêu công
2.2.2.1- Lập Ngân sách
Việt Nam có một hệ thống NSNN thống nhất và Luật NSNN năm 2002 quy
định Bộ Tài chính là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm về lập và phân bổ ngân sách.
Tuy nhiên, tại Việt Nam vẫn còn tồn tại hệ thống “lập ngân sách kép”, trong đó Bộ Tài
chính (và cơ quan Tài chính địa phương) chuẩn bị khung kế hoạch tài chính chung và
dự toán ngân sách thường xuyên, còn Bộ Kế hoạch và Đầu tư (và cơ quan Kế hoạch
và Đầu tư địa phương) lập chương trình đầu tư công và ngân sách đầu tư, bao gồm chi
đầu tư phát triển và các dự án được viện trợ. Để cho một hệ thống “ngân sách kép”
được triển khai bền vững, Việt Nam cần củng cố cơ chế phối hợp giữa kế hoạch và
ngân sách: giữa ngân sách thường xuyên và ngân sách đầu tư phát triển và giữa các
chức năng tài chính và chức năng kế hoạch – đầu tư tại mỗi cấp chính quyền.
Trong giai đoạn này, phương thức soạn lập ngân sách đã có những bước tiến bộ
đáng kể so với giai đoạn trước như:
- Soạn lập NS đã dần có sự liên kết giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội


7


trung hạn với nguồn lực trong khuôn khổ kinh tế vĩ mô; đã có sự gắn kết với khuôn
khổ chi tiêu trung hạn.
- NSNN được xây dựng vào năm đầu tiên của thời kỳ ổn định ngân sách (trước
đây NSNN được soạn lập hàng năm). Cơ quan Tài chính các cấp phối hợp với cơ quan
Kế hoạch và Đầu tư tổ chức làm việc với UBND cấp dưới trực tiếp, các cơ quan, đơn
vị cùng cấp về dự toán NS. Đối với các năm tiếp theo của thời kỳ ổn định NS, chỉ làm
việc khi có đề nghị. Quy định này cho thấy, dự toán của ngân sách đã được thiết lập
dựa theo lý thuyết của MTEF. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những nét phác thảo ban
đầu. Trên thực tế, gần như hàng năm các địa phương vẫn phải đi “bảo vệ ngân sách”.
- Soạn lập NS đã có sự phối hợp giữa kế hoạch chi thường xuyên và chi đầu tư.
Tại Việt Nam có các Bộ riêng biệt là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và NS tách
riêng chi thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Khi không có một Bộ duy nhất và một
NS thống nhất, cần phải có các biện pháp mạnh mẽ để phối hợp công việc thuộc về
chức năng của hai Bộ ở cấp Trung ương và các sở ở địa phương. Hiện đã có một số cơ
chế phối hợp giữa hai khâu trên (Điều 21, 23 của Luật NSNN và được quy định rõ
hơn trong Nghị định 60/NĐ-CP). Tuy nhiên, phạm vi của Nghị định 60/NĐ-CP cơ bản
chia trách nhiệm giữa công tác lập kế hoạch và tài chính hơn là thiết lập một cơ chế
cho quá trình đối thoại và làm việc chung giữa hai bên. Khắc phục tình trạng này,
Chính phủ đã thành lập nhóm làm việc liên Bộ về kế hoạch chi tiêu trung hạn, bao
gồm các quan chức cấp cao của cả Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Trong phạm vi nguồn ngân sách được giao ổn định từ 3-5 năm, các Bộ, ngành,
địa phương được chủ động xây dựng định mức phân bổ NS, giao dự toán thu - chi NS
cho các đơn vị dự toán trực thuộc và NS cấp dưới. Các định mức phân bổ dự toán chi
NS đã có sự điều chỉnh, thay đổi phù hợp hơn với thực tế, không còn mang tính bắt
buộc đối với các địa phương và đơn vị (chỉ mang tính hướng dẫn, tham khảo).
2.2.2.2-Quản lý chi tiêu công

Luật NSNN năm 2002 mở rộng nguyên tắc chủ động ngân sách chi thường
xuyên ra tất cả các đơn vị thụ hưởng ngân sách. Cụ thể là số lượng các khoản chi ngân
sách được kiểm soát đã giảm từ 9 mục xuống còn 4 nhóm mục, trong đó có 3 nhóm
mục chi thường xuyên là "chi cho con người" "chi hoạt động và bảo dưỡng" và "chi
khác". Hơn thế nữa, hệ thống định mức phân bổ ngân sách đã được thay đổi (mặc dù
các định mức cơ sở vật chất vẫn còn tồn tại). Qua đó, Luật NSNN mới đã quy định
thêm quyền chủ động ngân sách cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách trên phạm vi
rộng hơn.

8


2.2.3. Những tồn tại trong lập ngân sách và quản lý chi tiêu công
Từ sau khi Luật NSNN được ban hành, quy trình NSNN đã được luật hóa và có những
cải cách tập trung cơ bản nhất là ở khâu lập NSNN. Tuy nhiên, với phương thức soạn
lập NSNN được thực hiện trong thời gian qua đã nảy sinh nhiều tồn tại:
-

-

-

-

Quản lý NS dựa theo phương thực lập NS theo khoản mục đầu vào, không chú
trọng đến các đầu ra và kết quả trong việc thực hiện các mục tiêu chiến lược ưu
tiền của quốc gia.
Soạn lập NS thiếu mối liên kết chặt chẽ giữa kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội trung hạn với nguồn lực trong một khuôn khổ kinh tế vĩ mô được dự báo
nên dẫn đến các kết quả ngân sách nghèo nàn.

Khuôn khổ ngân sách chi trong một năm, lập ngân sách tập trung vào các vấn
đề vĩ mô ngắn hạn.
Tính minh bạch và trách nhiệm không thực hiện nghiêm túc,một số khoản mục
chỉ được đưa vào thực hiện mà không công bố, đồng thời hạn chế sự tham gia
của xã hội vào quy trình ngân sách.
Còn có sự chồng chéo về chức năng và nhiệm vụ giữa Bộ Tài chính và Bộ Kế
hoạch và Đầu tư trong lập dự toán NSNN.
Cơ chế phân bổ nguồn lực còn kém hiệu quả.

9



×