Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Phối hợp màu sắc trong nhiếp ảnh phần 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.38 MB, 35 trang )

Phối hợp màu sắc trong nhiếp ảnh
Phần 3 - Lưa chọn và sử dụng
- Màu như một chủ thể:
Một bức ảnh mà màu sắc có mặt trong đó một cách ngẫu nhiên rất
khác biệt với một bức ảnh mà màu sắc đựợc chọn như một chủ thể và
đóng vai trò quan trọng. Đây là một lĩnh vực hơi nguy hiểm và đầy rẫy
những cạm bẫy sáng tạo. Sẽ dễ dàng lôi cuốn sự chỉ trích nếu ta thử phân
biệt giữa màu sắc và một chủ thể "bằng xương bằng thịt". Do tính trừu
tượng và không chính xác của các phương tiện đánh giá nên có rất nhiều
ý kiến khác nhau, ví dụ trong giới hạn nào mà màu sắc có thể trở thành
chủ thể trong một bức ảnh, đó thực sự là một vấn đề quan điểm.
John Szarkowski nghĩ rằng một trong 2 "thất bại" chính là ưu tiên
"mối liên hệ hòa hợp giữa các màu đẹp" (thất bại thứ 2 đơn giản là không
quan tâm đến, giống việc chụp hình màu như chụp trắng đen). Ta không
chắc là một bức ảnh "đẹp" và "hài hòa dễ chịu" là một điều không tốt,
nhưng ít ra các phẩm chất này không bị các lời chỉ trích "nhòm ngó" tới.
Để kết luận thì một mảng màu đẹp không đủ làm nên một bức ảnh vì kết
quả sẽ cho ra, giống như Bob Morley một giám đốc nghệ thuật nói, "một
bức ảnh tìm kiếm chủ đề". Mệnh đề có lẽ hơi rộng nhưng vấn đề là hiện
hữu.
Chúng ta có thể xác định được mức độ quan trọng của màu sắc
trong những bức ảnh đi từ trắng đen cho đến những bức ảnh tồn tại bởi vì
màu và nếu không có màu thì chúng không có lí do đề tồn tại. Ta dễ dàng
thử nghiệm bằng các phầm mềm sửa ảnh như photoshop bằng cách biến
chúng thành đơn sắc hay désaturation.
Vậy ai có thể phán xét? tất nhiên là các nhà nhiếp ảnh. Nhưng các
quan điểm về màu rất đa dạng và không giới hạn. Một lời bình luận trịch
thượng của Szarkowski "Phần lớn trong các bức ảnh màu hoặc không có
hình thể, hoặc đẹp" cũng phản ánh được quan điểm của ông. Nhà nhiếp
ảnh Magnum Ian Berry thì cho rằng ông chỉ chụp hình trắng đen ngay cả
khi dùng các cuộn phim màu (cần cho các tạp chí). Là một nhiếp ảnh gia


phóng sự, ông ta không quan tâm đến màu sắc. Không qua tâm đến màu
sắc không phải là một sự thất bại, mà chỉ là một thái độ. Nhưng nếu bạn
nhạy cảm với màu, thì nên tìm trước tiên những hình ảnh thích đáng.
Giống như những khoảnh khắc tương tác giữa con người trong phóng sự,
các tổ hợp màu thú vị chỉ thỉnh thoảng mới có mặt, và sức lôi cuốn của
chúng tùy thuộc vào gu của bạn.

Chủ đề của bức ảnh này, các tàu đánh cá philippin, bản thân nó
cũng hấp dẫn nhưng chính là màu sắc có vai trò truyền đạt độ sâu và sự
phong phú của vùng biển nhiệt đới.

Bức ảnh này không không chỉ là một tư liệu về máy bay cổ mà còn
là một tổ hộp màu sắc kinh điển

Ở một lễ hội đón mùa mưa ở Đông Bắc Thái lan, người ta đốt pháo
bông tự làm và vẽ các màu sắc rực rỡ, ở đây mày sắc chính là chủ thể
- Một phong cách màu (style):
Trong lĩnh vực màu sắc, phong cách là sử dụng một số bảng màu
nào đó (palette) và dùng một số cách xử lý. Nếu trung thành với một
phong cách, chúng ta có nguy cơ tự đóng khung trong sự bó buộc. Trong
màu sắc cũng như trong đa số lĩnh vực sáng tác, phong cách được coi
như quân chủ bài vì đó là dấu hiệu của việc ta đã đạt đến một độ chín
chắn nào đó. Nhưng sự định nghĩa của nó rất rộng và cách biệt cũng rất
mong manh với kiểu cách. Sự kiểu cách dễ được xác định hơn khiến
chúng ta dễ dàng phạm phải khi quá mong muốn tạo dựng một phong
cách cho mình. Phần đông các nhiếp ảnh gia tìm tòi thử nghiệm các kĩ
thuật mới, hoặc lúc bấm máy chụp, hoặc lúc xử lí hình sau đó, nhưng nên
tránh bị đóng khung trong một kĩ thuật riêng biệt, ví dụ như bầu trời
chuyển nhạt dần. Điều đó nói lên, phong cách là một ngôn từ có định
nghĩa rất rộng, nhất là khi nó làm nên tính cách của một họa sĩ hay một

nhiếp ảnh gia như một cá nhân. Nó dễ dàng hơn khi áp dụng vào các tác
phẩm mang tính tập thể, các tác phẩm trong các trường đào tạo, hoặc của
các trào lưu.
Đối với tôi (Michael Freeman), hãy giới hạn định nghĩa của phong
cách ở cách thức mà các nhiếp ảnh gia xử lý màu sắc. Điều quan trọng là
phải biết thử nghiệm và phân biệt với "phong cách của kĩ thuật", nó dễ xác
định hơn và thường xuyên bị lẫn lộn với phong cách. Tôi nói là hãy thử
nghiệm vì cả hai đều không được định nghĩa rõ ràng và kĩ thuật (ví dụ
dùng flash để giảm bóng đổ, tăng cường các vùng màu tươi) là gốc của
việc xây dựng một phong cách.
Trong nhiếp ảnh, kĩ thuật để xử lí màu sắc rất dễ hiểu và dễ sử
dụng. Một số là kết quả của trình tự xử lí trong Photoshop, lựa chọn và
biến đổi các màu. Số khác là thành quả của việc quan sát-cách thức chọn
lựa các tổ hợp màu trong bố cục. Bất kể các kĩ thuật được dùng, chúng
hình thành nên phong cách qua các bài tập về chọn lựa và đánh giá sáng
tạo. Các họa sĩ như Van Gogh, Matisse hay Francis Bacon là các ví dụ tốt.
Trong số các nhiếp ảnh gia, có nhiều người chuyên gia về màu nổi
tiếng mà ta nhìn nhận ngay các tác phẩm của họ. Theo trật tự chung, hoặc
họ tự tạo cho mình một phong cách màu riêng, hoặc họ lựa chọn một
phong cách phù hợp. Trong những người nổi tiếng, dẫn ra vài người như
Joel Meyerowitz, Jan Groover, Ernst Haas, Martin Parr, Alex Webb và Eliot
Porter, tất cả đều có một phong cách khác biệt.
Cuối cùng, ta có thể nói là các phong cách có giới hạn của nó, một
nhiếp ảnh gia tài năng phải biết trừu tượng hóa chúng và cặm cụi chăm
chỉ trong nhiều kĩ thuật khác nhau, tùy theo hoàn cảnh và công việc đòi hỏi.
Phong cách nhiều khi đơn giản trong cách nhìn của người xem nhiều hơn
là trong cảm nhận của người chụp

Phong phú về màu: khi hoàn cảnh cho phép, một cảnh đầy màu sắc
cho cảm giác thích thú không thể sánh được và thể hiện một lựa chọn về

phong cách, giống như cảnh đường phố trên đây một người đàn ông đang
đọc sách trước một ngôi đền ở Việt nam.

Màu điếc, một cảnh đường phố khác nhưng cách xử lí màu buồn
hơn, độ bão hòa được giảm và các tông màu nhẹ hơn tô hình ảnh người
dân của một khu phố nghèo ở Calcutta.

Buổi hoàng hôn, mẵt trời lặn trên một ngọn đồi ở Mandalay, Miến
điện. Sự thiếu vắng chủ thể lôi cuốn cái nhìn vô sự tương tác giữa các
màu tinh tế được phản chiếu bởi bức tường vôi của ngọn Stupa

Màu tối thiểu, bằng cách tập trung vô một màu rực rỡ do chọn đóng
khung và đo sáng, tạo nên một phong cách. Như trong nhiếp ảnh, trên hết
là vấn đề khoảnh khắc
- Phong phú và rực rỡ:
Trong nhiếp ảnh màu sắc, việc tranh luận về phong cách thường
xảy ra giữa màu mang tính dữ dội, kịch tính (được ủng hộ bởi đa số quần
chúng và bị gièm pha bởi phê bình nghệ thuật) với màu sắc nhẹ nhàng
nhã nhặn. Mặc dù có rất nhiều phong cách màu, nhất là từ khi các phần
mềm xử lí ảnh cho phép làm chủ việc điều chỉnh dễ dàng, ranh giới giữa
màu sắc rực rỡ và màu nhã nhặn luôn luôn cách biệt.
Một cuộc tranh luận ra đời trong những năm 1970 với sự tràn ngập
chủ yếu tại Mỹ cái mà người ta gọi là "màu sắc mới". Các nhà nhiếp ảnh
như William Eggleston và Stephen Shore tuy làm việc một cách độc lập
nhưng lại có các điểm chung là phủ nhận sự rực rỡ nổi bật và kịch tính,
tôn thờ tính tầm thường. Công việc của họ hoàn toàn khác biệt với nhiếp
ảnh màu được ưa thích hiện thời, với đặc điểm màu sắc bão hòa, phong
phú và rực rỡ. Loại nhiếp ảnh mang tính không thể tách rời với các sắc
màu bão hòa chính là Ernst Haas, là một tên tuổi lớn trong làng nhiếp ảnh,
Haas chịu ảnh hưởng nhiều bởi Peter Turner, Jay Maisel et Galen Rowell,

cũng như từ các tạp chí màu như National Geographic và GEO.
Từ nguồn gốc, các màu bão hòa và tương phản gắn liền với
Kodachrome. Khi phim Kodac được chụp hơi thiếu sáng, màu sắc ảnh trở
nên rất rực rỡ. Kĩ thuật này trở nên rất thông dụng trong làng nhiếp ảnh
chuyên nghiệp. Với người dùng thì phim Kodachome khiến nhiếp ảnh màu
trở nên rất cuồng nhiệt đam mê, nhưng với dân phê bình nghệ thuật thì
đây thực sự là một tai họa. Peter Turner tuyên bố: "chính nhờ vào độ bão
hòa các màu sắc phong phú đã làm tôi trở nên nổi tiếng, không có Kodak
thì không bao giờ tôi có thể đạt được các kết quả tương tự". Cùng lúc đó
Haas được mệnh danh là "Papanini (tên một nhạc sĩ nổi tiếng Ý) của
Kodachrome". Szarkowski, không hề dấu diếm quan điểm chống lại loại
nhiếp ảnh màu mè tầm thường này, đã phê bình Haas: "Màu sắc trong
nhiếp ảnh thường được dùng làm bình phong trang trí không có giá trị
giữa người xem và chủ đề của bức ảnh". Haas sau đó tìm cách sửa chữa
vấn đề bằng cách thể hiện được cảm xúc màu sắc của các chủ đề trong
thế giới của ông. William Eggleston, đối lại với Haas, cũng sử dụng cùng
ngôn từ khi thể hiện các chủ thể như "một cái cớ để tạo dựng một bức ảnh
màu".
Phim Fuji Velvia ra đời đã giải phóng Kodachrome khỏi các màu sắc
bão hòa. Rất thú vị khi thấy ảnh hưởng của các nhãn hiệu phim chụp lên
các phong cách màu sắc, sau đó là thời đại kĩ thuật số. Các hiệu quả đó
dù là mong muốn hay không , hiện tại có thể đo lường chính xác theo độ
bão hòa và tương phản, hoàn toàn làm chủ được. Các màu phong phú,
ánh sáng rực rỡ của hoàng hôn, ánh cầu vồng, ánh sáng mờ ảo, các tia
nắng xuyên qua bóng tối đã tạo nên tính cách tích cực, các hiệu quả đó
trở nên hoàn toàn thông dụng và dễ đạt được

Các chai dầu cọ trong một buổi chợ ở Soudain có thể được chụp
bằng nhiều cách thức. Ở đây màu sắc, được tăng cường bằng bố cục
khép chặt, filtre và ánh sáng ngược, là điểm trọng tâm của bức ảnh


Một phụ nữ bộ tộc akha đang nhuộm lông gà bằng các chất phẩm
tự nhiên. Màu đỏ là màu rực rỡ nhất và ở đây nó làm chúng ta bất ngờ.

Con voi của quốc vương Thái lan tự nhiên không có sắc này. Mày
rực rỡ này có được do ánh nắng mặt trời lặn chiếu trực tiếp vào chủ thể và
việc đo thiếu sáng giúp giữ lại được sắc đỏ của hàng cột. Lỗ tai voi và ánh
phản chiếu lên hàng cột cho cảm giác phong phú
- Màu sắc nhã nhặn và bình dị:
Các bảng màu không bão hòa được gắn liền với sự tinh tế và sự cố
tình thể hiện những cái gì bình thường đại chúng, nhưng việc sử dụng
chúng cần sự khéo léo để không bị rơi xuống cái tầm thường. Phía bên kia
ranh giới của phê bình nghệ thuật ta có màu sắc nhã nhặn. Hiện tượng
này có từ rất lâu trước nhiếp ảnh và theo John Gage thì nó là "một sự coi
khinh của màu sắc", được nhìn nhận trong nhiều nền văn hóa như một "
dấu hiệu của sự thanh tao và cách biệt". Cuộc tranh luận về màu sắc nhã
nhặn đạt đỉnh cao nhất vào những năm 1970, bắt đầu khi phim màu tràn
ngập thay thế phim trắng đen. Các nhà nhiếp ảnh lúc đó đã quen thuộc với
ảnh trắng đen bất kể các yếu điểm của nó, đó cũng làm nên sự khác biệt
giữa hội họa và nhiếp ảnh. Sự đăng quang của màu sắc đã làm phức tạp
hóa cái thẩm mỹ của việc thể hiện lại thế giới hiện hữu hay theo ngôn từ
của Szarkowski:" Với các nhà nhiếp ảnh đòi hỏi sự chặt chẽ về hình thức,
màu sắc chỉ làm tệ hại thêm một vấn đề vốn đã cực kỳ khó giải quyết".
Màu sắc đã rất khó làm chủ. Các chuyên gia về màu như Ernst
Haas phải rất vất vả khi tìm ra các cảnh chụp, các điểm nhìn và ánh sáng
để có thể làm cảnh ngoạn mục phong phú như ý muốn. Nhưng công việc
của những người ủng hộ màu sắc nhã nhặn cũng khó khăn không kém.
Một trong những giải pháp là lựa chọn làm việc ngoài trời hay trong studio
(Jan Groover), ở những nơi mà ánh sáng có thể thay đổi được. Bên ngoài,
họ có thể chọn lựa chụp khi mà ánh nắng giảm nhiều như chụp lúc gần

chiều tối hay khi trời có mây che phủ. Việc đặt kế cận các màu và bố cục
cũng quan trọng như trong nhiếp ảnh màu sắc mạnh, nhưng phải được dự
kiến khác, cách thức tinh tế hơn thậm chí chậm hơn. Nhiếp ảnh KTS đã
chuyển các công việc đó về post-production nên đã giải phóng người chụp
được tự do hơn.
Một trong những kĩ thuật của màu sắc nhã nhặn là làm việc với các
bảng màu giới hạn hơn, do đó cũng áp đặt một vài tính nhất quán cho bức
ảnh bằng cách lựa chọn chụp những màu ít nhiều tương tự nhau (về sắc
màu, độ bão hòa hay độ sáng). Ở những nhiếp ảnh gia của "Màu sắc mới"
(một trào lưu màu sắc nhã nhặn), Joel Meyerowitz đã thực thiện một série
ảnh phong cảnh rất thảnh công xung quanh Cape Cod bằng cách tập
trung vô tính nhất quán về ánh sáng. Một ngày, ông ta bị hớp hồn bởi màu
xanh dương của cảnh chụp và tuyên bố: "... màu xanh đó, bức xạ, sâu
thẳm. Nó phát tỏa ra từ tất cả những màu xanh tổng hợp lại trong suốt
cuộc đời của tôi. Thực tế, ngay khi Meyerowitz thường gắn liền với lời phê
bình ở Eggleston, Shore...ông ta rõ ràng là một chuyên gia màu sắc.

×