Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Tiểu luận thực tiến áp dụng pháp luật thuế GTGT hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (223.23 KB, 23 trang )

Trường Đại học Luật Hà Nội
MỤC LỤC
I. LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………….
II. NỘI DUNG………………………………………………………………….
I. Một số vấn đề cơ bản của Luật thuế GTGT…………………………………..
1. Khái niệm thuế GTGT:……………………………………………………....
2. Vai trò của Thuế GTGT:……………………………………………………..
II. Thực trạng áp dụng luật thuế giá trị gia tăng………………………………..
1.Những thành tựu cơ bản trong quá trình áp dụng thuế giá trị gia tăng………
2.Một số đánh giá cơ bản về những tồn tại của hệ thống pháp luật thuế GTGT ở
Việt
Nam………………………………………………………………………………
2.1:Những hạn chế của hệ thống pháp luật thuế GTGT hiện hành……………..
2.2: Một số đánh giá cụ thể về những tồn tại của pháp luật thuế GTGT
a. Về phạm vi áp dụng thuế GTGT………………………………………………
b. Về căn cứ tính thuế……………………………………………………………
c. Về phương pháp tính thuế GTGT…………………………………………….
d. Về quản lý hoàn thuế GTGT………………………………………………….
e. Quy định về địa điểm cung cấp hàng hóa, dịch vụ……………………………
g. Cơ chế quản lý và thực hiện công tác quản lý của các cơ quan thuế:………..
3.Nguyên nhân của thực trạng trên:……………………………………………..
II. Một số giải pháp hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta……………………..
1. Bối cảnh quốc tế và định hướng kinh tế – xã hội tác động đến xu hướng hoàn
thiện thuế GTGT ở nước ta ……………………………………………………
2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện Luật thuế GTGT ………
2.1: Sửa đổi Luật Thuế GTGT phải phù hợp với xu hướng cải cách hệ thống thuế
trên thế giới……………………………………………………………………….
2.2: Sửa đổi trên cơ sở các bất cập của pháp luật thuế hiện hành và phải phù hợp
với thông lệ quốc tế……………………………………………………………….
III. KẾT LUẬN
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3



Page 1


Trường Đại học Luật Hà Nội
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, hệ thống pháp luật thuế từng bước đã được ban hành,
bổ sung và sửa đổi phù hợp với công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới quản lý nhà
nước. Việc thực hiện các chính sách thuế thống nhất và bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế đã động viên hợp lý các nguồn thu quan trọng từ nội bộ nền kinh tế,
đáp ứng nhu cầu chi NSNN góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa phát
triển cũng như đẩy mạnh sản xuất và hoạt động đầu tư…
Thuế GTGT là một loại thuế mới xuất hiện và áp dụng vào thực tiễn ở Việt
Nam từ tháng 01/01/1999 nhưng môi trường đầu tư thuận lợi cho các đơn vị kinh
tế, bảo hộ hợp lý và khuyến khích sản xuất trong nước, đặc biệt đối với hàng hóa
xuất khẩu, tăng cường hoạch toán trong các doanh nghiệp và góp phần làm cho hệ
thống luật pháp Việt Nam nói chung và hệ thống luật thuế nói riêng phù hợp với
luật pháp và thông lệ thế giới. Tuy nhiên thuế GTGT là một loại thuế mới, nên
trong quá trình áp dụng không tránh khỏi những khó khăn và còn nhiều thiếu sót,
dẫn đến việc thực hiện không đúng, không đầy đủ Luật thuế GTGT mà còn tạo ra
nhiều kẽ hở cho các doanh nghiệp lợi dụng rút tiền của NSNN. Thực tế này không
những làm cho mục đích chính của Thuế GTGT– nguồn thu quan trọng thường
xuyên cho NSNN - không được đảm bảo mà còn gây ra sự mất bình đẳng giữa các
doanh nghiệp làm ăn chân chính, thực hiện tốt cho chế độ hóa đơn chứng từ với các
doanh nghiệp đang lợi dụng chính sách thuế của Nhà nước để bòn rút của công làm
lợi cho mình thì chưa được phát hiện kịp thời và xử lý thích đáng. Chính vì lẽ đó
nên chúng em đã chọn đề tài “thực tiễn áp dụng pháp luật thuế GTGT hiện nay”.
Trong quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và làm bài, dù đã có cố gắng hết sức
nhưng vẫn không tránh khỏi được những thiếu sót, nên chúng em rất mong quý
thầy cô đưa ra những nhận xét và đánh giá quí báu giúp cho bài làm được hoàn

thiện hơn.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!!!

Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 2


Trường Đại học Luật Hà Nội
II. NỘI DUNG.
I. Một số vấn đề cơ bản của Luật thuế GTGT
1. Khái niệm thuế GTGT:
Luật thuế GTGT đầu tiên được thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997 tại kỳ
họp thứ 11 Quốc hội khoá IX và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
1999. Việc ban hành Luật thuế GTGT để thay thế cho Luật thuế doanh thu theo
Chương trình cải cách thuế bước II đã được Bộ chính trị, Quốc hội và Chính phủ
thông qua. Trong quá trình triển khai thực hiện, Luật thuế GTGT được sửa đổi, bổ
sung nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
thuế giá trị gia tăng năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu
thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng năm 2005). Luật thuế GTGT sau 9 năm
thực hiện đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã hội của
đất nước và đã đạt được những mục tiêu đề ra của cải cách thuế bước II. Tuy nhiên,
trước bối cảnh nền kinh tế đang tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ, hội nhập ngày càng
sâu hơn, rộng hơn, Luật thuế GTGT năm 1997 và các Luật sửa đổi, bổ sung Luật
thuế GTGT vẫn còn bộc lộ một số vấn đề cần phải xem xét để tiếp tục hoàn thiện.
Theo đó, tại kỳ họp khoá XII, kỳ họp thứ 3, ngày 03 tháng 6 năm 2008 Quốc hội đã
thông qua Luật thuế GTGT 2008. Thuế GTGT là thuế tiêu dùng nhằm động viên
một bộ phận thu nhập của người chịu thuế đã sử dụng để mua hàng hóa, nhận dịch

vụ.
Điều 2 Luật Thuế GTGT năm 2008 qui định: “Thuế GTGT là thuế thu trên
phần giá trị tăng thêm của hàng hóa dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất,
lưu thông đến tiêu dùng”. Vì chỉ tính trên khoảng GTGT thêm của hàng hóa, dịch
vụ ở từng khâu bán hàng, không đánh vào phần giá trị đã chịu thuế ở khâu trước,
cho nên cách tính thuế GTGT là rất khoa học và cần thiết đối với phát triển sản
xuất theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa và phù hợp với yêu cầu hội nhập
quốc tế hiện nay ở nước ta.
2. Vai trò của Thuế GTGT:
Thuế GTGT không thu trùng lặp cho nên góp phần khuyến khích chuyên
môn hóa, hợp tác hóa để nâng cao năng suất, chất lượng, hạ giá thành sản phẩm,
góp phần khuyến khích mạnh mẽ việc sản xuất hàng xuất khẩu,vì hàng hóa xuất
khẩu chẳng những không chịu thuế GTGT ở khâu xuất khẩu mà còn được thoái trả
toàn bộ số thuế GTGT đã thu ở các khâu trước. Thuế GTGT được thực hiện thống
nhất và chặt chẽ theo nguyên tắc căn cứ vào hóa đơn mua, bán hàng để khấu trừ số
thuế đã nộp ở khâu trước Vì chỉ tính trên phần giá trị tăng thêm, không tính vào
vốn, nên Thuế GTGT đã góp phần khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn ra để
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế ở
nước ta trong thời gian tới. Ngoài ra Thuế GTGT được thu tập trung ngay ở khâu
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 3


Trường Đại học Luật Hà Nội
đầu tiên là khâu sản xuất hoặc khâu nhập khẩu hàng hóa và thu ở mỗi khâu đều có
thể kiểm tra được việc thu nộp thuế ở khâu trước, cho nên hạn chế được thất thu
hơn so với thuế doanh thu
.
II. Thực tiễn áp dụng luật thuế giá trị gia tăng theo pháp luật hiện hành.

1. Những thành tựu cơ bản trong quá trình áp dụng thuế giá trị gia tăng.
Có thể thấy rằng, mặc dù ra đời muộn và còn khá mới mẻ so với các loại
thuế khác song pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay cơ bản đã đáp ứng được
những yêu cầu về lý luận của pháp luật thuế GTGT cả cấu trúc bên trong lẫn hình
thức biểu hiện bên ngoài. Cụ thể, các bộ phận hợp thành của pháp luật thuế GTGT
là tương đối đầy đủ và các nhóm quy phạm pháp luật này được biểu hiện dưới các
hình thức: Luật, Nghị quyết, Nghị định, Thông tư của các Cơ quan nhà nước có
thẩm quyền
Do điều kiện kinh tế xã hội ở nước ta đang trong giai đoạn quá độ nên các
quy định cuả pháp luật thuế GTGT luôn tính đến các giải pháp cho phù hợp với
tình hình cụ thể của đất nước nhằm áp dụng tốt nhất thuế GTGT như quy định hai
phương pháp tính thuế, mở rộng diện miễn giảm thuế…Chính vì lẽ đó, qua nhiều
năm triển khai thực hiện Luật thuế GTGT đã đạt được một số thành tựu đáng kể mà
thành tựu bao trùm nhất là đạt được những mục tiêu yêu cầu đặt ra trong Luật thuế
GTGT. Cụ thể là:
Thứ nhất, Luật thuế GTGT đã thể hiện được thái độ của nhà nước đối với tính
trung lập của thuế. Điều này được thể hiện ở chỗ những quy định của pháp luật
thuế GTGT đã tạo ra sự công bằng và bình đẳng giữa các đối tượng chịu thuế và
đối tượng chịu thuế. Các nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế đã được phân chia một
cách hợp lý và chịu mức thuế suất như nhau giữa các hàng hóa, dịch vụ có cùng
mục đích sử dụng. Cụ thể, mức thuế suất phổ biến là 10% áp dụng đối với hàng
hóa, dịch vụ thông thường, mức thuế suất 5% đối với các loại hàng hóa, dịch vụ ưu
đãi, khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất, các sản phẩm thiết yếu, sản phẩm
công nghiệp nặng, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ công cộng, thuế suất
0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu.
Thứ hai, Luật thuế GTGT đã đảm bảo ở mức độ nhất định nguyên tắc công
bằng và tính hiệu quả của hệ thống pháp luật. Tính công bằng có biểu hiện rất rõ
ràng thông qua nhưng quy định mang tính phổ biến về đối tượng nộp thuế, cơ sở
tính thuế. Việc quy định mức thuế suất thấp đối với các mặt hàng thiết yếu tạo cho
mọi đối tượng đều có khả năng tiêu dùng. Đối với những hàng hóa xa xỉ, Nhà nước

không khuyến khích tiêu dùng đã chịu thuế tiêu thụ đặc biệt lại vẫn tiếp tục phải
chịu thuế GTGT, đây đồng thời cũng là nhóm hàng hóa, dịch vụ có đối tượng tiêu
dùng là những người có thu nhập cao. Quy định như vậy là nhằm điều tiết thu nhập
của các tầng lớp trong xã hội theo nguyên tắc người có thu nhập thấp điều tiết thuế
thấp, người có thu nhập cao điều tiết thuế cao, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 4


Trường Đại học Luật Hà Nội
Với việc thực hiện tiêu chí công bằng, thực tiễn cho thấy sự chấp nhận ngày càng
rõ ràng của xã hội đối với loại thuế tiên tiến này.
Thứ ba, hệ thống pháp luật thuế GTGT đã tạo cơ sở pháp lý hình thành nguồn
thu ổn định, chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tổng thu từ thuế, phí và lệ phí. Việc
triển khai thực hiện Luật thuế GTGT bảo đảm động viên số thu cho NSNN không
giảm hơn so với thuế doanh thu, không làm ảnh hưởng lớn đến kế hoạch thu
NSNN.
Thứ tư, pháp luật thuế GTGT hiện hành mở rộng lưu thông hàng hóa và đẩy
mạnh xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước, sắp xếp, cơ cấu lại nền kinh tế. Theo
quy định của Luật thuế GTGT hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu được hưởng thuế suất
0% tức là được hoàn lại toàn bộ số thuế GTGT đã nộp ở đầu vào. Điều này giúp
cho doanh nghiệp xuất khẩu, tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu
và có điều kiện cạnh tranh được với hàng hóa trên thị trường quốc tế .
Đặc biệt, luật thuế GTGT đã bước đầu tác động đến công tác quản lý của doanh
nghiệp, tăng cường công tác hạch toán kế toán và thúc đẩy việc mua bản hàng hóa
có hóa đơn chứng từ ở các doanh nghiệp. Thông qua việc chấp hành công tác kế
toán, hóa đơn chứng từ của các doanh nghiệp, qua việc kê khai thuế, hoàn thuế,
quyết toán thuế đã giúp cho cơ quan chức năng của Nhà nước và cơ quan thuế từng
bước nắm được sát hơn tình hình sản xuất kinh doanh cũng như tăng cường việc

kiểm trá giám sát đối với doanh nghiệp.
Như vậy, việc ban hành luật thuế GTGT thay cho thuế doanh thu là điều hết
sức cần thiết và hợp lý. Việc đưa thuế GTGT vào áp dụng tại Việt Nam là định
hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, là bước đột phá lớn trong công cuộc cải
cách tài chính công. Sau hơn 11 năm thực hiện cho thấy thuế GTGT đã đi vào thực
tiễn cuộc sống, bước đầu việc điều chỉnh của pháp luật thuế GTGT đã đạt được
những hiệu quả nhất định. Đặc biệt, việc thực hiện luật thuế GTGT đã có những tác
động lớn đến đời sống kinh tế - xã hội nước ta, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp
luật thuế, phù hợp với kinh tế thị trường, tạo điều kiện mở rộng hợp tác kinh tế với
các nước trong khu vực và trên thế giới.
2. Những đánh giá về hệ thống pháp luật thuế GTGT ở Việt Nam
2.1. Những đánh giá tình hình triển khai thực hiện thuế GTGT (sửa đổi năm
2003) ở Việt Nam.
Luật thuế GTGT năm 1997, trong quá trình triển khai thực hiện đã được sửa
đổi, bổ sung vào những năm đầu nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát
sinh, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta. Luật thuế GTGT đã đi vào
cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế, xã hội của đất nước và đạt được
mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế GTGT còn
bộc lộ một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới:
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 5


Trường Đại học Luật Hà Nội
Thứ nhất, về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT : Luật quy định
28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT . Quy định này là phù hợp với
điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua, tuy nhiên trong quá trình thực hiện và
cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số hàng hoá, dịch

vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế GTGT sẽ không còn phù hợp, gây bất lợi
cho sản xuất kinh doanh, bởi vì doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các hàng hoá,
dịch vụ không chịu thuế GTGT sẽ không được tính thuế GTGT cho người mua,
như vậy, toàn bộ số thuế GTGT đã trả khi mua các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản
xuất kinh doanh sẽ không được khấu trừ mà phải tính vào giá thành sản phẩm, từ
đó làm tăng chi phí, giảm khả năng cạnh tranh của những hàng hoá, dịch vụ này
trên thị trường trong nước và quốc tế. Do đó, cần rà soát để chuyển sang đối tượng
chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn của thuế GTGT và tạo thuận lợi hơn cho cơ
sở sản xuất, kinh doanh.
Để phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật thuế GTGT quy định một số dịch vụ
tài chính cụ thể thuộc diện không chịu thuế GTGT nên trong thực tiễn thi hành,
cùng với quá trình hội nhập và sự phát triển của thị trường tài chính đã xuất hiện
ngày càng nhiều các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, như:
dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua,
bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch
chuyển nhượng vốn. Vì vậy, các dịch vụ tài chính mới này cần được bổ sung vào
Luật để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện và phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Thứ hai, về thuế suất thuế GTGT: Năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT
, mức thuế suất 5% là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch
vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người
dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trước những khó khăn của nền kinh tế,
Luật thuế GTGT đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần để đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn trong từng thời kỳ, theo đó, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng được mở
rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đó dẫn đến doanh nghiệp sản xuất,
kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không những không phải
nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ NSNN. Luật thuế GTGT vừa quy định chi tiết
danh mục hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 5%, vừa quy định chi tiết danh
mục hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10%. Trong thực tế, nhiều hàng hoá,
dịch vụ mới phát sinh nhưng chưa có trong danh mục; mặt khác, tiêu chí phân định

ranh giới áp dụng mức thuế suất chưa rõ ràng: vừa theo tên hàng hoá, dịch vụ, vừa
theo công dụng hàng hoá, dịch vụ, vừa theo tính chất của hàng hoá, dịch vụ, dẫn
đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong quá
trình thực hiện. Ví dụ, sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản
phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những
sản phẩm cơ khí không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng
cho sản xuất.
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 6


Trường Đại học Luật Hà Nội
Thứ ba, về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế. Khấu trừ, hoàn thuế là
việc doanh nghiệp được trừ hoặc được hoàn lại số thuế đã trả khi mua hàng hoá,
dịch vụ phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Đây là một nội dung cơ bản, đặc thù
riêng có, thể hiện tính ưu việt của thuế GTGT, từ đó đã khắc phục việc thu trùng
của thuế doanh thu trước đây, khuyến khích xuất khẩu. Luật thuế GTGT sửa đổi, bổ
sung 2003 quy định căn cứ khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào là hoá đơn
GTGT mua hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn quản lý thuế cho thấy quy định nêu trên
chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống
thông qua việc sử dụng hoá đơn ghi chép không trung thực với thực tế giao dịch và
các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận trong khấu trừ, làm giảm số thuế
GTGT phải nộp hoặc tăng số thuế GTGT được hoàn khống rút tiền ngân sách, gây
bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế, ảnh hưởng đến môi
trường đầu tư. Làm xuất hiện một loại tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua, bán, sử
dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế GTGT của Nhà nước như một
số đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của Luật doanh nghiệp và quy định về
điều kiện được khấu trừ thuế, được hoàn thuế nêu trên để thành lập doanh nghiệp
nhằm mục đích mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính (doanh nghiệp ma)....Để ngăn

chặn tình trạng này, thời gian qua các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan bảo vệ
pháp luật, cơ quan thuế đã phối hợp để tăng cường các biện pháp quản lý, như: phối
hợp trong việc cung cấp thông tin, điều tra, xử lý các vụ vi phạm,…; riêng cơ quan
thuế đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý hóa đơn, như yêu cầu doanh nghiệp đóng
dấu, mã số thuế trên hoá đơn, kiểm tra đối chiếu hoá đơn giữa doanh nghiệp bán
với các doanh nghiệp mua và ngược lại, gây tốn kém nhiều thời gian và chi phí,
nhưng mới chỉ hạn chế được phần nào mà chưa thể chặn đứng được tình trạng gian
lận nêu trên.
Thứ tư, về hình thức văn bản. Thuế GTGT được thể hiện tại 3 văn bản Luật
khác nhau là Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật thuế giá trị gia tăng năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng năm 2005. Mặt khác, năm
2006, Luật quản lý thuế (đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ 01 tháng 7
năm 2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế như đăng ký, kê khai, nộp
thuế, xử lý vi phạm để thay thế cho các quy định về quản lý thuế trong các luật,
pháp lệnh thuế đã được ban hành trước đây, trong đó có Luật thuế giá trị gia tăng.
Với nhiều văn bản Luật cùng quy định về thuế GTGT nên chưa tạo thuận lợi cho
việc tra cứu, áp dụng pháp luật.
Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 được xây dựng dựa trên các nguyên tắc, quan
điểm chỉ đạo như sau:
1. Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội
nhập của Việt Nam trong những năm tới;

Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 7


Trường Đại học Luật Hà Nội

2. Đảm bảo cho chính sách thuế đơn giản, rõ ràng, minh bạch, khắc phục những
hạn chế của Luật hiện hành, nhất là trong việc kê khai khấu trừ, hoàn thuế GTGT
đầu vào, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả công tác quản
lý thu thuế, tính tuân thủ pháp luật về thuế và đồng bộ với Luật quản lý thuế;
3. Từng bước thực hiện chương trình cải cách thuế; không gây biến động cho sản
xuất, kinh doanh;
4. Luật hoá những nội dung đã thực hiện ổn định sau 9 năm thi hành; trên cơ sở đó,
đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước
3. NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬT THUẾ GTGT NĂM 2008.
Điều 1 Luật thuế giá trị gia tăng quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng
không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ và phương pháp tính thuế, khấu trừ và
hoàn thuế giá trị gia tăng. Đây là điều mới được quy định so với Luật thuế giá trị
gia tăng năm 1997. Trong đó, Luật đưa ra phạm vi điều chỉnh tương đối rõ ràng, tập
trung vào các quy định về chính sách thuế giá trị gia tăng, các quy định về thủ tục
quản lý thuế giá trị gia tăng do đã được quy định thống nhất tại Luật quản lý thuế
năm 2006 như các sắc thuế khác nên không đưa vào quy định tại Luật.
3.1. Về người nộp thuế: Luật quy định người nộp thuế GTGT là tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu GTGT (gọi chung là cơ sở kinh doanh)
và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập
khẩu). So với Luật thuế GTGT 2003 thì khái niệm “người nộp thuế” đã được thay
thế cho khái niệm “đối tượng nộp thuế” để thống nhất với quy định của Luật Quản
lý thuế và phù hợp với xu hướng của quản lý thuế hiện đại.
2.4. Về đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng
Luật thuế GTGT năm 2008, đối tượng không chịu thuế GTGT đã được rà soát, sửa
đổi, bổ sung, chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn của
thuế GTGT và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh. Theo đó, quy định
25 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế. Một số nội dung sửa đổi cơ bản như
sau:
Tại Khoản 4 Điều 4, Luật thuế GTGT 2003 quy định: “Thiết bị, máy móc, phương
tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại

trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh
nghiệp; Thiết bị, máy móc, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần
nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển
công nghệ; máy bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuê của nước ngoài thuộc loại trong
nước chưa sản xuất được dùng cho sản xuất, kinh doanh; thiết bị, máy móc, phụ
tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và vật tư thuộc loại trong nước
chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát
triển mỏ dầu khí”; Tại thời điểm khi ban hành Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 8


Trường Đại học Luật Hà Nội
thì quy định này là phù hợp với điều kiện của nước ta. Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, đã có nhiều dự án đầu tư có công nghệ mới vào sản xuất máy móc, thiết
bị, vật tư thay thế hàng nhập khẩu. Trên thực tế việc xác định máy móc, thiết bị,
phương tiện vận tải, vật tư loại trong nước chưa sản xuất được để làm căn cứ xác
định đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng ở khâu nhập khẩu thường không kịp
thời. Để đảm bảo công bằng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước chú
trọng đầu tư vào hoạt động nghiên cứu - phát triển, sản xuất ra những máy móc,
thiết bị, vật tư mới cung cấp cho nền kinh tế và từng bước chiếm lĩnh thị trường
trong, ngoài nước, về nguyên tắc cần thiết chuyển nhóm hàng hoá này sang đối
tượng chịu thuế giá trị gia tăng . Mặc dù vậy, đối với hoạt động nghiên cứu khoa
học và phát triển công nghệ vẫn cần phải có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ thông qua
không thu thuế giá trị gia tăng khâu nhập khẩu đối với nhóm hàng hoá nêu trên sử
dụng trực tiếp cho hoạt động này. Đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò phát triển
mỏ dầu khí do sử dụng máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải
chuyên dùng có giá trị lớn, trong nước chưa có khả năng sản xuất được, trong khi
sản phẩm đầu ra là dầu thô xuất khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế, doanh

nghiệp không được khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào nên cần thiết tiếp
tục duy trì ở diện không chịu thuế.
Vì vậy, tại khoản 17, Điều 5 Luật Thuế GTGT năm 2008 đã đưa ra nội dung sửa
đổi như sau:
“ Máy móc, thiết bị, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập
khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công
nghệ; máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và vật
tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động
tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu, khí đốt; tàu bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuộc
loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu tạo tài sản cố định của doanh
nghiệp, thuê của nước ngoài sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và để cho thuê.”
2.4.2. Đối với nhóm hàng hoá, dịch vụ là hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục,
thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim
nhựa, phim vi-đi-ô tài liệu; điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại
điều tra cơ bản của Nhà nước:
Tại Khoản 10, Khoản 17, Điều 4, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ
sung quy định: “Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ
thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim nhựa, phim vi-đi-ô tài
liệu”; “Điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản
của Nhà nước” thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng . Quy định này là
phù hợp với thực tiễn thời gian qua vì các hoạt động này chủ yếu do các đơn vị sự
nghiệp thực hiện bằng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước. Đến nay, thực hiện chủ
trương xã hội hoá, Nhà nước khuyến khích các đơn vị sự nghiệp chuyển sang hoạt
động theo mô hình doanh nghiệp, thực hiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo
phương thức Nhà nước đặt hàng, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện để các
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 9



Trường Đại học Luật Hà Nội
doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bỏ vốn đầu tư. Việc tiếp tục áp
dụng không chịu thuế đối với những hàng hoá, dịch vụ này sẽ không còn phù hợp,
không khuyến khích doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, ảnh hưởng đến chủ trương xã hội
hoá.
Do đó, tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 hai nhóm hàng hoá, dịch vụ nêu trên
đã được chuyển vào diện chịu thuế để đảm bảo tính liên hoàn của thuế giá trị gia
tăng, doanh nghiệp kinh doanh các hàng hoá, dịch vụ này được khấu trừ thuế giá trị
gia tăng đầu vào, giảm chi phí, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trường hợp
cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo phương thức Nhà nước đặt hàng thì Nhà nước bố
trí đủ kinh phí để doanh nghiệp nộp thuế.
2.4.3. Đối với nhóm hàng hoá, dịch vụ là vận tải quốc tế; hàng hóa, dịch vụ cung
ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế:
Tại Khoản 22 Điều 4, Luật thuế GTGT năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định:
“Vận tải quốc tế; hàng hóa, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế” thuộc
diện không chịu thuế. Quy định này là phù hợp với thực tiễn thời gian qua do năng
lực vận tải quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Đến nay, đội tàu
vận tải quốc tế của Việt Nam đã phát triển, nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế thì
doanh nghiệp không được khấu trừ thuế đầu vào mà phải tính vào chi phí làm tăng
giá cước vận tải, từ đó, hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải Việt
Nam với các hãng vận tải nước ngoài.
Vì vậy, tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã chuyển “Vận tải quốc tế” sang
đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với thuế suất 0% (quy định tại khoản 1, Điều 8
của Luật); hàng hoá, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế sang đối tượng
chịu thuế giá trị gia tăng với thuế suất tương ứng của từng hàng hoá, dịch vụ.
2.4.4. Đối với nhóm dịch vụ là chuyển nhượng vốn và các dịch vụ tài chính phái
sinh:
Để phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ
sung đã quy định một số dịch vụ tài chính cụ thể thuộc diện không chịu thuế giá trị
gia tăng . Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành, cùng với quá trình hội nhập và sự

phát triển của thị trường tài chính đã xuất hiện nhiều các dịch vụ tài chính mới chưa
được quy định trong Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp
đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính
phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng vốn. Vì vậy, tại Luật thuế giá trị gia
tăng năm 2008 đã có quy định bổ sung Chuyển nhượng vốn và các dịch vụ tài
chính phái sinh vào diện không chịu thuế giá trị gia tăng để đảm bảo bao quát được
các dịch vụ mới phát sinh, phù hợp với thông lệ quốc tế. Cụ thể tại khoản 8, Điều 5
Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 có quy định:
“8. Dịch vụ cấp tín dụng; kinh doanh chứng khoán; chuyển nhượng vốn; dịch vụ
tài chính phái sinh, bao gồm hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 10


Trường Đại học Luật Hà Nội
lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ và các dịch vụ tài chính phái sinh khác theo quy
định của pháp luật”.
Các dịch vụ chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh khi cung cấp ra nước
ngoài cũng không được áp dụng thuế suất 0% (quy định tại khoản 1, Điều 8 Luật
thuế giá trị gia tăng năm 2008).
2.5. Về thuế suất
2.5.1. Mức thuế suất 0%:
Dịch vụ vận tải quốc tế được bổ sung vào đối tượng áp dụng thuế suất 0% để
khuyến khích phát triển hoạt động vận tải quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam và
phù hợp với thông lệ quốc tế.
2.5.2. Mức thuế suất 5%:
Khi ban hành Luật thuế GTGT mức thuế suất 5% chỉ áp dụng đối với các hàng hoá,
dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân hoặc là đầu vào của sản xuất nông
nghiệp, như: nước sạch, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế, giáo cụ phục vụ giảng dạy

và học tập; các mặt hàng sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến ở khâu
thương mại; phân bón, thuốc trừ sâu và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây
trồng, thức ăn gia súc và dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp. Trong quá
trình thực hiện do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, một số
doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh những mặt hàng đang áp dụng mức thuế suất
10% gặp khó khăn về tiêu thụ hàng hoá do sức mua xã hội giảm sút. Để tháo gỡ
khó khăn, Chính phủ đã trình Quốc hội điều chỉnh một số hàng hoá, dịch vụ từ mức
thuế suất 10% xuống mức 5%, như: xây dựng lắp đặt; que hàn, dây cáp điện dùng
cho điện áp từ 600V trở lên; sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; khuôn đúc các
loại; ván ép nhân tạo; sản phẩm bê tông công nghiệp gồm dầm cầu bê tông, dầm và
khung nhà bê tông, cọc bê tông, cột điện bê tông, ống cống tròn bê tông, hộp bê
tông các loại, pa-nen và các loại cấu kiện bê tông cốt thép đúc sẵn phi tiêu chuẩn,
bê tông thương phẩm; lốp và bộ săm lốp cỡ từ 900-20 trở lên,...). Đến năm 2003,
tình hình kinh tế đã phục hồi và phát triển ổn định, theo đề nghị của Chính phủ,
Quốc hội đã quyết định đưa một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất 5% trở lại
mức thuế suất 10%, như: xây dựng lắp đặt; que hàn, dây cáp điện dùng cho điện áp
từ 600V trở lên. Việc điều chỉnh này là từng bước thực hiện Chương trình cải cách
thuế và phù hợp với thực tiễn nước ta. Thực tiễn những năm qua cho thấy: các
doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, dịch vụ đã được điều chỉnh thuế suất từ 5% sang
10% có tình hình sản xuất, kinh doanh phát triển, hiệu quả kinh doanh tốt, một số
hàng hoá, dịch vụ hiện đang áp dụng thuế suất 5% cũng có kết quả sản xuất, kinh
doanh tốt và cần xem xét để chuyển sang mức thuế suất 10%. Việc chuyển trở lại
mức thuế suất 10% đối với những hàng hoá, dịch vụ này nhằm đảm bảo tính liên
hoàn của thuế giá trị gia tăng, hạn chế các trường hợp phải hoàn thuế do có mức
thuế suất đầu vào lớn hơn mức thuế suất đầu ra.
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 11



Trường Đại học Luật Hà Nội
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay cần thiết tiếp tục duy trì
mức thuế suất 5% đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp
hoặc hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân bởi các lý do sau:
Thứ nhất, sản phẩm nông nghiệp do cơ sở trực tiếp sản xuất bán ra thuộc diện
không chịu thuế giá trị gia tăng nên không được khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng
đầu vào, vì vậy, cần tiếp tục duy trì ở mức thuế suất 5% đối với một số hàng hoá,
dịch vụ đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trong một thời gian nữa để góp
phần giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị
trường;
Thứ hai, trong giai đoạn đầu hội nhập lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo dự báo
sẽ bị tác động mạnh, đặc biệt trong điều kiện hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở nước
ta chưa cao, thu nhập và mức sống của người dân, nhất là nông dân còn thấp. Mặt
khác, theo cam kết với Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì nhiều sản phẩm
nông nghiệp được tiếp tục duy trì chính sách bảo hộ trong thời hạn 5 năm kể từ
ngày gia nhập WTO;
Thứ ba, hiện nay mặt bằng giá thế giới một số vật tư nguyên liệu là đầu vào của
sản xuất , nhất là đầu vào của sản xuất nông nghiệp tăng mạnh, từ đó ảnh hưởng
lớn đến giá thành sản phẩm sản xuất trong nước, đời sống của người dân.
Việc điều chỉnh thuế suất từ mức 5% sang 10% chủ yếu là đối với hàng hoá, dịch
vụ là đầu vào của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ được kê khai khấu trừ,
hoàn thuế đầu vào khi xác định số thuế phải nộp, do đó, không tác động lớn đến
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
2.5.3. Mức thuế suất 10%:
Để đảm bảo đơn giản, dễ áp dụng, khắc phục được những tồn tại của Luật thuế
GTGT 2003 do ở mức thuế suất nào cũng quy định danh mục hàng hoá, dịch vụ cụ
thể, khi phát sinh hàng hoá, dịch vụ mới chưa có tên trong danh mục thì doanh
nghiệp lúng túng trong việc áp dụng thuế suất, đề nghị không liệt kê các nhóm hàng
hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10% mà sử dụng phương pháp loại trừ, theo đó,
hàng hoá, dịch vụ áp dụng thuế suất 10% là các hàng hoá, dịch vụ còn lại không

thuộc diện áp dụng các mức thuế suất 0%, 5%. Nội dung sửa đổi được thể hiện tại
khoản 3, Điều 8 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008, cụ thể như sau: “3. Mức thuế
suất 10% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ không quy định tại khoản 1 và khoản
2 Điều này.”
2.6. Về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào quy định tại Điều 12 Luật thuế giá
trị gia tăng năm 2008
- Bỏ quy định thời hạn tối đa được kê khai thuế giá trị gia tăng đầu vào 3 tháng kể
từ tháng phát sinh để phù hợp với nội dung tại khoản 1, Điều 34 Luật quản lý thuế
là: “Trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 12


Trường Đại học Luật Hà Nội
sở người nộp thuế, người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp có sai sót gây
ảnh hưởng đến số thuế phải nộp thì được khai bổ sung hồ sơ khai thuế”. Quy định
này tạo thuận lợi và làm tăng tính tuân thủ của người nộp thuế trong việc kê khai,
thực hiện nghĩa vụ thuế.
- Bổ sung quy định thuế đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản
xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế giá
trị gia tăng thì được khấu trừ toàn bộ.
Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng
hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
thì được khấu trừ toàn bộ, trường hợp dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế thì chỉ được khấu trừ số thuế giá trị
gia tăng đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng . Quy định này là chưa hợp lý và thực tế khó thực
hiện do không thể xác định được số thuế khấu trừ của tài sản cố định trong trường
hợp sử dụng chung. Vì vậy, Luật thuế giá trị gia tăng đã bổ sung quy định này để

khuyến khích đầu tư và đảm bảo phù hợp với thực tiễn.
- Quy định rõ điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào tại Luật. Trong đó, bổ
sung quy định về điều kiện có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa,
dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu
đồng. Thanh toán qua ngân hàng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Chính
phủ đang triển khai đề án “thanh toán không dùng tiền mặt”. Việc lựa chọn hình
thức thanh toán là quyền của doanh nghiệp nhưng để được khấu trừ, hoàn thuế giá
trị gia tăng từ ngân sách Nhà nước thì doanh nghiệp phải thực hiện điều kiện thanh
toán qua ngân hàng. Thực tiễn hiện nay việc thanh toán qua ngân hàng được áp
dụng rộng rãi trong quan hệ mua, bán hàng hoá, dịch vụ giữa doanh nghiệp với
doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với Nhà nước; đối với quan hệ mua, bán hàng
hoá, dịch vụ giữa doanh nghiệp, Nhà nước với dân cư, thanh toán phổ biến dưới
hình thức tiền mặt. Để góp phần thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt,
ngăn chặn các hành vi mua bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, gian lận trong khấu
trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng , chống thất thu ngân sách, tạo môi trường kinh doanh
bình đẳng, lành mạnh, cần có quy định điều kiện để được khấu trừ thuế, hoàn thuế
phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng trong các quan hệ thanh toán giữa doanh
nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với Nhà nước. Theo đó, quy định về điều
kiện có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ
hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng đã có tính tới
tình hình thực tế và khả thi trong quá trình thực hiện.
Nội dung quy định về khấu trừ thuế đầu vào được thể hiện tại Điều 12 của Luật
thuế GTGT .
2.7. Các nội dung quy định về quản lý thuế
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 13


Trường Đại học Luật Hà Nội

Luật quản lý thuế đã quy định các nội dung về quản lý thuế cho các loại thuế, vì
vậy tại Luật Thuế GTGT năm 2008 đã bỏ các nội dung quy định về quản lý thuế
(như nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện luật thuế GTGT; đăng ký, kê khai, nộp thuế,
quyết toán thuế; xử lý vi phạm, khen thưởng; khiếu nại và thời hiệu; Tổ chức thực
hiện và các quy định liên quan đến quản lý thuế tại Luật thuế GTGT.
II. Một số giải pháp hoàn thiện luật thuế GTGT ở nước ta
1. Những tác động làm ảnh hưởng đến việc hoàn thiện thuế GTGT ở nước ta .
Xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực và tiến tới toàn cầu hóa
kinh tế ngày càng ở mức độ cao là tất yếu khách quan. Theo đó, các cam kết hội
nhập quốc tế mà nước ta đã ký sẽ được thực hiện ở mức độ cao hơn giai đoạn vừa
qua như: Đối với Hiệp định CEPT/AFTA đến năm 2006 sẽ hoàn thành cắt giảm
thuế nhập khẩu hơn 80% dòng thuế xuống mức thuế suất 0% và đến năm 2015 sẽ
áp dụng cho tất cả các mặt hàng, trừ một số mặt hàng có thể linh hoạt, nhưng thời
hạn cuối cùng không vượt qua năm 2018; đối với Hiệp định Việt – Mỹ thì 224 dòng
thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân 30%. Hiện nay, VN đang có các chương trình cắt
giảm thuế quan chuẩn bị cho tiến trình thực hiện tự do hóa thương mại và đầu tư
APEC vào năm 2020 và đã gia nhập WTO vào năm 2007. Điều này làm ảnh hưởng
giảm thuế nhập khẩu là rất lớn.Trước tình hình đó, đòi hỏi hệ thống thuế phải tiếp
tục hoàn thiện cho phù hợp để vừa bảo hộ hợp lý có chọn lọc trong sản xuất trong
nước, khuyến khích đầu tư công nghệ mới, mở rộng thị trường xuất khẩu, đảm bảo
ổn định và tăng trưởng nguồn thu ngân sách nhằm bù đắp phần thuế nhập khẩu bị
cắt giảm do hội nhập kinh tế quốc tế.
Để tới năm 2020 về cơ bản VN trở thành một nước công nghiệp thì đòi hỏi nền
kinh tế phải đạt tăng trưởng cao một cách bền vững trên 8% trong một thời gian dài
và hướng tới mức tăng trưởng bình quân hai con số/năm; cơ cấu kinh tế (tính theo
GDP) tiên tiến với công nghiệp chiếm 45-50%, dịch vụ chiếm 40-50%; tích lũy từ
nội bộ nền kinh tế đạt trên 30%/GDP, xuất khẩu tăng với tốc độ gấp 1,5 lần trở lên
so với tốc độ tăng GDP. Chất lượng cuộc sống vật chất và văn hóa ngày càng tăng
cao theo hướng văn minh hiện đại, nhận thức và ý thức chấp hành pháp luật của
mọi người dân trong xã hội được nâng cao. Thể chế kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa được hoàn thiện cơ bản và chủ động hội nhập kinh tế với thế giới
một cách có hiệu quả. Và cùng với những mục tiêu định hướng phát triển kinh tế –
xã hội ở nước ta, trong thời gian tới, chính sách thuế tiếp tục được hoàn thiện.
3. Một số biện pháp chủ yếu nhằm tiếp tục hoàn thiện Luật thuế GTGT
3.1: Sửa đổi Luật Thuế GTGT phải phù hợp với xu hướng cải cách hệ thống thuế
trên thế giới
Việt Nam hiện đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), vì vậy, một yêu
cầu đặt ra là phải từng bước mở cửa thị trường hàng hoá, thị trường tài chính trong
nước, thông qua các cam kết cắt giảm thuế nhập khẩu, tuân thủ các nguyên tắc
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 14


Trường Đại học Luật Hà Nội
thương mại về không phân biệt đối xử, việc bảo hộ nền sản xuất trong nước chỉ
được thực hiện thông qua thuế xuất, nhập khẩu, không được duy trì các biện pháp
bảo hộ phi thuế quan. Để bù đắp sự suy giảm nguồn thu từ thuế nhập khẩu, trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, những loại thuế tiêu dùng (VAT, tiêu thụ
đặc biệt), thuế thu nhập, thuế tài sản trở thành chỗ dựa chủ yếu về nguồn thu cho
các quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Tuy nhiên các sắc thuế này cần có
những sửa đổi cơ bản, dựa trên các nguyên tắc nhất định: mở rộng đối tượng chịu
thuế, đối tượng nộp thuế, từng bước thu hẹp phạm vi các đối tượng được hưởng ưu
đãi, miễn, giảm thuế, không chịu thuế, tách chính sách xã hội ra khỏi chính sách
thuế; giảm số lượng và mức thuế suất nhằm đảm bảo mức động viên hợp lý vào
ngân sách nhà nước theo hướng thu trên diện rộng, tăng cường tính hiệu quả và
công bằng của thuế nhằm thúc đẩy hoạt động sản xuất, kinh doanh, đảm bảo cơ cấu
hệ thống thuế hợp lý, tính cân đối của các loại thuế trực thu đánh trên thu nhập,
gián thu đánh trên hàng hoá, dịch vụ và thuế đánh trên tài sản, trên cơ sở đó góp
phần đảm bảo nguồn thu và sự ổn định của thu ngân sách nhà nước.

Kinh nghiệm cải cách hệ thống thuế của các nước có nền kinh tế đang phát triển và
có nền kinh tế chuyển đổi cho thấy, VAT là nguồn thu quan trọng nhất trong các
nguồn thu từ thuế với việc áp dụng VAT đơn thuế suất (ngoài mức thuế suất 0% đối
với hàng xuất khẩu), cơ sở đánh thuế trên diện rộng, áp dụng phương pháp khấu trừ
thuế, cơ chế khấu trừ và hoàn thuế đơn giản, minh bạch. Bên cạnh đó, thuế GTGT
chỉ phát huy tối đa hiệu quả trong một môi trường pháp lý đồng bộ, mặt bằng dân
trí cũng như các điều kiện kinh tế - xã hội tương đối phát triển. Vì vậy, việc sửa đổi
Luật thuế GTGT không những cần đáp ứng các yêu cầu trên mà còn phải phù hợp
với các đạo luật khác điều chỉnh đời sống kinh tế của người dân, của doanh nghiệp
như Luật Doanh nghiệp, Luật Quản lý thuế, Luật Cạnh tranh, các đạo luật về thuế
thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp, thuế chống bán phá giá...
3.2: Sửa đổi trên cơ sở các bất cập của pháp luật thuế hiện hành và phải phù hợp
với thông lệ quốc tế
Luật thuế GTGT được triển khai thực hiện ở VN đã hơn 5 năm, thời gian này chưa
đủ để chúng ta có thể đánh giá một cách đầy đủ và toàn diện Luật thuế này. Trong
điều kiện tình hình kinh tế – xã hội hiện nay của nước ta, cùng với xu hướng cải
cách thuế ở các nước trên thế giới, nhằm khắc phục những tồn tại hạn chế của Luật
thuế GTGT hiện hành, chúng ta có thể áp dụng một số biện pháp chủ yếu sau đây:
2.1 Đổi mới cơ chế chính sách thuế GTGT:
Về cơ bản, hệ thống cơ chế chính sách thuế GTGT hiện hành là tương đối đầy đủ,
ngày càng phù hợp với tình hình thực tế của VN và phần nào phù hợp với thông lệ
quốc tế. Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu yêu cầu và xu hướng hoàn thiện, kiến
nghị cần thiết phải đổi mới chính sách thuế GTGT ở nước ta như sau:
Điều chỉnh đối tượng chịu thuế và không chịu thuế GTGT:

Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 15



Trường Đại học Luật Hà Nội
Ở nước ta, Luật thuế GTGT hiện hành vẫn còn qui định đối tượng không chịu thuế
còn quá rộng. Do đó, trong thời gian tới, việc điều chỉnh đối tượng chịu thuế, đối
tượng không chịu thuế là thật sự cần thiết và kiến nghị điều chỉnh theo hướng sau:
Một là, đưa hàng hóa là nông, lâm, thủy, hải sản chưa qua chế biến vào đối tượng
không chịu thuế GTGT, không phân biệt trực tiếp sản xuất hay kinh doanh thương
mại.
Hai là, vẫn tiếp tục áp dụng không thu thuế GTGT đối với các loại hình dịch vụ
liên quan tới tài chính như: tín dụng, quỹ đầu tư, hoạt động kinh doanh chứng
khoán… nhằm khuyến khích sự phát triển của thị trường tài chính và đảm bảo phù
hợp với thông lệ của các nước trên thế giới. Đối với tất cả các loại hình dịch vụ bảo
hiểm bao gồm bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm học sinh và các loại hình bảo hiểm
khác đều thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT.
Ba là, đối với các loại thiết bị, máy móc chuyên dùng thuộc dây chuyền công nghệ,
vật tư xây dựng thuộc diện trong nước chưa sản xuất được, cần nhập khẩu, qua thời
gian thực hiện thuế cho thấy việc không đánh thuế GTGT chỉ giải quyết giúp đỡ
được nhà đầu tư ở chỗ không phải ứng vốn để trả trước tiền thuế. Về vấn đề này,
hoàn toàn chúng ta có thể khắc phục được bằng các giải pháp kỹ thuật mà cơ chế
vận hành của thuế GTGT có thể giải quyết được như cho khấu trừ và giải quyết
hoàn thuế nhanh cho các nhà đầu tư…. Bởi vậy, cần thiết phải đưa các hàng hóa
này vào diện chịu thuế GTGT.
Bốn là, việc các hàng hóa, dịch vụ khác hiện nay vẫn chưa có tên trong danh sách
chịu thuế GTGT như: dịch vụ y tế công cộng; hoạt động dạy học, dạy nghề; hoạt
động văn hóa, xuất bản báo chí, phát thanh, truyền hình; các dịch vụ công ích; dịch
vụ tưới tiêu thủy lợi; dịch vụ quốc phòng an ninh; chuyển quyền sử dụng đất, nhà
của nhà nước bán cho người tiêu dùng… là chưa thật sự công bằng đối với tất cả
các hàng hóa.
Năm là, cần thiết phải sớm ban hành ngưỡng chịu thuế GTGT, bởi lẽ trình độ quản
lý của ngành thuế còn nhiều hạn chế và khả năng chấp hành của một bộ phận lớn
người dân có hạn. Các hộ kinh doanh có doanh số hàng năm “nằm” dưới ngưỡng

chịu thuế sẽ điều chỉnh sang đối tượng không chịu thuế GTGT và nên áp dụng một
loại thuế tương tự như thuế doanh thu trước đây nhưng phải đơn giản hóa tối đa số
lượng thuế suất và khi thu nên áp dụng chế độ “khoán” doanh thu.
2. Một số giải pháp hoàn thiện thuế GTGT:
Như chúng ta đã biết, thuế GTGT là một trong những loại thuế gián thu điều
tiết một phần vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ, thuế mang tính
trung lập cao, diện điều chỉnh rộng, trong thời gian tới nó sẽ trở thành sắc thuế chủ
yếu, chiếm tỷ trọng cao trong hệ thống chính sách thuế (hơn 20% tổng thu ngân
sách) và sẽ bù đắp được nguồn thu thuế nhập khẩu khi cắt giảm thuế theo cam kết
quốc tế. Bởi vậy, để thực hiện chức năng của sắc thuế này, cần tiếp tục hoàn thiện
theo hướng:
2.1. Về chính sách
2.1.1. Đối tượng chịu thuế.
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 16


Trường Đại học Luật Hà Nội
Mục tiêu của thuế GTGT đó là mở rộng diện chịu thuế và hạn chế các đầu
mối. Với tình hình luật thuế của nước ta hiện nay thì hạn chế bớt số nhóm đối
tượng thuộc diện không chịu thuế, nghiên cứu bổ sung thêm các đối tượng thuế
mới phát sinh trong nền kinh tế là một hướng đi chính xác. Biện pháp này sẽ ổn
định được nguồn thu cho ngân sách nhà nước và tạo điều kiện cho việc tính thuế,
khấu trừ thuế được liên hoàn giữa các khâu của quá trình sản xuất. Nên đưa vào đối
tượng chịu thuế nhóm hàng hóa là thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng thuộc
loại trong nước chưa sản xuất được mà cơ sở có dự án đầu tư nhập khẩu để làm tài
sản cố định cho doanh nghiệp. Tuy việc quy định này bước đầu có thể làm cho
doanh nghiệp gặp khó khăn vì phải bỏ ra một số tiền lớn để nộp thuế nhưng nó lại
làm cho luật thuế thông thóang hơn, đồng thời cũng giúp cho công tác tính toán

thuế của doanh nghiệp ở các khâu sau thuận tiện hơn, và khi áp dụng quy định này
thì nhà nước có thể ban hành kèm theo một số hướng dẫn giải quyết nhanh khâu
hoàn thuế để giải quyết vấn đề vốn cho doanh nghiệp.
Theo quy định hiện hành của luật thuế GTGT thì tất cả các tổ chức, cá nhân
cố hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT ở Việt Nam,
không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh doanh và tổ chức, cá nhân
khác có nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT đều là đối
tượng nộp thuế GTGT. Luật thuế nước ta chưa quy định ngưỡng thuế, phạm vi các
đối tượng áp dụng thuế GTGT quá rộng, gồm cả những hộ các thể nhỏ lẻ chưa đủ
điều kiện hạch toán riêng. Vì vậy giải pháp cho vấn đề này là quy định phạm vi áp
dụng thuế chỉ nên giới hạn cho các đối tượng đủ điều kiện tính thuế theo phương
pháp khấu trừ, còn tất cả những các nhân, hộ kinh doanh không đủ điều kiện áp
dụng thuế GTGT thì sẽ chuyển sang áp dụng loại thuế khác.
Tuy nhiên, một điều được đặt ra là ngưỡng thuế ở đây sẽ quy định là bao
nhiêu? Theo điều tra của Quỹ tiền tệ quốc tế IMF, ngưỡng trung bình đối với các
nước đã áp dụng ngưỡng thuế là khoảng 34500USD. Đối tượng dưới ngưỡng thì
mỗi quốc gia có cách xử lý riêng, hoặc thu tỷ lệ % trên doanh thu hoặc áp dụng
thuế trung bình. Với điều kiện nước ta hiện nay thì có lẽ việc xác định ngưỡng thuế
là chưa thực hiện được, tuy nhiên đây cũng là một biện pháp về phạm vi áp thuế có
thể ngiên cứu thêm. Điều 5, Điều 8 luật thuế GTGT quy định tất cả các trường hợp
không chịu thuế chịu thuế 0%, 5%, 10%. Cách quy định chi tiết như vậy giúp cho
đối tượng nộp thuế biết rõ hơn nghĩa vụ của mình, nhưng lại chưa bao quát hết các
trường hợp mới phát sinh, nên thiết nghĩ đối với thuế suất 10% chỉ cần quy định là
tất cả các đối tượng chịu thuế GTGT còn lại sau khi đã trừ các trường hợp trên.
2.1.2. Thuế suất:
Thuế suất có thể coi là linh hồn của một sắc thuế. Luật thuế GTGT của nước
ta đang quy định 3 mức thuế suất là 0%, 5%, 10%, ưu điểm của các mức thuế suất
đó là Chính phủ có thể áp mức thuế suất thấp cho các loại mặt hàng cần khuyến
khích phát triển… tuy nhiên, bất cập nảy sinh khi nền kinh tế thị trường ngày càng
phát triển, nhiều mức thuế suất làm cho công tác hoạch định chính sách, công tác

tính toán thuế trở nên khó khăn, phức tạp và tốn kém hơn. Mặt khác, trong một chu
trình sản xuất tổng số thuế phải nộp của một hàng hóa nào đó hoàn toàn phụ thuộc
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 17


Trường Đại học Luật Hà Nội
vào giá cả và thuế suất ở khâu cuối cùng, do đó việc áp dụng nhiều mức thuế suất ở
các khâu trước không ảnh hưởng đến tổng số thuế phải nộp. Nên việc sử dụng một
mức thuế suất (ngoài mức 0%) là hoàn toàn hợp lý.
Áp dụng một mức thuế suất (ngoài mức 0%) cho tất cả các đối tượng ban
đầu sẽ gặp một số khó khăn như là do tính luỹ thoái của thuế gián thu nên việc áp
thuế suất đồng đều sẽ làm cho gánh nặng thuế đối với những người giàu sẽ ít hơn
so với người nghèo nếu xem xét dưới góc độ thu nhập. Hay như việc nhà nước thể
hiện chính sách ưu đãi xã hội thông qua việc đánh thuế cao, thấp đối với từng mặt
hàng cũng không còn nữa…
Tuy nhiên, biện pháp này sẽ giúp cho công tác hoạch định chính sách của Cơ
quan chức năng thuận lợi hơn, ít tốn kém chi phí vào việc xác định tiêu thức phân
loại đối tượng chịu thuế… Các doanh nghiệp cũng không cần quan tâm nhiều đến
thuế suất trong quá trình hoạch định chiến lược sản phẩm…
2.1.3. Phương pháp tính thuế
Để hạn chế bớt những bất cập không hợp lý trong phương pháp tính thuế như
hiện nay thì chúng ta nên thực hiện phương pháp tính thuế thống nhất là khấu trừ,
còn đối với các trường hợp không đủ khả năng hạch toán độc lập có thể nghiên cứu
đến việc thu thuế khoán (Đây là biện pháp thu thuế dựa trên cơ sở các yếu tố khách
quan do người sản xuất kinh doanh cung cấp và trên cơ sở các biện pháp kiểm tra
của cán bộ thuế, cơ quan thuế ấn định một mức doanh thu cụ thể và trong một thời
gian nhất định, trong khoảng thời gian đó, số thuế mà cơ sở phải nộp được tính dựa
trên doanh thu ấn định này) hoặc chuyển các đối tượng này sang áp dụng hình thức

thu thuế đơn giản theo tỷ lệ % doanh thu, cụ thể là gộp cả thuế gián thu và thuế trực
thu thành một tỷ lệ trên doanh thu…Với thực tế hiện nay các hộ kinh doanh cá thể
còn chiếm một tỷ lệ rất lớn trong các thành phần kinh tế, thì việc chuyển đổi
phương pháp tính thuế cho nhóm đối tượng này phải được tiến hành đồng bộ với
các biện pháp khác để tránh thất thu thuế cho ngân sách nhà nước.
2.1.4. Hóa đơn, chứng từ.
Bộ tài chính trong thời gian qua để khắc phục những khúc mắc về hóa đơn
chứng từ, đã ban hành nhiều quy định mới như: sửa đổi quy định về thực hiện xác
minh lý lịch tư pháp và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trước khi
bán hóa đơn, chỉ bán hóa đơn cho các doanh nghiệp thực tế có hoạt động sản xuất
kinh doanh và bán tương ứng với mức độ kinh doanh có kê khai nộp thuế nhằm
ngăn chặn các hành vi mua, bán, sử dụng hóa đơn bất hợp pháp…
Tuy nhiên, trong thực tế, các quy định vẫn còn có kẽ hở để cho các đối
tượng lợi dụng chiếm đoạt tiền của nhà nước, bởi vậy trong thời gian tới vẫn cần
bãi bỏ hoặc sửa đổi một số quy định về quản lý, sử dụng hóa đơn không hợp lý
hoặc có sơ hở như là: bãi bỏ quy định về lập hóa đơn theo số hàng hóa trên bảng kê
bán lẻ. Dùng bảng kê 06/GTGT làm căn cứ tính thuế, có quy định quản lý đối với
chứng từ này. Bổ sung quy định, tổ chức, cá nhân kinh doanh sử dụng hóa đơn bán
hàng như các trường hợp nộp thuế theo phương pháp khấu trừ. Trước hết nên duy
trì việc sử dụng hóa đơn đối với các hộ kinh doanh tính thuế theo phương pháp trực
tiếp đã thực hiện lập sổ sách kế toán theo quy định…
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 18


Trường Đại học Luật Hà Nội
Thứ hai là cần ban hành các văn bản pháp luật hướng dẫn về việc thực hiện
chế độ hóa đơn chứng từ một cách kịp thời khi có những thay đổi mới.
Thứ ba là thay đổi biện pháp quản lý bằng hóa đơn, chứng từ, mở rộng diện

đối với doanh nghiệp tự in hóa đơn, sẽ tránh được việc in và sử dụng hóa đơn giả
như hiện nay.
Thứ tư là nên giảm bớt khối luợng hóa đơn chứng từ của các khâu từ thông
báo thuế, kê khai, nộp thuế đến quyết toán thuế.
Thứ năm là đa dạng hóa các công cụ kiểm soát hoạt động giao dịch kinh
doanh trên thị trường thông qua việc mở rộng thanh toán bằng các loại thẻ tín dụng,
thanh toán qua ngân hàng… lúc này sẽ hạn chế được rất nhiều tình trạng mua bán
hóa đơn khống để rút tiền của nhà nước, bởi hóa đơn chứng từ giờ đây chỉ là công
cụ thứ yếu, là điều kiện cần chứ chưa phải điều kiện đủ để được quyết toán thuế.
Tuy nhiên, muốn thực hiện được biện pháp này thì hệ thống các ngân hàng cũng
phải được hiện đại hóa, các quy trình thanh toán cần phải nhanh, thuận lợi để không
gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc thanh toán các giao dịch.
2.1.5. Khấu trừ, kê khai, hoàn thuế GTGT.
Quan điểm hoàn thiện thuế GTGT đó là phải tôn trọng thuộc tính trung lập
của thuế, tức hạn chế tối đa các quy định miễn giảm, khấu trừ bởi nó là nguyên
nhân làm sói mòn mục tiêu cốt lõi của thuế.
Cơ sở pháp lý cho việc hoàn thuế GTGT chủ yếu được quy định tại điều 10
và 16 của Luật thuế GTGT. Việc hoàn thuế chỉ được thực hiên trong ba trường hợp
đó là: hoàn thuế cho cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp
khấu trừ nếu các cơ sở đó thoã mãn những điều kiện luật định. Hoàn thuế trong
trường hợp quyết toán thuế khi các doanh nghiệp sát nhập, hợp nhất, chia tách, giải
thể, phá sản có số thuế nộp thừa. Hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm
quyền, tuy nhiên thực tế vẫn xảy ra trường hợp hoặc là các doanh nghiệp không
mặn mà với việc hoàn thuế, hoặc là lợi dụng các quy định về hoàn thuế để chiếm
đoạt tiền của ngân sách.
Trước tình trạng đó, cần phải có những giải pháp để cải cách khâu hoàn thuế
GTGT.
Thứ nhất, để giải toả mọi vướng mắc trong việc thi hành thông suốt việc
khấu trừ và hoàn thuế GTGT, cơ quan thuế các cấp phải công khai minh bạch mọi
thủ tục hành chính thuế theo nguyên tắc đề cao quyền chủ động, tự chịu trách

nhiệm trong việc tự kê khai, nộp thuế và xác định số thuế GTGT được hoàn trả.
Thứ hai là phải xem xét lại thời gian hoàn thuế, đặc biệt là đối với các đối
tượng có hoạt động xuất khẩu nhưng số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ
trong tháng nhỏ hơn 200 triệu đồng thì vẫn không được hoàn thuế theo tháng. Bởi
theo quan điểm của các doanh nghiệp, thì thuế GTGT phát sinh dù nhỏ hay lớn
cũng đều phải nộp theo tháng, nhưng việc hoàn thuế cho một số đối tượng lại theo
quý…
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 19


Trường Đại học Luật Hà Nội
Thứ ba là quy định về ngưỡng hoàn thuế theo tháng hay theo quý đối với
doanh nghiệp là 200 triệu đồng dường như còn cứng nhắc bởi số tiền này có thể
phù hợp với địa phương này nhưng không phù hợp với địa phương khác do đó cần
xem xét lại, tuỳ theo đặc điểm của từng trường hợp mà có quy định thời hạn được
hoàn thuế,...
Thứ tư là nên quy định việc hoàn thuế đối với khách du lịch quốc tế mua
hàng hóa của Việt Nam về nước, việc hoàn thuế này cần tiến hành đơn giản nhanh
gọn như là khách quốc tế chỉ cần mang hóa đơn hàng hóa đến cơ quan thuế để được
hoàn lại thuế GTGT.
Thứ năm là đối với những vướng mắc về hoàn thuế GTGT đối với dự án
ODA vay thì các chính sách nên sửa đổi theo hướng quy định không thực hiện hoàn
thuế cho các nhà thầu chính thực hiện dự án ODA được ngân sách nhà nước cấp
phát mà ngân sách nhà nước sẽ bố trí vốn đầy đủ để chủ dự án trả thuế cho các nhà
thầu chính.
2.1.6. Vấn đề ưu đãi thuế
Đối với các loại thuế gián thu thì thông thường không có các quy định về ưu
đãi thuế, tuy nhiên trong luật thuế GTGT vẫn ban hành các trường hợp không chịu

thuế, được miễn giảm thuế, đó là máy móc thiết bị nhập khẩu theo nguồn tài trợ
nhân đạo cho các tổ chức và các nhân ở Việt Nam…trường hợp sử dụng nguồn tài
trợ của nước ngoài để mua hàng trong nước dùng cho mục đích từ thiện thì được
hoàn lại số thuế đầu vào. Vấn đề xuất hiện ở đây là nhiều tổ chức, doanh nghiệp đã
lợi dụng hình thức tặng quà, tài trợ để trốn thuế bởi vậy cần có những biện pháp
kiểm soát hiện trạng này như là: Ban hành các quy định về việc kiểm soát sau khi
hàng hóa nhập khẩu hàng hóa có sử dụng đúng mục đích hay không? quản lý chặt
chẽ các hội và tổ chức phi chính phủ ngay từ khi mới thành lập…
2.1.7. Chuẩn hóa các quy định pháp luật về thuế GTGT
Cần sửa đổi các nội dung sao cho phù hợp với các văn bản pháp luật khác.
Ngoài ra còn phải sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật về thuế GTGT theo
hướng minh bạch hóa. Tức là phải quy định lại một cách rõ ràng, dễ hiểu các văn
bản pháp luật trước đây còn chưa có sự nhất quán, minh bạch và luật hóa những
vấn đề đã được quy định trong các văn bản dưới luật để đảm bảo đúng nguyên tắc
ban hành luật, đúng quy định của Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật.
Điều này sẽ giúp cho các đối tượng thuộc phạm vi điều chỉnh của thuế GTGT hiểu
và làm theo pháp luật.
2.2. Về cơ chế quản lý:
2.2.1. Cơ chế tự khai – tự nộp:
Tự khai, tự nộp là một phương thức quản lý thuế hiện đại, theo chỉ đạo của
Chính phủ cơ chế này sẽ được áp dụng đại trà vào năm 2007. Đây là một cơ chế
mới do đó ngay trong giai đoạn thực hiện thí điểm như hiện nay chúng ta cần có
những biện pháp thích hợp để làm nền tảng cho nó.
Trước hết là tính tự giác tuân thủ của doanh nghiệp, trong cơ chế này họ
được tự tính toán kê khai và nộp thuế, do đó nếu không tự giác và am hiểu các kiến
thức về pháp luật thì không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Cần chú ý xem
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 20



Trường Đại học Luật Hà Nội
xét các trường hợp các doanh nghiệp kê khai hàng tháng có số thuế phải nộp âm
nhưng doanh số bán ra rất lớn và lại không thấy lập hồ sơ xin hoàn thuế. Bởi đây
rất có thể là các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất kinh doanh sai trái, sợ khi xin
hoàn thuế sẽ bị cơ quan thuế xuống kiểm tra. Tiếp theo, phải xây dựng được một hệ
thống xử phạt nghiêm khắc và có hiệu quả để ngăn chặn sự bất tuân của một số các
doanh nghiệp. Thứ ba là phải tổ chức bộ máy thanh tra đủ mạnh để kịp thời phát
hiện những gian lận của doanh nghiệp. Trước nay, công tác thanh tra của ta chưa
dựa trên cơ sở nắm và phân tích đầy đủ các thông tin về đối tượng nộp thuế, do đó
phần lớn chưa thanh tra đúng đối tượng, chưa xác định đúng phạm vi gian lận, chưa
sử dụng được công nghệ tin học vào công tác này do đó thanh tra chưa có hiệu quả.
Vì thế công tác thanh tra ngành thuế nói chung và thanh tra lĩnh vực thuế GTGT
nói riêng cần được tăng cường, thời gian đầu chúng ta có thể vẫn kiểm tra trên diện
rộng, nhưng sau đó công tác này cần được tiến hành có trọng tâm trọng điểm…
2.2.2. Kiện toàn tổ chức bộ máy, hoàn thiện công tác quản lý thuế:
Muốn hoàn thiện thuế GTGT thì tổ chức bộ máy, công tác quản lý thuế cũng
phải được hoàn thiện nhằm tạo môi trường cho thuế GTGT phát huy hết được các
ưu điểm của mình.
Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010 của ngành thuế bao gồm 8 chương
trình lớn đó là : Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách thuế; Xây dựng luật
quản lý thuế, triển khai thí điểm và mở rộng cơ chế quản lý "tự kê khai, tự nộp
thuế" trên toàn quốc; Tăng cường tuyên truyền và hỗ trợ đối tượng nộp thuế; Thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm về thuế, thu hồi nợ thuế; Cải cách bộ máy quản lý thuế
theo mô hình chức năng, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thuế; Phát triển ứng
dụng tin học hiệu quả vào công tác quản lý thuế; Từng bước hiện đại cơ sở vật chất
kỹ thuật của cơ quan thuế.
Để thực hiện mục tiêu chung thì các mục tiêu riêng phải được thực hiện một
cách hiệu quả.
Về việc xây dựng hệ thống chính sách thuế. Trước đây, do nhiều nguyên

nhân khách quan và chủ quan khác nhau mà việc hoạch định và xây dựng hệ thống
chính sách thuế của nước ta còn chưa có sự đồng bộ, bởi vậy trong thời gian tới cần
phải xem xét, sửa đổi các chính sách thuế sao cho có sự thống nhất giữa các văn
bản pháp luật, tạo sự thông thóang, minh bạch và hiệu quả của hệ thống luật nước
ta.
Xem trọng công tác tuyên truyền, giáo dục cho nguời nộp thuế thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng và nhiều hình thức khác nhằm giúp họ hiểu biết
đầy đủ các chính sách thuế, trách nhiệm pháp luật để nâng cao ý thức tự giác, chấp
hành nghiêm chỉnh nghĩa vụ nộp thuế vào ngân sách nhà nước. Khuyến khích và
phát triển các dịch vụ tư vấn thuế...
Kiện toàn lại hệ thống quản lý thu thuế theo hướng cải cách hành chính, nâng
cao quyền hạn và trách nhiệm của bộ máy quản lý thuế: Ban hành bổ sung một số
nội dung về quản lý thuế trong các văn bản pháp luật như các biện pháp nghiệp vụ
và quy trình quản lý thu thuế chỉ do cơ quan thuế ban hành và áp dụng nội bộ. Ban
hành luật quản lý thuế để giảm hiện tượng các đối tượng nộp thuế tìm mọi cách để
Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 21


Trường Đại học Luật Hà Nội
trốn lậu thuế, chây ỳ, ỷ lại vào cơ quan thuế trong việc tính thuế, tạo sơ hở cho cán
bộ thuế có những hành vi không đúng…
Đội ngũ cán bộ thuế là nhân tố rất quan trọng trong ngành thuế, bởi vậy cần
có sự sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý thu theo hướng tập trung vào các khâu
công việc chính, đào tạo lại và tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên sâu về
quản lý thuế theo phương pháp hiện đại, trình độ ứng dụng thành thạo công nghệ
tin học…Đặc biệt đối với công tác cán bộ phải xem trọng việc tuyển chọn đội ngũ
làm công tác tổ chức nhân sự, bởi quyết định của đội ngũ này sẽ ảnh hưởng đến
chất lượng cán bộ thuế. Đó phải là những người thực sự chí công, vô tư và có năng

lực đánh giá nhân sự.
Sự phát triển của hệ thống thuế không thể tách rời quá trình hiện đại hóa, áp
dụng công nghệ thông tin vào các quy trình quản lý. Đầu tư hệ thống máy tính sẽ
giúp cho tốc độ sử lý công việc của ngành thuế nhanh hơn, chi phí quản lý cũng sẽ
giảm đi rất nhiều.
2.2.3. Kiến nghị đối với các cơ quan cấp trên
Để thuế GTGT ngày càng được hoàn thiện hơn thì Nhà nước, Chính phủ – là
những cơ quan quản lý cao nhất, cần phải có chiến lược cụ thể nhằm tác động vào
các hoạt động của nền kinh tế xã hội, từ đó tạo ra môi trường tốt nhất cho các sắc
thuế nói chung và thuế GTGT nói riêng phát huy được các ưu điểm của mình.
Thứ nhất, về công tác quản lý. Từ khi Nhà nước chuyển việc quản lý bằng
các chỉ tiêu, mệnh lệnh sang quản lý thông qua các công cụ gián tiếp mà chủ yếu là
thuế thì công tác quản lý đã trở nên linh hoạt hơn rất nhiều. Cơ chế là đúng đắn, tuy
nhiên không phải lúc nào việc quản lý cũng thông suốt mà không gặp phải sai sót
gì, một thực tế cho thấy là tình trạng xin-cho giữa các đơn vị cấp trên và cấp dưới
vẫn còn tồn tại, một số cán bộ quản lý cấp trên chưa thực sự làm hết chức trách
quản lý của mình cho nên đã để xảy ra nhiều thất thoát cho Nhà nước. Vấn đề được
đặt ra ở đây là cần có sự quản lý chặt chẽ, phân định trách nhiệm rõ ràng nhằm
tránh tình trạng khi sự việc xảy ra thì không ai chịu trách nhiệm.
Thứ hai, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống luật pháp Việt Nam cho có sự
thống nhất cao giữa các bộ luật, điều này sẽ giúp cho Luật thuế GTGT có sự phù
hợp với các sắc thuế khác, tránh được các vướng mắc khi giải quyết các vấn đề liên
quan đến sắc thuế này.
Thứ ba, Nhà nước cần quan tâm chỉ đạo đến sự phát triển của hệ thống ngân
hàng, bởi nếu các ngân hàng phát triển đồng đều và vững mạnh thì sẽ tạo điều kiện
cho công tác quản lý và thu thuế GTGT cũng như các thuế khác một cách thuận lợi
và chính xác, tránh được thất thu thuế…
Ngoài ra, việc đầu tư cho các lớp đào tạo cán bộ thuế cũng rất nên được sự
quan hơn, hiện nay chúng ta chưa có các trường đào tạo thuế riêng mà mới chỉ có
các chuyên ngành nhỏ trong các trường đại học với thời luợng giảng dạy chưa

nhiều do đó kiến thưc mà các sinh viên có được cũng chỉ là cơ bản nhất, điều này
sẽ làm tốn một khoản chi phí lớn vì phải đào tạo lại khi họ vào làm thực tế…

Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 22


Trường Đại học Luật Hà Nội
Tóm lại, để hoàn thiện thuế GTGT thì Nhà nước cần áp dụng rất nhiều biện
pháp cả về chính sách lẫn phương diện quản lý. Các biện pháp này phải được kết
hợp một cách đồng bộ chứ không thể tổ chức riêng lẻ.

III. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Chuyển đổi cơ chế quản lý nền kinh tế theo cơ chế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã và đang
giành được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả các lính vực, tạo tiền đề cho việc
thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Hệ thống
thuế có sự đóng góp không nhỏ vào những thành tựu to lớn đó. Bởi vậy, Đảng và
nàh nước ta luôn quan tâm tới việc sửa đổi, hoàn thiện hệ thống chính sách thuế để
không ngừng phát huy vai trò tích cực của công cụ thuế đối với sự phát triển kinh tế
- xã hội của đất nước.
Luật thuế GTGT đã dần từng bước khẳng định được chỗ đứng là một sắc
thuế tiến bộ công bằng, là công cụ điều tiết vĩ mô, là khoản thu ngân sách đáng kế
của nhà nước. Tuy còn một số bất cập không thể tránh khỏi trong việc đưa ra áp
dụng một chính sách thuế mới có tác dụng rộng rãi đến tất cả các thành phần kinh
tế từ doanh nghiệp lớn của Nhà nước đến các hộ sản xuất cá thể. Nhưng tin rằng
với những nghiên cứu và sửa đổi luật thuế GTGT của Chính phủ, luật thuế GTGT
sẽ ngày càng hoàn thiện và thể hiện rõ vai trò của một sắc thuế tiến bộ trong một
nền kinh tế đang từng bước đi lên.


Lớp NO6 –TL2- Nhóm 3

Page 23



×