Tải bản đầy đủ (.doc) (9 trang)

Khái quát một số vấn đề về nguyên tắc thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.13 KB, 9 trang )

BÀI LÀM
I.ỜI MỞ ĐẦU
Nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một trong những
nguyên tắc cơ bản cấu thành nên hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam.
Nguyên tắc này luôn được coi trọng và được nghi nhận trong bốn bản Hiến pháp của nước ta qua
các thời ký lịch sử khác nhau của đất nước. Đến nay, nguyên tắc này đã trở thành một nguyên tắc
tối thượng trong tổ chức và hoạt động của TA nói chung và hoạt động trong xét xử các vụ án dân
sự nói riêng. Để hiểu rõ về vấn đề này em xin đi vào cụ thể quy định cuả pháp luật về vấn đề này.
II.KHÁI QUÁT MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN
DÂN ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
2.1.Khái niệm về nguyên tắc Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự
“Nguyên tắc Thẩm phán, hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là một nguyên tắc
cơ bản của Luật TTDS Việt Nam thể hiện tư tưởng pháp lý khi xét xử các vụ án dân sự TP và
HTND tự mình quyết định và tự chịu trách nhiệm về bản án và quyết định của mình mà không bị
phụ thuộc vào quan điểm , ý kiến cảu bất kỳ cá nhân, cơ quan tổ chức nào, không bị chi phối bởi
ý kiến của nhau và chỉ căn cứ vào các quy định của pháp luật để xem xét và quyết định về từng
vấn đề của vụ án”.
2.2 Ý nghĩa của nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, nguyên tắc TP và HTND độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nền tảng cảu tư pháp
trong Nhà nước pháp quyền. Đây là công thức pháp lý chứa đựng các giá trị được thừa nhận
chung trong nhà nước pháp quyền đối với không chỉ trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự mà
cả trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Tư pháp có độc lập mới đảm bảo
được tính tối cao của Hiến Pháp và pháp luật, có khả năng kiểm soát và giới hạn quyền lực, cũng
như bảo đảm quyền con người. Xuất phát từ vai trò đặc biệt quan trọng của tính độc lập của Tư
pháp nên hầu hết các cuộc cải cách tư pháp ngay nay đều tập trung vào việc nâng cao tính độc lập
của Tư pháp trong hoạt động cảu xét xử.
Thứ hai, thực hiện nguyên tắc TP và HTND cét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật góp phần
bảo đảm và nâng cao chất lượng xét xử các vụ án dân sự của Tòa án. Đồng thời khẳng định được
vị trí, vai trò và trách nhiệm của TP và HTND trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự.


Thứ ba, thực hiện nguyên tắc này góp pần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của nhân dân và ổn định các quan hệ kinh tế- xã hội trong giao lưu dân sự. Có thể
nói mục đích của việc thực hiện quyền tư pháp trong Nhà nước pháp quyền là nhằm thực thi công
lý và bảo vệ quyền con người.
1


III. NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ
NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN VÀ HỘI THẨM NHÂN DÂN XÉT XỬ ĐỘC LẬP VÀ CHỈ
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
3.1 Khi xét xử thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập
3.1.1 Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với các yếu tố bên ngoài
Theo phương diện độc lập với các yêu tố bên ngoài thì khi xét xử TP và HTND độc lập với
VKS, với TA các cấp, độc lập với các cơ quan Nhà nước, tổ chức và cá nhân khác. Tuy nhiên,
trong hoạt động xét xử của TA được đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và sẹ giám sát tối cao của
Quốc hội- cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
3.1.1.1 khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với viên kiểm sát
Hoạt động kiểm sát xét xử cảu VKS với yêu cầu đảm bảo nguyên tắc “ TP và HTND xét xử độc
lập và chỉ tuan theo pháp luật” . Muốn làm rõ vấn đề này qua đó khẳng định vị trí của VKS trong
TTDS, trước hết phải nhận thức đúng đắn về nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuan
theo pháp luật.
BL TTDS năm 2004 xác định trách nhiệm của VKS tham gia ở trong phiên tòa nhân dân
sự căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS. Điều 21 BL TTDS năm 2004 quy định
như sau: “1. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực
hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm việc
giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia phiên tòa đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ
mà đương sự có khiếu nại, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các vụ việc
dân sự mà Viện kiểm sát kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án.” Theo quy định này thì VKS
có chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTDS, VKS không tham gia tất cả các

phiên tòa giải quyết vụ án dân sự mà chỉ được tham gia vào các phiên tòa đối với những vụ án do
TA thu thập chứng cứ mà đương sự có yêu cầu, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết cảu
TA và các vụ việc dân sự mà VKS kháng nghị bản án, quyết định của TA.Tuy nhiên Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều cảu BL TTDS đã tăng thẩm quyền cho VKS. Theo đó, VKS còn tham gia
vào các phiên tòa sơ thẩm đối với cả những vụ án mà đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích
công cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc một bên đương sự là người chưa thành niên, người có
nhược điểm về thể chất, tâm thần. Ngoài ra VKS còn tham gia vào phiên tòa, phiên họp phúc
thẩm, giám đốc thẩm.
3.1.1.2 Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với Tòa án các cấp
Sự độc lập của TP và HTND trong xét xử còn được thể hiện trong mối quan hệ giữa các
cấp xét xử. Ở nước ta hiện nay, việc xét xử các vụ án dân sự được thực hiện theo nguyên tắc hai
cấp xét xử là sơ thẩm và phúc thẩm. Đây cũng là một nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS
được quy định tại điều 17 BL TTDS. Theo đó, các bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự cuả
TA cấp sơ thẩm khi ban hành sẽ chưa có hiệu lực pháp luật ngay mà được trù liệu một thời hạn
nhất định để các đương sự kháng cáo và Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm. Thời hạn kháng
2


cáo và kháng nghị phúc thẩm tại điều 245 và 253 BLTTDS. Khi vụ án được xét xử theo trình tự
phúc thẩm, theo Điều 263 BL TTDS về phạm vi xét xử phúc thẩm thì TA cấp phúc thẩm chỉ xem
xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến phần
có kháng cáo kháng nghị. Khi xét xử lại vụ án, HĐXX phúc thẩm hoàn toàn độc lập với những
nhận định của TA cấp sơ thẩm về nội dung của vụ án. HĐXX phúc thẩm có quyền hủy bản án sơ
thẩm và chuyển hồ sơ cho TA cấp sơ thẩm xem xét lại vụ án. Để đảm bảo sự độc lập của TA cấp
sơ thẩm và những lý do hủy bản án, quyết định sơ thẩm mà không có yêu cầu của TA cấp dưới
công nhân hay bac bỏ những chứng cứ nào trong quá trình xét xử lại vụ án, cũng như không có
quyền yêu cầu TA cấp dưới xét xử theo những nhận định của mình, không được quyết định trước
những điều luật nào TA cấp dưới phải áp dụng giải quyết vụ án. TA cấp sơ thẩm khi xét xử lại vụ
án thì vẫn độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
3.1.1.3 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập trong mỗi quan hệ với

nguyên tắc Đảng lãnh đạo nhà nước và xã hội
Trước hết cần phải khẳng định việc quy định nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật trong TTDS không hề mâu thuẫn với nguyên tắc được quy định tại Điều 4
Hiến pháp năm 1992 về sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đối với những hoạt động của
các cơ quan Nhà nước và của toàn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với cơ quan tư pháp nói
chung , TA nói riêng là vấn đề có tính nguyên tắc hiến định. Sự lãnh đạo của Đảng không mâu
thuẫn hoặc ảnh hưởng tới tính độc lập của TA bởi Đảng lãnh đạo TA thông qua đường lối, chủ
trương, chính sách về công tác tư pháp nói chung chứ Đảng không làm thay công việc của TA.
Nội dung lãnh đạo của Đảng là lãnh đạo về chính trị, tư tưởng, định hướng về công tác và tổ chức
cán bộ. Sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống TAND nhằm bảo đảm đường hướng chính trị cảu
Đảng nhưng đồng thời không làm ảnh hưởng đến tính độc lập trong hoạt động xét xử của TA.
Mối quan hệ giữa nguyên tắc Đảng lãnh đạo với nguyên tắc TP và HTND xét xử độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật trong TTDS còn được thể hiện ở việc các tổ chức Đảng ở địa phương
tham gia vào quá trình tuyển chọn và bổ nhiệm TP. Vậy vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
nam về nguyên tắc không làm ảnh hưởng đến tính độc lập của TA và HTND. Nguyên tắc TP và
HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong mỗi quan hệ với cấp ủy Đảng thể hiện ở
việc Đảng lãnh đạo chặt chẽ cơ quan tư pháp về mặt chính trị, tư tưởng và tổ chức cán bộ nhưng
Đảng không can thiệp vào hoạt động xét xử tùng vụ án cụ thể của TA.
3.1.1.4 . Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với các cơ quan Nhà nước, tổ
chức, cá nhân và dư luận xã hội
Sự độc lập trong hoạt động xét xử là một trong những nguyên tắc quan trọng nhất trong
Nhà nước pháp quyền. Mức độ độc lập trong hoạt động xét xử thể hiện sức mạnh không chỉ của
Tư pháp mà còn thể hiện uy tín và sức mạnh của Bộ máy Nhà nước, của Hệ thống chính trị, mức
độ dân chủ hóa đời sống xã hội. Trong hệ thống các cơ quan của Bộ máy Nhà nước thì TA là cơ
quan được tỏ chức và thành lập để thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, Xét xử là chức năng
riêng của TA, là khâu trung tâm của hoạt động Tư pháp. Trong quá trình giải quyết vụ án không
một cơ quan Nhà nước nào được can thiệp vào việc thực hiện nhiệm vụ cảu TP và HTND. Về
phần mình TP và HTND thực hiện chức năng của mình theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật.
3



Trong quá trình xét xử TA và HTND không chỉ độc lập với các cơ quan Nhà nước mà còn
độc lập với các bên đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự, luật sư và những người tham gia tố tụng khác . Tuy nhiên xuất phát từ tính
chất quan hệ dân sự là dựa trên sự thỏa thuận giữa các bên trong quá trình giải quyết các vụ án
dân sự, TA luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự. Khi giải quyết các vụ án dân sự, TP
đóng vai trò trung lập, đững giữa và không phụ thuộc vào các bên đương sự. Trước khi mở phiên
tòa , TA phải tiến hành hòa giải , tạo điều kiện cho các đương sự được thỏa thuận với nhau về
việc giải quyết vụ án. Trong quá tình hòa giả TA luôn giữ vai trò chủ động tạo điều kiện cho các
bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Tại phiên tòa , HĐXX không
chỉ căn cứ vào những tài liệu, chững cứ có trong hồ sơ vụ án mà phải xác định lại chúng, đồng
thời làm rõ thêm những tình tiết bằng cách nghe các ben đương sự và những người tham gia tố
tụng khác trình bày ý kiến. Như vậy, trong TTDS, các đương sự có quyền tự thỏa thuận với nhau
về việc giải quyết vụ án nhưng TA vẫn giữ vai trò chủ động, độc lập trong việc xem xét các yêu
cầu của đương sự. Các bên đương sự luôn bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụn, TA có
nghĩa vụ thực hiện các biện pháp do pháp luật quy định để đảm bảo sự bình đẳng giữa các bên
đương sự.
Trong quá trình xét xử TP và HTND còn độc lập với cơ quan báo chí và dư luận xã hội.
Điều 5 BL TTDS quy định: “ Việc xét xử các vụ án dân sự được tiến hành công khai, mọi người
đều có quyền tham dự, trừ trường hợp do bộ luật nầy quy định” là nhằm đảm bảo cho nhân dân
tham gia giám sát hoạt động xét xử của TA và thống qua đó để tuyên truyền, giáo dục pháp luật
đến mọi tầng lớp nhân dân. Thực tiễn cho thấy, hoạt động xét xử các vụ án dân sự của TA ngày
càng thu hút sự quan tâm , chú ý của cơ quan báo chí và dư luận xã hội, đặc biệt là những án quan
trọng và phức tạp, kéo dài thì không tránh khỏi sự đưa tin của báo chí và phản ứng của dư luận xã
hội. Do đó, những ý kiến mà họ đưa ra có thể đúng, có thể sai hoặc thiên vị bên này hoặc bên kia.
Chúng ta đang sống trong một xã hội dân chủ nên TP và HTND phải tôn trong và lắng nghe ý
kiến của nhân dân nhưng đồng thời phải giữ vững bản lĩnh của mình không vì sức ép của báo chí
và dư luận của xã hội mà xét xử thiên vị, không vô tư, khách quan gây thiệt hại đến quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự.

3.1.2 Khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập với các yếu tố bên trong
Theo quy đinh tại Điều 52 BLTTDS về thành phần xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thì : “Hội
đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường
hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân”.
Như vậy, số lượng HTND luôn chiếm đa số trong các thành phần HĐXX vụ án dân sự, HTND là
những người không chuyên làm công tác xét xử nhưng khi tham gia hoạt động xét xử phải được
độc lập với Thẩm phán trong mọi khâu của quá trình xét xử, trong đó có sự độc lập với TP. Mục
đích của chế định xét xử có HTND tham gia không đơn thuần là cùng TP xét xử cho xong vụ án
dân sự theo quy định của pháp luật TTDS. Quan trọng hơn, pháp luật giao trọng trách cho HTND
thay mặt nhân dân tham gia xét xử, giám sát, chế ước và hạn chế tiêu cực trong hoạt động của
Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ pháp chế XHCN. Đây là nguyên tắc hiến định, thể hiện mối quan
4


hệ giữa TP và HTND xét trên bình diện quyền năng của mỗi người. Nguyên tắc này gắn liền với
nguyên tắc Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số.
Để đảm bảo sự độc lập giữa TP và HTND cần xác định rõ tính chất mối quan hệ giữa họ với
nhau trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và giai đoạn xét xử tại phiên tòa sơ thẩm vụ án dân sự.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm thì theo quy định tại Điều 42 BLTTDS thì HTND có
quyền nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên tòa để biết được nội dung cũng như vấn đề cần phải
được giải quyết vụ án. Mối quan hệ giữa TP và HTND trong giai đoạn này mang tính chất hỗ trợ
nhau. HTND có thể phát hiện những vấn đề cần trao đổi với TP để bổ sung vào việc xét xử như
cần thêm người làm chứng, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan… mà trong quá trình làm
những thủ tục bạn đầu Thư ký Tòa án hoặc TP vì những lý do khác nhau đã không phát hiện ra.
Hoặc đề nghị trưng cầu giám định để HĐXX kết luận được chính xác. Mặc dù quan hệ giữa TP
và HTND trong gia đoạn này mang tính chất hỗ trợ nhau những giữa họ phải có sự độc lập với
nhau trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án, kiểm tra, đánh gia các tài liệu chứng cứ làm cơ sở cho
việc giải quyết yêu cầu của đương sự.
Tại phiên tòa tính độc lập giữa TP và HTND được thể hiện ngày một rõ hơn. HĐXX sơ
thẩm tiến hành xét xử thông qua việc nghe các bên đương sự trình bày, tranh luận, kiểm tra và

xác minh các tài liệu, chứng cứ của vụ án một cách toàn diện và khách quan; áp dụng đúng pháp
luật để giải quyết vụ án. Theo Điều 222 BLTTDS thì TP chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đên
HTND. HTND có quyền hỏi tất cả các vấn đề mà mình cho là cần thiết để giải quyết vụ án mà
không phụ thuộc vào TP. Trong quá trình điều khiển phiên tòa, TP phải luôn xác định rằng HTND
là những người ngang quyền với mình để từ đó có thái độ đúng đắn trong mối quan hệ giữa các
thành viên của HĐXX.
Sự độc lập giữa TP và HTND được thể hiện rõ nhất trong quá trình nghị án. Do tính chất
đặc biệt quan trong của bản án nên pháp luật TTDS quy định một trình tự đặc biệt để thảo luận và
ra bản án. Điều 236 BLTTDS thì: “Chỉ có các thành viên của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị
án. Khi nghị án, các thành viên của Hội đồng xét xử phải giải quyết tất cả các vấn đề của vụ án
bằng cách biểu quyết theo đa số về từng vấn đề. Hội thẩm nhân dân biểu quyết trước, Thẩm phán
biểu quyết sau cùng. Người có ý kiến thiểu số có quyền trình bày ý kiến của mình bằng văn bản
và được đưa vào hồ sơ vụ án”. TP tuyệt nhiên không được áp đặt ý kiến của mình đối với HTND
khi ra phán quyết cuối cùng về vụ án. Như vậy, sự độc lập xét xử của TP và HTND không cho
phép thành viên này được áp đặt ý kiến chủ quan của mình lên các thành viên khác trong cùng
một HĐXX
3.2 Thẩm phán và Hội thẩm xét xử chỉ tuân theo pháp luật.
Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa là xét xử tùy tiện mà
độc lập trong khuôn khổ pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải dựa vào các quy định
5


của pháp luật để giải quyết vụ án, chứ không được áp đặt ý chí chủ quan của mình. Điều này đòi
hỏi có tính chất bắt buộc đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
TP và HTND chỉ tuân theo pháp luật ở đây có nghĩa là tuân theo cả luật nội dung và luật
hình thức. Vì vậy, khi xét xử các vụ án dân sự, TP và HTND phải căn cứ vào các quy định của
BLDS, Luật hôn nhân gia đình, Luật thương mại, Luật lao động… và đối chiếu các tình tiết các
vụ án với các quy định của pháp luật nội dung để xác định trên thực tế có hành vi vi phạm pháp
luật hay không. Đồng thời phải căn cứ vào BLTTDS và các văn bản ban hành hướng dẫn để xác
định thẩm quyền cũng như trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp. Ngoài ra, khi giải quyết các vụ

án dân sự có yếu tố nước ngoài, các TP còn phải căn cứ vào các Công ước quốc tế, các Điều ước
quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Có như vậy thì các bản án, quyết định của Tòa án
mới đảm bảo tính khách quan, công bằng và đúng pháp luật. Hoạt động xét xử các vụ án dân sự
là việc phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháo các hành vi của chủ thể pháp luật. Một phán quyết
của Thẩm phán liên quan trực tiếp sức khỏe, tính mạng, tài sản, danh sự, nhân phẩm của công
dân. Nó còn ảnh hưởng tới lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và những giá trị đượ thừa nhận
chung trong xã hội. Vì thế, hoạt động xét xử phải chính xác, công minh trong việc vận dụng và áp
dụng pháp luật, thể hiện được ý chí và nguyện vong của nhân dân.
TP và HTND xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật không có nghĩa là họ không chịu bất
cứ một sự kiểm tra, giám sát nào. Mà ngược lại, theo quy định của BLTTDS, hoạt động xét xử
các vụ án dân sự luôn chịu sự kiểm sát của Viện kiểm sát và xét xử của Tòa án cấp trên. Sự giám
sát này không có nghĩa là sự can thiệp của Viện kiểm sát hay Tòa án cấp trên vào hoạt động xét
xử của TP và HTND mà nó nhằm đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật một cách chính xác và
thống nhất. Có như vậy, mới đảm bảo được tính đúng đắn và hợp pháp của các bản án, quyết định
của Tòa án. Điều 13 BLTTDS đã xác định trách nhiền của cơ quan, người tiến hành TTDS; theo
đó, họ phải có trách nhiệm trước pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
3.3 Mối quan hệ giữa tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử.
Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ và ràng buộc với nhau. Độc lập
là điều cần cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Độc
lập là biểu hiện của tuân theo pháp luật. Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc là một phần nội dung
của nguyên tắc. Thẩm phán và hội thẩm độc lập với nhau và độc lập với các yếu tố khác. Nếu
Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập, không chụi bất kì sự tác động nào thì phán quyết của Hội
đồng xét xử mới có tính khách quan, vô tư, quyết định của Hội đồng xét xử mới đảm bảo đúng
pháp luật. Độc lập là điều kiện cần thiết để Thẩm phán và Hội thẩm tuân theo pháp luật.
Tuân theo pháp luật là cơ sở không thể thiếu để Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
khi xét xử. Nếu chỉ độc lập mà không tuân theo pháp luật thì dễ dẫn đến xét xử tùy tiện. Tuân
theo pháp luật là cơ sở để thể hiện tính độc lập trong xét xử. Xét ở khía cạnh thuần túy của tính
6



độc lập, để có thể tự mình đưa ra phán quyết, Thẩm phán và hội thẩm phải có kiến thức pháp luật
và phải chấp hành quy định của pháp luật. Khi nắm chắc kiến thức pháp luật, Thẩm phán và Hội
thẩm có điều kiện để thể hiện sự độc lập trong phán quyết của mình. Xét ở khía cạnh khác thì
tuân theo pháp luật là đã loại trừ các tác động khác đến hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội
thẩm, bởi vậy họ mới có được sự độc lập.
Nguyên tắc độc lập trong xét xử không mâu thuẫn gì với nguyên tắc sự lãnh đạo toàn diện
và tuyệt đối của Đảng Cộng sản Việt Nam được quy định tại Điều 4 Hiến pháp 1992. Vì pháp luật
chính là sự thể chế hóa đường lối của Đảng, nên việc tuân thủ pháp luật cũng chính là phục tùng
sự lãnh đạo của Đảng. Mọi sự can thiệp của các cấp ủy Đảng và đảng viên có chức vụ, quyền hạn
vào việc xét xử của từng vụ án cụ thể của Hội đồng xét xử đều thể hiện nhận thức không đúng
đắn về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công tác xét xử của Tòa án.
Độc lập trong việc thống nhất với chỉ tuân theo pháp luật: Độc lập nhưng phải dựa trên
những quy định của pháp luật. Mọi kết luận của bản án, quyết định của Hội đồng xét xử phải phù
hợp các tình tiết khách quan của vụ án. Bản án phải xác định đúng người, đúng tội và đúng với
các thiệt hại do hành vi phạm tội đã gây ra. Mỗi nhận định của bản án đều phải dựa trên những
chứng cứ và tình tiết xác thực được thẩm tra tại phiên tòa có lập luận chặt chẽ, không kết luận
dựa trân ý nghĩ chủ quan, cảm tính cá nhân của mỗi thành viên Hội đỗng xét xử. Yếu tố độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật không thể tách rời nhau.
IV. VIỆC BẢO ĐẢM THỰ HIỆN NGUYÊN TẮC THẨM PHÁN, HỘI THẨM NHÂN DÂN
ĐỘC LẬP VÀ CHỈ TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
4.1. Về Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
Thứ nhất, các Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân phải nâng cao trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, giữ gìn đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Các Thẩm phán phải được đào tạo chuẩn (có
trình độ tốt nghiệp đại học và trên đại học chuyên ngành luật) và thường xuyên được cập nhật
những kiến thức mới về tin học, ngoại ngữ, pháp luật quốc tế. Đồng thời, có tinh thần dũng cảm,
dám đấu tranh cho sự công bằng, bảo vệ lẽ phải. Chỉ khi Thẩm phán có một trình độ chuyên môn
cao với cái tâm trong sáng, tôn trọng sự công bằng, thì họ mới không bị chi phối bởi những suy
nghĩ lệch lạc hoặc những tác động bên ngoài mang tính chất vụ lợi cá nhân
Thứ hai, tăng cường cơ sở vật chất, chế độ chính sách đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án.
Nhà nước cần ưu tiên đầu tư xây dựng trụ sở, trang thiết bị, phương tiện làm việc cho các Tòa án;

cần có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ thỏa đáng đối với Thẩm phán, cán bộ Tòa án để
họ yên tâm công tác và tăng khả năng tự vệ phòng, chống tiêu cực trong hoạt động xét xử. Mặt
khác, Nhà nước cần quy định chế độ bảo đảm an ninh đối cơ quan Tòa án, Thẩm phán và gia đình
họ trong trường hợp thi hành công vụ.
7


4. 2. Về ngân sách nhà nước và hoạt động xét xử
Bất cứ tổ chức, cơ quan nào muốn hoạt động tốt cũng phải có nguồn kinh phí chưa nói là
nhiều nhưng cũng phải đủ. Nguồn kinh phí đó để trang bị cơ sở vật chất cho hoạt động của Tòa
án nói chung và của hoạt động xét xử nói riêng. Tuy nhiên chính vì ý nghĩa của nguồn kinh phí
mà nhiều khi Tòa án sẽ bị phụ thuộc vào cơ quan phân bổ ngân sách nhà nước. Mặt khác, ngân
sách nhà nước chưa đủ để phục vụ cho hoạt động xét xử phải dựa vào nguồn hỗ trợ của địa
phương dẫn đến nguyên tắc này không được đảm bảo.
4.3 Về hệ thống pháp luật
Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật chỉ có thể được bảo đảm
khi có hệ thống pháp luật đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với đời sống kinh tế - xã hội làm nền tảng
cho các phán quyết của Tòa án. Đặc biệt là khi pháp luật của ta không thừa nhận án lệ thì đòi hỏi
hệ thống các văn bản pháp luật và văn bản hướng dẫn đầy đủ và kịp thời. Tuy nhiên, trên thực tế,
hệ thống pháp luật của ta vãn còn rất thiếu và yếu, không mang tính đồng bộ và thống nhất, gây
khó khăn rất nhiều trong hoạt động xét xử của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.
4.4 Về cách thức quản lý Tòa án.
Quản lý Tòa án được xem xét dưới hai góc độ là quản lý hành chính và quản lý chuyên
môn nghiệp vụ. Trong hai lĩnh vực đó thì vấn đề quản lí hành chính tong hệ thống Tòa án là yếu
tố quan trọng để đảm bảo nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân xét xử độc lập chỉ tuân theo
pháp luật. Nếu Tòa án tối cao quản lý cả chuyên môn nghiệp vụ lẫn tổ chức hành chính thì tính
độc lập dễ bị vi phạm, bởi:
- Việc tổ chức, quản lý hành chính ảnh hưởng đến lợi ích thiết thân của Thẩm phán và cán bộ

Tòa án nên Tòa án cấp trên có thể lợi dụng thế này để can thiệp vào công việc chuyên môn xét xử

của Thẩm phán và Hội thẩm.
- Thẩm phán, Hội thẩm cũng có thể dễ dàng chấp nhận những yêu cầu không khách quan của
cấp trên vì tâm lý nể sợ cấp trên
V.KẾT LUẬN
Nguyên tắc Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự là một nguyên tắc mang tính khách quan cho Thẩm phán và hội thẩm nhân dân trong
việc xét xử, việc quy định nguyên tắc này giúp cho Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân không bị
chi phối bởi các yếu tố khách quan khác. Do đó việc xét xử của hộ mang tính khách quan cao
hơn, chính xác hơn.
8


TÀI LIỆU THAM KHẢO
-

Bộ Luật tố tụng dân sự 2004

-

Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Trường đại học Luật Hà Nội

-

Luận văn Thạc sĩ luật học – Nguyễn Văn Cung “ Các nguyên tắc cơ bản của Tố tụng dân
sự Việt Nam” – Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 1997.
- “ Một số yếu tố ảnh hưởng đến nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật” – Nguyễn Ngọc Chí – Tạp chí Nhà nước và pháp luật.

9




×