Tải bản đầy đủ (.doc) (153 trang)

Điều tra, đánh giá các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn làm cơ sở lựa chọn loài cây trồng rừng gỗ lớn, mọc nhanh ở các tỉnh trung du miền núi phía bắc (tây bắc và trung tâm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.91 KB, 153 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-----  -----

DƯƠNG THỊ DUNG

ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG CUNG CẤP GỖ LỚN LÀM
CƠ SỞ LỰA CHỌN LOÀI CÂY TRỒNG RỪNG GỖ LỚN, MỌC NHANH Ở CÁC
TỈNH TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC (TÂY BẮC VÀ TRUNG TÂM)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Thái Nguyên, năm 2010


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
-----  -----

DƯƠNG THỊ DUNG

ĐIỀU TRA ĐÁNH GIÁ CÁC MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG CUNG CẤP GỖ LỚN LÀM
CƠ SỞ LỰA CHỌN LOÀI CÂY TRỒNG RỪNG GỖ LỚN, MỌC NHANH Ở CÁC
TỈNH TRUNG DU MIỀN NÚI PHÍA BẮC (TÂY BẮC VÀ TRUNG TÂM)

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60

Người hướng dẫn: PGS.TS. Trần Văn Con



Thái nguyên, năm 2010


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành tại trường Đại học Nông Lâm Thái
Nguyên theo chương trình đào tạo Cao học khóa 16, từ năm 2007 - 2010.
Trong quá trình học tập và thực hiện đề tài luận văn, tác giả đã nhận
được sự quan tâm, giúp đỡ của tập thể cán bộ Khoa Đào tạo sau đại học, các
thầy giáo, cô giáo thuộc khoa Lâm Nghiệp trường Đại học Thái Nguyên,
Trung tâm khuyến nông tỉnh Thái Nguyên,… nhân dịp này, tác giả xin chân
thành cảm ơn về sự giúp đỡ quý báu đó.
Trước hết, tác giả xin chân thành cảm ơn PGS.TS. Trần Văn Con người hướng dẫn khoa học, đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả hoàn
thành luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới UBND các tỉnh , UBND các huyện, các Công ty
lâm nghiệp, các hộ gia đình,… đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá
trình thu thập số liệu ngoại nghiệp phục vụ đề tài luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới Trung tâm Khuyến Nông tỉnh Thái Nguyên đã tạo
mọi điều kiện về thời gian, công việc để tác giả có thể theo học và hoàn
thành luận văn này.
Cuối cùng, tác giả xin chân thành cảm ơn sự quan tâm, động viên, giúp
đỡ của người thân trong gia đình và các bạn bè, đồng nghiệp trong suốt thời
gian học tập và thực hiện đề tài luận văn.
Thái Nguyên, năm 2010
Tác giả

Dương Thị Dung


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

D1..3

Đường kính ngang ngực

D0

Đường kính gốc

FAO

Food and Agriculture Organization (Tổ chức lương
thực, nông nghiệp của Liên hiệp quốc)

Hvn

Chiều cao vút ngọn

KHCN

Khoa học công nghệ

KTLS

Kỹ thuật lâm sinh LN

Lâm nghiệp
M/ha

Trữ lượng bình quân/ha


NN & PTNT

Nông nghiệp và phát triển nông thôn

OTC

Ô têu chuẩn RT

Rừng trồng TBKT

Tiến

bộ kỹ thuật
TCN

Tiểu chuẩn ngành

V/cây

Thể tích bình quân cây đơn lẻ

VKHLNVN

Viện Khoa học lâm nghiệp Việt Nam

∆H

Tăng trưởng bình quân chung về chiều cao

∆D


Tăng trưởng bình quân chung về đường kính

Hbq

Chiều cao trung bình Dbq

Đường kính trung bình MĐHT
Mức độ hoàn thành MĐ
độ
ĐDTĐ

Độ dày tầng đất

TPCG

Thành phần cơ giới

Mật


ĐẶT VẤN ĐỀ
Nghiên cứu trồng rừng gỗ lớn, mặc dù đã có nhiều kết quả được công
bố, nhiều kinh nghiệm và bài học đã được đúc kết, người trồng rừng vẫn tiếp
tục đối mặt với các vấn đề sau đây: (i) Bối rối khi lựa chọn tập đoàn cây
trồng, (ii) Không chắc chắn về sự thích nghi của một loài đối với lập địa cụ
thể, (iii) Có thể trồng gỗ lớn thuần loài không? Hay phải hỗn giao và tổ hợp
hỗn giao như thế nào là tốt nhất, và (iv) Kỹ thuật lâm sinh thích hợp để thiết
lập rừng trồng gỗ lớn như thế nào?
Trong những năm gần đây, rất nhiều loài cây bản địa được khuyến

nghị bên cạnh các loài cây nhập nội mọc nhanh. Ở vùng Tây Nguyên có các
loài như: Xoan ta, Dầu rái, Sao đen Giổi xanh, Dó trầm, … Ở vùng Đông nam
Bộ có các loài như: Xoan ta, Bông gòn, Dầu rái, Sao đen, Gáo, Gió trầm, Xoan
mộc. Ở vùng duyên hải miền trung có các loài như: Huỷnh, Lát hoa, Sồi
phảng, Dó trầm, Gạo và ở vùng Trung du miền núi phía bắc có các loài như:
Xoan ta, Gạo, Trám trắng, Sa mộc, Mỡ, Bồ đề, Tống dù … Tuy nhiên, danh
mục các loài cây này vẫn chưa thuyết phục được các nhà trồng rừng, có
nhiều loài cần phải loại bỏ ra khỏi danh sách và cũng có nhiều loài cần
được bổ sung. Do đó, các chương trình khảo nghiệm vẫn cần thiết được tếp
tục để có các lựa chọn đúng đắn. Tuy nhiên, việc chọn loài cây trồng rừng
không chỉ dựa vào: tốc độ sinh trưởng, sự thuận lợi, chất lượng gỗ và các yêu
cầu lập địa không thôi; mà còn phải được lọc bỏ, loại trừ và khảo nghiệm.
Tức là phải có sự đánh giá nhiều loài, phân tích các bài học thất bại, rút ra các
yếu tố đưa đến thành công.
Các nhà khoa học đã tến hành nhiều nghiên cứu nhừm mục đích phát
triển các giải pháp kỹ thuật và kinh tế-xã hội để thiết lập rừng trồng gỗ
lớn cho nguyên liệu đồ mộc. Trong các mô hình nghiên cứu đó, các loài cây
đã được khảo nghiệm cùng với các biện pháp kỹ thuật lâm sinh thích hợp.
1


Mục

2


têu cụ thể của các hoạt động nghiên cứu là xác định được những loài và tổ
thành loài hỗn giao thích hợp nhất cho việc thiết lập rừng trồng gỗ lớn, mọc
nhanh cho các dạng lập địa ở vùng sinh thái. Các khảo nghiệm được đánh giá
dựa trên các têu chí cụ thể sau đây đối với mỗi loài và biện pháp thiết lập: (i)

tốc độ sinh trưởng (H, D, V); (ii) Hình thân (dáng cây); (iii) Khả năng tự tỉa
cành, (iv) Kiểu sinh trưởng (biểu hiện đỉnh sinh trưởng, phản ứng với ánh
sáng, với thổ nhưỡng); (v) sinh lực cây, tính chống chịu, (vi) Cấu trúc tán,
(vii) Phản ứng trong hỗn giao, (viii) Khả năng tái sinh, (ix) Tính chất cơ lý
hoá gỗ, (x) Tính chất công nghệ của gỗ.
Các mục tiêu và nội dung nghiên cứu đều được xuất phát từ các
yêu cầu thực tế sau đây:
- Ngành công nghiệp chế biến gỗ (đặc biệt là đồ mộc) Việt Nam đang
phát triển với tốc độ rất nhanh và đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất
khẩu khoảng 2,5 tỷ US$, nhưng đáng tiếc lại phải nhập 80 gỗ nguyên liệu.
- Khả năng cung cấp gỗ từ rừng tự nhiên ngày càng giảm, trong những
năm trước 2000, sản lượng gỗ khai thác từ rừng tự nhiên của Việt Nam trung
3

3

bình khoảng 2 triệu m gỗ tròn mỗi năm, giảm xuống 0,7 triệu m vào
năm
2000 và 0,3 triệu vào năm 2003; hiện nay con số này chỉ còn khoảng 0,2 triệu
3

m /năm.
- Việt Nam có trên 5 triệu ha rừng nghèo kiệt với sản lượng bình quân
3

chỉ 30-90 m /ha, trong đó ít nhất có 2-3 triệu ha rừng sản xuất có khả năng
cải tạo thành rừng sản xuất thâm canh gỗ lớn. Cải tạo rừng tự nhiên nghèo
kiệt thành rừng sản xuất thâm canh gỗ lớn đang trở thành một chủ trương
lớn vừa đáp ứng được nguyện vọng của những người làm nghề rừng ở các
điạ phương vừa là giải pháp cần thiết để thực hiện chiến lược phát triển

ngành vừa mới được Thủ tướng chính phủ phê duyệt với mục têu đáp ứng
3


nhu cầu hàng năm
3

20 triệu m gỗ tròn (trong đó gỗ lớn là 10 triệu
3
m ).

4


- Diện tích rừng trồng cung cấp gỗ lớn còn rất hạn chế, các kỹ
thuật trồng rừng gỗ lớn còn rất tản mạn, chưa đồng bộ, liên hoàn cho
mỗi loài/nhóm loài hỗn giao thích hợp. Các chính sách và giải pháp kinh tế xã
hội vẫn còn nhiều bất cập, chưa tạo động lực thúc đẩy phát triển trồng
rừng gỗ lớn cung cấp nguyên liệu chế biến đồ mộc.
Rừng trồng cây mọc nhanh chu kỳ ngắn đang có hiện nay chủ yếu là
nhằm mục đích sản xuất gỗ nguyên liệu giấy, tuy nhiên nhu cầu về gỗ lớn
đang gia tăng cũng đã thúc đẩy các nhà lâm nghiệp quan tâm nghiên
cứu trồng rừng gỗ lớn mọc nhanh.
Gần đây, Nhà nước đã quan tâm đầu tư cho các đề tài nghiên cứu các
giải pháp kỹ thuật và kinh tế xã hội để phát triển trồng rừng gỗ lớn
mọc nhanh. Một trong số các đề tài đã và đang được thực hiện là đề tài cấp
nhà nước: “Nghiên cứu các giải pháp khoa học công nghệ và kinh tế-xã hội
trồng rừng gỗ lớn, mọc nhanh trên đất trống còn tính chất đất rừng và
đất rừng nghèo kiệt” do TS. Trần Văn Con, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt
Nam chủ trì. Rừng trồng có thể được thiết lập với nhiều mục đích khác nhau

và chúng có thành phần loài, cấu trúc cũng như cường độ kinh doanh khác
nhau. Trong đề tài nói trên, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam quan niệm: “rừng trồng “gỗ lớn mọc nhanh” là các rừng rồng
“thương mại” với cường độ kinh doanh cao, được thiết lập tương đối tập
trung, chủ yếu là thuần loài (cây bản địa hoặc nhập nội) mọc nhanh (có
năng suất trên 15
3

m /ha/năm) để sản xuất gỗ lớn (có đường kính trên 25 cm ) với luân kỳ
kinh
doanh tối đa là 30 năm. Rừng trồng thương mại gỗ lớn mọc nhanh có
thể được thiết lập ở quy mô lớn do các công ty đầu tư hoặc một liên kết
nhiều khu rừng quy mô nhỏ đến vừa của các chủ rừng nhỏ”.
Vì các lý do này, tôi chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của
mình là: “Điều tra, đánh giá các mô hình rừng trồng cung cấp gỗ lớn làm cơ
5


sở lựa chọn loài cây trồng rừng gỗ lớn, mọc nhanh ở các tỉnh trung du miền
núi phía bắc (Tây bắc và trung tâm)”

6


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Ngoài nước
Trồng rừng là một nhiệm vụ quan trọng ở các nước nhiệt đới vì hai lý
do: để tái lập lại các hệ sinh thái rừng (HSTR) đã bị thoái hoá và để đáp ứng
các nhu cầu về gỗ ngày càng tăng trong khi gỗ rừng tự nhiên ngày càng cạn

kiệt. Tuy nhiên, không phải ai cũng nhận thức được sự cấp thiết này. Các số
liệu tổng kết của FAO đã cho thấy, ngày nay trên toàn thế giới có khoảng 135
triệu ha rừng trồng công nghiệp bằng các loài cây mọc nhanh đã được
thiết lập, khoảng 75% diện tích rừng trồng tập trung tại các vùng ôn đới, 25%
diện tch tập trung ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, khoảng 5% diện tích
ở vùng Châu Phi và gần 10% diện tích rừng trồng tập trung ở vùng Châu Mỹ –
La tnh, 20% diện tích tập trung ở các nước thuộc Liên bang Xô Viết (cũ), còn
lại khoảng 25% diện tch tập trung ở các nước vùng Châu á - Thái Bình
Dương và Châu Âu ( Gautier, 1991; Kanowski & Savill, 1992). Hàng năm có
khoảng từ 0,8 – 1, 2 triệu ha được trồng mới (FAO, 1993).
Tuy nhiên trồng rừng nhằm mục đích gì, thiết lập rừng trồng như
thế nào và rừng trồng sẽ phát triển ra sao thì lại rất ít được quan tâm. Nhiều
diện tch rừng trồng bị thất bại đã cho chúng ta thấy sự lãng phí lớn lao về
sức người, sức của. Chính vì vậy, trước khi quyết định đầu tư cho một dự án
trồng rừng cần phải trả lời hai câu hỏi sau đây (Lamprecht, 1986):
- Mục đích của trồng rừng là gì, cụ thể hơn các mục tiêu cần đạt
được của rừng trồng là gì?
- Tại sao diện tích dự kiến trồng rừng lại không có rừng?
Câu hỏi 1: Một dự án trồng rừng chỉ có thể được chấp nhận khi các lợi
ích trực tiếp hoặc gián tiếp mà nó mang lại ít nhất cũng có thể bù đắp
7


được

8


các chi phí cho việc thiết lập và quản lý nó. ở vùng nhiệt đới, đặc biệt là ở
những nơi thưa dân cư điều này rất khó trở thành hiện thực.

Lơi ích trực tếp có thể mong đợi từ một dự án trồng rừng khi có
một thị trường thực tế hoặc tềm năng cho các sản phẩm mà nó sản xuất ra,
và khi điều kiện lập địa cho phép trồng được các loài mọc nhanh hoặc các
loài gỗ quí có giá trị.
Dự án trồng rừng có thể luận chứng được lợi ích gián tếp của nó khi
rừng trồng có khả năng cung cấp các dịch vụ về môi trường (ví dụ bảo vệ
nguồn nước và đất) bằng cách tốt nhất và hiệu quả nhất. Nhiều diện tích
có thể đáp ứng được yêu cầu này. Tuy nhiên, do hạn chế về tài chính và
lao động cần thiết phải ưu tiên cho các vùng phòng hộ bức thiết trước, đó là
các vùng đông dân cư, các vùng xung yếu, các vùng có nhu cầu cao về nghỉ
ngơi, giải trí. Với ý nghĩa này, các rừng đáp ứng được nhiều chức năng (đa
mục đích) luôn luôn được ưu tiên.
Câu hỏi 2: Một diện tích không có rừng có thể có nguyên nhân tự
nhiên và nguyên nhân nhân tác. Rừng tự nhiên sẽ không xuất hiện ở các
điều kiện lập địa cực đoan, không thích hợp đối với tất cả các loài (bản địa),
ví dụ vùng khô hạn, trên núi cao, những nơi đất quá cằn cỗi, hoặc những
nơi mà điều kiện nước ngầm quá cực đoan. Trồng rừng ở các lập địa này chỉ
có thể thành công nếu loại bỏ được các yếu tố không thuận lợi cho quá
trình sinh trưởng của cây rừng, ví dụ phải có hệ thống tưới nước hoặc
thoát nước, phải bón phân hoặc cải tạo đất, hoặc có thể tìm được loài cây
nhập nội thích nghi được với các điều kiện lập địa cực đoan. Các biện pháp
này thường rất tốn kém và ít khi được sử dụng trong lâm nghiệp. Do đó ở
những lập địa mà tự nhiên đã không có rừng thì không nên chọn để trồng
rừng.
Để một dự án trồng rừng thành công, trước hết phải loại bỏ được
9


các yếu tố cản trở sinh trưởng của cây trồng. Rất nhiều dự án trồng rừng đã
bị thất bại chỉ vì không chú ý đến luận điểm hiển nhiên này. Tuy nhiên,

xác định

1
0


được các yếu tố quyết định để bảo đảm cho cây rừng phát triển dễ dàng hơn
nhiều so với loại trừ chúng. Các lợi ích hợp pháp của những người sử dụng
đất truyền thống phải được tnh đến một cách hợp lý. Khi yêu cầu cơ bản này
đã thoả mãn, chúng ta có thể bắt đầu một kế hoạch trồng rừng. Các biện
pháp kỹ thuật quan trọng đầu tiên cho trồng rừng là: chọn loài cây thích hợp,
sản xuất cây giống, chuẩn bị đất, xác định các kỹ thuật trồng rừng và các
biện pháp nuôi dưỡng và quản lý rừng trồng.
Để phục vụ kinh doanh, sản xuất rừng hiệu quả cả về môi trường sinh
thái và kinh tế một cách bền vững. Điều này đòi hỏi phải có biện pháp
điều chế rừng một cách hợp lý. Vì vậy, việc nghiên cứu sinh trưởng, sản
lượng rừng nhằm đánh giá được năng suất rừng và hiệu quả kinh tế cũng
như sinh thái của việc trồng rừng là việc làm quan trọng nhất trong việc điều
chế rừng.
Appanah, S. và Weiland, G (1993) đã xuất bản quyển sách “Planting
quality tmber trees in Peninsular Malaysia-a review đã tổng quan những
kinh nghiêm trồng rừng gỗ lớn ở bán đảo Malaysia, tiến trình lịch sử và cuộc
tranh luận lớn về quản lý rừng tự nhiên và rừng trồng, bao gồm cả những sai
lầm về cơn sốt cây nhập nội mọc nhanh; các tác giả đã thảo luận về các
nguyên tắc sử dụng các loài cây tiềm năng cho trồng rừng; trong cuốn sách
này, hơn 40 loài cây đã được hướng dẫn kỹ thuật trồng rừng lấy gỗ. Mayhew,
J.E. và Newton, AQ.C. (1998) đã xuất bản quyển sách “The silviculture of
Mahogany” trình bày các tến bộ kỹ thuật lâm sinh trong kinh doanh cây
gỗ thương mại nỗi tếng được gọi là Mahogany (Swietenia macrophylla).
Những khó khăn trong việc trồng rừng gỗ lớn mọc nhanh, đặc biệt đối

với cây bản địa đã được các tác giả nêu lên từ rất sớm. Trong đó những khó
khăn chủ yếu thường là: việc lựa chọn loài cây thích hợp cho vùng lập địa,
vấn đề cung cấp và bảo quản hạt giống, vấn đề cây con đem trồng (đa số cây
1
1


trồng nhiệt đới không sống được bằng stump (trong khi đó một trong
những

1
2


nguyên nhân thành công của việc trồng Teak chính là khả năng trồng stump
của loài này); kỹ thuật lâm sinh đặc biệt là kỹ thuật tạo môi trường và điều
khiển ánh sáng. Sau đây là một số thành tựu và trình độ khoa học kỹ thuật
đã đạt được trong một số lĩnh vực liên quan đến trồng rừng gỗ lớn.
1.1.1. Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa sinh trưởng và năng
suất rừng với điều kiện lập địa
Khái niệm lập địa được hiểu là tổng thể các nhân tố và quá trình
của môi trường tạo điều kiện cho sự tồn tại và thường xuyên ảnh hưởng đến
sinh trưởng của cây rừng (Vater, 1925). Khoa học lập địa nghiên cứu môi
trường của cây rừng, các mối quan hệ giữa các nhân tố lập địa với nhau và
tổng quan hệ giữa lập địa với quần xã thực vật rừng. Tổng quan hệ
này được Sukatschow (1951) gọi là sinh địa quần lạc (Biogeozoenose) và
Ellenberg (1973) gọi là hệ sinh thái (ecosystem). Sinh trưởng của cây rừng
một phần phụ thuộc vào cơ cấu di truyền và phần khác phụ thuộc vào tác
động của môi trường- các nhân tố sinh thái (gọi chung là lập địa). Mỗi loài
cây cần một sự tác động tổng hợp nhất định của lập địa để thỏa mãn các

điều kiện sống của nó. Các nhân tố lập địa có thể tác động đến sinh
trưởng của cây rừng với nhiều mức độ khác nhau từ tối thiểu đến tối đa;
ở cả hai cực tối đa và tối thiểu, cây rừng đều sinh trưởng không tốt do nó
bị tác động quá nhiều hoặc quá ít. Trong điều kiện không có sự tác động của
con người, thảm thực vật rừng tự nhiên phản ánh chính xác nhất tác động
tổng hợp của các lập địa tự
nhiên.
Mỗi lập địa cụ thể được xác định bởi rất nhiều nhân tố sinh thái; có thể
phân thành 3 nhóm các nhân tố cơ bản như hình 1.1. Việc đánh giá tiềm
năng các lập địa lâm nghiệp có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp khác
nhau như đã đề cập ở chương tổng quan, sau đây sẽ tóm tắt và hệ thống lại
1
3


những luận điểm chính được áp dụng trong đề tài:

1
4


1. Phương pháp gián tếp thông qua thảm thực vật:
Thảm thực vật tự nhiên là tấm gương phản ánh trung thực tiềm
năng sản xuất của các lập địa tự nhiên. Chúng ta hiểu tiềm năng sản xuất tự
nhiên là năng suất sinh khối bậc một trên một đơn vị diện tch lập địa cụ thể,
trong một đơn vị thời gian dưới sự tác động tối ưu của các nhân tố sinh thái.
Khối lượng sinh khối sản xuất trong một HSTR là chỉ têu tổng hợp để định
lượng
năng suất lập địa.
Vị trí

Nhóm nhân tố vô sinh

Khí hậu

Lập địa

Thổ nhưỡng

Hệ sinh thái

tự nhiên
Sinhvật

Hệ sinh thái

Nhóm nhân tố sinh vật

nhân văn
Quần xã sinh vật
Con người

Nhóm nhân tố con người
Xã hội

Himh 1.1. Các nhóm nhân tố cơ bản của HSTR
Lượng tăng trưởng sinh khối (Z) hàng năm của một HSTR có thể tính
bằng công thức:
Z=A-R-V-S
Trong đó: A=tổng quang hợp (Bruttoasimilaton); R=hô hấp
(Respiraton); V=rơi rụng từ lá, cành, rễ; và S=khối lượng quả và hạt. Hai đại

lượng ảnh hưởng chính là quang hợp và hô hấp.
Các nghiên cứu trên qui mô lớn cho thấy, các HSTR nhiệt đới với các
điều kiện thuận lợi như mưa nhiều, nắng lắm và thời gian sinh trưởng
dài, nhìn chung là đạt được sản xuất sinh khối lớn hơn so với các kiểu rừng ở
1
5


các đai khí hậu khác; điều đó được minh hoa qua bảng 1.11 sau đây:

1
6


Bảng 1.1. Sản xuất sinh khối trên mặt đất trong các kiểu rừng khác
nhau của trái đất (Nguồn: Bruenig (1974) và Lieth (1974)

Kiểu rừng

Năng
Sinh khối
Sinh khối
lượng
Kiểu khí
khô
khô
chứa trong
hậu Theo (tấn/ha/năm
(tấn/ha/năm sinh khối
Walter

) theo
) theo Lieth
khô
Bruenig
(kcal/g)

Rừng mưa ẩm nhiệt
đới

I,II

21

10-35

4,1

Rừng ẩm thường xanh
nhiệt đới

II

17

6-35

4,2

Rừng khô nhiệt đới


IV

3

2,5-15

4,9

Rừng hỗn giao ôn đới,
ấm

V

13,8

6-25

4,8

Rừng hỗn giao ôn đới
lạnh

VI

9,5

-

4,7


VIII

3,7

2-15

4,8

6,0

2-20

?

-

1-40

2,7

Rừng lá kim hàn đới
Đồng cỏ
Đất canh tác khác

Tuy nhiên, các nghiên cứu của Mueller và Nielsen (1965) lại cho thấy
sự tiêu thụ do hô hấp trong rừng nhiệt đới chiếm khoảng 75%, trong khi đó
ở rừng ôn đới chỉ chiếm 45% tổng quang hợp. Chỉ có khoảng 16% sinh
khối của rừng mưa nhiệt đới là có giá trị sử dụng. Thomasius (1979) đã ước
lượng năng suất sản xuất bậc một của một số kiểu rừng ở Việt Nam có so
sánh với các dạng thảm rừng được hình thành sau khi rừng nguyên sinh bị

tác động như bảng sau.


Bảng 1.2. So sánh sản xuất bậc một với các thảm thực vật thứ sinh hình
thành sau tác động ở Việt Nam (Nguồn: Thomasius, 1979):
Ước lượng sản xuất bậc một
của thảm thực vật tự nhiên
(tấn/ha/năm)

Ước lượng sản xuất bậc một của thảm
thực vật thứ sinh hình thành sau tác động
(tấn/ha/năm)
Thảm cây
Cây bụi Rừng thứ
bụi
Đồng cỏ
kín
sinh
(Savane)

Rừng lá rộng
thường xanh

20-30

5-6

5-8

3-15


15-25

Rừng lá rộng nửa
rụng lá

20-25

5-6

4-7

6-12

10-20

Rừng mưa lá rộng

10-20

4-5

4-5

5-10

-

Rừng lá kim


5-10

3-4

3-5

4-8

-

Rừng cây bụi

3-6

3-4

3-5

-

-

Đồng cỏ

2-5

2-5

-


-

-

Như vậy, tiềm năng sản xuất sinh khối ở các lập địa khác nhau có thể
rất khác nhau, nó có giá trị cao nhất ở kiểu rừng mưa nhiệt đới và giảm
dần qua rừng kín thường xanh và nửa rụng lá đến các kiểu rừng thưa, cây
bụi,… với khí hậu nửa hoặc hoàn toàn khô hạn, Để xác định tiềm năng lập địa,
người ta thường sử dụng các bảng phân loại rừng. Đối với mục đích sử dụng
của con người, rừng tự nhiên nguyên sinh và rừng thứ sinh thường ít hiệu
quả. Vì vậy nó đã dần dần được thay thế bằng rừng kinh tế, qua trình này đã
xẩy ra hàng trăm năm nay ở các nước ôn đới và gần trăm năm nay ở một
số nước nhiệt đới. Một trong những biện pháp đã được áp dụng rộng rải để
chuyển hóa rừng tự nhiên thành rừng kinh tế ở các nước nhiệt đới là hệ
canh tác nông lâm kết hợp dựa trên hệ canh tác truyền thống của văn
hóa du canh (Hesmer,
1966,1970). Vài thập niên gần đây, việc phát triển rừng trồng cây mọc
nhanh cũng được gia tăng ở các nước nhiệt đới, trong đó có Việt Nam.
1
01


2. Đánh giá lập địa trực tiếp qua các nhân tố sinh thái
Việc định lượng tác động trực tiếp của các nhóm nhân tố lập địa
như khí hậu, thổ nhưỡng cũng như của mỗi nhân tố sinh thái riêng đến sinh
trưởng cây rừng là rất khó thực hiện. Trong điều tra, đánh giá lập địa,
người ta thường dùng phương phaqps phân cấp lập địa, hay cấp năng
suất để định lượng năng suất lập địa; trong đó người ta thường chọn các đại
lượng sinh trưởng làm chỉ tiêu tổng hợp để đánh giá lập địa. Về mặt phương
pháp luận, chúng ta có thể biểu diễn phương trình sinh trưởng (hay tăng

trưởng) của cây rừng bằng một hàm toán học, dưới dạng:
Y = f(x1,x2,…, xi,…,xn)
Trong đó: Y là đại lượng sinh trưởng (gọi là biến phụ thuộc) và xi là
các nhân tố lập địa (gọi là biến độc lập).
Phương trình này có thể có hai dạng: (1) dạng tuyến tính rất đơn
giản về thuật toán nhưng về mặt bản chất sinh thái thì chỉ đúng trong một
giới hạn quan sát nhất định. (2) dạng phi tuyến tính tương đối khó về thuật
toán nhưng lại có thể biểu diễn chính xác hơn các tương quan sinh thái. Về
cơ bản, đường sinh trưởng của cây rừng xét trong tương quan với một nhân
tố sinh thái nhất định y=f(x) thường được xác định bởi 3 điểm đặc trưng cho
nhu cầu của từng loài cây đối với nhân tố sinh thái đó theo dạng như ở hình
1.2. sau đây:
Y
Ymax

Xmin

Xopt

Xmax

X

Hình 1.2. Sự phụ thuộc sinh trưởng cây vào nhân tố sinh thái
1
11


Điểm tối thiểu Xmin giới hạn dưới của nhu cầu, ở đó cây chỉ có thể tồn
tại mà không phát triển được (tức là Y=0); Điểm tối đa Xmax giới hạn trên của

nhu cầu ở đây cây còn có thể tồn tại nhưng cũng không sinh trưởng được
(Y=0), vượt qua giới hạn này là cây bị chết. Trong khoảng Xmin và Xmax cây
tồn tại và sinh trưởng (Y>0) và có một điểm mà tại đó sinh trưởng đạt giá trị
tối đa, điểm đó gọi là điểm tối ưu Xopt của nhân tố x đối với cây cụ thể. Để
xác định được mô hình toán mô phỏng mối quan hệ này, người ta phải
xác định được dãy số liệu quan sát bằng điều tra thực nghiệm hoặc tến hành
các thí nghiệm. Mối quan hệ tổng quát này được gọi là “Qui luật tác động
của các nhân tố sinh thái”.
3. Đánh giá lập địa bằng phương pháp phối hợp:
Nhằm phát huy thế mạnh và hạn chế các nhược điểm của hai phương
pháp vừa trình bày trên, trong khoa học đánh giá lập địa hiện đại, người ta
thường phối hợp hai phương pháp với nhau, để đánh giá chính xác hơn tiềm
năng của từng lập địa.
Theo tổng hợp các kết quả nghiên cứu ở các nước vùng nhiệt đới, tổ
chức Nông lương thế giới (FAO, 2004) đã chỉ ra rằng khả năng sinh trưởng
của rừng trồng, đặc biệt là rừng trồng nguyên liệu công nghiệp phụ thuộc
rất rõ vào 4 nhân tố chủ yếu liên quan tới điều kiện lập địa là: Khí hậu, địa
hình, loại đất và hiện trạng thực bì, điển hình là các công trình nghiên
cứu của Laurie (1974), Julian Evans (1974, 1992) [32, 33], Pandey (1983) [37],
Golcalves J.L.M và cộng sự (2004) [36].
FAO (1979), đã xuất bản cẩm nang hướng dẫn “Đánh giá đất đai cho
nông nghiệp nhờ nước trời” và “Đánh giá đất đai cho Lâm Nghiệp” năm
1984 trên cơ sở một số nội dung:
- Đánh giá tiềm năng đất đai (Land capability): Xác định mức độ thích
hợp cao hay thấp của các kiểu sử dụng đất cho một đơn vị đất đai và tổng
1
21


hợp cho toàn khu vực dựa trên so sánh yêu cầu kiểu sử dụng đất với đặc

điểm của

1
31


×