Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (738.81 KB, 94 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài luận văn thạc sĩ: “Bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu” là công trình nghiên cứu của
mình. Các dẫn chứng có nguồn gốc rõ ràng, tuân thủ đúng nguyên tắc và kết quả
trình bày trong luận văn là trung thực chưa từng được ai công bố trước đây.
Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về nghiên cứu của mình.
Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

Học viên

Nguyễn Vũ Hường


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo – PGS.TS
Phùng Trung Tập, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo cho tôi trong suốt quá
trình thực hiện và hoàn thành Luận văn thạc sĩ.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy giáo, cô giáo của Trường
Đại học Luật Hà Nội đã giảng dạy, truyền đạt cho tôi những kiến thức cả về
lý luận và thực tiễn trong suốt quá trình học tập và thực hiện Luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, người thân và bạn bè đã
giúp đỡ tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành Luận văn thạc sĩ này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Học viên

Nguyễn Vũ Hường


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Giao dịch dân sự: GDDS
Bộ luật Dân sự: BLDS


Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: GCNQSDĐ
Toà án nhân dân: TAND
Uỷ ban nhân dân: UBND


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

Chương 1

5

KHÁI NIỆM NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH VÀ VIỆC BẢO VỆ
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH
DÂN SỰ VÔ HIỆU

5

1.1. Khái niệm người thứ ba ngay tình

5

1.2. Khái niệm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch
dân sự vô hiệu

8

1.2.1. Khái niệm giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu


8

1.2.2. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô
hiệu

12

1.2.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến quyền
lợi của người thứ ba ngay tình

14

1.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình

21

1.4. Khái lược quy định của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình

23

1.5. Pháp luật của một số quốc gia quy định về việc bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

31

Chương 2

37


QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI
CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU
37
2.1. Các điều kiện để quyền lợi của người thứ ba ngay tình được bảo vệ

37

2.1.1. Ý chí của người thứ ba

37

2.1.2. Đối tượng của giao dịch dân sự

38


2.1.3. Sự xung đột về lợi ích giữa chủ sở hữu của tài sản với người thứ ba
ngay tình

45

2.2. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi giao dịch dân sự vô hiệu liên
quan đến quyền lợi của người thứ ba ngay tình

47

2.2.1 Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể khi giao dịch dân sự vô hiệu

47


2.2.2 Quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu

52

2.3. Sự giống và khác nhau giữa người thứ ba ngay tình và người chiếm
hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình

53

Chương 3

57

THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN ĐẾN NGƯỜI
THỨ BA NGAY TÌNH VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA
PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA

57

NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH DÂN SỰ VÔ HIỆU

57

3.1. Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vô hiệu

57

3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật


75

KẾT LUẬN

84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế hội nhập hiện nay, quá trình giao lưu kinh tế, văn hoá,
khoa học công nghệ… giữa Việt Nam và các nước trên thế giới phát triển một
cách nhanh chóng. Đồng thời các giao lưu dân sự cũng ngày càng được mở
rộng, tăng nhanh cả về số lượng cũng như quy mô mỗi giao dịch. Giao dịch
dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá nhân, pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ dân sự nhằm
thỏa mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và trong sản xuất kinh doanh.
Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Giao dịch dân sự chính là công cụ, phương tiện để các chủ thể tìm kiếm và
trao đổi lợi ích với nhau. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc tuyên bố giao dịch
dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý khi giao dịch dân sự vô hiệu vẫn
là vấn đề phức tạp, gây ra nhiều vướng mắc, bất cập. Thực tế cho thấy, đôi
khi cũng có những chủ thể đã xác lập, thực hiện một giao dịch dân sự nhưng
lại không đạt được lợi ích mà mình mong muốn mặc dù khi tham gia giao
dịch họ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật

với tinh thần thiện chí, ngay thẳng, trung thực nhưng họ không biết hoặc
không thể biết giao dịch mà mình xác lập là không có căn cứ pháp luật.
Thông thường, dưới góc độ pháp luật các chủ thể này được xác định là người
thứ ba ngay tình. Vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao
dịch dân sự vô hiệu cũng là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Vậy pháp luật bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ như thế nào? Chính vì vậy, việc nghiên
cứu, phân tích các vấn đề pháp lý liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu, từ đó tìm ra những vướng mắc,
bất cập, đồng thời kiến nghị những giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện pháp
luật về vấn đề này là điều hết sức cần thiết. Xuất phát từ những lý do trên, tôi
đã lựa chọn đề tài: “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao
dịch dân sự vô hiệu” làm Luận văn Thạc sĩ của mình.


7

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu tính đến thời điểm hiện nay có một số bài viết, công
trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này ở các cấp độ khác nhau, cụ thể như
bài viết: “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay tình theo
Điều 258 Bộ luật Dân sự - hiểu thế nào cho đúng” của tác giả Lưu Thị Thu
Hiền đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tối cao, số 12/2012; bài
viết:“Trao đổi về bài “Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người thứ ba ngay
tình theo Điều 258 Bộ luật Dân sự - hiểu thế nào cho đúng” của tác giả Huỳnh
Xuân Tình đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tối cao, số
23/2012…; có một số công trình nghiên cứu liên quan đến cơ chế bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình trong một số trường hợp cụ thể như bài viết: “Bảo
vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi hợp đồng mua bán nhà ở vô hiệu theo
quy định tại Điều 138 BLDS năm 2005” của tác giả Nguyễn Thị Minh Phượng

đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân, Toà án nhân dân tối cao, số 21/2013; bài viết:
“Cơ chế bảo vệ quyền sở hữu đối với người thứ ba ngay tình trong mua bán đấu
giá tài sản” của tác giả Võ Hải Phương đăng trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật,
Bộ Tư pháp, số 12/2014; hay như bài viết: “Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản” của tác giả Vũ Thị Hồng Yến trong
Hội thảo khoa học “Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự
Việt Nam”, Khoa Luật Dân sự, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội ngày 11
tháng 12 năm 2007; hay như Luận văn Thạc sĩ luật học: “Bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp luật Việt Nam”
của tác giả Huỳnh Thanh Tình, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh,
năm 2013 đề cập đến những vấn đề cơ bản và những vướng mắc, bất cập khi áp
dụng pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân
sự vô hiệu…
Tuy nhiên, các công trình, bài viết trên đề cập đến những vấn đề lớn,
tổng thể hoặc theo một lát cắt mỏng hẹp, chưa có sự nghiên cứu tổng quan
nhất về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự
vô hiệu ở cả góc độ lý luận và thực tiễn. Về vấn đề này xung quanh nó còn


8

nhiều quan điểm, nhận thức khác nhau. Do vậy, việc tiếp tục làm rõ hơn các
quy định của pháp luật cũng như những vướng mắc, bất cập về khâu áp dụng
pháp luật trong thực tiễn thông qua việc lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Bảo vệ
quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu” là một
việc làm hết sức cần thiết.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Khái niệm người thứ ba ngay tình và việc bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.

- Quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi của người thứ
ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
- Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến người thứ ba ngay tình
và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người
thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện tốt việc nghiên cứu đề tài, trong quá trình nghiên cứu tác
giả sử dụng nhiều phương pháp như phương pháp phân tích và tổng hợp để
làm rõ các khái niệm liên quan đến bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay
tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác có tính ứng
dụng cụ thể như phương pháp so sánh luật, khảo sát thực tiễn để thấy được
những điểm phù hợp, hạn chế trong các quy định pháp luật, từ đó đưa ra một
số kiến nghị góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
5. Mục tiêu, nhiệm vụ của việc nghiên cứu luận văn
5.1. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ những quy định của pháp luật
về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Thông qua việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật, đề xuất
một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu...


9

5.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Làm rõ khái niệm người thứ ba ngay tình và việc bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
- Phân tích, bình luận các quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ

quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
- Nghiên cứu thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến người thứ ba
ngay tình.
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về
bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống về vấn đề bảo
vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Luận văn đã làm rõ thực tiễn bảo vệ quyền lợi người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Luận văn góp phần chỉ ra các bất cập trong pháp luật hiện hành về bảo
vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình.
Luận văn cũng đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật
về việc bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái niệm người thứ ba ngay tình và việc bảo vệ quyền lợi
của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Chương 2: Quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Chương 3: Thực tiễn giải quyết tranh chấp liên quan đến người thứ ba
ngay tình và hướng hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của
người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.


10

Chương 1
KHÁI NIỆM NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH VÀ VIỆC BẢO VỆ

QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI THỨ BA NGAY TÌNH KHI GIAO DỊCH
DÂN SỰ VÔ HIỆU
1.1. Khái niệm người thứ ba ngay tình
Khi một giao dịch dân sự bị tuyên bố là vô hiệu thì giao dịch đó không
có giá trị pháp lý tại thời điểm ký kết, không xác lập quyền và nghĩa vụ của
các bên, quay lại tình trạng ban đầu hoàn trả lại cho nhau những gì đã nhận.
Trong trường hợp người thứ ba tham gia giao dịch ngay tình thì giải quyết
như thế nào. Để giải quyết vấn đề này trước hết cần phải hiểu rõ thế nào là
người thứ ba ngay tình khi tham gia giao dịch. Khi giao dịch dân sự vô hiệu,
vấn đề bảo vệ người thứ ba ngay tình được đặt ra khi thoả mãn các điều kiện
pháp luật quy định. Để hiểu rõ về người thứ ba ngay tình nhằm bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình hiệu quả, cần xác định chủ thể là “người thứ
ba”. Có quan điểm cho rằng: “Trong quan hệ dân sự, ngoài các chủ thể hoặc
người đại diện, người được uỷ quyền tham gia giao dịch, một số trường hợp
có người khác có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Đó là người thứ ba trong
quan hệ dân sự.”1 Để bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao
dịch dân sự vô hiệu cần thoả mãn điều kiện “giao dịch dân sự vô hiệu”.
BLDS năm 2005 sử dụng thuật ngữ “người” thứ ba ngay tình, vậy cần
xác định nội hàm của thuật ngữ “người” trong trường hợp này là những chủ
thể nào. Chủ thể tham gia giao dịch dân sự được BLDS năm 2005 đề cập đến
là “người”, cụ thể ở điểm a khoản 1 Điều 22 “người tham gia giao dịch dân
sự”. Điều luật dùng thuật ngữ “người” tham gia giao dịch dân sự nhưng cần
hiểu rằng “người” ở đây chỉ các chủ thể có thể tham gia giao dịch dân sự, mà
chủ thể có thể tham gia giao dịch dân sự là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ
hợp tác. Bản thân người thứ ba ngay tình cũng là người tham gia giao dịch
dân sự, như vậy thuật ngữ “người” trong người thứ ba ngay tình phải được
hiểu là bao gồm cá nhân và các chủ thể khác như pháp nhân, hộ gia đình, tổ
1 Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Thuật ngữ pháp lý, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, tr.313



11

hợp tác. Ngoài ra, mục đích của quy định bảo vệ quyền lợi của người thứ ba
ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu trong pháp luật dân sự Việt Nam là
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên ngay tình khi tham gia giao
dịch. Như vậy, không chỉ có cá nhân mà cả các chủ thể khác ngay tình khi
tham gia giao dịch dân sự đều được pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
Bên cạnh việc xác định chủ thể nào được coi là người thứ ba, cần làm rõ
“ngay tình” là như thế nào. Theo Từ điển Luật học: “Ngay tình là lòng ngay
thẳng, thực thà, tình thế rõ ràng.” BLDS có đề cập đến ngay tình nhưng chỉ dừng
lại ở định nghĩa “người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình”
(Điều 189 BLDS năm 2005) như sau: “Người chiếm hữu tài sản không có căn cứ
pháp luật nhưng ngay tình là người chiếm hữu mà không biết và không thể biết
việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật.”
Theo đó, Điều 189 BLDS năm 2005 nói về “người chiếm hữu không có
căn cứ pháp luật nhưng ngay tình” còn Điều 138 BLDS năm 2005 đề cập đến
“người thứ ba ngay tình.” Và nội hàm của “ngay tình” trong hai khái niệm
trên còn là vấn đề chưa rõ ràng. Ngoài ra, pháp luật dân sự cũng không có một
quy định cụ thể nào khác nói về người thứ ba ngay tình. Nhìn chung, sự ngay
tình hay không ngay tình còn khó xác định rõ vì nó phụ thuộc vào ý chí của
người thứ ba khi nhận thức về tài sản mà họ giao dịch có phải là đối tượng
của một giao dịch vô hiệu trước đó hay không. Tuy nhiên, có thể hiểu đơn
giản ngay tình là không biết và pháp luật cũng không bắt buộc phải biết tài
sản họ giao dịch là đối tượng của một giao dịch vô hiệu trước đó.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học thì người thứ ba ngay tình
khi tham gia giao dịch vô hiệu được hiểu là “người được chuyển giao tài sản
thông qua giao dịch dân sự mà họ không biết, không buộc phải biết là tài sản
đó do người chuyển giao cho họ thu được từ một giao dịch vô hiệu.”
Vậy người thứ ba tham gia giao dịch dân sự ngay tình là khi tham gia

giao dịch trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tuân theo các quy định của pháp
luật mà không biết đối tượng giao dịch là tài sản bất minh, do chủ sở hữu


12

được xác lập trước đó bởi một giao dịch vô hiệu. Đây có thể nói là yếu tố
quan trọng nhất để xác định người tham gia giao dịch hoàn toàn ngay tình.
Sự không biết và không buộc phải biết ở đây còn được thể hiện, đối với
một người bình thường thì không thể biết được tài sản đưa vào giao dịch xuất
phát từ một giao dịch vô hiệu. Thông thường trong thực tiễn giải quyết tranh
chấp người ta căn cứ vào yếu tố khách quan của các bên tham gia giao dịch để
xác định tính chất này. Đối với tài sản không cần có giấy tờ sở hữu mà người
chiếm hữu tài sản khẳng định đó là tài sản của họ, thì người mua không bắt
buộc phải biết. Đối với loại tài sản mà theo pháp luật phải có giấy chứng nhận
quyền sở hữu, thì người chiếm giữ tài sản có giấy tờ sở hữu hoặc có giấy uỷ
quyền tham gia giao dịch và người mua trong điều kiện thông thường đối với
một người bình thường thì buộc phải biết. Trong trường hợp giấy tờ này nhìn
với mắt thường và trong điều kiện bình thường thì không thể phát hiện ra đó
là giấy tờ giả hoặc được cơ quan có thẩm quyền cấp trái quy định của pháp
luật thì không phải do lỗi của bên mua.
Từ đó, có thể thấy rằng để xác định người thứ ba ngay tình thông
thường được căn cứ vào những điểm sau đây:
- Trước khi người thứ ba tham gia giao dịch đối tượng của giao dịch
này được xác lập bởi một giao dịch vô hiệu;
- Khi xem xét người tham gia giao dịch có ngay tình hay không, trước
hết phải xem xét ý chí của họ và ý chí này thể hiện ra bên ngoài khách quan
bằng một hành vi cụ thể. Nếu ở một điều kiện thông thường thì họ có thể biết
được tài sản đưa vào giao dịch được xác lập bởi một giao dịch dân sự vô hiệu
trước đó hay không? Trong trường hợp họ biết hoặc pháp luật quy định là họ

buộc phải biết thì họ không phải là người thứ ba ngay tình. Nếu họ không biết
và pháp luật không quy định họ buộc phải biết và khi tham gia giao dịch họ
chiếm giữ tài sản không có biểu hiện của người tiêu thụ tài sản bất minh thì
họ mới là người thứ ba ngay tình;
- Người thứ ba tham gia giao dịch dân sự phải là người có đầy đủ năng
lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Nếu trong trường hợp mà họ không
có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thì họ phải có người giám hộ hoặc người
đại diện hợp pháp;


13

- Họ đã thực hiện nghĩa vụ và hưởng những quyền dân sự trong giao
dịch do họ xác lập, có nghĩa là họ đã nhận được tài sản từ giao dịch và mục
đích của giao dịch đã đạt được. Đây có thể nói là điều kiện không thể thiếu
đối với loại giao dịch này;
- Mục đích và nội dung của giao dịch không trái quy định của pháp luật
và đạo đức xã hội;
- Đối tượng của giao dịch là những tài sản không thuộc loại tài sản mà
pháp luật cấm giao dịch;
- Trình tự xác lập giao dịch tuân thủ theo trình tự pháp luật cho phép;
- Khi có tranh chấp xảy ra thì người thứ ba ngay tình phải có yêu cầu
độc lập được hưởng tài sản hay yêu cầu bồi thường thiệt hại, nếu tài sản đã bị
trả cho chủ sở hữu hoặc tịch thu sung công quỹ.
1.2. Khái niệm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi
giao dịch dân sự vô hiệu
1.2.1. Khái niệm giao dịch dân sự và giao dịch dân sự vô hiệu
* Khái niệm giao dịch dân sự
Giao dịch dân sự là một trong những phương thức hữu hiệu cho cá
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác xác lập và thực hiện các quyền và

nghĩa vụ dân sự nhằm thoả mãn các nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng và
trong sản xuất, kinh doanh. Giao dịch dân sự càng có ý nghĩa quan trọng
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay, giao dịch dân sự được xem là công cụ thông
dụng và có hiệu quả nhất đảm bảo cho các quan hệ dân sự được thực hiện
trong hành lang pháp lý nhằm thúc đẩy giao lưu dân sự phát triển. Chế định
giao dịch dân sự lần đầu tiên được quy định trong BLDS năm 1995, sau đó được
sửa đổi, bổ sung trong BLDS năm 2005.
Giao dịch dân sự là một trong những căn cứ quan trọng và phổ biến
nhất làm phát sinh quan hệ pháp luật dân sự. Theo Từ điển Tiếng Việt, giao
dịch là “có quan hệ gặp gỡ, tiếp xúc với nhau.”2 Điều 121 BLDS năm 2005
quy định về giao dịch dân sự như sau: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
2 Viện Ngôn ngữ (2010), Từ điển Tiếng Việt phổ thông, NXB Thanh Niên, Hà Nội, tr.348


14

hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự.” Đối với giao dịch dân sự là hợp đồng còn được quy định tại
mục 7 Phần thứ 3 BLDS năm 2005, hành vi pháp lý đơn phương được quy
định một phần trong hợp đồng dân sự như hứa thưởng, thi có giải… và trong phần
quy định về thừa kế.
Dưới góc độ khoa học, khái niệm giao dịch dân sự được đề cập trong
rất nhiều tài liệu khác nhau như: “Giao dịch dân sự là hành vi được thực hiện
nhằm thu được kết quả nhất định và pháp luật tạo điều kiện cho kết quả trở
thành hiện thực” hay “Giao dịch là một sự kiện pháp lý bao gồm hành vi
pháp lý đơn phương hoặc đa phương làm phát sinh hậu quả pháp lý.”3
Theo Từ điển luật học, NXB.Tư pháp năm 2006 thì giao dịch dân sự là
hành vi pháp lý đơn phương hoặc hợp đồng cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình,
tổ hợp tác nhằm làm phát sinh thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự.

Từ đó, có thể thấy một điểm chung giữa các khái niệm trên đều thống
nhất giao dịch dân sự bao gồm hợp đồng dân sự và hành vi pháp lý đơn
phương. Dù là hợp đồng hay hành vi pháp lý đơn phương thì giao dịch dân sự
đều có những đặc điểm chung như sau:
Thứ nhất, giao dịch dân sự phải thể hiện được ý chí của các chủ thể
tham gia giao dịch.
Thứ hai, chủ thể tham gia giao dịch phải tự nguyện. Sự tự nguyện của
chủ thể khi tham gia giao dịch là sự thống nhất ý chí giữa các bên.
Thứ ba, giao dịch dân sự luôn làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ của chủ thể tham gia giao dịch.
Thứ tư, nội dung của giao dịch không được trái với pháp luật và đạo
đức xã hội.
Vậy một giao dịch dân sự muốn có hiệu lực cần đáp ứng những điều
kiện gì? Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thoả thuận của các chủ thể tham
gia giao dịch không có nghĩa là pháp luật thừa nhận tất cả các chủ thể, mục
đích, nội dung hay hình thức của giao dịch mà pháp luật cũng đặt ra một số
3 Nguyễn Văn Cường (2005), Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết hậu quả pháp lý của giao dịch dân
sự vô hiệu, Luận án Tiến sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.


15

những yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân theo gọi là điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự nhằm tạo cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể. Điều 122 BLDS năm 2005 quy định về điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự, cụ thể như sau:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội

c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
trong trường hợp pháp luật có quy định.”
Từ quy định trên có thể hiểu điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
là những điều kiện do pháp luật quy định mà một giao dịch dân sự muốn phát
sinh hiệu lực pháp lý phải thoả mãn các điều kiện đó. Tuy nhiên trên thực tế,
để xác định một giao dịch có phát sinh hiệu lực pháp lý hay không còn phải
căn cứ vào các quy định của pháp luật có liên quan và các ngành luật điều chỉnh
giao dịch đó. Qua những phân tích trên có thể kết luận: Giao dịch dân sự là sự
thể hiện ý chí một cách tự nguyện của các chủ thể thông qua hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và
nghĩa vụ dân sự.4
* Khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu
Dưới góc độ nghiên cứu, trong khoa học pháp lý thuật ngữ “giao dịch
dân sự vô hiệu” được sử dụng rất rộng rãi, tuy nhiên chưa có một tài liệu
chính thống nào nêu ra khái niệm khoa học cụ thể này.
Vô hiệu theo nghĩa thông thường là “không có hiệu lực, không mang
lại kết quả” 5. Do đó, có thể hiểu giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự
không có hiệu lực pháp lý, mặc dù giao dịch giữa các bên đã được xác lập,
các bên đang thực hiện hoặc đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ nhưng mọi
cam kết của các bên đều không được pháp luật bảo hộ.

4 Hà Thị Thanh Hương (2012), Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu,
Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội.
5 Viện Ngôn ngữ học (2003), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.


16

BLDS năm 2005 tại Điều 122 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao

dịch dân sự và một giao dịch dân sự muốn phát sinh hiệu lực pháp lý phải thỏa
mãn tất cả các điều kiện quy định tại điều luật này, nếu vi phạm một trong những
điều kiện đó thì giao dịch dân sự có thể bị vô hiệu. Những quy định về sự vô hiệu
của giao dịch dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc thiết lập trật tự kỷ cương xã
hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, Nhà nước,
đảm bảo an toàn pháp lý cho các chủ thể trong giao lưu dân sự. Theo Điều 127
BLDS năm 2005 thì: “Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được
quy định tại Điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu.”
Để hiểu rõ hơn về giao dịch dân sự vô hiệu, cần phải phân biệt giao dịch
dân sự vô hiệu với giao dịch dân sự mất hiệu lực. Giao dịch dân sự vô hiệu là giao
dịch không có hiệu lực pháp lý ngay từ thời điểm giao kết còn giao dịch dân sự
mất hiệu lực là giao dịch có hiệu lực từ thời điểm giao kết nhưng giao dịch bị mất
hiệu lực là do bị rơi vào tình trạng không thể thực hiện được. Tình trạng mất hiệu
lực của giao dịch dân sự có thể là do một bên vi phạm dẫn đến bên bị vi phạm yêu
cầu hủy giao dịch hoặc do hai bên thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của giao dịch hay
do một trở ngại khách quan nào đó.
Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch không có hiệu lực pháp lý do vi phạm
một trong những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Tính vô hiệu của nó
là không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia giao dịch.
Trường hợp các bên đã thực hiện hoặc thực hiện được một phần của giao dịch thì
vẫn không được công nhận về mặt pháp lý và mọi cam kết không có giá trị bắt
buộc đối với bên kể từ thời điểm các bên giao kết giao dịch dân sự. Như vậy, việc
pháp luật quy định về giao dịch dân sự vô hiệu là rất cần thiết nhằm đảm bảo sự
ổn định trong giao lưu dân sự đồng thời giúp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ thể khi tham gia giao dịch dân sự.
Qua đó, có thể thấy một số đặc điểm của giao dịch dân sự vô hiệu:
Thứ nhất, giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch luôn vi phạm một trong
những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Các điều kiện này đó là:
- Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;



17

- Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của
pháp luật, không trái đạo đức xã hội;
- Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện;
- Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
trong trường hợp pháp luật có quy định.
Như vậy, một giao dịch khi không thỏa mãn một trong các điều kiện trên có
thể sẽ vô hiệu. Tuy nhiên, điều kiện về hình thức không mang tính bắt buộc, nó
chỉ mang tính bắt buộc khi Nhà nước có yêu cầu một loại giao dịch nào đó nhất
thiết phải tuân thủ theo một hình thức nhất định mà pháp luật quy định.
Thứ hai, khi giao dịch dân sự vô hiệu các bên sẽ phải gánh chịu những
hậu quả pháp lý nhất định.
Thứ ba, việc quy định giao dịch dân sự vô hiệu thể hiện ý chí của Nhà
nước trong việc kiểm soát các giao dịch dân sự nhất định nếu thấy cần thiết vì
lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng.
Qua việc xác định đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu, chúng
ta có thể hiểu khái niệm giao dịch dân sự vô hiệu như sau: Giao dịch dân sự
vô hiệu là giao dịch dân sự mà khi xác lập các chủ thể đã có vi phạm ít nhất
một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự theo quy định của
pháp luật, do vậy không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Những quy định về giao dịch dân sự vô hiệu có ý nghĩa quan trọng
trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia giao
dịch dân sự, đảm bảo ổn định các giao dịch dân sự cũng như ổn định trật tự xã
hội. Khi giao dịch dân sự vô hiệu, việc giải quyết hậu quả pháp lý của nó sẽ
phức tạp hơn nếu như nó ảnh hưởng đến quyền lợi của một bên chủ thể khác,
nhất là khi chủ thể đó lại ngay tình.
1.2.2. Bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân
sự vô hiệu

Với nội dung đang nghiên cứu, người thứ ba phải là người ngay tình
mới được bảo vệ. Vậy như thế nào là bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay
tình khi giao dịch dân sự vô hiệu? Theo cách hiểu thông thường, “Bảo vệ là
chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho luôn luôn được nguyên vẹn” 6 Như


18

vậy, mục đích của bảo vệ là nhằm giữ gìn cho đối tượng được bảo vệ được an
toàn, được ổn định như ban đầu cho dù có sự tác động vào nó. Việc bảo vệ
một đối tượng nào đó bên cạnh việc ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến
đối tượng còn nhằm phục hồi những quyền lợi của chủ thể đó nếu họ bị xâm
hại. Qua đó, chúng ta có thể hiểu bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình
là những biện pháp tác động thông qua các quy định pháp luật nhằm chống lại
sự xâm phạm đến lợi ích chính đáng của người thứ ba ngay tình, hoặc khôi
phục quyền lợi của họ khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Còn quyền lợi là “Quyền được hưởng những lợi ích về chính trị, xã hội,
vật chất hoặc tinh thần do kết quả lao động của bản thân tạo nên hoặc do phúc
lợi chung do nhà nước, xã hội hoặc tập thể cơ quan, tổ chức nơi mình sinh
sống làm việc mang lại”. Như vậy, khách thể của việc bảo vệ rất rộng, có thể
là những lợi ích chính trị, xã hội, vật chất, tinh thần. Nhưng việc bảo vệ quyền
lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu không phải là bảo
vệ tất cả những lợi ích đó của người thứ ba ngay tình, mà chủ yếu tập trung
phân tích quyền và lợi ích chính đáng của người thứ ba ngay tình trong mối
quan hệ với chủ sở hữu ban đầu và người xác lập giao dịch với họ khi có một
giao dịch dân sự vô hiệu.
Như vậy, bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân
sự vô hiệu có nghĩa là bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ trong mối
quan hệ với chủ sở hữu ban đầu và người xác lập giao dịch với họ khi có một
giao dịch dân sự vô hiệu trước đó làm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ.

Rõ ràng, khi giao dịch dân sự vô hiệu thì quyền lợi của người thứ ba
ngay tình cần được bảo vệ. BLDS năm 2005 có đưa ra những cách thức bảo
vệ khác nhau như: kiện đòi lại tài sản, kiện đòi bồi thường thiệt hại, kiện yêu
cầu chấm dứt hành vi vi phạm… Vậy mức độ bảo vệ người thứ ba ngay tình
khi giao dịch dân sự vô hiệu sẽ như thế nào? Nhất là trong tình huống chủ sở
hữu ban đầu kiện đòi lại tài sản, yêu cầu tuyên bố giao dịch của người thứ ba

6 Viện Ngôn ngữ (2010), tr.34.


19

vô hiệu thì họ có được quyền sở hữu tài sản đó hay phải trả lại tài sản cho chủ
sở hữu ban đầu và yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Xét dưới góc độ bảo vệ quyền lợi, chúng ta thấy việc trả lại tài sản và
yêu cầu bồi thường hay là được giữ lại tài sản thì quyền lợi của người thứ ba
ngay tình đều được bảo vệ, Nhưng nếu xét về mức độ bảo vệ thì nếu họ được
sở hữu tài sản đang có tranh chấp sẽ là biện pháp bảo vệ quyền lợi tối ưu nhất.
1.2.3. Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu liên quan đến
quyền lợi của người thứ ba ngay tình
Giao dịch dân sự được xác lập giữa các chủ thể nhằm thoả mãn quyền
và lợi ích của mình. Tuy nhiên, trong giao dịch dân sự, nhiều trường hợp
không chỉ có quan hệ đơn thuần giữa các chủ thể tham gia giao dịch dân sự
mà còn có thể có sự liên quan đến người thứ ba. Cần chú ý rằng “người thứ
ba” ở đây là người liên quan đến giao dịch dân sự vô hiệu chứ không phải là
một bên trong giao dịch dân sự vô hiệu. Khi người thứ ba tiếp nhận đối tượng
hoặc kết quả của giao dịch dân sự vô hiệu thông qua một giao dịch khác, khi
đó pháp luật sẽ bảo vệ quyền và lợi ích của người thứ ba tham gia giao dịch
một cách ngay tình. Người thứ ba ngay tình trong giao dịch dân sự là chủ thể
tham gia giao dịch trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và tuân thủ theo các quy

định của pháp luật mà không biết và không thể biết đối tượng của giao dịch là
tài sản bất minh, do chủ sở hữu xác lập trước đó bởi một giao dịch vô hiệu. Sự
không biết và không buộc phải biết còn thể hiện ở việc đối với một người
bình thường thì không thể biết được tài sản đưa vào giao dịch là tài sản xuất
phát từ một giao dịch vô hiệu nên pháp luật không đòi hỏi trường hợp này họ
buộc phải biết.
Khi xem xét hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu có người thứ
ba tham gia giao dịch cần được bảo vệ phải xem xét một số yếu tố, đó là: xem
xét tính có hiệu lực của giao dịch do người thứ ba xác lập, đánh giá khả năng
nhận thức hành vi, tính có lỗi hay không có lỗi của các bên tham gia giao dịch
và người thứ ba phải có nghĩa vụ chứng minh khi tham gia giao dịch họ hoàn
toàn ngay tình; xem xét đánh giá tài sản hiện có. Việc đánh giá này căn cứ
vào đặc điểm, tính chất của loại tài sản hiện có và so sánh với tài sản trước đó,


20

căn cứ vào các quy định của pháp luật điều chỉnh đối với loại giao dịch này và
đồng thời các quy định khác của pháp luật liên quan đến tài sản đang có tranh chấp.
Hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự vô hiệu khi có người thứ ba ngay
tình cần được bảo vệ được quy định cụ thể tại Điều 138 BLDS năm 2005:
Trên thực tế, nếu tuyệt đối hoá hoàn toàn quyền được kiện đòi lại tài
sản của chủ sở hữu thì có thể sẽ tạo ra tâm lý e dè, lo sợ của các chủ thể khi
quyết định thực hiện một giao dịch dân sự để xác lập quyền sở hữu đối với
một tài sản cụ thể. Và vô hình chung quy định này sẽ tạo ra một rào cản cho
sự thúc đẩy các giao lưu dân sự, thương mại phát triển và kìm hãm sự phát
triển kinh tế xã hội nói chung, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
đang chuyển mình hội nhập của nước ta hiện nay.
Do vậy, khi xây dựng các quy định về kiện đòi lại tài sản, các nhà làm
luật đã không chỉ chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi cho chủ sở hữu mà còn chú ý

đến việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người chiếm hữu ngay tình nhằm đảm
bảo tính ổn định, an toàn của giao lưu dân sự đã được các chủ thể xác lập.
* Đối với tài sản là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu
rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu; người thứ ba chiếm
hữu ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù với người không có
quyền định đoạt tài sản
Điều 257 BLDS năm 2005 khi quy định về quyền đòi lại động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu đã dự liệu một trường hợp ngoại lệ mà chủ sở hữu
không có quyền kiện đòi lại tài sản đó là: trường hợp tài sản là động sản không
phải đăng ký quyền sở hữu rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí, người thứ ba ngay
tình khi có được tài sản thông qua hợp đồng có đền bù với người không có
quyền định đoạt tài sản, thì người thứ ba ngay tình không trả lại tài sản.
Tài sản rời khỏi chủ sở hữu theo ý chí của chủ sở hữu; người thứ ba
chiếm hữu ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù với người không có
quyền định đoạt tài sản là trường hợp chủ sở hữu chuyển giao tài sản cho
người chiếm hữu hợp pháp thông qua một hợp đồng như cho thuê, cho mượn,
cầm cố, thế chấp, đặt cọc… sau đó người chiếm hữu hợp pháp định đoạt tài
sản này cho người thứ ba ngay tình thông qua hợp đồng có đền bù như hợp


21

đồng mua bán, hợp đồng trao đổi tài sản… mà không được sự đồng ý của chủ
sở hữu. Pháp luật quy định chủ sở hữu không có quyền kiện đòi lại tài sản
trong trường hợp này, nhưng chủ sở hữu có quyền kiện yêu cầu người đã giao
kết hợp đồng với mình phải bồi thường thiệt hại. Hay nói cách khác, tranh
chấp giữa chủ sở hữu và người đã giao kết hợp đồng với chủ sở hữu sẽ được
giải quyết theo các quy định về hợp đồng dân sự.
Người chiếm hữu được coi là ngay tình khi không biết và không thể
biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật. Nếu người thứ ba

chiếm hữu mà không ngay tình thì chủ sở hữu vẫn có quyền kiện đòi lại tài
sản. Làm thế nào để người đang chiếm hữu chứng minh được hành vi chiếm
hữu của mình là ngay tình. Đối với tài sản là động sản không phải đăng ký
quyền sở hữu thì việc chứng minh có thể dựa trên hai cơ sở: Đây là loại tài
sản mà pháp luật không bắt buộc phải biết hành vi chiếm hữu của một người
là hợp pháp hay không, do đó người nhận chuyển giao không buộc phải biết
người chuyển giao tài sản cho mình có phải là chủ sở hữu đích thực của tài
sản hay không khi người đó đang thực tế nắm giữ tài sản và khẳng định tư
cách chủ sở hữu đối với tài sản đó; Việc chuyển giao tài sản được thực hiện
một cách công khai, minh bạch, tài sản được chuyển giao theo đúng giá trị.
Khi người thứ ba chứng minh được sự ngay tình của mình trong việc chiếm
hữu tài sản thì chủ sở hữu không có quyền đòi lại tài sản đó nữa.
Quy định này là một cách thức mà pháp luật điều chỉnh các chủ thể khi
tham gia giao dịch, buộc họ phải thận trọng hơn khi xác lập giao dịch. Khi
chủ sở hữu chuyển dịch tài sản cho người khác thì giữa chủ sở hữu và người
thứ hai có một giao dịch, cho nên chủ sở hữu cần phải đề phòng trường hợp
người được chuyển giao tài sản không trả lại tài sản. Do đó, phải áp dụng các
biện pháp đảm bảo mà pháp luật cho phép nhằm hạn chế hành vi vi phạm của
người được chuyển giao tài sản, tự mình bảo vệ quyền sở hữu của mình.
Mặt khác, việc pháp luật cho phép người thứ ba ngay tình trong trường
hợp này được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đã nhận chuyển giao là
thoả đáng bởi việc chiếm hữu của người thứ ba là ngay tình và thông qua hợp
đồng có đền bù. Hơn nữa, chính chủ sở hữu cũng có lỗi trong việc không áp


22

dụng các biện pháp bảo đảm cần thiết để bảo vệ tài sản của mình khi chuyển
giao tài sản cho người khác nên họ phải chịu rủi ro. Người thứ ba ngay tình
được xác lập quyền sở hữu đối với tài sản đồng nghĩa với việc chủ sở hữu

không được quyền kiện đòi lại tài sản nữa. Việc bảo vệ quyền lợi cho người
thứ ba ngay tình trong trường hợp này có ý nghĩa quan trọng, bởi nó không
chỉ là sự bảo vệ cho quyền lợi chính đáng của các chủ thể, giúp cho các chủ
thể yên tâm khi tham gia vào các giao dịch dân sự mà quy định này còn góp
phần bảo đảm tính ổn định, thúc đẩy sự phát triển của các giao lưu dân sự.
* Đối với tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất
động sản mà người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được trong một số
trường hợp ngoại lệ
Về nguyên tắc pháp luật cho phép chủ sở hữu được đòi lại tài sản là
động sản phải đăng ký quyền sở hữu và bất động sản từ người thứ ba ngay
tình. Tuy nhiên có hai trường hợp ngoại lệ chủ sở hữu không được kiện đòi lại
tài sản nhằm bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình theo quy định tại
Điều 258 BLDS năm 2005, đó là:
Ngoại lệ thứ nhất: Người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản
thông qua bán đấu giá.
Bán đấu giá tài sản là hình thức bán tài sản công khai theo phương thức
trả giá lên, có từ hai người trở lên tham gia đấu giá theo nguyên tắc, trình tự,
thủ tục được quy định tại Nghị định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của
Chính phủ về bán đấu giá tài sản và Thông tư số 23/2010/TT-BTP ngày
06/12/2010 của Bộ Tư pháp quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Nghị
định số 17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ. Người mua được tài
sản bán đấu giá từ một cuộc bán đấu giá do Trung tâm bán đấu giá tài sản, Tổ
chức kinh doanh dịch vụ bán đấu giá hoặc Hội đồng bán đấu giá tài sản (gọi
chung là tổ chức bán đấu giá) thực hiện theo trình tự, thủ tục quy định về bán
đấu giá tài sản mà không biết và không thể biết được về nguồn gốc, tình trạng
pháp lý của tài sản bán đấu giá thì người mua được coi là chiếm hữu ngay
tình. Chủ sở hữu không được kiện đòi tài sản từ người chiếm hữu ngay tình
trong trường hợp này.



23

Bán đấu giá tài sản là hình thức mua bán công khai, tuân thủ theo các
quy định pháp luật, người mua không có lỗi nếu họ không biết về nguồn gốc
bất hợp pháp của tài sản được bán đấu giá. Do đó, việc pháp luật quy định
người thứ ba chiếm hữu ngay tình nhận được tài sản là động sản phải đăng ký
quyền sở hữu và bất động sản thông qua đấu giá không phải trả lại tài sản cho
chủ sở hữu là hợp lý. Theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 36 Nghị định
17/2010/NĐ-CP ngày 04/3/2010 của Chính phủ quy định quyền của người
mua được tài sản bán đấu giá: “được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng
nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản bán đấu giá.” Đây là cơ sở pháp lý
quan trọng tạo điều kiện thuận lợi cho người mua (người thứ ba ngay tình)
tiến hành các thủ tục đăng ký quyền sở hữu sau đó.
Do đó, trong thực tiễn giải quyết tranh chấp, để giải quyết thoả đáng
những trường hợp này thì đòi hỏi các cấp Toà án phải có sự xem xét quy định
của Điều 258 BLDS năm 2005 trong mối quan hệ với các quy định của pháp
luật về bán đấu giá tài sản một cách thấu đáo.
Ngoại lệ thứ hai: Người thứ ba chiếm hữu ngay tình giao dịch với
người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ
sở hữu tài sản nhưng sau đó người này không phải là chủ sở hữu tài sản do
bản án, quyết định bị huỷ, sửa.
Huỷ bản án, quyết định dân sự là việc Toà án không công nhận giá trị
pháp lý của bản án, quyết định dân sự. Việc huỷ bản án, quyết định dân sự
được tiến hành khi Toà án xét xử lại vụ án dân sự theo quy định của pháp luật
tố tụng dân sự. Sửa bản án, quyết định dân sự là việc Toà án thay đổi nội
dung của bản án, quyết định dân sự nhằm bảo đảm tính hợp pháp và tính có
căn cứ của bản án, quyết định.
Điều kiện áp dụng ngoại lệ thứ hai là:
- Người thiết lập giao dịch với người là chủ sở hữu tài sản theo bản án,
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải là người chiếm hữu

ngay tình. Người này không biết và không thể biết người thiết lập giao dịch
với mình không phải là chủ sở hữu tài sản;


24

- Giao dịch được thiết lập giữa người thứ ba chiếm hữu ngay tình với
người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền là chủ sở
hữu tài sản;
- Do bản án, quyết định bị huỷ, sửa nên người thiết lập giao dịch với
người thứ ba ngay tình không còn là chủ sở hữu tài sản nữa. Thông thường,
bản án, quyết định của Toà án bị huỷ, sửa do vi phạm của cơ quan tiến hành
tố tụng, trừ những trường hợp huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
và đình chỉ giải quyết vụ án. Đây cũng là một trong những lý do quan trọng
dẫn đến người thứ ba ngay tình được bảo vệ khi bản án, quyết định của Toà
án bị huỷ, sửa.
Như vậy, theo quy định tại Điều 258 BLDS năm 2005 thì điều kiện để
người thứ ba chiếm hữu ngay tình không phải trả lại tài sản cho chủ sở hữu là:
Người thiết lập giao dịch với người là chủ sở hữu tài sản theo bản án, quyết
định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải là người chiếm hữu ngay tình.
Người này không biết và không thể biết người thiết lập giao dịch với mình
không phải là chủ sở hữu tài sản; Giao dịch được thiết lập giữa người thứ ba
chiếm hữu ngay tình với người mà theo bản án, quyết định của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền là chủ sở hữu tài sản; Do bản án, quyết định bị huỷ, sửa
nên người thiết lập giao dịch với người thứ ba ngay tình không còn là chủ sở
hữu tài sản đó nữa.
Ví dụ: Theo Bản án dân sự phúc thẩm có hiệu lực pháp luật, A là chủ sở
hữu căn nhà. Do đó, A đã giao kết hợp đồng bán căn nhà này cho B, hợp đồng
được chứng thực tại UBND cấp có thẩm quyền. Sau đó, Hội đồng giám đốc
thẩm ra quyết định huỷ bản án dân sự phúc thẩm để xét xử phúc thẩm lại do

kết luận trong bản án không phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.
Trong bản án xét xử lại, Toà án phán quyết căn nhà thuộc sở hữu của C.
Trong trường hợp này, B không phải trả lại nhà cho C mà A phải chuyển cho
C số tiền nhận từ B trong hợp đồng mua bán nhà.
So với BLDS năm 1995, BLDS năm 2005 thể hiện rõ những tiến bộ
trong quy định về bảo vệ người thứ ba ngay tình (Điều 138) và kiện đòi lại tài
sản từ người chiếm hữu ngay tình (Điều 257 và Điều 258). BLDS năm 2005


25

quy định cụ thể, chi tiết hơn về những vấn đề này với mục đích bảo vệ và
dung hoà lợi ích của chủ sở hữu và người thứ ba chiếm hữu ngay tình, đồng
thời đảm bảo sự ổn định trong giao lưu dân sự. Tuy nhiên, phân tích trên đây
cho thấy quy định về quyền đòi lại động sản phải đăng ký quyền sở hữu và
bất động sản từ người chiếm hữu ngay tình tại Điều 258 còn những điểm cần
phải làm rõ. Do đó, để tháo gỡ những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn
giải quyết loại việc này, Toà án nhân dân tối cao cần giải thích cụ thể hơn quy
định tại Điều 258 trong văn bản hướng dẫn xét xử.
Như vậy, việc một người có được tài sản thông qua mua đấu giá hoặc
giao dịch với người đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công nhận là
chủ sở hữu của tài sản là trường hợp mà người chiếm hữu ngay tình hoàn toàn
không có lỗi nên được pháp luật bảo vệ. Do đó, chủ sở hữu không được quyền
kiện đòi lại tài sản từ người chiếm hữu ngay tình mà chỉ có thể áp dụng
phương thức kiện khác để khắc phục thiệt hại về mặt vật chất cho mình như
kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại.
BLDS năm 2015 vẫn ghi nhận hình thức là một điều kiện có hiệu lực
của giao dịch dân sự theo tinh thần của BLDS năm 2005. Tuy nhiên, khi các
bên giao dịch đã đáp ứng những điều kiện nhất định do luật dự liệu (một bên
hoặc các bên đã thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong giao dịch) thì giao dịch dù

có vi phạm về hình thức vẫn được Tòa án công nhận hiệu lực pháp lý, làm cơ
sở để phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
Quy định này là một sự thay đổi linh hoạt về tiêu chí đánh giá hiệu lực
pháp lý giao dịch dân sự so với BLDS năm 2005. BLDS năm 2015 đã giải
thoát điều kiện tuân thủ về hình thức trong mọi trường hợp của BLDS năm
2005 để bảo vệ đến cùng quyền và lợi ích hợp pháp người tham gia giao dịch
có ý chí tự nguyện thực hiện toàn bộ nghĩa vụ trong giao dịch. Đây là một giải
pháp nhằm hạn chế cơ hội việc một bên không tự nguyện tham gia giao dịch,
lại viện dẫn lý do vi phạm về hình thức của giao dịch để hủy toàn bộ giao dịch
khi giá trị của đối tượng hợp đồng biến động có lợi hơn cho bên không thiện
chí tham gia.


×