Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Địa vị pháp lý của công ty cổ phần dưới góc độ so sánh pháp luật doanh nghiệp hiện hành của trung quốc và việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.18 KB, 99 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người
hướng dẫn khoa học TS. Bùi Ngọc Cường, người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ
bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

LIANG YU CHI


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
XÁC NHẬN CỦA GIẢNG VIÊN

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HƯỚNG DẪN

LIANG YU CHI



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BKS

: Ban kiểm soát

CHND

: Cộng hoà nhân dân

CHXHCN

: Cộng hoà xã hội chủ nghĩa

CTCP

: Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đông

GĐ (TGĐ)

: Giám đốc (Tổng giám đốc)

HĐQT

: Hội đồng quản trị


LDN

: Luật Doanh nghiệp


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu

4

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn

5

5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

5


6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn

5

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

6

8. Bố cục (các chương) của luận văn

6

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN 7
1.1. Khái quát về công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty ty cổ phần

7
7

1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần

10

1.2. Những vấn đề cơ bản về địa vị pháp lý của công ty cổ phần

13

1.2.1. Khái niệm, đặc điểm


13

1.2.2. Nội dung địa vị pháp lý của công ty cổ phần

16

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của công ty cổ phần

17

1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển thành phần kinh tế
tư nhân

17

1.3.2. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường

18

1.3.3. Pháp luật về cơ chế quản lý công ty cổ phần

21

Kết luận chương 1

23

CHƯƠNG 2. SO SÁNH ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY CỔ PHẨN
GIỮA PHÁP LUẬT DOANH NGHIỆP HIỆN HÀNH TRUNG QUỐC
VÀ VIỆT NAM

2.1. Về vốn và chế độ tài chính của công ty cổ phần
2.1.1. Giống nhau

24
25
25


2.1.2. Khác nhau
2.2. Quyền và nghĩa vụ của cổ đông

29
34

2.2.1. Về quyền của cổ đông

34

2.2.2. Về nghĩa vụ của cổ đông

47

2.3. Tổ chức, quản lý công ty cổ phần
2.3.1. Về mô hình tổ chức, quản lý công ty cổ phần

52
52

2.3.2. Về quyền và nghĩa vụ của các cơ quan trong tổ chức quản lý công
ty cổ phần

2.4. Về thành lập, tổ chức lại, giải thể công ty cổ phần

54
67

2.4.1. Về thành lập công ty cổ phần

67

2.4.2. Các quy định về tổ chức lại công ty cổ phần

72

2.4.3. Các quy định về giải thể công ty cổ phần

76

Kết luận chương 2

79

CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY CỔ
PHẦN CỦA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM

80

3.1. Một số nhận xét, đánh giá rút ra từ việc so sánh địa vị pháp lý của công
ty cổ phần giữa pháp luật doanh nghiệp Trung Quốc và Việt Nam hiện hành
80
3.2. Định hướng và một số gợi mở về giải pháp hoàn thiện về địa vị pháp lý

của công ty cổ phần rút ra từ việc so sánh pháp luật doanh nghiệp hiện hành
của hai nước

83

3.2.1. Định hướng hoàn thiện về địa vị pháp lý của công ty cổ phần rút ra
từ việc so sánh pháp luật doanh nghiệp hiện hành của hai nước

83

3.2.2. Một số gợi mở nhằm hoàn thiện về địa vị pháp lý của công ty cổ
phần trên cơ sở so sánh pháp luật hai nước
Kết luận Chương 3

85
90

KẾT LUẬN

91

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

93


6

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có quan hệ gần gũi và
truyền thống lâu dài trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập dân tộc. Trong
những năm qua, quan hệ Việt - Trung đã không ngừng phát triển cả bề rộng
và chiều sâu trên mọi lĩnh vực, đã hình thành khuôn khổ quan hệ mới với rất
nhiều Hiệp định, thoả thuận làm cơ sở pháp lý cho việc đi sâu hợp tác ngày
càng có hiệu quả, đem lại lợi ích thiết thực cho cả hai nước.
Trong khoảng 30 năm qua, nhất là từ thập niên 1990, kinh tế Trung
Quốc phát triển mạnh mẽ. Từ năm 1980 đến 2008 bình quân mỗi năm tăng
10%, sau đó giảm nhưng vẫn giữ mức 7%. Trung Quốc đã trở thành công
xưởng thế giới và từ năm 2010 là nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới1. Còn
Việt Nam từ khi đổi mới đến năm 2007 bình quân mỗi năm chỉ phát triển độ
7% và từ 2008 đến nay giảm còn trên dưới 6%. Khoảng cách phát triển giữa
Việt Nam và Trung Quốc ngày càng nới rộng (Hình 1 và Hình 2). Vào năm
1984, GDP đầu người của Trung Quốc chỉ hơn Việt Nam khoảng 30%, nhưng
năm 2013 khoảng cách đó tăng lên tới 3,5 lần. Ngoài ra, nhập siêu của Việt
Nam trong mậu dịch với Trung Quốc lớn ở mức dị thường, công nghiệp Việt
Nam phụ thuộc nhiều vào Trung Quốc. Như vậy, đã có một khoảng cách phát
triển ngày càng mở rộng giữa Trung Quốc và Việt Nam trong khoảng 30 năm
qua mà một phần nguyên nhân không nhỏ đến từ hệ thống pháp luật.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, thể chế luật pháp của Trung
Quốc cũng không ngừng được cải thiện nhằm phù hợp với cuộc sống thiết
thực của người dân. Đặc biệt từ khi Trung Quốc gia nhập tổ chức thương mại
kinh tế thế giới (WTO), quốc hội Trung Quốc đã ban hành rất nhiều bộ luật
mới. Các bộ luật này được đánh giá có tính pháp lý chặt chẽ, vừa có tính
1 Trần Văn Thọ (2015), “Việt Nam và Trung Quốc trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa”, tại địa chỉ: ngày truy cập
30/7/2016.


7


thống nhất. Quy định của các văn bản luật cũng như các quy định dưới luật rất
rõ ràng, ngắn gọn. Rất nhiều các thủ tục hành chính của Trung Quốc đã được
rút ngắn lại nhằm đáp ứng quyền lợi tối đa của nhà đầu tư nước ngoài và các
doanh nghiệp trong nước và các hộ kinh doanh cá thể. Trong đó, pháp luật
Trung Quốc ban hành từng bộ luật riêng lẻ đối với mỗi loại hình doanh
nghiệp.Ví dụ như: Luật Công ty áp dụng cho công ty cổ phần và trách nhiệm
hữu hạn, Luật doanh nghiệp tư nhân lại áp dụng cho doanh nghiệp tư nhân,
Luật đầu tư nước ngoài lại được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài.
Nhận định hiện nay, làn sóng đầu tư vào Việt Nam trong vài năm trở lại
đây rất mạnh mẽ. Theo số liệu khảo sát của tổng cục thống kế thì Trung Quốc
được xếp hàng đầu trong các quốc gia có nhiều dự án đầu tư vào Việt Nam.
Trước khi tiến hành hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, các doanh nghiệp
Trung Quốc cần phải tìm hiểu các quy định của pháp luật Việt Nam, tìm hiểu
thị trường Việt Nam. Cũng giống như vậy, các doanh nghiệp Việt Nam muốn
đầu tư kinh doanh tại thị trường Trung Quốc cũng cần phải tìm hiểu quy định,
trình tự cũng như các thủ tục của pháp luật Trung Quốc để tiến hành đầu tư
một cách hiệu quả và an toàn. Tuy nhiên, trên thực tế, đã có rất nhiều doanh
nghiệp Trung Quốc cũng như Việt Nam đã gặp phải rất nhiều khó khăn khi
đầu tư vào nước bạn do hạn chế kiến thức về mặt luật pháp. Vì vậy, việc so
sánh các quy định của Luật Doanh Nghiệp Việt Nam và Luật Trung Quốc về
Công ty cổ phần là hết sức cần thiết. Việc so sánh này sẽ giúp cho doanh
nghiệp hai nước hiểu rõ hơn về các quy định pháp luật của nhau để hạn chế
những rủi do trong kinh doanh.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tôi đã lựa chọn một loại
hình doanh nghiệp phổ biển nhất ở cả hai nước để tiến hành nghiên cứu so
sánh với nhau, đó là công ty cổ phần, với đề tài “Địa vị pháp lý của công ty
cổ phần dưới góc độ so sánh pháp luật doanh nghiệp hiện hành của Trung
Quốc và Việt Nam”.



8

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về công ty cổ phần là vấn đề không mới ở cả Việt Nam và
Trung Quốc, bởi việc nghiên cứu địa vị pháp lý của công ty cổ phần có ý
nghĩa rất to lớn cả về lý luận lẫn thực tiễn, góp phần tận dụng những ưu điểm
của loại hình doanh nghiệp này trong quá trình thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Đến nay, đã có khá nhiều công trình nghiên cứu về công ty cổ phần nói
chung, địa vị pháp lý công ty cổ phần nói riêng, tiêu biểu như: Phan Thị Bảo
Yến (2014), Mô hình quản trị Công ty cổ phần tại Việt Nam hiện nay - Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội; Phạm Thị Tâm (2015), Pháp luật về bảo vệ quyền
lợi của cổ đông trong công ty cổ phần - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện,
Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Lưu Thị
Dung (2015), Tổ chức quản lý nội bộ công ty cổ phần theo Luật Doanh
nghiệp năm 2014, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội; Đỗ Minh Hương (2014), Hoàn thiện pháp luật về quyền của cổ đông
nắm giữ ít cổ phần trong công ty cổ phần ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Ngô Thị Hải Chiến (2014), Hoàn
thiện pháp luật về Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần, Luận văn thạc sĩ
luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Bên cạnh đó còn có những
bài báo, tạp chí như: Lưu Thị Tuyết (2015), “Điểm mới của công ty cổ phần
nhìn từ góc độ Luật Doanh nghiệp năm 2014”, Tạp chí Thanh tra, Số 8/2015,
tr. 61 – 62; Trần Ngọc Dũng (2015), “Hoàn thiện quy định về cơ chế giám sát
hoạt động quản lý, điều hành trong công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014”, Tạp chí Quản lý nhà nước, Số 5/2016, tr. 45 – 49… Những công
trình này mới chỉ nghiên cứu về một (số) khía cạnh của vấn đề địa vị pháp lý
của công ty cổ phần theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.

Về vấn đề nghiên cứu địa vị pháp lý của công ty trách nhiệm hữu hạn
dưới góc độ so sánh pháp luật giữa các nước, đến nay mới chỉ có một số công
trình như: Ngô Viễn Phú (2005), Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần


9

theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và pháp luật Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa, Luận án tiến sĩ luật học, Khoa Luật- Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội; Đào Thúy Anh (2014), Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ
chức quản lý Công ty cổ phần - Góc nhìn từ kinh nghiệm của Nhật Bản, Luận
văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội. Các công trình này
cũng mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh về địa vị pháp lý của công ty cổ
phần trong tương quan so sánh pháp luật các nước, Đặc biệt, công trình
“Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp luật Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam và pháp luật Cộng hoà nhân dân Trung Hoa” của tác giả
Ngô Viễn Phú mặc dù có sự so sánh giữa pháp luật Việt Nam và Trung Quốc,
nhưng chỉ dừng lại ở khía cạnh quản lý công ty cổ phần. Hơn nữa, những quy
định được so sánh trong công trình này đã được sửa đổi, bổ sung bởi cả hai
nước, do đó, những so sánh này đã không còn tính thời sự.
Chính vì vậy, có thể nói, Đề tài “Địa vị pháp lý của công ty cổ phần
dưới góc độ so sánh pháp luật doanh nghiệp hiện hành của Trung Quốc và
Việt Nam” là công trình đầu tiên nghiên cứu đánh giá chuyên sâu về những
điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Trung Quốc và Việt Nam về địa
vị pháp lý của công ty cổ phần.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng của việc nghiên cứu đề tài
Những nội dung quy định pháp luật Việt Nam và Trung Quốc về địa vị
pháp lý công ty cổ phần. Những vấn đề này được nghiên cứu trong phạm vi
các quy định của LDN Việt Nam 2014 và Luật Công ty nước Cộng hòa nhân

dân Trung Hoa sửa đổi năm 2014 (gọi tắt là Luật Công ty Trung Quốc năm
2014) về địa vị pháp lý công ty cổ phần.
* Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài chỉ giới hạn trong giới hạn phạm vi các quy định về địa vị pháp
lý của công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2014 và Luật
Công ty của Trung Quốc năm 2014.


10

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu của việc nghiên cứu đề tài là nghiên cứu địa vị pháp lý của
công ty cổ phần theo pháp luật, từ đó, đưa ra bài học kinh nghiệm và những
gợi mở nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý công ty cổ
phần ở Việt Nam và Trung Quốc.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu của luận văn, nội dung công
trình này sẽ trả lời những câu hỏi sau:
(1). Địa vị pháp lý doanh nghiệp là gì? Nội dung địa vị pháp lý của
công ty cổ phần
(2). Những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật doanh nghiệp
hiện hành Trung Quốc và Việt Nam về vốn và chế độ tài chính của công ty cổ
phần là gì?
(3). Những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật doanh nghiệp
hiện hành Trung Quốc và Việt Nam về quyền và nghĩa vụ của cổ đông công
ty cổ phần là gì?
(4). Những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật doanh nghiệp
hiện hành Trung Quốc và Việt Nam về tổ chức, quản lý công ty cổ phần là gì?
(5). Những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật doanh nghiệp
hiện hành Trung Quốc và Việt Nam về thành lập, tổ chức lại, giải thể công ty

cổ phần là gì?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Đề tài được thực hiện dựa trên nền tảng phương pháp luận biện chứng
duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin, và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật; quán triệt đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước
ta về hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế; với các
phương pháp nghiên cứu cụ thể thích hợp như: tiếp cận hệ thống, điều tra xã
hội học, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp... để đánh giá thực trạng quy
định pháp luật cũng như hiệu quả thực thi quy định pháp luật trên thực tế.


11

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Những điểm mới của đề tài nghiên cứu này là:
a) Đưa ra được một cái nhìn khái quát về quá trình hình thành, phát
triển của công ty cổ phần và những vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm, nội
dung và các yếu tố chi phối đến địa vị pháp lý công ty cổ phần
b) Phân tích và làm nổi bật những đặc điểm trong quy định pháp luật
của Việt Nam và Trung Quốc về địa vị pháp lý công ty cổ phần trên các khía
cạnh: vốn và chế độ tài chính, quyền và nghĩa vụ của cổ đông, cơ cấu tổ chức
quản lý công ty cổ phần; thành lập, tổ chức lại, giải thể công ty cổ phần trên
cơ sở so sánh các quy định của LDN Việt Nam 2014 và Luật Công ty Trung
Quốc 2014
c) Đưa ra các bài học kinh nghiệm, đánh giá những điểm tiến bộ và hạn
chế của pháp luật mỗi nước trong việc quy định địa vị pháp lý của công ty cổ
phần;
d) Nêu phương hướng và một số gợi mở về các giải pháp hoàn thiện
pháp luật về địa vị pháp lý công ty cổ phần ở Việt Nam và Trung Quốc.
Có thể nói luận văn là một công trình hoàn toàn mới, nghiên cứu

chuyên sâu địa vị pháp lý của công ty cổ phần. Những kết quả của luận văn
này còn có thể sử dụng trong giảng dạy, nghiên cứu pháp luật doanh nghiệp ở
cả Việt Nam và Trung Quốc.
8. Bố cục (các chương) của luận văn
Luận văn bao gồm: Lời nói đầu; ba chương, Kết luận, và Danh mục tài
liệu tham khảo. Ba chương của luận văn là:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về công ty cổ phần
Chương 2: So sánh địa vị pháp lý của công ty cổ phẩn giữa pháp luật
hiện hành Trung Quốc và Việt Nam
Chương 3: Hoàn thiện địa vị pháp lý của công ty cổ phần của Trung
Quốc và Việt Nam.


12

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Khái quát về công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm công ty ty cổ phần
a. Khái niệm
Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp phổ biến trên thế giới,
dù tồn tại ở quốc gia nào trên thế giới thì ngoài những đặc điểm chung, nó vẫn
luôn mang những nét riêng, đặc thù, phản ánh điều kiện cụ thể của quốc gia
đó. Ở những nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa (Civil Law),
CTCP có quy chế pháp lý riêng và được phân biệt rõ ràng với loại hình công
ty đối vốn khác là công ty trách nhiệm hữu hạn. Như pháp luật Pháp, CTCP
được gọi là công ty vô danh, phải có ít nhất bảy cổ đông, vốn điều lệ của công
ty được chia thành các cổ phần với mệnh giá thống nhất, cổ đông được quyền
tự do chuyển nhượng cổ phần2. Những nước theo hệ thống pháp luật Anh –
Mỹ (Common Law) lại không phân chia công ty đối vốn thành các loại khác

nhau một cách rõ ràng, và vì vậy thường không có quy chế pháp lý riêng cho
loại hình công ty cổ phần3. Tuy nhiên, ở các nước này vẫn tồn tại những công
ty có tính chất pháp lý tương tự như CTCP trong hệ thống pháp luật lục địa.
Ví dụ, công ty công hữu hạn ở Anh với vốn điều lệ được chia thành các cổ
phần, các cổ phần có thể được tự do chuyển nhượng nếu Điều lệ không có
quy định khác4. Trong pháp luật một số nước khác, khái niệm CTCP được
quy định rất rõ ràng, cụ thể. Ví dụ, BLDS 1994 Cộng hòa Liên Bang Nga tại
Điều 90 quy định: “CTCP là một công ty mà vốn điều lệ được chia thành một
số lượng xác định cổ phần, những người tham gia công ty không chịu trách

2 Đồng Ngọc Ba (2000), Công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.7.
3 Đồng Ngọc Ba (2000), Công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.8.
4 Nguyễn Tiến Ngọc (2011), Một số vấn đề pháp lý về vốn của công ty cổ phần cần tiếp tục hoàn thiện, Khóa
luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.6.


13

nhiệm trước các nghĩa vụ của công ty mà chỉ chịu các rủi ro liên quan đến
hoạt động của công ty trong phạm vi giá trị những cổ phần mà họ sở hữu”.
Ở Việt Nam, các quy định về CTCP lần đầu tiên được ghi nhận tại Điều
2 Luật Công ty năm 1990, theo đó, CTCP được quan niệm: “...là doanh
nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng
chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty trong phạm vi phần vốn của mình góp vào công ty”. Đến LDN 1999
(Điều 51) cũng như LDN 2005 (Điều 77), LDN 2014 thì lại không đưa ra một
định nghĩa khái quát về CTCP mà chỉ liệt kê những đặc điểm của nó. Theo
đó, thì CTCP là một loại hình doanh nghiệp, có những nét riêng biệt: vốn điều

lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; người chủ sở hữu cổ
phần gọi là cổ đông, họ là thành viên công ty, chịu trách nhiệm về các khoản
nợ, các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào
công ty và công ty được phát hành chứng khoán để huy động vốn. Ở Trung
Quốc cũng tương tự như vậy, Điều 76 Luật Công ty nước CHND Trung Hoa
(sau đây gọi tắt là Luật Công ty Trung Quốc năm 2014) cũng không quy định
khái niệm về công ty cổ phần mà chỉ liệt kê những điều kiện để một công ty
được xem là “công ty hữu hạn cổ phần” (company limited by shares).
Như vậy, tựu chung lại, có thể thấy CTCP có vốn điều lệ được chia làm
nhiều phần bằng nhau, nhỏ nhất gọi là cổ phần; các thành viên của công ty
(cổ đông) có thể sở hữu một hay nhiều cổ phần và chịu trách nhiệm trong
phạm vi cổ phần mà họ nắm giữ, công ty có quyền phát hành chứng khoán để
huy động vốn5.
b. Đặc điểm pháp lý của công ty cổ phần
Thứ nhất, về thành viên công ty
CTCP là loại công ty đặc trưng cho công ty đối vốn, cho nên có sự liên
kết của nhiều thành viên. Vì vậy, việc quy định số thành viên tối thiểu phải có
đã trở thành thông lệ quốc tế trong mấy trăm năm tồn tại của CTCP. Hầu hết
5 Viện khoa học pháp lý – Bộ Tư Pháp (2006), Từ điển luật học, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, tr.185.


14

các nước đều quy định số thành viên tối thiểu của CTCP. Ở Việt Nam, trong
suốt quá trình hoạt động, ít nhất phải có ba thành viên (có thể là cá nhân hoặc
tổ chức) tham gia CTCP. Trong khi đó, Điều 78 Luật Công ty Trung Quốc
năm 2014 quy định, thành viên của công ty cổ phần nhiều hơn hai và ít hơn
200 cổ đông, trong đó hơn một nửa phải cư trú trong phạm vi lãnh thổ của
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (sau đây gọi tắt là "Trung Quốc ").
Thứ hai, về vốn điều lệ của công ty

Vốn do các cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định
được ghi trong Điều lệ tạo thành vốn điều lệ của công ty. Cả pháp luật Việt
Nam và Trung Quốc đều quy định, vốn điều lệ của CTCP được chia làm
nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Việc góp vốn được thực hiện bằng cách
mua cổ phần, mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần. Luật không hạn chế số
lượng tối đa cổ phần được mua nhưng các cổ đông có thể tự thỏa thuận với
nhau và ghi trong Điều lệ giới hạn tối đa số cổ phần mà mỗi thành viên có thể
mua nhằm chống lại việc tập trung quá nhiều cổ phần vào tay một người hoặc
một vài người, tránh tình trạng tập trung quyền lực công ty trong tay một hoặc
một số cổ đông lớn.
Thứ ba, về huy động vốn và chuyển nhượng vốn
Theo LDN Việt Nam năm 2014 và Luật Công ty Trung Quốc năm
2014, CTCP được phép phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định
của pháp luật về chứng khoán để huy động vốn. Nhờ quyền phát hành chứng
khoán, CTCP có khả năng chủ động mỗi khi cần nguồn vốn lớn để tham gia
vào các dự án nhờ khả năng huy động vốn linh hoạt. Tuy nhiên, khả năng huy
động vốn lớn cũng kéo theo nguy cơ gây rủi ro trong công chúng của CTCP
cũng rất cao. Bởi vậy, CTCP phải chịu quy chế pháp lý khắt khe hơn so với
các loại hình doanh nghiệp khác.
Về chuyển nhượng vốn, các cổ đông CTCP có quyền tự do chuyển
nhượng cổ phần của mình cho người khác theo quy định của pháp luật. Mức
độ tự do chuyển nhượng cổ phần phụ thuộc vào tính chất của từng loại cổ
phần. Với tính tự do chuyển nhượng cổ phần, cơ cấu cổ đông của công ty có
thể thay đổi linh hoạt mà không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty.


15

Thứ tư, về chế độ trách nhiệm tài sản
Là loại hình công ty đối vốn, CTCP phải tự chịu trách nhiệm một cách

độc lập về các nghĩa vụ tài sản bằng toàn bộ tài sản của công ty. Cổ đông
CTCP chịu trách nhiệm hữu hạn về nợ và nghĩa vụ tài sản trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty. Tuy nhiên, chế độ trách nhiệm hữu hạn dành cho cổ
đông không phải là tuyệt đối. Theo LDN, khi công ty thanh toán cổ phần mua
lại hoặc trả cổ tức trái quy định thì tất cả cổ đông phải hoàn trả số tiền hoặc tài
sản đã nhận cho công ty. Nếu cổ đông không hoàn trả được thì cổ đông phải
chịu trách nhiệm về nợ của công ty. Như vậy, các cổ đông sẽ phải chịu trách
nhiệm đối với các nghĩa vụ của công ty trong những trường hợp nhất định6.
Thứ năm, về tư cách pháp lý
CTCP là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân độc lập. Việc
xác định tư cách pháp nhân cho CTCP đã trở thành thông lệ quốc tế, phù hợp
với bản chất CTCP. CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Theo thông lệ, có Giấy chứng nhận đăng kí
kinh doanh là điều kiện cần và đủ về mặt pháp lý để CTCP nhân danh mình
tiến hành các hoạt động kinh doanh. Trong quá trình hoạt động, CTCP chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ bằng tài sản của mình. Thông qua
người đại diện của mình theo quy định của pháp luật, CTCP có thể trở thành
nguyên đơn hay bị đơn trong các vụ án dân sự.
1.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công ty cổ phần
Công ty cổ phần (CTCP) là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời,
tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình
thành và phát triển của công ty cổ phần gắn liền với sự hình thành của thị
trường vốn và thị trường tiền tệ. “Công ty cồ phần là một loại hình kinh
doanh phổ biến hiện nay, được xem là phương thức phát triển cao nhất cho
đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh doanh và qua đó làm cho
nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển”7.

6 Đồng Ngọc Ba (2000), Công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr.24.
7 Nguyễn Ngọc Bích (2003), Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong CTCP, Nxb. Trẻ, tr.18.



16

Ở các nước khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau. Ở
Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), Ở Anh là công ty với trách
nhiệm hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh doanh
(Commercial Coporation), và ở Nhật Bản gọi là công ty chung cổ phần
(Kabushiki Kaisha)…8.
Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ
18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm xuất
hiện loại hình CTCP. Sự phát triển mạnh mẽ của Chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi
sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng to lớn, cạnh tranh và độc
quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Các chủ tư bản đi đến thoả hiệp với nhau
nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn nữa thế lực kinh tế của
mình. CTCP là hình thức kinh doanh thoả mãn được những nhu cầu này, nó
tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập trung tư bản, nhu nhận định của
Các Mác “Qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được việc đó
trong nháy mắt”9.
Về mặt lịch sử hình thành, CTCP ra đời sau các loại công ty đối nhân
nhưng là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với sự ra đời
của hình thức công ty TNHH – là sản phẩm của các nhà lập pháp xuất phát từ
nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình thành trong hoạt động
kinh doanh và do nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được pháp
luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một chế định pháp lý. Chẳng hạn như
ở Anh, Luật công ty được ban hành lần đầu tiên năm 1844 nhưng trước đó
hơn 100 năm đã có sự xuất hiện của các công ty cổ phần. Và đến năm 1856, ở
Anh mới có Luật về công ty cổ phần10.
Công ty cổ phần xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn
(East India Company) của Anh (1600-1874). Nó được thành lập ngày

8 Viện Kinh tế Thế giới (1991). Công ty cổ phần? Các nước phát triển – Qúa trình thành lập, tổ chức quản
lý, Nxb. KHXH, tr.5.
9 Các Mác. Tư bản, quyển 1, tập III, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.199.
10 Từ Thảo (2010), Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam, tại địa chỉ:
ngày truy cập 03/05/2010.


17

31/10/1860 bởi một nhóm có 218 người, và được cấp phép độc quyền kinh
doanh trong vòng 15 năm ở vùng Đông Ấn, các quốc gia và hải cảng ở châu
Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải cảng của các đảo, thị trấn và địa
điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ địa điểm nào như thế nằm ngoài
Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo biển Magellan. Ngày
01/6/1874, Công ty bị giải thể khi giấy phép lần sau cùng không được gia hạn.
Công ty đầu tiên này hoạt động hết sức lỏng lẻo: “Người đầu tư góp vốn theo
chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và tiền lãi”11.
Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các công ty cổ phần theo hình thức tương
tự công ty Đông Ấn của Anh, rồi lần lượt CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan
Mạch, Đức…
Ở Mỹ, CTCP phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì phải xây dựng đường
xe lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh thổ
rộng lớn của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty làm đường xe lửa
mà thị trường chứng khoán ở NewYork phát triển. Năm 1811, bang NewYork
ban bố luật về tính TNHH dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này,
tiền ùn ùn đổ về NewYork và tính hữu hạn kia trở thành phổ biến vì bang nào
không dùng đến nó là không thu hút được vốn12.
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, CTCP bắt đầu phát triển ở
nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các ngành chế
tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm…? các nước tư phản phát triển và về sau phát

triển rộng rãi ở các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30 của thế kỷ
XIX, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nền kinh tế thế
giới có bước phát triển mạnh mẽ, điều đó dẫn đến nhu cầu phải tập trung
những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sơ hạ tầng kinh tế – xã hội. Công ty cổ
phần là một trong những công cụ giúp thực hiện nhanh chóng vấn đề tập trung
vốn. Vì vậy, có ý kiến bình luận rằng “Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích
11 Đoàn văn Trường (1996), Thành lập, tổ chức và điều hành hoạt động CTCP, Nxb. KHKT, Hà Nội, tr.10
12 Nguyễn Ngọc Bích (2003), Luật Doanh nghiệp, vốn và quản lý trong CTCP, Nxb. Trẻ, tr.25.


18

luỹ làm cho số tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương được việc
xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt”13.
Sự ra đời của CTCP đã giúp cho các nhà doanh nghiệp giải quyết được mâu
thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo.
Như vậy, trải qua quá trình phát triển lâu dài, CTCP đã từ phạm vi ở
một nước, một khu vực nhất định đã phát triển thành những công ty đa quốc
gia, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định: “Công ty
cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô
nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một quôc gia đến nhiều
quốc gia thông qua các công ty siêu quốc gia”14.
Ở Mỹ, năm 1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong tổng số
các xí nghiệp công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp.
Ngày nay, công ty cổ phần đã chiếm vị trí thống lĩnh trong các ngành công
nghiệp, dịch vụ công cộng và trong các ngành khác nhau của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Ở các nước phương tây, công ty cổ phần là mô hình phổ biến nhất cho
các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung bình của các công
ty cổ phần năm 1980 là 43 triệu DM, trong khi đó vốn trung bình của một
công ty TNHH chỉ là 0,38 triệu DM. Trong 100 công ty lớn nhất của Đức

năm 1980 có tới 66 công ty cổ phần. Ở Pháp, vào năm 1986, có tới 123.303
công ty cổ phần, chiếm tới 15,22% tổng số các doanh nghiệp.
1.2. Những vấn đề cơ bản về địa vị pháp lý của công ty cổ phần
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm
Theo cách hiểu truyền thống, địa vị pháp lý của một doanh nghiệp là
tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp đó được pháp luật
ghi nhận, đảm bảo sự độc lập về mặt pháp lý và khả năng tham gia các quan
hệ pháp luật, trước hết là quan hệ luật kinh tế và từ đó có thể phân biệt với các
chủ thể kinh doanh khác.
13 Các Mác, Tư bản, quyển 1, tập III, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.199.
14 Đặng Cẩm Thuý (1997). “Bàn về con đường hình thành CTCP ở các nước Tư bản và vận dụng vào Việt
Nam”, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Số 225, 2/1997, tr.35.


19

Một doanh nghiệp không chỉ tham gia các quan hệ pháp luật kinh tế,
các quan hệ kinh doanh mà có thể đồng thời tham gia nhiều quan hệ khác
như: quan hệ dân sự, hành chính, lao động… Khi xem xét địa vị pháp lý của
một doanh nghiệp với tính chất tổng thể là các quyền và nghĩa vụ pháp lý của
một doanh nghiệp, trong khoa học pháp lý đã có lúc có quan niệm xem xét
vấn đề theo phương diện khái niệm thẩm quyền, bao gồm những quyền và
nghĩa vụ trong nhiều lĩnh vực và phương diện tồn tại, hoạt động của doanh
nghiệp15 . Trong đó, thẩm quyền trong lĩnh vực kinh tế, kinh doanh được coi
là một nội dung chủ yếu trong hệ thống thẩm quyền của doanh nghiệp với lý
do doanh nghiệp là tổ chức kinh tế… được đăng ký kinh doanh theo quy định
của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Thẩm quyền kinh tế của một doanh nghiệp bao gồm các quyền và nghĩa
vụ của nó trong quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh. Đối
với các loại hình doanh nghiệp khác nhau thì hệ thống thẩm quyền này cũng

có những điểm khác nhau. Cũng chính vì vậy, đối với mỗi loại hình doanh
nghiệp, pháp luật đều dành cho chúng những quy chế pháp lý riêng. Ngoài ra,
khi nghiên cứu địa vị pháp lý của một doanh nghiệp độc lập, từ trước đến nay,
trong khoa học pháp lý vẫn thường đề cập đến khái niệm pháp nhân (hay tư
cách pháp nhân). Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì tư cách pháp nhân
và tư cách chủ thể pháp lý không phải là đồng nhất.
Trước đây, trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi mà pháp luật
kinh tế chỉ điều chỉnh các quan hệ và hoạt động kinh tế của doanh nghiệp nhà
nước và hợp tác xã, thì vấn đề pháp nhân và tư cách pháp nhân của những chủ
thể này cũng không được quan tâm nhiều, tuy nhiên khi những lọai hình chủ
thể kinh doanh mới có tư cách pháp nhân như công ty TNHH, công ty cổ
phần, công ty hợp danh xuất hiện thì vấn đề tư cách pháp nhân đã được đặt ra
và xem xét một cách cụ thể hơn. Nội dung của khái niệm pháp nhân theo quan
niệm của luật Dân sự truyền thống đã trở lên quá chật hẹp đối với các loại
15 Đại học Luật Hà Nội (2000), Giáo trình Luật thương mại, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr.50.


20

hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Hơn thế nữa, từ hệ thống
pháp luật hiện hành về các doanh nghiệp của nước ta cho phép khẳng định là:
bên cạnh những chủ thể kinh doanh là pháp nhân còn có sự tồn tại của những
doanh nghiệp tuy không phải là pháp nhân, nhưng chúng vẫn là những thực
thể pháp lý có tư cách pháp lý độc lập tham gia vào các quan hệ kinh tế và các
quan hệ pháp luật.
Hơn nữa, khi xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp, chúng ta phải
gắn với chúng với sự phát triển của các mô hình kinh tế, cơ chế kinh tế mà
trong khuôn khổ đó các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Như vậy, có thể
thấy nội hàm địa vị pháp lý của doanh nghiệp được phản ánh và thể hiện ở
những phương diện sau:

Thứ nhất, các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng của
từng loại hình doanh nghiệp; tính chất, đặc điểm tổ chức kinh doanh trong
mỗi loại hình doanh nghiệp.
Thứ hai, tổng hợp các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của doanh
nghiệp được pháp luật quy định phù hợp với vị trí, vai trò và chức năng của
oanh nghiệp và những quyền hạn và nghĩa vụ mà doanh nghiệp đảm nhận trên
cơ sở những quy định của pháp luật khi doanh nghiệp tham gia vào các quan
hệ pháp luật trong quá trình hoạt động.
Những quyền và nghĩa vụ này được quy định trong hệ thống các văn
bản bao gồm:
- Các văn bản quy định chung về quyền và nghĩa vụ cho mọi doanh
nghiệp trong hoạt động kinh tế - xã hội (luật thuế, luật lao động, luật hải quan,
các quy định về bảo hiểm, xuất nhập khẩu…)
- Các văn bản quy định cụ thể về tổ chức và hoạt động đối với các loại
doanh nghiệp (mà cụ thê là LDN Việt Nam năm 2014 cũng như Luật Công ty
Trung Quốc năm 2014)
- Các quyết định thành lập, giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, địa
bàn hoạt động kinh doanh, ngành nghề kinh doanh…


21

1.2.2. Nội dung địa vị pháp lý của công ty cổ phần
Khi xác định địa vị pháp lý cho doanh nghiệp nói chung và công ty cổ
phần nói riêng, bên cạnh việc tìm hiểu về khái niệm và đặc điểm của công ty
cổ phần với tính chất là một chủ thể kinh doanh, thì về cơ bản cần làm rõ các
nội dung sau:
Thứ nhất, vốn và chế độ tài chính của công ty cổ phần. Vốn trong
CTCP có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó không những quyết định sự sống
còn của doanh nghiệp mà còn thể hiện khả năng gánh chịu nghĩa vụ pháp lý

của doanh nghiệp; quyết định quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu, chủ đầu tư
của công ty; quyết định quy mô của công ty trong quá trình hoạt động kinh
doanh. Với tính chất là loại hình công ty đặc trưng cho công ty đối vốn, nên
các quy định về vốn và chế độ tài chính có ý nghĩa quan trọng.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của cổ đông. Khái niệm cổ đông có các
nội hàm như sau: 1) cổ đông là thành viên của công ty, là mọt trong những
yếu tố cấu thành tư cách pháp nhân của công ty; 2) sự nắm giữ cổ phần là cơ
sở và điều kiện tất yếu để tư cách cổ đông được duy trì tồn tại; 3) cổ đông
hưởng các quyền cổ đông xuất phát từ sự góp vốn, từ khi đó phát sinh mối
quan hệ quyền và nghĩa vục đối với công ty; 4) cổ đông là chủ sở hữu tài sản
cổ phần, hình thức bề ngoài của cổ phần là cổ phiếu. Phải có cổ đông thì mới
có công ty cổ phần, do đó, chế định về quyền và nghĩa vụ của cổ đông cũng
thể hiện nội dung quan trọng trong địa vị pháp lý công ty cổ phần
Thứ ba, cơ cấu, tổ chức và quản lý công ty cổ phần. Việc tổ chức và
điều hành công ty cổ phần được thực hiện thông qua các cơ quan của có.
Công ty cổ phần có hệ thống cơ quan quản lý tùy thuộc vào số lượng thành
viên công ty. Cơ cấu tổ chức và quản lý công ty cổ phần ảnh hưởng rất lớn
đến hoạt động của công ty. Đồng thời, đối với mỗi loại hình công ty cổ phần
sẽ có hệ thống cơ quan quản lý riêng. Do đó, xác định địa vị pháp lý công ty
cổ phần không thể không tìm hiểu về cơ cấu tổ chức và quản lý CTCP.


22

Thứ tư, thành lập, tổ chức lại, giải thể, phá sản công ty cổ phần. Các
công ty cổ phần muốn tham gia vào các quan hệ kinh tế, muốn tiến hành các
hoạt động kinh doanh trước tiên phải được pháp luật thừa nhận sự ra đời hợp
pháp. Quy chế thành lập và đăng ký kinh doanh chính là thước đo cho sự ra
đời hợp pháp của công ty. Cho nên xác định địa vị pháp lý của công ty cổ
phần không thể không xác định quy chế thành lập và đăng ký kinh doanh của

công ty. Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền lợi của các chủ thể tham gia quan hệ
với công ty cổ phần, pháp luật không chỉ thừa nhận sự ra đời của công ty cổ
phần mà còn có những quy định về việc chấm dứt sự tồn tại của công ty cổ
phần trên thương trường cũng như tổ chức lại công ty, chấm dứt tư cách chủ
thể của công ty hoặc thay đổi hình thức của công ty. Trước khi tư cách chủ
thể của công ty cổ phần bị chấm dứt, thay đổi thì tất cả các vấn đề liên quan
đến công ty phải được pháp luật giải quyết theo một trình tự thủ tục chặt chẽ.
Vì vậy, khi xác định địa vị pháp lý của công ty cổ phần không thể thiếu chế
định tổ chức lại, giải thể công ty, phá sản công ty cổ phần.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến địa vị pháp lý của công ty cổ phần
1.3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát triển thành phần
kinh tế tư nhân
Nhất quán, phát triển quan điểm phát triển kinh tế tư nhân lâu dài trong
suốt thời kỳ quá độ, để tiếp tục khuyến khích và tạo bước đột phá trong phát
triển kinh tế tư nhân, hiện nay, cả hai nước Việt Nam và Trung Quốc đếu xác
định tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân. Gần đây nhất, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ XII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định kinh tế tư
nhân là “một động lực quan trọng” trong sự phát triển của đất nước. Quan
điểm này của Đại hội XII không chỉ là một sự xác nhận vai trò mới của kinh
tế tư nhân, mà còn mở ra những cơ hội mới để thành phần kinh tế này phát
triển mạnh mẽ hơn trong những năm sắp tới.
Quan điểm của nhà nước về phát triển kinh tế tư nhân chi phối đến địa
vị pháp lý của công ty cổ phần bởi, chỉ có xác định khuyến khích, tạo điều


23

kiện cho kinh tế tư nhân phát triển, thực sự là động lực quan trọng của nền
kinh tế, thì Đảng và Nhà nước mới có chủ trương, chính sách, biện pháp định
hướng, quản lý phù hợp; để vừa tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển,

vừa khắc phục tình trạng “tự phát”, chệch hướng xã hội chủ nghĩa của thành
phần kinh tế này. Trong thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Để thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, cần
thực hiện tốt bốn chính sách kinh tế: Công tư đều lợi; chủ thợ đều lợi; công
nông giúp nhau; lưu thông trong ngoài. Người cho rằng: bốn chính sách kinh
tế ấy là mấu chốt để phát triển kinh tế của nước ta.
Từ quan điểm đó, Đảng và Nhà nước đã xây dựng và hoàn thiện các cơ
chế, chính sách, hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo đầy đủ hành lang pháp lý,
tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển; nâng cao và tăng cường vai trò
quản lý của Nhà nước; phát huy tốt vai trò của các tổ chức chính trị – xã hội
trong hệ thống chính trị đối với sự phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa của kinh tế tư nhân. Và đây chính là khung pháp lý cho sự thành lập,
hoạt động của công ty cổ phần.
1.3.2. Vai trò của công ty cổ phần trong nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thế giới, đặc biệt là kinh tế tư bản chủ nghĩa đã phát triển
rất nhanh vào những năm cuối của thế kỷ 19 và những thập niên đầu tiên của
thế kỷ 20. Có thể nói sau những thành công của hai cuộc cách mạng công
nghiệp,với những nhận thức mới về cơ chế quản lý kinh tế,về cơ cấu và các
loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp mà gần như toàn
bộ nền kinh tề đã khắc phục được những khó khăn, hạn chế từng ảnh hưởng
một cách tiêu cực đến kinh tế thế giới. Với hình thái công ty cổ phần, lần đầu
tiên trong lịch sử kinh tế thế giới đã khắc phục được những tồn tại từng gây
biết bao khó khăn cho mình; đó là tình trạng các công ty thiếu vốn để đầu tư
xây dựng và sản xuất kinh doanh, nguồn vốn có được chủ yếu từ khu vực
kinh tế nhà nước do vậy luôn tồn tại sự buông lỏng quản lý trong doanh
nghiệp; không có động lực trong chiến lược sản xuất, tư liệu bị phân tán;
những nguồn lực bị xé lẻ trong dân...


24


Hình thái công ty cổ phần ra đời đánh dấu sự tiến hoá của chế độ tín
dụng từ kinh doanh chủ yếu dựa vào vay mượn qua ngân hàng hoặc chung
vốn sang huy động vốn trên thị trường tài chính trong đó chủ yếu là thị trường
chứng khoán. Các công ty cổ phần là nguồn cung cấp sản phẩm cho sự phồn
vinh của thị trường chứng khoán. Đổi lại, sự thịnh vượng của thị trường này
tạo điều kiện cho các công ty cổ phần sinh sôi nảy nở. Có thể nói công ty cổ
phần ra đời mang những đặc điểm mới cho phép nó thích ứng với những đòi
hỏi của sự phát triển kinh tế thị trường hiện đại mà những hình thái khác
không thể đáp ứng được. Đó là:
Công ty cổ phần và tính tất yếu khách quan của việc hình thành công ty
cổ phần và vai trò của nó đối với sự phát triển kinh tế thế giới.
Công ty cổ phần là một tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các
cổ đông chỉ có trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi vốn góp của mình. Điều
này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng
vốn lớn nằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội.
Cơ cấu tổ chức trong công ty cổ phần đã thực hiện được việc tách biệt
quyền sở hữu và quyền kinh doanh, tạo nên một hình thái xã hội hoá sở hữu
của một bên là đông đảo công chúng mua cổ phần còn bên kia là đội ngũ các
nhà quản trị kinh doanh chuyên nghiệp sử dụng tư bản xã hội cho những công
cuộc kinh doanh quy mô lớn.
Các cổ phiếu và trái phiếu của công ty cổ phần được chuyển nhượng dễ
dàng trên thị trường chứng khoán, vì thế bất kể cổ phiếu được chuyển chủ bao
nhiêu lần cuộc sống của các doanh nghiệp vẫn tiếp tục một cách bình thường
mà không bị ảnh hưởng. Đồng thời nhờ cơ chế này nó đã tạo nên sự di chuyển
linh hoạt các luồng vốn trong xã hội theo các nhu cầu và cơ hội đầu tư đa
dạng của các công ty và công chúng.
Công ty cổ phần được hình thành và phát triển do sự đòi hỏi của sự
phát triển nền kinh tế thị trường, trong đó chế độ tín dụng và ngân hàng là đòn
bẩy cho quá trình xã hội hóa sở hữu, tiền đề của công ty cổ phần. Công ty cổ

phần là hình thức kinh tế có vai trò vô cùng quan trọng cho sự phát triển của
thị trường tư bản chủ nghĩa.


25

Vai trò lớn nhất của công ty cổ phần là nó đã góp phần đẩy nhanh quá
trình xã hội hóa sở hữu cả về tốc độ lẫn quy mô vì bản thân công ty cổ phần
đã là sản phẩm của sự xã hội hóa sở hữu, được thể hiện qua quá trình tích tụ
và tập trung tu bản. Sự lớn lên tự nhiên của tư bản bằng con đường tích tụ và
tập trung tư bản đã gặp phải những giới hạn, Chính nhờ sự ra đời của công ty
cổ phần mà tư bản được tập trung nhan chóng và làm xuất hiện những xí
nghiệp khổng lồ mà không một tư bản riêng lẻ nào đủ sức tạo nên. C. Mác đã
đánh giá rằng nếu như phải chờ cho đến khi tích lũy tư bản làm cho một số tư
bản lớn lên đến mức có thể làm được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến
nay thế giới vẫn chưa có đường sắt; ngược lại, với các công ty cổ phần, việc
tập trung đã được thực hiện trong “nháy mắt”. Công ty cổ phần còn tạo điều
kiện thuận lợi cho sự di chuyển tư bản đầu tư, tăng tính linh hoạt và cạnh
tranh trong nền kinh tế, phân tán rủi ro cho những người đầu tư trong môi
trường cạnh tranh quyết liệt.
Các công ty cổ phần với việc xã hội hóa sở hữu, huy động vốn từ mọi
tầng lớp xã hội, với việc tách quyền sở hữu với việc quản lý, điều hành quá trình
sản xuất kinh doanh, nó cho phép mở rộng quy mô sản xuất nhanh, tạo điều kiện
cho xã hội hóa sản xuất, và do đó nó làm cho hệ thống ngân hàng, thị trường
chứng khoán và Nhà nước trở thành một bộ máy kinh tế hoạt động và thực hiện
chức năng quản lý mà lâu nay vẫn nằm trong tay các nhà tư bản cá biệt.
Việc hình thành và phát triển của các công ty cổ phần đã mang hình
thái tư bản xã hội đối lập với tư bản tư nhân; còn các xí nghiệp của nó biểu
hiện là những xí nghiệp xã hội đối lập với những xí nghiệp tư nhân. C.Mác
cho rằng đây là “sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong giới

hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa” và là “điểm quá độ
tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất, nhưng
không phải với tư cách sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ”16.

16 Giáo trình kinh tế học chính trị Mác- Lê nin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.305.


×