Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet trong bối cảnh hội nhập quốc tế (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.39 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----
-----

PHẠM HỒNG NHẬT

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA
INTERNET TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----
-----

PHẠM HỒNG NHẬT
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA
INTERNET TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Thị Lan Anh

HÀ NỘI – NĂM 2016


DANH MỤC VIẾT TẮT

Công nghệ thông tin

CNTT

Giao dịch điện tử

GDĐT

Giao kết hợp đồng

GKHĐ

Tổ chức Thương mại thế giới

WTO

Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế

UNCITRAL



MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG
THƯƠNG MẠI THÔNG QUA INTERNET VÀ PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA INTERNET

6

1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại

6

1.1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại

6

1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại

8

1.2. Hợp đồng thương mại thông qua internet

10

1.2.1 Khái quát về hoạt động thương mại thông qua internet


10

1.2.2. Khái niệm hợp đồng thương mại thông qua internet

13

1.2.3. Đặc trưng của hợp đồng thương mại thông qua internet

14

1.3. Giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet

16

1.3.1. Ý nghĩa giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet

16

1.3.2. Phân biệt giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet và giao kết hợp
đồng truyền thống

19

1.4. Khái quát pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại qua internet

24

1.4.1. Khái niệm và cấu trúc pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại

24


1.4.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại qua internet
27
1.4.3. Kinh nghiệm pháp luật nước ngoài về giao kết hợp đồng thương mại qua
internet

28

Kết luận Chương 1

38

CHƯƠNG II: NHỮNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT

40

HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA INTERNET

40

2.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet

40

2.2. Trình tự giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet

41

2.2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet


42

2.2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet

47


2.3. Thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet

49

2.3.1. Thời điểm giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet

49

2.3.2. Địa điểm giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet

52

2.4. Các biện pháp bảo đảm an toàn khi giao kết hợp đồng thương mại qua internet
53
2.4.1. Sử dụng chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử

53

2.4.2. Thủ tục thông báo, đăng ký hoạt động thương mại điện tử và Công khai thông
tin trên Cổng thông tin quản lý hoạt động thương mại điện tử

59


Kết luận Chương 2

62

CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

64

VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ

64

GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA INTERNET Ở VIỆT
NAMTRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ

64

3.1. Yêu cầu đối với việc hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giao
kết hợp đồng thương mại thông qua internet

64

3.1.1. Luôn quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng

64

3.1.2. Đảm bảo nguyên tắc tự do hợp đồng và bình đẳng giữa các bên

65


3.1.3. Phải bảo đảm tính thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật hợp đồng

66

3.1.4. Đảm bảo phù hợp với hạ tầng ứng dụng công nghệ thông tin của Việt Nam 67
3.1.5. Phải đặt trong giải pháp tổng thể hoàn thiện pháp luật về giao dịch điện tử 68
3.1.6. Đảm bảo tương thích với các quy định pháp luật quốc tế

69

3.2 Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại thông qua
internet

70

3.2.1. Bổ sung các quy định cụ thể hướng dẫn việc giao kết hợp đồng thương mại
qua internet

71

3.2.2. Bổ sung quy định về giao kết hợp đồng thương mại qua internet có yếu tố
nước ngoài

71

3.2.3. Quy định chi tiết về giao kết hợp đồng thương mại qua internet trong lĩnh vực
đấu thầu và bán đấu giá tài sản

72



3.2.4. Gia nhập Công ước về Sử dụng chứng từ điện tử trong hợp đồng quốc tế của
Liên hợp quốc

74

3.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giao kết hợp đồng thương
mại thông qua internet

77

3.3.1. Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ có năng lực giao kết hợp đồng thương
mại thông qua internet

77

3.3.2. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin

79

3.3.3. Nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật của các doanh nghiệp

82

3.3.4. Xây dựng thiết chế công chứng hợp đồng thương mại qua internet

83

3.3.5. Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử
và giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet


84

3.3.6. Tăng cường bảo đảm an toàn thông tin trong giao kết hợp đồng thương mại
điện tử

84

Kết luận chương 3

85

KẾT LUẬN

87

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

89


7

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bước vào thế kỷ XXI, cuộc cách mạng về công nghệ thông tin (CNTT) đang
tiến triển với tốc độ nhảy vọt, trở thành một trong những động lực quan trọng của sự
phát triển, làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội trên toàn thế giới.
Công nghệ thông tin đã có mặt ở hầu hết các lĩnh vực. Trong lĩnh vực thương mại,
thông qua phương tiện điện tử, mạng internet, các chủ thể có thể giao kết hợp đồng

mà không cần gặp mặt nhau trực tiếp để đàm phán, thương lượng. Quan hệ hợp
đồng thương mại điện tử thiết lập qua mạng internet có nhiều đặc điểm khác biệt so
với các hợp đồng được thiết lập theo các phương thức thông thường khác, từ đó,
một khuôn khổ pháp lý về hợp đồng thương mại điện tử đã được hình thành. Ngày
nay, ở nhiều quốc gia trên thế giới, bên cạnh các đạo luật về hợp đồng truyền thống,
các nhà lập pháp còn sửa đổi, bổ sung và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
để điều chỉnh những quan hệ hợp đồng thương mại được giao kết bằng phương tiện
điện tử.
Kể từ năm 2005 cho đến nay, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong việc tạo
dựng cơ sở pháp lý cơ bản cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử nói
chung và hợp đồng thương mại điện tử nói riêng. Khởi đầu là việc ban hành Luật
Giao dịch điện tử năm 2005, đồng thời Chính phủ và các bộ, ban, ngành cũng ban
hành rất nhiều những văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành như Nghị định
52/2013/NĐ-CP ban hành ngày 16/05/2013 của Chính phủ về thương mại điện tử
(sau đây gọi tắt là NĐ 52), Nghị định số 26/2007/NĐ-CP ban hành ngày 15/02/2007
của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về Chữ ký số và
Dịch vụ chứng thực chữ ký số, Thông tư số 59/2015/TT-BCT ban hành ngày
31/12/2015 của Bộ Công thương quy định về quản lý hoạt động thương mại điện tử
qua ứng dụng trên thiết bị di động... Tuy nhiên, khung pháp lý về hợp đồng thương
mại điện tử, đặc biệt là hoạt động giao kết hợp đồng thương mại điện tử vẫn còn
nhiều điểm hạn chế, bất cập. Mặt khác, việc giao kết sử dụng phương tiện điện tử,
luôn có sự thay đổi và phát triển nhanh chóng của yếu tố khoa học công nghệ, nên
có nhiều vấn đề pháp lý đang và sẽ tiếp tục phát sinh tác động tới mô hình pháp luật
điều chỉnh quan hệ giao kết hợp đồng thương mại điện tử, đòi hỏi cần tiếp tục
nghiên cứu để ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành nhằm nâng cao hiệu quả của các hợp đồng thương mại giao kết qua


8


phương tiện điện tử.
Bên cạnh đó, bối cảnh khi đất nước ta đang hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế
khu vực và toàn cầu, đặc biệt khi Cộng đồng kinh tế ASEAN được thành lập và Việt
Nam chính thức ký kết Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), đã đặt ra
những thách thức và yêu cầu với Việt Nam về việc thực thi các cam kết của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO), các hiệp định thương mại song phương và đa phương
về thương mại điện tử nói chung và giao kết hợp đồng thương mại điện tử nói riêng.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu chuyên sâu những đặc điểm riêng, những
yêu cầu, đòi hỏi về mặt pháp lý cũng như thực trạng các quy định hiện hành về hoạt
động giao kết hợp đồng thương mại điện tử nói chung và thông qua internet nói
riêng để từ đó đề xuất ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao
hiệu quả thực thi pháp luật về lĩnh vực này là vô cùng cần thiết và có ý nghĩa lớn
trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, tác giả quyết định chọn đề tài: “Giao kết
hợp đồng thương mại thông qua internet trong bối cảnh hội nhập quốc tế” làm đề
tài cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Hợp đồng thương mại điện tử nói chung hay giao kết hợp đồng thương mại
điện tử nói riêng là những vấn đề pháp lý còn tương đối mới mẻ ở Việt Nam. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu về khung pháp luật trong lĩnh vực này còn khá
hạn chế. Chủ yếu, các nhà nghiên cứu tập trung tìm hiểu về pháp luật đối với hợp
đồng điện tử nói chung, mà chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể pháp luật về giao kết hợp
đồng thương mại điện tử. Cụ thể, một số bài báo, tạp chí, sách, luận văn về hợp
đồng điện tử có thể kể đến là:
Một số cuốn sách tiêu biểu nghiên cứu về giao kết hợp đồng thương mại điện
tử:
- Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử, Nguyễn Thị Mơ, Nxb
Lao động - xã hội, Hà Nội, 2006.
- Hợp đồng điện tử theo pháp luật Việt Nam, TS. Trần Văn Biên, Nxb Tư
pháp, Hà Nội, 2012.
- Pháp luật về hợp đồng thương mại và đầu tư - những vấn đề pháp lý cơ bản,

Nguyễn Thị Dung và đồng tác giả, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008.
Bên cạnh đó, có một số luận văn nghiên cứu về giao kết hợp đồng thương mại
điện tử như:
- Pháp luật về hợp đồng thương mại điện tử ở Việt Nam, Hà Vy, Luận văn


9

Thạc sỹ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2015.
- Pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử trên website thương mại
điện tử ở Việt Nam, Trịnh Thị Thu Thảo, Luận văn Thạc sỹ, Trường Đại học Luật
Hà Nội, Hà Nội, 2015.
Ngoài ra còn một số bài tạp chí của TS. Trần Văn Biên nghiên cứu về giao
kết hợp đồng thương mại điện tử như:
- Những vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng điện tử, Tạp chí Tòa án nhân
dân, Tòa án nhân dân tối cao, số 01/2007.
- Pháp luật hợp đồng điện tử, Tạp chí Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối
cao, số 20/2010.
- Về khái niệm hợp đồng điện tử, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà
nước và pháp luật, số 08/2010.
- Đặc điểm hợp đồng điện tử, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện Nhà nước
và pháp luật, số 05/2012.
- Chữ ký điện tử trong giao kết hợp đồng điện tử, Tạp chí Luật học, Trường
đại học Luật Hà Nội, số 06/2012.
Như vậy, có thể thấy, hiện nay, các công trình nghiên cứu mới chỉ tập trung về
pháp luật hợp đồng điện tử hay hợp đồng thương mại điện tử nói chung, mà chưa đi
sâu phân tích nội dung cụ thể là giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet.
Một số công trình nghiên cứu lại phân tích pháp luật giao kết hợp đồng điện tử
trong từng lĩnh vực riêng biệt như website thương mại điện tử hay website có chức
năng đặt hàng trực tuyến... Không có công trình nghiên cứu nào bao quát về vấn đề

giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet. Chính vì vậy, việc có một công
trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ nghiên cứu tổng thể về toàn bộ pháp luật
giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet, đặc biệt trong bối cảnh hội nhập
quốc tế hiện nay là rất quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là pháp luật về giao kết hợp đồng thương
mại thông qua internet và thực tiễn áp dụng pháp luật về giao kết hợp đồng thương
mại thông qua internet ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Giao kết hợp đồng thương mại điện tử nói chung và thông qua internet nói
riêng được cấu thành bởi ba yếu tố: thương mại, công nghệ và pháp lý. Trong phạm
vi nghiên cứu của luận văn, tác giả chỉ nghiên cứu hoạt động giao kết hợp đồng
thương mại thông qua internet ở khía cạnh pháp lý. Đồng thời, phương tiện điện tử


10

là khái niệm rộng hơn internet, trong khuôn khổ luận văn này, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là từ việc phân tích, đánh giá các quy định
pháp luật hiện hành về giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet, đề xuất
các giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử trong bối cảnh hội nhập quốc tế của Việt
Nam hiện nay.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
- Giao kết hợp đồng thương mại qua internet là gì?
- Pháp luật nước ngoài quy định về giao kết hợp đồng qua internet như thế
nào?
- Pháp luật Việt Nam quy định về hoạt động giao kết hợp đồng qua internet
như thế nào? Việc quy định như vậy đã hợp lý chưa?

- Các yêu cầu, tiêu chuẩn để hoàn thiện khung pháp luật về giao kết hợp đồng
thương mại qua internet?
- Các đề xuất nào giúp hoàn thiện khung pháp luật về giao kết hợp đồng
thương mại qua internet?
- Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về giao kết hợp
đồng thương mại qua internet?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Xuất phát từ đối tượng và phạm vi nghiên cứu, các phương pháp chủ yếu
được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài này là:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp thống kê, phân loại;
- Phương pháp logic.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình chuyên khảo nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ
thống về pháp luật giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet ở Việt Nam
trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Nội dung của luận văn hàm chứa nhiều thông tin
pháp lý có giá trị tham khảo tốt đối với hoạt động nghiên cứu, giảng dạy, học tập
cũng như hoạt động xây dựng và hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương
mại điện tử nói chung và hợp đồng thương mại qua internet nói riêng. Trong luận


11

văn này, tác giả đã giải quyết một số vấn đề sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về giao kết hợp đồng thương mại
thông qua internet;
- Phân tích một cách có hệ thống các qui định pháp luật về giao kết hợp đồng
thương mại thông qua internet, về ưu điểm, sự khác biệt cũng như rủi ro khi giao
kết hợp đồng này so với hợp đồng được giao kết theo phương thức truyền thống.

- Tìm hiểu pháp luật nước ngoài về giao kết hợp đồng thương mại thông qua
internet, từ đó đánh giá và rút ra những kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật trong
nước
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet ở Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập quốc tế.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có kết
cấu 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về giao kết hợp đồng thương mại thông qua
internet và pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet.
Chương 2: Những quy định pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại thông
qua internet.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng thương mại thông qua
internet và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập
quốc tế.


12

CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAO KẾT
HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI THÔNG QUA INTERNET VÀ
PHÁP LUẬT VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG THƯƠNG MẠI
THÔNG QUA INTERNET
1.1. Khái quát về hợp đồng thương mại
1.1.1. Khái niệm hợp đồng thương mại
Chế định hợp đồng và hợp đồng thương mại là những chế định đã xuất hiện
từ rất lâu đời. Có thể nói, các chế định này tồn tại ngay từ lúc khởi đầu của xã hội
có tổ chức. Nếu sự an toàn của con người và tài sản được đảm bảo bởi pháp luật
hình sự thì mọi quan hệ trao đổi, mua bán, kinh doanh lại phụ thuộc vào pháp luật

hợp đồng. Nó được coi là cỗ máy, công cụ pháp lý mà qua đó nhu cầu trao đổi, giao
dịch tài sản của con người được thực thi và đảm bảo; những cam kết được thực hiện
và tôn trọng, giúp cho luồng lưu thông hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được nhu cầu
của con người, xã hội và nền kinh tế1.
Ngay từ thời kỳ La Mã cổ đại, hợp đồng đã được xác định là nội dung quan
trọng nhất của pháp luật về nghĩa vụ. Theo đó, hợp đồng được coi là hình thức thể
hiện của các giao dịch song phương mà việc thiết lập chúng có thể trực tiếp làm xác
lập, thay đổi hay chấp dứt quyền và nghĩa vụ. Ngoài ra, xuất phát từ bản chất của
quan hệ hợp đồng, pháp luật La Mã còn quy định các điều kiện cần thiết để một hợp
đồng được xác định là có hiệu lực như: ý chí khi xác lập thỏa thuận; nội dung hợp
đồng phải hợp pháp và cụ thể; hành vi xác lập đối tượng trách nhiệm phải khả thi2...
Như vậy, có thể thấy, từ rất sớm trong lịch sử lập pháp, khái niệm hợp đồng
đã được hình thành và khái quát được bản chất của hợp đồng cho đến ngày nay. Các
hệ thống pháp luật hiện đại sau này mặc dù cũng có nhiều khác biệt về hợp đồng,
nhưng về cơ bản vẫn không xa rời khái niệm nguyên gốc về hợp đồng từ thời kỳ La
Mã cổ đại.
Ở nước ta, chế định hợp đồng và hợp đồng thương mại cũng được ghi nhận từ
rất sớm. Ngay sau khi thống nhất hai miền Nam - Bắc, hòa bình lập lại sau 30 năm
đấu tranh chống giặc ngoài xâm, ngày 10/3/1975, Nghị định số 54/CP về Điều lệ
1 Xem: Đinh Thị Mai Phương (2005), Thống nhất Luật hợp đồng ở Việt Nam, Nxb Tư Pháp, Hà Nội, tr. 7-8.
2 Xem: Đặng Văn Được (2006), Hướng dẫn pháp luật hợp đồng thương mại, Nxb Lao động - Xã hội, tr. 3-4.


13

chế độ hợp đồng kinh tế đã được ban hành. Tiếp đó, ngày 25/9/1989, Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế (Pháp lệnh HĐKT) được ra đời, đánh dấu một bước quan trọng cho
quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế sang định hướng kinh tế thị trường.
Thời gian này, tồn tại song song hai loại hợp đồng với hai mục đích khác
nhau. Bên cạnh hợp đồng kinh tế được ghi nhận “là sự thỏa thuận bằng văn bản, tài

liệu giao dịch giữa các bên ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi
hàng hóa, dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thỏa
thuận khác có mục đích kinh doanh...” (Điều 1 Pháp lệnh HĐKT) thì còn tồn tại
hợp đồng dân sự do Pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991, sau đó là Bộ luật Dân sự
năm 1995 điều chỉnh.
Chỉ đến khi Bộ luật Dân sự năm 2005 ra đời, thay thế Bộ luật Dân sự năm
1995 và Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989 thì mới quy định thống nhất một chế
định là Hợp đồng dân sự. Điều 388 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2005 quy định:
“hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm
dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”, với nội hàm “hợp đồng dân sự” được hiểu theo nghĩa
rộng, không chỉ bó hẹp trong các thỏa thuận của các bên vì mục đích tiêu dùng sinh
hoạt mà còn cả các hợp đồng vì mục đich kinh doanh tìm kiếm lợi nhuận.
Hiện nay, BLDS năm 2015 đã được thông qua (có hiệu lực ngày 01/01/2017)
cũng tiếp tục thể chế theo hướng này, tuy nhiên để tránh nhầm lẫn, Điều 385 về khái
niệm hợp đồng đã bỏ cụm từ “dân sự”, chỉ quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Luật Thương mại (LTM) năm (LTM) 2005 không có qui định riêng về hợp
đồng thương mại bởi lẽ hợp đồng thương mại là một dạng đặc thù của hợp đồng dân
sự nên những vấn đề chung về hợp đồng được qui định tại BLDS. Như vậy, có thể
thấy cho đến nay, pháp luật vẫn chưa có một văn bản quy định về khái niệm hợp
đồng thương mại. Tuy nhiên dựa trên bản chất của hợp đồng, dựa trên Điều 388
BLDS năm 2005, ta có thể đưa ra khái niệm như sau: Hợp đồng thương mại là sự
thỏa thuận về việc xác lập, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong hoạt động
thương mại giữa thương nhân với thương nhân hoặc thương nhân với các bên có
liên quan nhằm mục đích sinh lời.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng thương mại


14


Nghiên cứu từ bản chất pháp lý, ta có thể rút ra những đặc điểm cơ bản của
hợp đồng thương mại với ba tiêu chí cụ thể như sau:
Thứ nhất, về chủ thể hợp đồng thương mại.
Chủ thể của hợp đồng thương mại chủ yếu là các thương nhân kinh doanh
hoạt động thương mại. Khoản 1 Điều 6 LTM năm 2005 quy định: “thương nhân
bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động kinh doanh
một cách động lập thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”.
Như vậy, đối với tổ chức kinh tế, LTM yêu cầu các tổ chức này không chỉ là
các pháp nhân được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức chặt chẽ; có tài sản độc
lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản đó; nhân danh
mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập ... mà còn phải đăng ký kinh
doanh theo quy định của LTM. Đối với cá nhân, bên cạnh các điều kiện về năng lực
trách nhiệm hành vi dân sự cũng cần phải hoạt động kinh doanh một cách độc lập
thườngương xuyên và đăng ký theo đúng thủ tục mới được coi là thương nhân.
Bên cạnh đó, trong hợp đồng thương mại, yêu cầu có bắt buộc cả hai bên chủ
thể phải là thương nhân không vẫn chưa được quy định thống nhất ở các quốc gia.
Có quan điểm cho rằng hợp đồng thương mạai bắt buộc cả hai bên chủ thể đều là
thương nhân. Ví dụ: Theo Bộ luật thương mại Pháp, hợp đồng có cả hai bên chủ thể
là thương nhân là hợp đồng thương mại, một bên trong hợp đồng không phải là
thương nhân thì đó là hợp đồng hỗn hợp. Tuy nhiên cũng có quốc gia có quan điểm
khác khi cho rằng chỉ một bên hợp đồng là thương nhân cũng đủ để coi là hợp đồng
thương mại, ví dụ như ở Bộ luật thương mại của Đức.
Ở Việt Nam, pháp luật không có quy định cụ thể chủ thể hợp đồng trong
thương mại. Tuy nhiên, LTM có thể áp dụng cho cả những hợp đồng ký giữa thương
nhân với người không phải là thương nhân, nếu người đó lựa chọn áp dụng Luật
này (theo khoản 3 Điều 1 LTM năm 2005). Vì thế có thể cho rằng, tổ chức, cá nhân
không phải là thương nhân cũng có thể trở thành một bên chủ thể của hợp đồng
trong thương mại nếu bên kia của hợp đồng là thương nhân. Ví dụ như các hợp
đồng thương mại giữa một bên là các công ty thương mại có mục đích lợi nhuận với
người tiêu dùng chỉ có mục đích cá nhân khi GKHĐ3.

3 Xem: Giáo trình Một số hợp đồng đặc thù trong hoạt động thương mại và kỹ năng đàm phán soạn thảo, Trường Đại


15

Ngoài ra, đối với từng loại hợp đồng thương mại cụ thể, pháp luật cũng quy
định điều kiện về các bên chủ thể tham gia khác nhau. Ví dụ, đối với hợp đồng đại
diện cho thương nhân, hợp đồng đại lý thương mại, hợp đồng dịch vụ quảng cáo...
là những hợp đồng yêu cầu trình độ, chuyên môn cao, cần có sự quản lý chặt chẽ
của Nhà nước thì LTM yêu cầu bắt buộc tất cả các bên chủ thể phải là thương nhân.
Ngược lại, đối với các hợp đồng dịch vụ bán đấu giá hàng hoá, hợp đồng môi giới
thương mại, hợp đồng dịch vụ xây dựng... thì chỉ đòi hỏi ít nhất một bên phải là
thương nhân.
Thứ hai, về hình thức của hợp đồng thương mại
Về bản chất, hợp đồng thương mại là hợp đồng được ký kết dựa trên sự thỏa
thuận theo ý chí tự nguyện của hai bên. Như vậy, hai bên có toàn quyền quyết định
hình thức của hợp đồng khi giao kết bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Tuy
nhiên với từng hợp đồng thương mại cụ thể, để đảm bảo tính chặt chẽ, và là chứng
cứ khi giải quyết tranh chấp, LTM và BLDS có quy định một số loại hợp đồng phải
lập thành văn bản, hoặc phải bằng văn bản và có công chứng. Cụ thể, đối với các
hợp đồng mua bán nhà ở, hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng dịch vụ
khuyến mại, quảng cáo, hội chợ... LTM năm 2005 quy định các bên giao kết hợp
đồng bằng văn bản hoặc các hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương bao
gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (khoản 1 Điều 3 LTM năm 2005).
Thứ ba, về mục đích của các chủ thể trong hợp đồng.
So sánh với hợp đồng dân sự nói chung, mục đích của các chủ thể khi GKHĐ
thương mại là lợi nhuận kinh doanh. Tuy nhiên, xem xét điều kiện về mặt chủ thể
khi GKHĐ thương mại, không phải bắt buộc mọi chủ thể phải là thương nhân.
Chính vì vậy, khác với bên đối tác là thương nhân có mục đích lợi nhuận, với chủ
thể là cá nhân, tổ chức khi GKHĐ thương mại có thể chỉ nhằm mục đích sinh hoạt

tiêu dùng. Do đó, trong hợp đồng thương mại, không bắt buộc hai chủ thể phải cùng
hướng tới một mục đích chung là lợi nhuận kinh doanh, mà chỉ cần ít nhất một bên
có mục đích lợi nhuận. Bên cạnh đó, LTM năm 2005 cũng quy định điều chỉnh
trong trường hợp “Hoạt động không nhằm mục đích sinh lời của một bên trong giao
dịch với thương nhân thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, năm 2012, tr. 13 - 14.


16

Nam trong trường hợp bên thực hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh lời đó
chọn áp dụng Luật này” (khoản 2 Điều 1).
1.2. Hợp đồng thương mại thông qua internet
1.2.1 Khái quát về hoạt động thương mại thông qua internet
Hoạt động thương mại thực hiện thông qua internet đã tồn tại từ lâu trên thế
giới và hiện đang phát hiện mạnh mẽ cùng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ
của toàn nhân loại. Nửa đầu thế kỷ XX, kỹ thuật số bắt đầu phát triển và từng bước
được hoàn thiện. Hình ảnh (kể cả chữ viết, con số, các ký hiệu khác) và âm thanh
đều được số hóa thành các nhóm bit điện tử để ghi lại, lưu giữ trong môi trường tự
truyền đi và đọc bằng điện tử, tất cả đều với tốc độ ánh sáng. Việc áp dụng kỹ thuật
số được coi là cuộc cách mạng vĩ đại trong lịch sử nhân loại, cuộc “cách mạng số
hóa” thúc đẩy sự ra đời của “nền kinh tế số hóa” và “xã hội thông tin” mà TMĐT là
một bộ phận hợp thành.
Quá trình tin học hóa xã hội bùng nổi rồi nhanh chóng lan rộng ra toàn cầu
sau khi internet ra đời. Trong bối cảnh ấy, hoạt động kinh tế nói chung và thương
mại nói riêng cũng chuyển sang dạng “số hóa”, “điện tử hóa”. Khái niệm TMĐT
dần dần hình thành và được ứng dụng ngày càng phổ biến, nhất là trong những năm
gần đây. “TMĐT” (tiếng Anh là e-commerce) còn được biết đến dưới nhiều tên gọi
khác nhau như nền kinh tế ảo, nền kinh tế “.com”, thương mại trực tuyến (online
trade) thương mại điều khiển học (cybertrande), thương mại phi giấy tờ (paperless

commerce), kinh doanh điện tử (electronic business)4.
Không chỉ có nhiều tên gọi khác nhau, mà bản thân TMĐT cũng được nghiên
cứu và tiếp cận với những góc độ riêng biệt. Song, cũng như các thuật ngữ pháp lý
khác, hoạt động TMĐT cũng được tiếp cận dưới hai góc độ: theo nghĩa rộng và theo
nghĩa hẹp. Cách hiểu TMĐT theo nghĩa rộng có hai đại diện tiêu biểu là
UNCITRAL và Ủy ban Châu Âu.
Theo Luật mẫu của UNCITRAL về TMĐT thì phạm vi điều chỉnh của Luật
này là mọi hoạt động thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu và trong khuôn
khổ các hoạt động thương mại. Trong đó, thông điệp dữ liệu được hiểu là “thông tin
được tạo ra, gửi đi, tiếp nhận hoặc lưu trữ bằng phương tiện điện tử, quang học
4 Nguyễn Thị Mơ (2006), Cẩm nang pháp luật về giao kết hơp đồng điện tử, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội, tr. 13-14.


17

hoặc các phương tiện tương tự và bao gồm, nhưng không phải chỉ bao gồm trao đổi
dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo hoặc fax”5.
Ủy ban Châu Âu lại định nghĩa TMĐT là việc thực hiện hoạt động kinh
doanh qua các phương tiện điện tử. Nó dựa trên việc xử lý và truyền số liệu điện tử
dưới dạng chữ, âm thanh và hình ảnh. TMĐT gồm nhiều hành vi trong đó có hoạt
động mua bán hàng hóa qua phương tiện điện tử, giao nhận các nội dung kỹ thuật số
trên mạng, chuyển tiền điện tử, mua bán cổ phiếu điện tử, vận đơn điện tử, đấu giá
thương mại, hợp tác thiết kế, tài nguyên mạng, mua sắm công cộng, tiếp thị trực
tiếp với người tiêu dùng và các dịch vụ sau bán hàng. TMĐT được thực hiện đối với
cả thương mại hàng hóa (ví dụ như hàng tiêu dùng, các thiết bị y tế chuyên dụng) và
thương mại dịch vụ (ví dụ như dịch vụ cung cấp thông tin, dịch vụ pháp lý, tài
chính), các hoạt động truyền thống (như chăm sóc sức khỏe, giáo dục và các hoạt
động mới (như siêu thị ảo)6.
Như vậy, dù xây dựng thành hai định nghĩa khác nhau, nhưng tựu chung, cả
hai tổ chức quốc tế UNCITRAL và Ủy ban Châu Âu đều tiếp cận theo cách hiểu

chung nhất, bao quát nhất về hoạt động TMĐT.
Bên cạnh cách tiếp cận theo nghĩa rộng, TMĐT còn được hiểu theo nghĩa
hẹp, mà đại điện là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Tổ chức Hhợp tác phát
triển kinh tế (OECD).
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), TMĐT bao gồm việc sản xuất,
quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng
internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình cả các sản phẩm được giao nhận
cũng như những thông tin số hóa qua mạng internet7.
Mặt khác, Tổ chức Hợp tác Phát triển Kinh tế của Liên hợp quốc (OECD)
cũng đưa ra khái niệm TMĐT như sau: TMĐT được định nghĩa sơ bộ là các giao
dịch thương mại dựa trên truyền dữ liệu qua các mạng truyền thông như internet8.
Vậy internet là gì? Và tại sao giao dịch thương mại thông qua internet là được
gọi là TMĐT? Internet được định nghĩa là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể
5 Xem: Điều 1, Điều 2 Luật mẫu của UNCITRAL về TMĐT.
6 Nguyễn Thị Mơ, tldd chú thích 2, tr.15.
7 Marc Bacchetta, Patrick Low, Aa ditya Matoo, Ludger Schuknecht, Hannu Wager and Madelon Wehrens, Electronic
Commerce and the role of WTO, University Cambrigde Publishing, p.1.
8 Mai Hồng Quỳ (2000), Một số vấn đề pháp lý của TMĐT và việc áp dụng ở Việt Nam, Nhà nước và Pháp luật, (02), tr.
25.


18

được truy nhập công cộng gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau9. Hệ
thống này truyền thông tin theo kiểu nối chuyển gói dữ liệu (packet switching) dựa
trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn hóa (giao thức IP). Kể từ khi hình
thành, internet luôn được coi là mạng liên kết rộng lớn nhất, ổn định nhất so với các
mạng thông tin khác. Chính vì vậy, sự xuất hiện và phát triển “bùng nổ” của hệ
thống mạng internet được coi là cơ sở, điều kiện nền tảng để hình thành phương
thức giao dịch thương mại qua các thiết bị điện tử. Vì thế, internet luôn được gắn

với TMĐT, và các giao dịch thương mại qua phương tiện điện tử được kết nối
internet cũng được hiểu là TMĐT.
Ở Việt Nam, khái niệm TMĐT cũng được tiếp cận theo hai góc độ là nghĩa
rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, cũng như UNCITRAL và Ủy ban châu Âu,
TMĐT được hiểu là toàn bộ những giao dịch thương mại (mua bán hàng hóa, cung
ứng dịch vụ) được thực hiện qua các phương tiện điện tử. Các phương tiện điện tử
này bao gồm tất cả các thiết bị có thể lưu trữ, truyền dẫn thông tin và liên kết được
với nhau qua hệ thống mạng máy tính toàn cầu internet hay các mạng viễn thông
khác. Có thể lấy ví dụ các thiết bị điện tử điển hình như: máy vi tính, điện thoại di
động, máy fax, telex... Cách tiếp cận thứ hai, theo nghĩa hẹp (đây cũng là cách hiểu
khá phổ biến ở Việt Nam), thì TMĐT là các hoạt động thương mại được thực hiện
qua các phương tiện điện tử được kết nối internet. Như vậy, theo cách hiểu này, hoạt
động TMĐT chỉ là các hoạt động mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ mà sử dụng
các phương tiện được kết nối thông qua hệ thống mạng máy tính toàn cầu internet,
mà phổ biến và điển hình nhất là máy vi tính và các thiết bị khác có thể kết nối
internet như điện thoại di động, ipad... Theo cách hiểu này, hoạt động thương mại
thông qua các thiết bị điện tử sử dụng mạng viễn thông khác như máy fax, telex…
sẽ không được coi là TMĐT. Đây cũng được coi là cách hiểu hợp lý, bởi: hoạt động
TMĐT bắt đầu xuất hiện và phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam bắt nguồn và trên cơ
sở sự hình thành của hệ thống mạng máy tính toàn cầu internet vào năm 199710.
Cho đến nay, internet vẫn được coi là hệ thống mạng liên kết rộng lớn nhất, phổ
biến nhất và phát triển nhất tại Việt Nam. Hệ thống mạng internet được coi là điều
kiện cơ bản là nền tảng để hình thành và phát triển một phương thức thương mại
9 Xem: truy cập ngày 29/06/2016.
10 Xem: ngày truy cập 29/06/2016.


19

mới, là hoạt động thương mại qua các phương tiện điện tử có kết nối internet TMĐT. Vì vậy, có thể nói cách hiểu theo nghĩa hẹp, coi TMĐT là hoạt động thương

mại được thực hiện qua các phương tiện điện tử được kết nối bởi mạng máy tính
toàn cầu internet, là cách hiểu phổ biển trong thực tiễn tại Việt Nam. Tuy nhiên,
quan điểm của tác giả cho rằng, TMĐT là thương mại được thực hiện thông qua các
phương tiện điện tử, bao gồm tất cả các thiết bị có thể lưu trữ, truyền dẫn thông tin
và liên kết được với nhau qua hệ thống mạng máy tính toàn cầu internet hay các
mạng viễn thông, mạng mở khác như máy vi tính, điện thoại di động, ipad, máy fax,
telex…, trong đó thương mại thông qua internet là một bộ phận của TMĐT.
Tại Việt Nam, từ khi Luật GDĐT năm 2005 ra đời, đã có rất nhiều nghiên
cứu của các tổ chức cá nhân nhưng vẫn chưa đưa ra được khái niệm thống nhất về
TMĐT. Nghị định số 57/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành ngày 9/6/2006 về
TMĐT - là văn bản ở cấp độ Nghị định đầu tiên đề cập về vấn đề này, nhưng chưa
đưa ra được định nghĩa về TMĐT. Nghị định số 52 là văn bản hiện hành gần nhất,
cũng không đưa ra đưa được định nghĩa TMĐT mà chỉ quy định về hoạt động
TMĐT (tại khoản 1 Điều 3). Theo đó: “hoạt động TMĐT là việc tiến hành một phần
hoặc toàn bộ quy trình của hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết
nối mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác”.
Như vậy, cho đến nay, TMĐT vẫn còn là một khái niệm phức tạp, và được
định nghĩa theo nhiều cách khác nhau. Từ những phân tích trên đây, tác giả xin đưa
khái niệm thương mại thông qua internet (TMĐT - tiếp cận theo nghĩa hẹp) trong
phạm vi nghiên cứu trong luận văn của mình: thương mại thông qua internet là việc
thực hiện một phần hoặc toàn bộ các quy trình của hoạt động thương mại bằng
phương tiện thông tin dưới dạng thông điệp dữ liệu điện tử và được truyền đi bằng
mạng máy tính toàn cầu internet.
1.2.2. Khái niệm hợp đồng thương mại thông qua internet
Cùng với sự bùng nổ của cuộc cách mạng CNTT, GDĐT trở thành một
phương thức giao dịch mới được các chủ thể kinh doanh thường xuyên sử dụng.
Với những ưu thế so với hợp đồng thương mại truyền thống, các thương nhân có thể
tiết kiệm thời gian chi phí và GKHĐ TMĐT với nhau trên toàn cầu. Chính vì vậy,
khái niệm hợp đồng điện tử nói chung và hợp đồng TMĐT trở nên phổ biến trong



20

khoa học pháp lý. Năm 1996, Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL được ban hành,
đã quy định tại Điều 11: “hợp đồng điện tử được hiểu là hợp đồng được hình thành
thông qua việc sử dụng các phương tiện truyền dữ liệu điện tử”.
Ở Việt Nam, khái niệm hợp đồng điện tử lần đầu quy định tại Luật GDĐT
năm 2005. Theo đó, trên tinh thần kế thừa Luật mẫu về TMĐT của UNCITRAL,
Điều 33 quy định: “Hợp đồng điện tử là hợp đồng được thiết lập dưới dạng thông
điệp dữ liệu được quy định của Luật này”. Trong đó, thông điệp dữ liệu được hiểu
là thông tin được tạo ra, được gửi đi, được nhận và được lưu trữ bằng phương tiện
hoạt động dựa trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính, truyền dẫn không
dây, quang học, điện từ...11.
Có thể thấy, Luật GDĐT năm 2005 điều chỉnh chung tất cả các loại hợp đồng
được thực hiện bằng phương thức điện tử, mà không phụ thuộc vào mục đích giao
kết của chúng. Điểm khác biệt căn bản của hợp đồng TMĐT so với các hợp đồng
truyền thống khác là ở mục đích giao kết, khi các thương nhân hướng đến lợi nhuận
kinh doanh. Như vậy, về kỹ thuật lập pháp, Luật GDĐT điều chỉnh chung mọi hợp
đồng được giao kết bằng phương tiện điện tử, còn điều kiện về hình thức, nội dung
của từng loại hợp đồng sẽ do văn bản pháp luật chuyên ngành trực tiếp quy định.
LTM năm 2005 hiện chưa có điều khoản quy định cụ thể về khái niệm hợp đồng
thương mại.
Tuy nhiên, nghiên cứu từ bản chất hợp đồng và đặc thù GDĐT, có thể hiểu:
hợp đồng TMĐT là hợp đồng được thiết lập bằng các thông điệp điện tử, được hình
thành thông qua việc sử dụng các phương tiện điện tử với mục đích sinh lời. Hợp
đồng thương mại thông qua internet là những hợp đồng được ký kết giữa thương
nhân với thương nhân hoặc thương nhân với các bên có liên quan nhằm mục đích
sinh lời bằng cách trao đổi các thông điệp dữ liệu thông qua các phương tiện điện
tử có kết nối mạng máy tính toàn cầu internet.
1.2.3. Đặc trưng của hợp đồng thương mại thông qua internet

Khác với hợp đồng truyền thống, do được giao kết bằng cách truyền các
thông điệp dữ liệu qua mạng máy tính kết nối toàn cầu nên bên cạnh những đặc
điểm chung vốn có của hợp đồng nói chung và hợp đồng thương mại nói riêng, hợp
11 Xem: khoản 10 Điều 4, Điều 10 Luật GDĐT năm 2005.


21

đồng thương mại thông qua internet có một số đặc điểm cơ bản sau đây:
- Tính phi biên giới:
Sử dụng phương tiện điện tử để truyền tải thông tin dưới dạng các thông điệp
số qua hệ thống mạng internet nên hợp đồng thương mại có thể được giao kết ở bất
cứ đâu trên toàn cầu. Chủ thể là thương nhân trong nước hay một thương nhân nước
ngoài ở khu vực địa lý nào, tại múi giờ bao nhiêu, có bao nhiêu đối tác liên quan
đều có thể GKHĐ với nhau thông qua hệ thống mạng internet. Nhờ vậy, các chủ thể
kinh doanh có thể tiết kiệm thời gian, chí phí cũng như giải quyết được khó khăn về
khoảng cách địa lý khi kí kết hợp đồng. Đây được coi là ưu điểm vượt trội của hợp
đồng điện tử so với hợp đồng truyền thống trong bối cảnh hội nhập quốc tế, toàn
cầu hóa thương mại.
- Tính vô hình và phi vật chất:
Môi trường điện tử là môi trường “số hóa”, môi trường “ảo”, vì vậy hợp đồng
thương mại qua internet mang đặc tính vô hình, phi vật chất, có nghĩa là các hợp
đồng này tồn tại, được chứng minh, được lưu trữ bởi các dữ liệu điện tử dưới dạng
thuật toán chứ không thể “cầm nắm” hay tiếp xúc vật chất thông qua tri giác được.
Tính vô hình và phi vật chất này khiến việc xác định các yếu tố liên quan đến hình
thức hợp đồng điện tử hoàn toàn khác biệt so với các hợp đồng truyền thống trước
đây. Ví dụ như vấn đề hình thức văn bản của hợp đồng, vấn đề chữ ký của chủ thể
khi kí kết, vấn đề lưu trữ bảo vệ hợp đồng tại trụ sở, hay chứng cứ để chứng minh
tại Tòa án khi xảy ra tranh chấp...
- Tính hiện đại và chính xác:

Tính hiện đại của hợp đồng TMĐT thể hiện ở chỗ, hợp đồng được giao kết
dựa trên việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật hiện đại, là kết quả của sự phát triển
khoa học kỹ thuật và công nghệ trong thời đại mới. Đó là những công nghệ tiên tiến
như công nghệ điện tử, kỹ thuật số, từ tính, quang học, điện từ, các công nghệ
truyền dẫn không dây... Việc sử dụng các công nghệ này đem lại độ chính xác cao
cho các giao dịch, đặc biệt là những giao dịch mà tất cả các bước đều được thực
hiện tự động hóa. Hợp đồng TMĐT, với tính hiện đại và chính xác như vậy, sẽ là
phương thức giao dịch mới và hiệu quả cho các chủ thể pháp luật nói chung và các
doanh nghiệp nói riêng trong nền kinh tế tri thức và trong điều kiện toàn cầu hóa và


22

hội nhập kinh tế quốc tế12. Là một bộ phận của TMĐT, hợp đồng thương mại qua
inernet đang đầy đủ tính hiện đại và tính chính xác.
- Tính rủi ro:
Hợp đồng TMĐT nói chung và hợp đồng thương mại qua internet nói riêng
sử dụng các phương tiện ứng dụng khoa học kỹ thuật số, chính vì vậy, bên cạnh các
ưu điểm vượt trội so với hợp đồng được giao kết theo phương thức truyền thống,
hợp đồng TMĐT cũng tồn tại một số rủi ro đặc thù. Những rủi ro này xuất phát từ
tính phi biên giới, tính vô hình - phi vật chất và tính hiện đại, chính xác. Cụ thể, do
hợp đồng TMĐT có thể xóa bỏ rào cản về khoảng cách địa lý và kết nối tới toàn cầu
nên dẫn đến rủi ro: khó có thể xác định được thời gian, địa điểm GKHĐ. Tính vô
hình, phi vật chất của các thông điệp dữ liệu điện tử lại gây khó khăn khi xác định
hình thức của hợp đồng: như hình thức văn bản, vấn đề lưu trữ bản gốc hay chứng
cứ tại Tòa án của hợp đồng điện tử. Tính hiện đại và chính xác của công nghệ đòi
hỏi hợp đồng TMĐT phải đáp ứng các yêu cầu khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất của
phương tiện GKHĐ.
- Luật điều chỉnh:
Những đặc điểm riêng biệt của hợp đồng thương mại thông qua internet khiến

cho luật điều chỉnh đối với hợp đồng cũng khác với hợp đồng truyền thống. Vì luật
chung chưa quy định về thông điệp dữ liệu, trao đổi thư điện tử, chữ ký điện tử...
nên không thể giải quyết được những vấn đề đặc thù phát sinh từ việc giao kết và
thực hiện hợp đồng điện tử. Do đó, nhiều quốc gia trên thế giới đã ban hành các đạo
luật riêng quy định từng vấn đề pháp lý cụ thể trong hợp đồng TMĐT như Luật
GDĐT, Luật chữ ký điện tử hay Luật mẫu của Ủy ban Liên hợp quốc về TMĐT.
Đây không chỉ là cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động kinh doanh của các thương
nhân khi sử dụng hợp đồng điện tử trong nội bộ của từng quốc gia, mà còn là căn cứ
pháp lý quốc tế để điều chỉnh những hoạt động thương mại mang tính toàn cầu.
1.3. Giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet
1.3.1. Ý nghĩa giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet
Có thể thấy, bên cạnh những lợi ích khi giao kết hợp đồng theo phương thức
truyền thống nói chung, hợp đồng thương mại qua internet có ý nghĩa sau đây:
12 Nguyễn Thị Mơ, tldd chú thích 2, tr. 23.


23

Thứ nhất, giúp các bên giao kết tiết kiệm được thời gian đàm phán, giao kết
hợp đồng.
Có thể thấy, cũng như mọi loại hợp đồng, quá trình GKHĐ qua internet cũng
gồm nhiều bước, từ tìm hiểu đối tác, giới thiệu sản phẩm dịch vụ, gửi đơn chào
hàng, gửi chấp nhận chào hàng, đàm phán các điều khoản hợp đồng, ký kết, sửa đổi,
lưu trữ... Nếu tất cả các công việc này đều hình thức văn bản “giấy trắng, mực đen”
truyền thống thì các bên thương nhân soạn thảo, in ấn giấy tờ, thời gian gửi và chờ
nhận thư liên lạc trao đổi sẽ mất nhiều thời gian. Với sự thuận lợi của các giao diện
ảo trên internet, các hàng hóa được bày bán không tốn diện tích không gian để trưng
bày, giới thiệu sản phẩm. Chỉ bằng một nút kích chuột trên máy tính, một thương
nhân có thể GKHĐ với mọi đối tác ở bất kì đâu trên thế giới. Bằng các phương tiện
điện tử có kết nối internet, một thương nhân có thể giảm đáng kể thời gian để giao

kết một hợp đồng. Qua một cuộc điều tra cho thấy, 80% thời gian để ký kết hợp
đồng sẽ được tiết kiệm bằng việc sử dụng hợp đồng điện tử13. Việc sử dụng
internet sẽ giúp cho các bên giao kết giảm đáng kể thời gian giao dịch, ví dụ như
thời gian giao dịch qua internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua fax, bằng 0,5
phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện14.
Thứ hai, giúp các bên giảm được chi phí giao dịch, bán hàng.
Có thể thấy, việc giao kết chỉ bằng các thao tác máy tính cơ bản giúp các
thương nhân không những tiết kiệm thời gian mà cả chi phí khi giao dịch hợp đồng.
Cụ thể, chi phí giao dịch qua internet chỉ bằng 5% chi phí giao dịch qua fax hay qua
bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán bằng 10% - 20% chi phí thanh toán
theo lối thông thường15. Các ứng dụng internet sẽ thay thế các cuộc gặp gỡ trực
tiếp với các nhà cung cấp và khách hàng, từ đó trợ giúp việc trao đổi thông tin và ký
kết hợp đồng. Thư điện tử, hội thảo qua video và thảo luận trên mạng được sử dụng
thuận tiện, dễ dàng và chi phí rẻ hơn so với việc sử dụng điện thoại, fax và gửi thư
thông thường, điều này thực sự có ý nghĩa với các chủ thể kinh doanh ở khoảng
cách địa lý xa nhau. Người ta ước tính rằng chi phí có thể tiết kiệm được khi chuyển
từ giao dịch thương mại truyền thống sang giao dịch TMĐT có thể dao động trong
13 Nguyễn Thị Mơ, tldd chú thích 2, tr. 25.
14 Xem: Nguyễn Thị Mơ, tldd chú thích 2, tr. 25.
15 Xem: Nguyễn Thị Mơ, tldd chú thích 2, tr. 26.


24

khoảng từ 2% - 39%, tùy theo từng lĩnh vực, ngành nghề16.
Thứ ba, giao kết hợp đồng thương mại qua internet giúp đẩy nhanh tiến độ
“số hóa” đối với việc mua bán một số sản phẩm và dịch vụ.
Các giao dịch TMĐT thường được chia thành hai nhóm sau đây: Một là, giao
dịch buôn bán các hàng hóa vật chất thông thường. Trong nhóm này, các phương
tiện điện tử kết nối internet chỉ tham gia vào một số hoạt động trong quá trình

GKHĐ thương mại như giao dịch chào hàng, chấp nhận chào hàng hoặc thanh toán
còn bước vận chuyển, giao hàng vẫn được sử dụng theo cách thức truyền thống.
Cách thức này tạo ra những ưu việt và thuận lợi cho một quá trình giao dịch TMĐT
nói chung và GKHĐ điện tử nói riêng ở giai đoạn chuyển đổi sang TMĐT hoàn
toàn. Các giao dịch này phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có điều
kiện áp dụng các phương tiện điện tử tiên tiến nhất cũng như thực hiện toàn bộ quy
trình giao kết TMĐT.
Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với Việt Nam, một nước đi sau trong ứng
dụng hợp đồng điện tử, nơi phần lớn các doanh nghiệp là loại hình vừa và nhỏ với
các nguồn lực hạn chế. Sự phát triển TMĐT, gia tăng GKHĐ điện tử sẽ góp phần
rút ngắn khoảng cách địa lý, tăng khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, thúc
đẩy sản xuất phát triển, đưa nền kinh tế Việt Nam đến gần với các nước trên thế
giới, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, giao dịch mua bán các sản phẩm và dịch vụ “số hóa”. Trong nhóm thứ
hai này, việc giao dịch, thực hiện GKHĐ, thanh toán hoặc cung ứng hàng hóa, dịch
vụ đều được thực hiện thông qua các thông điệp dữ liệu đã được số hóa. Có nghĩa,
tất cả các bước trong giao dịch hợp đồng thương mại đều được thực hiện theo quy
trình TMĐT. Các giao dịch này thường được các doanh nghiệp nghiệp lớn, các tập
đoàn xuyên quốc gia sử dụng để giao kết các hợp đồng áp dụng hoàn toàn chương
trình máy tính tự động.
Thứ tư, giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa như hiện nay, việc tìm kiếm
đối tác, khách hàng tiềm năng, thị trường mới, tổ chức được kênh cung ứng linh
16 Xem: Nguyễn Thị Mơ, tldd chú thích 2, tr. 27.


25

hoạt, gọn nhẹ, nhanh chóng với chi phí thấp cũng như khả năng phản ứng, nắm bắt

cơ hội kinh doanh là những lợi thế không thể thiếu đối với mỗi doanh nghiệp.
GDĐT nói chung và hợp đồng điện tử nói riêng chính là chiếc chìa khóa tạo cơ hội,
thúc đẩy sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp để thu được lợi nhuận tối đa.
Trước hết, giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet giúp các doanh
nghiệp cùng một lúc và trong thời gian ngắn có thể tiếp cận, giao dịch, trao đổi
thông tin với nhiều đối tác. Thông qua sự kết nối điện tử, doanh nghiệp có thể liên
lạc một cách hiệu quả, nhanh chóng với các nhà cung cấp, các khách hàng của
mình. GKHĐ thương mại thông qua internet sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể, dù họ
là doanh nghiệp, cơ quan chính phủ hay người tiêu dùng, dù ở trong nước hay nước
ngoài vẫn có thể giao kết trực tiếp và liên tục và không bị rào cản bởi khoảng cách
thời gian và địa lý. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể GKHĐ thương mại
thông qua internet có thể hợp tác, quản lý, tận dụng tối đa các cơ hội kinh doanh
trong phạm vi một nước cũng như ở khu vực hay trong môi trường kinh doanh quốc
tế.
Việc tiết kiệm thời gian và chi phí giao dịch, đàm phán, ký kết trong hợp
đồng thương mại thông qua internet cũng là yếu tố quan trọng làm giảm chi phí
kinh doanh nói chung của doanh nghiệp từ đó góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Nhờ vào các phương tiện điện tử, doanh nghiệp có thể tiếp
cận, nắm bắt kịp thời những cơ hội kinh doanh mới và ký kết hợp đồng một cách
nhanh chóng.
1.3.2. Phân biệt giao kết hợp đồng thương mại thông qua internet và giao
kết hợp đồng truyền thống
Có thể thấy, khác với hợp đồng giao kết theo cách truyền thống, hợp đồng
thương mại giao kết thông qua internet sử dụng các phương tiện điện tử có kết nối
internet để truyền dẫn các thông điệp dữ liệu. Do đó, khi GKHĐ thương mại thông
qua internet sẽ phát sinh một số vấn đề mới so với hợp đồng truyền thống về hình
thức hợp đồng, chữ ký điện tử hay vấn đề lưu trữ, bảo vệ bản gốc... Cụ thể như sau:
1.3.2.1. Thời gian và địa điểm giao kết hợp đồng
- Về thời gian giao kết hợp đồng:
Cũng như hợp đồng truyền thống, khi GKHĐ thương mại thông qua internet



×