Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Pháp luật về thương mại điện tử ở việt nam trong xu thế hội nhập quốc tế (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.85 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC ANH

PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM TRONG XU THẾ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Pháp luật về Thương mại điện tử ở Việt Nam
trong xu thế hội nhập quốc tế”, tác giả đã nhận được sự giúp đỡ và hỗ trợ của nhiều tổ
chức, cá nhân.
Với tấm lòng chân thành và sự biết ơn sâu sắc nhất, tác giả xin được gửi lời cảm ơn
đặc biệt tới Tiến sĩ Vũ Đặng Hải Yến. Cô là người đã luôn theo dõi và hướng dẫn sát sao,
giúp tác giả có những định hướng và kỹ năng nghiên cứu đúng đắn trong quá trình triển khai
đề tài.
Tác giả xin gửi lời tri ân tới các thầy cô Khoa Pháp luật Kinh tế nói chung, các thầy cô
Khoa sau Đại học Trường Đại học Luật Hà Nội nói riêng đã trang bị cho tác giả những kiến
thức nền tảng trong suốt hai năm đào tạo. Cảm ơn Ban Giám hiệu Trường Đại học Luật Hà
Nội đã tạo điều kiện cho các học viên trong suốt thời gian học cũng như trong quá trình hoàn
thành luận văn.
Cuối cùng, tác giả xin gửi lời cảm ơn tới những người thân trong gia đình, bạn bè đã


động viên, khích lệ tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành Luận văn này.
Học viên
Nguyễn Thị Ngọc Anh


LỜI CAM ĐOAN

Tác giả xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu do tự bản thân thực hiện
và không sao chép các công trình nghiên cứu của cá nhân, tổ chức khác. Các số liệu, thông
tin được trích dẫn trong Luận văn có nguồn gốc rõ ràng và tuân thủ đúng nguyên tắc trích
dẫn. Kết quả trình bày trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trước đây.
Tác giả hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của Luận văn.

Hà Nội, ngày 3 tháng 08 năm 2016
Học viên

Nguyễn Thị Ngọc Anh


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
7
1.1. Khái quát về thương mại điện tử
7
1.1.1.
Quá trình hình thành thương mại điện tử
7
1.1.2.
Khái niệm Thương mại điện tử

8
1.2. Đặc điểm và vai trò của thương mại điện tử
10
1.2.1.
Đặc điểm của thương mại điện tử
10
1.2.2.
Vai trò của Thương mại điện tử
12
1.3. Khái quát về pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam
15
1.3.1.
Khái niệm, đặc điểm của pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam
15
1.3.2.
Hệ thống pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
16
1.3.3.
Nội dung của pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
24
1.3.4.
Đánh giá sự hình thành pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam trong
tương quan so với pháp luật thương mại điện tử trên thế giới
27
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT
NAM
32
2.1. Thực trạng thực thi pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
32
2.1.1.

Tổng quan tình hình ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp tại
Việt Nam
32
2.1.2.
Tình hình thực thi pháp luật thương mại điện tử của các doanh nghiệp 33
2.1.3.
Tình hình thực thi bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện
tử
34
2.2. Đánh giá thực trạng pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
37
2.2.1.
Quy định về giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử
37
2.2.2.
Quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong Thương mại điện tử
46
2.2.3. Quy định về các vấn đề bảo về quyền lợi người tiêu dùng trong Thương mại điện
tử
50
2.2.4.
Quy định các hành vi vi phạm trong Thương mại điện tử
56
CHƯƠNG 3. ĐỀ XUẤT NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ TMĐT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
62
3.1. Yêu cầu cơ bản đối với pháp luật về thương mại điện tử Việt Nam trong bối cảnh
hội nhập Quốc tế
62
3.1.1.

Xu hướng phát triển thương mại điện tử của thế giới và Việt Nam
62
3.1.2.
Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật TMĐT ở Việt Nam
66
3.2. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về Thương mại điện tử Việt Nam
68
3.3. Những đề xuất cụ thể nhằm nâng cao pháp luật về thương mại điện tử Việt Nam71
3.3.1.
Nhóm giải pháp xây dựng và hoàn thiện pháp luật
71
3.3.2.
Nhóm giải pháp tổ chức thực hiện việc hoàn thiện pháp luật TMĐT
76
3.3.3.
Nhóm giải pháp tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật về TMĐT
78


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Thương mại điện tử (eCommerce) đã và đang phát triển mạnh mẽ, khoảng cách giữa
thế giới thực và thế giới ảo ngày càng được thu hẹp hơn. Hiện nay những từ như Alibaba,
Amazon... không có gì xa lạ đối với nhiều người trong chúng ta đặc biệt là những người làm
về công nghệ thông tin. Đó là những điển hình về sự thành công trong lĩnh vực thương mại
điện tử, về áp dụng công nghệ thông tin vào thực tiễn cuộc sống mà cụ thể ở đây là thương
mại. Các nước trên thế giới đều đã và đang sẵn sàng nhập cuộc vào cuộc chơi của Thương
mại điện tử vì nó đem lại những nguồn lợi nhuận khổng lồ: Doanh thu bán lẻ TMĐT của Úc
trong năm 2015 đạt khoảng 19.2 tỷ USD; doanh thu bán lẻ trực tuyến của Ấn Độ cũng đạt
khoảng 14 tỷ USD năm 2015 dự đoán đến năm 2018 mức doanh thu này sẽ đạt 55,26 tỷ

USD…
Với sự phát triển của Internet, 3G và các thiết bị di động, đặc biệt là smartphone cùng
hàng ngàn thẻ ngân hàng phát hành mỗi ngày, TMĐT Việt Nam cũng đang đứng trước thời
cơ bùng nổ. Theo Cục TMĐT và Công nghệ thông tin, (Bộ Công Thương), TMĐT đang có
bước phát triển rất nhanh nhờ hệ thống viễn thông phát triển vượt bậc với khoảng 1/3 dân số
Việt Nam truy cập Internet. Tỷ lệ website có tính năng đặt hàng trực tuyến là 58%, trong đó
tỷ lệ website có tính năng thanh toán trực tuyến là 15%. Sự phổ cập của Internet, 3G và các
thiết bị di động đã chắp thêm sức mạnh cho TMĐT ở Việt Nam.
Do hoạt động TMĐT xuất hiện và phát triển khá sớm nên pháp luật về TMĐT chung
của quốc tế và một số nước trên thế giới cũng xuất hiện tương đối sớm như: Luật mẫu về
Thương mại điện tử của Liên hiệp quốc năm 1996; hay Luật Thương mại điện tử thống nhất
của Canada 1999; Luật Thương mại điện tử của Ấn Độ năm 1998… tạo khung pháp lý cho
các hoạt động TMĐT. So với pháp luật thế giới về TMĐT thì pháp luật TMĐT ở Việt Nam
ra đời muộn hơn. Tháng 10-2000, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 58-CT/TW về việc
đẩy mạnh ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, trong đó yêu cầu tập trung phát triển các dịch vụ điện tử trong các lĩnh vực dịch
vụ và thương mại. Tháng 4-2001, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, thương mại điện tử
đã được nhắc tới như một yếu tố thị trường quan trọng cần phát triển nhằm hỗ trợ các ngành
thương mại, dịch vụ khác, thể hiện trong văn kiện về định hướng phát triển kinh tế, xác định
tư tưởng chỉ đạo của Đảng đối với thương mại điện tử. Ngày 15-9-2005, Thủ tướng Chính
phủ đã ký “Quyết định phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn
2006-2010” đồng thời Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông
qua ngày 29/11/2005. Đây được coi là văn bản pháp lý chính thức đầu tiên có điều chỉnh
trong lĩnh vực TMĐT. Tiếp đó lần lượt đến các văn bản quan trọng trực tiếp điều chỉnh lĩnh
vực TMĐT như: Nghị định 57/2006/NĐ-CP về Thương mại điện tử hiện nay được thay thế
bởi Nghị định 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử,… Mặc dù các quy định cơ bản của
Luật giao dịch điện tử và pháp luật TMĐT của Việt Nam tương đối tương đồng với các Luật
mẫu của UNCITRAL. Tuy nhiên, do lĩnh vực TMĐT bao trùm khá rộng, vì vậy thực tế quy
định của pháp luật Việt Nam về lĩnh vực này còn tản mạn, tạo thành một hệ thống văn bản
“đồ sộ” khi áp dụng. Bên cạnh đó, Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập sâu và rộng với

thế giới (Việt Nam đã là thành viên của một loạt những tổ chức kinh tế lớn như Apec, WTO,
mới đây nhất là TPP), do đó, việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về TMĐT nói
riêng để phù hợp với sự phát triển của hệ thống pháp luật thế giới là yêu cầu hết sức cấp
thiết.
Tuy nhiên, do TMĐT còn khá mới, pháp luật về TMĐT còn chưa được phổ biến rộng
rãi, chính vì vậy cần có những nghiên cứu cụ thể về pháp luật TMĐT ở Việt Nam cũng như


phương hướng hoàn thiện để pháp luật về TMĐT Việt Nam có thể phù hợp với thực tế phát
triển TMĐT ở Việt Nam đồng thời cũng bắt kịp với pháp luật thế giới về lĩnh vực này. Chính
vì các lí do trên, tác giả lựa chọn đề tài cho luận văn là: “Pháp luật về thương mại điện tử ở
Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế” để hi vọng góp một phần những ý kiến cá nhân
cũng như những tìm hiểu của bản thân vào hệ thống các công trình nghiên cứu về vấn đề
trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù TMĐT đã manh nha hình thành ở Việt Nam gần 20 năm và pháp luật về
TMĐT Việt Nam cũng ra đời được hơn 10 năm song những nghiên cứu sâu về tổng thể pháp
luật TMĐT chưa nhiều mà chỉ tập trung ở một số khía cạnh nhất định của TMĐT như: Giao
kết hợp đồng; Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Chữ ký điện tử… Có thể kể đến một số
nghiên cứu tiêu biểu như:
-

Phí Mạnh Cường (2006), Một số vấn đề pháp lý về chữ ký điện tử trong thương mại
điện tử, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.

-

Nguyễn Đức Anh (2009), Một số vấn đề pháp lý về giao kết hợp đồng trên website
thương mại điện tử sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến, Khoá luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Luật Hà Nội.


-

Phạm Thị Mơ (2010), Một số vấn đề pháp lý cơ bản về hợp đồng thương mại điện tử
có yếu tố nước ngoài theo pháp luật Việt Nam, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội.

-

Nguyễn Mạnh Dũng (2011), Rủi ro trong giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại
điện tử - Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học
Luật Hà Nội.

-

Hoàng Thu Trang (2012), Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong thương mại điện tử, Khoá luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội.

-

Nguyễn Thị Hòa (2012), Chế tài pháp lý đối với hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu
dùng trong thương mại điện tử, Tạp chí Toà án nhân dân số 4/2012.

-

Phí Mạnh Cường (2008), Một số vấn đề pháp lý về chữ kí điện tử ở Việt Nam, Tạp
chí Luật học số 8/2008.

Những nghiên cứu trên đã đi sâu hơn vào một hoặc một vài vấn đề của TMĐT chứ
chưa đưa ra được một bức tranh tổng thể về TMĐT. Những nghiên cứu tổng quát về thương

mại điện tử có tính sâu và rộng nổi bật như:
-

Vũ Hải Anh (1999), Một số khía cạnh pháp lý về thương mại điện tử, luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

-

Dương Thị Mai Ngọc (2009), Pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam - Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật
Hà Nội.

-

Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002), Pháp luật về thương mại điện tử, hội thảo khoa
học, Trường Đại học Luật Hà Nội.


Và mới đây nhất, tháng 5/2016, Nhà xuất bản Tư pháp có cho ra đời cuốn sách
“Hoàn thiện pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Tào Thị
Quyên và Lương Tuấn Nghĩa.
Ngoài các công trình nghiên cứu, tác phẩm kể trên thì hàng năm Cục Thương mại
điện tử và Công nghệ thông tin của Bộ Công Thương cũng đưa ra các Báo cáo chung về tình
hình TMĐT cả năm tại Việt Nam, đây cũng là một trong những tài liệu đáng tin cậy và góp
phần làm cơ sở cho các nghiên cứu hoàn thiện pháp luật TMĐT.
Như vậy, có thể thấy, giới hành nghề luật đã có sự quan tâm nhất định đến pháp luật
TMĐT nhưng chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực
này.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Luận văn đưa ra các nghiên cứu nhằm đánh giá những vấn đề cơ bản nhất của pháp

luật TMĐT so với thế giới hướng đến đưa ra được các biện pháp hoàn thiện pháp luật
TMĐT Việt Nam trong hoàn cảnh Việt Nam đang hội nhập sâu và rộng với thế giới.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ cụ thể như:
-

Phân tích được khái niệm, đặc điểm của pháp luật về TMĐT;

-

Phân tích và đánh giá những nội dung cơ bản của pháp luật hiện hành về TMĐT
trong tương quan so với pháp luật thế giới;

-

Tìm hiểu được những xu hướng của pháp luật TMĐT thế giới;

-

Nêu rõ được các phương hướng hoàn thiện pháp luật về TMĐT ở Việt Nam căn cứ
vào những hạn chế của pháp luật đã nêu ở các phần khác trong luận văn.

4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Vì đây là một đề tài nghiên cứu tổng quát cả hệ thống pháp luật về TMĐT ở Việt
Nam do đó không thể đi sâu và cụ thể tất cả các khía cạnh của pháp luật TMĐT ở Việt Nam
mà chỉ đưa ra và đánh giá những vấn đề cốt lõi của TMĐT cũng như giới hạn chủ yếu ở các
quy định của các văn bản Luật, Nghị định quy định chính về TMĐT như Luật Giao dịch điện
tử 2005, Nghị định 52/2013/NĐ-CP về Thương mại điện tử và tập trung nhiều hơn vào các
giao dịch TMĐT liên quan đến các sàn giao dịch điện tử thay vì bao quát tất cả các giao dịch
có sử dụng phương tiện điện tử. Bên cạnh đó, luận văn cũng đưa ra những so sánh nhất định
của pháp luật TMĐT Việt Nam với thế giới đối với một số những vấn đề nổi bật cần chú ý.

Bên cạnh đó, luận văn không đề cập quá nhiều đến thực tế của TMĐT cũng như các
hình thức cụ thể của nó vì muốn tập trung chủ yếu về phân tích và đánh giá pháp luật liên
quan đến lĩnh vực này.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, luận văn đã sử dụng
phương pháp luận nền tảng cho hoạt động nghiên cứu này là phương pháp luận duy vật biện
chứng của chủ nghĩa Mac-Lenin tức là dựa trên những sự vật, hiện tượng thực tế không dựa
trên các suy đoán thiếu căn cứ, mơ hồ. Đồng thời kết hợp với quan điểm đường lối của Đảng
về phát triển kinh tế, nâng cao pháp luật về giao dịch điện tử nói chung và giao dịch trên
website thương mại điện tử nói riêng trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.


Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
-

Phương pháp phân tích, so sánh: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương
II của luận văn khi đánh giá các quy định của pháp luật TMĐT Việt Nam trong tương
quan so với thế giới.

-

Phương pháp quy nạp: Tức là đưa ra phân tích, căn cứ và kết luận. Phương pháp này
được sử dụng nhiều ở Chương I đặc biệt trong các phần đưa ra định nghĩa về TMĐT
và pháp luật về TMĐT.

-

Phương pháp diễn dịch: Tức là đưa ra kết luận và giải thích, làm rõ kết luận đó.
Phương pháp này được sử dụng nhiều ở Chương III luận văn khi tác giả đưa ra các
kiến nghị hoàn thiện pháp luật về TMĐT.


Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp như thu thập, tổng hợp và phân
tích số liệu, phương pháp liệt kê… phù hợp với từng nội dung cụ thể của luận văn.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc gồm
3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về thương mại điện tử và pháp luật về thương mại điện tử ở
Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam.
Chương 3: Đề xuất nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về TMĐT ở
Việt Nam hiện nay


CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ VÀ PHÁP
LUẬT VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM
1.1.
1.1.1.

Khái quát về thương mại điện tử
Quá trình hình thành thương mại điện tử
Thương mại điện tử không phải là sản phẩm của xã hội hiện đại như nhiều người
nhầm tưởng, mà từ hàng trăm năm trước, thương mại điện tử đã manh nha hình thành và
được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới.
Năm 1910, hình thức tập hợp các đơn hàng hoa đặt mua từ ngoại thành của 15 người
bán hoa ở Đức (tổ hợp Điện báo Giao nhận của những người bán hoa nói trên, ngày nay là
công ty FTD Inc.), có thể đã là mạng thương mại điện tử thực sự đầu tiên.
Tiếp sau đó, từ những công ty vận chuyển của Mỹ đến hàng loạt các công ty lớn
trong ngành công nghiệp ô tô như Ford Motor và Tập đoàn ô tô General Motor cũng đã áp
dụng việc trao đổi dữ liệu điện tử trong hoạt động kinh doanh của mình. Và năm 1995 được
coi là mốc phát triển của Thương mại điện tử trên thế giới khi hai “ông lớn” Amazon.com và

eBay.com cùng được thành lập và tồn tại vững mạnh như một biểu tưởng của TMĐT cho
đến nay.1
Đối với Việt Nam, khái niệm TMĐT còn rất mới và chỉ thật sự tạo thành một xu
hướng vào giai đoạn đầu những năm 1998-2000, khi mà bắt đầu có sự xuất hiện của hệ
thống mạng internet, nhưng lại được chấp nhận đầu tiên từ khi vực kinh doanh các trò chơi
giải trí chứ không phải xuất phát từ khu vực các ngành công nghiệp, là nơi sản sinh ra hệ
thống trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic Data Interexchange – EDI). Nhắc lại sự xuất hiện
lần đầu của trò chơi trực tuyến MU (Game Online – GO) đã tạo ra một làn sóng lôi cuốn
tầng lớp thanh thiếu niên với mục đích ban đầu là giải trí đơn thuần, nhưng nhanh chóng mở
ra một khó khăn mới cho giới làm luật về việc xác định và giải quyết các vấn đề phát sinh từ
“quyền sở hữu tài sản ảo”.
Đến đầu năm 2000, khi mà internet trở thành một phần không thể thiếu trong sinh
hoạt của giới trẻ cũng là lúc hàng loạt các trung tâm dạy nghề giới thiệu các khóa học về
TMĐT. Cho đến năm 2003 Bộ thương mại mới công bố bản báo cáo thương mại điện tử
Việt Nam đầu tiên. Báo cáo này khẳng định cho đến năm 2003 “chúng ta mới bắt đầu đi
những bước đầu tiên trên con đường tơ lụa mới”.2
Và, kể từ đó đến nay, TMĐT Việt Nam đang có bước phát triển rất nhanh nhờ hệ
thống viễn thông phát triển vượt bậc với khoảng 1/3 dân số Việt Nam truy cập Internet. Tỷ lệ
website có tính năng đặt hàng trực tuyến là 58%, trong đó tỷ lệ website có tính năng thanh
toán trực tuyến là 15%.
Cũng theo kết quả điều tra khảo sát năm 2014 của Cục TMĐT và Công nghệ thông
tin, giá trị mua hàng trực tuyến của một người trong năm ước tính đạt khoảng 145 USD và
doanh số thu từ TMĐT B2C đạt khoảng 2,97 tỷ USD, chiếm 2,12% tổng mức bán lẻ hàng
hóa cả nước. Sản phẩm được lựa chọn tập trung vào các mặt hàng như đồ công nghệ và điện
tử (60%), thời trang, mỹ phẩm (60%), đồ gia dụng (34%), sách, văn phòng phẩm (31%) và
một số các mặt hàng khác. Tại Việt Nam, phần lớn người mua sắm sau khi đặt hàng trực
tuyến vẫn lựa chọn hình thức thanh toán tiền mặt (64%), hình thức thanh toán qua ví điện tử
chiếm 37%, và hình thức thanh toán qua ngân hàng chiếm 14%.3

1 Nguyễn Phụng Dương (2014), Hoàn thiện pháp luật nhằm phát triển thương mại điện tử ở nước ta, luận văn

thạc sĩ luật học, Hà Nội, tr15.
2 Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh (2008), Pháp luật về TMĐT ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học, tr 5.
3 />

Sự phổ cập của Internet, 3G và các thiết bị di động đã chắp thêm sức mạnh cho
TMĐT cất cánh. Google đã trở thành thành viên của Hiệp hội TMĐT Việt Nam và không
giấu diếm kỳ vọng thu được 30 triệu USD mỗi năm từ thị trường này. Alibaba và eBay cũng
đã nhanh chân tìm được đại diện chính thức, trong khi Amazon và Rakuten đang tiến tới việc
thiết lập quan hệ đối tác hoặc mua cổ phần tại các hãng TMĐT Việt Nam. Một số DN Thái
Lan, Hàn Quốc cũng đang tìm đường đầu tư, có thể thông qua một DN khác hoặc tự thực
hiện
Trong nước, mặc dù chưa có tên tuổi nào nổi bật hẳn lên nhưng số lượng các công ty
tham gia lĩnh vực này đã thực sự lớn mạnh với một số tên tuổi có thể kể đến như VCCorp,
Chợ Điện Tử (Peacesoft), Mekongcom, Vingroup…
1.1.2.

Khái niệm Thương mại điện tử
Thương mại điện tử được biết nhiều đến với tên gọi là Electronic commerce (viết tắt
là “e-commerce” ngoài ra còn được biết đến với một số thuật ngữ như: Thương mại trực
tuyến (online trade), thương mại phi giấy tờ (paperless commerce), kinh doanh điện tử
(electronic business)…
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về thương mại điện tử trên thế giới, có thể chia khái
niệm về TMĐT theo hai hướng: TMĐT theo nghĩa rộng và TMĐT theo nghĩa hẹp:
- TMĐT theo nghĩa rộng:
Thương mại điện tử theo nghĩa rộng nhất có thể được hiểu là toàn bộ các giao dịch
mang tính thương mại được các bên tham gia thực hiện thông qua các phương tiện điện tử
như điện thoại, telex, hệ thống thanh toán và chuyển tiền điện tử cho tới các máy tính kết nối
với nhau trong một mạng lưới như Internet.
Theo Luật mẫu của UNCITRAL về thương mại điện tử năm 1996 thì TMĐT là việc
sử dụng “thông tin dưới dạng một thông điệp dữ liệu trong khuôn khổ các hoạt động thương

mại” còn “Thông điệp dữ liệu là thông tin được tạo ra, gửi đi tiếp nhận hoặc lưu trữ bằng
phương tiện điện tử, quang học và các phương tiện tương tự, bao gồm, nhưng không hạn chế
ở, trao đổi dữ liệu điện tử (EDI), thư điện tử, điện tín, điện báo hoặc fax”. Đồng thời,
thương mại trong khái niệm TMĐT của Luật này được hiểu là mọi vấn đề phát sinh từ các
mối quan hệ mang tính chất thương mại dù có hay không có hợp đồng, đó là một phạm vi rất
rộng, bao quát hầu như mọi hình thức của hoạt động kinh tế chứ không chỉ dừng lại mua bán
hàng hóa, dịch vụ thông thường.
Theo Ủy ban châu Âu: "Thương mại điện tử có thể định nghĩa chung là sự mua bán,
trao đổi hàng hóa hay dịch vụ giữa các doanh nghiệp, gia đình, cá nhân, tổ chức tư nhân
bằng các giao dịch điện tử thông qua mạng Internet hay các mạng máy tính trung gian
(thông tin liên lạc trực tuyến). Thuật ngữ bao gồm việc đặt hàng và dịch thông qua mạng
máy tính, nhưng thanh toán và quá trình vận chuyển hàng hay dịch vụ cuối cùng có thể thực
hiện trực tuyến hoặc bằng phương pháp thủ công."
Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng thì TMĐT không chỉ giới hạn trên Internet mà nó bao
gồm một loạt các ứng dụng khác nhau như videotext, môi trường ngoài mạng (catolo bán
hàng trên đĩa CD-ROM) cũng như là các mạng lưới riêng của các công ty (đặc biệt trong lĩnh
vực ngân hàng). Tuy nhiên, với lợi thế của mình, Internet sẽ là tác nhân chủ yếu để kết nối
các hình thức khác của TMĐT và thúc đẩy TMĐT phát triển.
- TMĐT theo nghĩa hẹp
Thương mại điện tử theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các hoạt động thương mại được
thực hiện thông qua mạng Internet. Tổ chức Thương mại thế giới và Tổ chức Hợp tác kinh tế
châu Á – Thái Bình Dương đã đưa ra khái niệm TMĐT theo hướng này.
Theo Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), "Thương mại điện tử bao gồm việc sản
xuất, quảng cáo, bán hàng và phân phối sản phẩm được mua bán và thanh toán trên mạng


Internet, nhưng được giao nhận một cách hữu hình, cả các sản phẩm giao nhận cũng như
những thông tin số hoá thông qua mạng Internet".
Theo Ủy ban Thương mại điện tử của Tổ chức Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) định nghĩa: "Thương mại điện tử liên quan đến các giao dịch thương mại

trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa các nhóm (cá nhân) mang tính điện tử chủ yếu thông qua
các hệ thống có nền tảng dựa trên Internet." Các kỹ thuật thông tin liên lạc có thể là email,
EDI, Internet và Extranet có thể được dùng để hỗ trợ thương mại điện tử.
Như vậy, có thể thấy rằng, nhìn chung lại có hai cách hiểu về thương mại điện tử là
hiểu theo nghĩa hẹp và hiểu theo nghĩa rộng. Theo nghĩa hẹp thì TMĐT chỉ được hiểu là việc
sử dụng Internet trong các giao dịch thương mại. Theo nghĩa rộng thì TMĐT được hiểu là
bất cứ hành vi thương mại nào được tiến hành nhờ việc sử dụng thông tin dữ liệu.
Quan điểm của pháp luật Việt Nam tương đối tương đồng với quy định của luật Mẫu
UNCITRAL về thương mại điện tử và được hiểu theo nghĩa rộng. Cụ thể, Luật Giao dịch
điện tử năm 2005 chỉ đưa ra khái niệm về giao dịch điện tử, theo đó giao dịch điện tử là
“giao dịch được thực hiện bằng phương tiện điện tử” (Khoản 4 Điều 6), và phương tiện được
tử được hiểu là “phương tiện hoạt động trên công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số, từ tính,
truyền dẫn không dây, quang học, điện tử hoặc công nghệ tương tự” (Khoản 4 Điều 10).
Tiếp đó, Khoản 1 Điều 3 Nghị định số 52/2013/NĐ-CP của Chính phủ ngày
16/5/2013 về Thương mại điện tử có đưa ra định nghĩa về hoạt động thương mại điện tử như
sau: “Hoạt động thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hoặc toàn bộ quy trình của
hoạt động thương mại bằng phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn
thông di động hoặc các mạng mở khác”.
Do đó, từ các cách hiểu trên, có thể đưa ra định nghĩa về thương mại điện tử như sau:
“Thương mại điện tử là việc tiến hành một phần hay toàn bộ hoạt động thương mại bằng
những phương tiện điện tử có kết nối với mạng internet, mạng viễn thông di động hoặc các
mạng mở khác”.
1.2.
Đặc điểm và vai trò của thương mại điện tử
1.2.1. Đặc điểm của thương mại điện tử
So với các hình thức thương mại khác, thương mại điện tử có những đặc điểm sau:
-

Thứ nhất, các bên tiến hành giao dịch trong thương mại điện tử không cần phải tiếp
xúc với nhau và không đòi hỏi phải biết nhau từ trước.

Trong thương mại truyền thống, các bên phải gặp nhau trực tiếp để tiến hành giao
dịch. Và nơi diễn ra các giao dịch theo kiểu truyền thống này thường là chợ: từ các chợ
truyền thống đến các cửa hàng, siêu thị, trung tâm thương mại. Các đối tác kinh doanh tham
gia giao dịch thường phải gặp gỡ nhau và tiếp xúc với nhau để tìm hiểu về thông tin, khảo
hàng, thương lượng…, thậm chí họ còn là những người đã quen biết nhau từ trước. Các giao
dịch được thực hiện chủ yếu theo “nguyên tắc vật lý” như chuyển tiền, séc, hóa đơn, vận
đơn, gửi báo cáo. Sự ra đời của các phương tiện viễn thông như fax, telex… đã làm giảm
thiểu được những cuộc tiếp xúc đôi khi không cần thiết và gây lãng phí giữa các đối tác kinh
doanh.
Từ khi xuất hiện mạng máy tính mở toàn cầu Internet thì việc trao đổi thông tin đã
được mở rộng nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới với số lượng người tham gia ngày
càng tăng. Những người tham gia có thể là cá nhân hoặc doanh nghiệp, có thể đã biết nhau
hoặc hoàn toàn chưa biết nhau. Họ gặp gỡ và giao dịch với nhau trên “môi trường điện tử”.
- Thứ hai, trong thương mại điện tử, khái niệm biên giới quốc gia bị xóa mờ.
Có thể nói khái niệm “biên giới” là một cản trở lớn đối với thương mại truyền thống,
đề cập tới khái niệm này, người ta thường hay nghĩ đến sự gia tăng của chi phí giao dịch,
những rào cản thuế quan – những điều có thể cản trở một doanh nghiệp tiến hành hoạt động
kinh doanh của mình trên thị trường nước ngoài. Thương mại điện tử ra đời đã trực tiếp tác


động tới môi trường cạnh tranh toàn cầu. TMĐT được thực hiện ở phạm vi quốc tế, các bên
thực hiện việc trao đổi thông tin qua mạng máy tính toàn cầu. Và thương mại điện tử phát
triển càng nhanh thì máy tính và mạng Internet càng trở thành một công cụ hữu dụng cho
doanh nghiệp hướng ra thị trường thế giới. Không chỉ có các công ty hàng đầu thế giới mới
có thể tiếp cận được các thị trường lớn hoặc thị trường mới mà ngay cả một công ty vừa mới
bắt đầu công việc kinh doanh cũng có thể tiếp cận được các thị trường này mà không mất chi
phí tốn kém như thương mại truyền thống. Tuy nhiên, điều này cũng sẽ gây khó khăn trong
việc xác định được địa điểm kinh doanh của các thương nhân dẫn đến không đánh giá chính
xác được năng lực của đối tác tham gia với mình.
- Thứ ba, mạng lưới thông tin chính là thị trường của thương mại điện tử

Đối với thương mại truyền thống thì mạng lưới thông tin chỉ là phương tiện để trao
đổi dữ liệu, còn đối với thương mại điện tử thì mạng lưới thông tin chính là thị trường.
Thông qua thương mại điện tử, nhiều loại hình kinh doanh mới được hình thành. Ví dụ: các
dịch vụ gia tăng giá trị trên mạng máy tính hình thành nên các nhà trung gian ảo làm các
dịch vụ môi giới cho giới kinh doanh và tiêu dùng; các siêu thị ảo được hình thành để cung
cấp hàng hóa và dịch vụ trên mạng máy tính. Các trang web tìm kiếm hoặc mạng xã hội khá
nổi tiếng như Google, Facebook, Instagram… đóng vai trò quan trọng cung cấp thông tin
trên mạng. Các trang Web này đã trở thành các “khu chợ” khổng lồ trên Internet. Với mỗi
lần nhấn chuột, khách hàng có khả năng truy cập vào hàng ngàn cửa hàng “ảo” khác nhau và
tỷ lệ khách hàng vào thăm rồi mua hàng là rất cao. Người tiêu dùng đã bắt đầu mua trên
mạng một số các loại hàng trước đây được coi là khó bán trên mạng. Nhiều người sẵn sàng
trả thêm một chút tiền còn hơn là phải đi tới tận cửa hàng. Một số công ty đã mời khách may
đo quần áo trên mạng, tức là khách hàng chọn kiểu, gửi số đo theo hướng dẫn tới cửa hàng
(qua Internet) rồi sau một thời gian nhất định nhận được bộ quần áo theo đúng yêu cầu của
mình. Điều tưởng như không thể thực hiện được này cũng có rất nhiều người hưởng ứng.
Các chủ cửa hàng thông thường ngày nay cũng đang đua nhau đưa thông tin lên Web để tiến
tới khai thác mảng thị trường rộng lớn trên Web.
Như vậy, thực tế trong thương mại điện tử, bản chất của thông tin không thay đổi.
Thương mại điện tử chỉ biến đổi cách thức khởi tạo, trao đổi, xử lý thông tin… mà không
thay đổi bản chất của hoạt động thương mại.
- Thứ tư, quan hệ thương mại điện tử có sự tham gia của ít nhất ba chủ thể.
Trong thương mại điện tử, ngoài các chủ thể tham gia giao dịch giống như trong
thương mại truyền thống (người bán, người mua) đã xuất hiện thêm một bên thứ ba, đó là
nhà cung cấp dịch vụ mạng, các cơ quan chứng thực. Đây là những người tạo môi trường
cho các giao dịch thương mại điện tử. Các chủ thể này có nhiệm vụ chuyển, lưu giữ các
thông tin giữa các bên tham gia giao dịch thương mại điện tử, hoặc xác nhận độ tin cậy của
các thông tin trong giao dịch thương mại điện tử.
- Thứ năm, thương mại điện tử có tính rủi ro cao hơn thương mại truyền thống.
Điều này xuất phát từ đặc tính của thương mại điện tử hoạt động một phần hoặc toàn
bộ trên một môi trường “ảo”. Điều này sẽ rất khó khăn trong việc xác định những yếu tố liên

quan đến giao dịch như chất lượng hàng hóa, vấn đề thanh toán và giao nhận vì bản thân
người mua nếu thực hiện việc mua bán trực tiếp trên các sàn giao dịch thương mại điện tử thì
chỉ được nhìn hình ảnh của các sản phẩm trên mạng mà không được kiểm chứng chính xác
được chất lượng của sản phẩm hoặc chất lượng của dịch vụ.
1.2.2.
Vai trò của Thương mại điện tử
- Đối với Doanh nghiệp.


Mở rộng thị trường: Với việc có thể liên kế với toàn cầu một cách nhanh chóng, các

doanh nghiệp sử dụng thương mại điện tử có thể mở rộng thị trường, tìm kiếm, tiếp cận nhà
cung cấp, khách hàng và đối tác trên khắp thế giới. Việc mở rộng mạng lưới nhà cung cấp,


khách hàng cũng cho phép các tổ chức có thể mua với giá thấp hơn và bán được nhiều sản
phẩm hơn.
 Giảm chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị: Trong thương mại điện tử, một nhân viên
bán hàng có thể giao dịch được với nhiều khách hàng. Giảm chi phí giấy tờ, giảm chi phí
chia sẻ thông tin, chi phí in ấn, gửi văn bản truyền thống. Daimler Chrysler – một hãng sản
xuất ô tô nổi tiếng đã thử nghiệm mời thầu thiết bị tại một số nhà máy của hãng thông qua
giao dịch bằng internet và kết quả thu được là quá trình chọn thầu trên mạng được thực hiện
trong vòng 30 phút, mà thông thường, gửi fax qua lại sẽ mất tới 1, 2 hoặc thậm chí 3 tuần
đồng thời đã giảm được 17% chi phí so với cách giao dịch thông thường như: dùng điện
thoại, các thoả thuận viết tay, gửi fax qua lại trong quá trình chọn thầu cung cấp.4


Cải thiện hệ thống phân phối: Giảm lượng hàng lưu kho và độ trễ trong phân phối

hàng. Hệ thống cửa hàng giới thiệu sản phẩm được thay thế hoặc hỗ trợ bởi các showroom

trên mạng, ví dụ ngành sản xuất ô tô (như Ford Motor) tiết kiệm được chi phí hàng tỷ USD
từ giảm chi phí lưu kho.


Vượt giới hạn về thời gian: Việc tự động hóa các giao dịch thông qua Web và

Internet giúp hoạt động kinh doanh được thực hiện 24/7/365 mà không mất thêm nhiều chi
phí biến đổi.


Sản xuất hàng theo yêu cầu: Còn được biết đến dưới tên gọi “Chiến lược kéo”, lôi

kéo khách hàng đến với doanh nghiệp bằng khả năng đáp ứng mọi nhu cầu của khách hàng.
Một ví dụ thành công điển hình là Dell Computer Corp.


Mô hình kinh doanh mới: Các mô hình kinh doanh mới với những lợi thế và giá trị

mới cho khách hàng. Mô hình của Amazon. com, mua hàng theo nhóm hay đấu giá nông sản
qua mạng đến các sàn giao dịch B2B là điển hình của những thành công này.


Tăng tốc độ tung sản phẩm ra thị trường: Với lợi thế về thông tin và khả năng phối

hợp giữa các doanh nghiệp làm tăng hiệu quả sản xuất và giảm thời gian tung sản phẩm ra
thị trường.


Giảm chi phí thông tin liên lạc: Thay vì dùng điện thoại, thư tín, chúng ta có thể tiết


kiệm được một khoảng chi phí vì sử dụng thương mại điện tử.


Giảm chi phí mua sắm: Thông qua giảm các chi phí quản lý hành chính (80%); giảm

giá mua hàng (5-15%).


Củng cố quan hệ khách hàng: Thông qua việc giao tiếp thuận tiện qua mạng, quan hệ

với trung gian và khách hàng được củng cố dễ dàng hơn. Đồng thời việc cá biệt hóa sản
phẩm và dịch vụ cũng góp phần thắt chặt quan hệ với khách hàng và củng cố lòng trung
thành.


Thông tin cập nhật: Mọi thông tin trên web như sản phẩm, dịch vụ, giá cả... đều có

thể được cập nhật nhanh chóng và kịp thời.

4 />



Các lợi ích khác: Nâng cao uy tín, hình ảnh doanh nghiệp; cải thiện chất lượng dịch

vụ khách hàng; đối tác kinh doanh mới; đơn giản hóa và chuẩn hóa các quy trình giao dịch;
tăng khả năng tiếp cận thông tin; tăng sự linh hoạt trong giao dịch và hoạt động kinh doanh.
- Lợi ích đối với người tiêu dùng.
 Nhiều lựa chọn về sản phẩm và dịch vụ: Thương mại điện tử cho phép người mua có
nhiều lựa chọn hơn vì tiếp cận được nhiều nhà cung cấp hơn. Thêm vào đó, sự lựa chọn sản

phẩm, dịch vụ và doanh nghiệp cung ứng của khách hàng cũng không bị bó hẹp trong một
phạm vi địa lý nhất định mà được mở rộng sang phạm vi quốc tế.
 Giá thường thấp hơn so với giá mua trực tiếp tại cửa hàng: Do thông tin thuận tiện,
dễ dàng và phong phú hơn nên khách hàng có thể so sánh giá cả giữa các nhà cung cấp thuận
tiện hơn và từ đó tìm được mức giá phù hợp nhất. Bên cạnh đó, thực tế phần lớn giá của sản
phẩm, dịch vụ được giao dịch trên các sàn giao dịch thương mại điện tử thường thấp hơn so
với bán trực tiếp tại các cửa hàng, showroom.
 Tiết kiệm chi phí mua hàng: Trong thương mại truyền thống, để mua được sản phẩm
và dịch vụ mong muốn, đôi khi khách hàng phải bỏ ra rất nhiều khoản chi phí, ví dụ: Chi phí
để tìm kiếm thông tin về sản phẩm dịch vụ, chi phí đi lại, khảo hàng, chi phí vận chuyển,…
Thế nhưng với thương mại điện tử những chi phí này được giảm bớt đi cho khách hàng vì có
thể tra cứu trực tiếp tại nhà.
 Giao hàng nhanh hơn với các hàng hóa số hóa được: Đối với các sản phẩm số hóa
được như phim, nhạc, sách, phần mềm, ... . việc giao hàng được thực hiện dễ dàng thông qua
Internet.
 Thông tin phong phú, thuận tiện: Khách hàng có thể dễ dàng tìm được thông tin
nhanh chóng và dễ dàng thông qua các công cụ tìm kiếm (search engines); các thông tin đa
phương tiện (âm thanh, hình ảnh).
 Đấu giá: Mô hình đấu giá trực tuyến ra đời cho phép mọi người đều có thể tham gia
mua và bán trên các sàn đấu giá và đồng thời có thể tìm, sưu tầm những món hàng mình
quan tâm tại mọi nơi trên thế giới.
- Lợi ích đối với xã hội.
 Hoạt động trực tuyến: Thương mại điện tử tạo ra môi trường để làm việc, mua sắm,
giao dịch từ xa nên giảm việc đi lại, ô nhiễm.
 Nâng cao mức sống: Nhiều hàng hóa, nhiều nhà cung cấp tạo áp lực giảm giá do đó
khả năng mua sắm của khách hàng cao hơn, nâng cao mức sống của mọi người.
 Lợi ích cho các nước nghèo: Những nước nghèo có thể tiếp cận với các sản phẩm,
dịch vụ từ các nước phát triển hơn thông qua Internet và thương mại điện tử. Đồng thời cũng
có thể học tập được kinh nghiệm, kỹ năng được đào tạo qua mạng.
 Dịch vụ công được cung cấp thuận tiện hơn: Các dịch vụ công cộng như y tế, giáo

dục, các dịch vụ công của chính phủ, ... được thực hiện qua mạng với chi phí thấp hơn, thuận
tiện hơn. Cấp các loại giấy phép qua mạng, tư vấn y tế, ... . là các ví dụ thành công điển hình.


1.3.

Khái quát về pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam

1.3.1. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mac-Lenin: “Pháp luật là hệ thống các nguyên tắc xử
sự mang tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các
mối quan hệ xã hội theo mục tiêu, định hướng cụ thể.”5
Bên cạnh đó, pháp luật còn được hiểu là tập hợp của hệ thống các quy phạm pháp
luật được hiểu là các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện
để điều chỉnh các quan hệ xã hội nhằm đạt được những mục đích nhất định.6
Trên cơ sở đó, pháp luật thương mại điện tử có thể hiểu là: “hệ thống các quy tắc xử
sự do nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và đảm bảo thực hiện để điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong hoạt động thương mại bằng những phương tiện điện tử có kết nối với mạng
internet, mạng viễn thông di động hoặc các mạng mở khác.”
Về cơ bản, xét về mặt bản chất, thương mại điện tử cũng giống thương mại truyền
thống, nó chỉ khác nhau về cách thức thực hiện. Vì vậy, pháp luật điều chỉnh hoạt động
thương mại điện tử cũng mang những đặc điểm như pháp luật về thương mại truyền thống.
Tuy nhiên, do đặc điểm của hoạt động thương mại điện tử nên pháp luật thương mại
điện tử cũng có những đặc điểm nhất định:
Thứ nhất, pháp luật thương mại điện tử ngoài bao gồm pháp luật điều chỉnh chung
của thương mại truyền thống còn bao gồm pháp luật đặc thù dành riêng cho các giao dịch
điện tử. Bên cạnh đó, thương mại điện tử gắn liền với các phương tiện điện tử vì vậy pháp
luật về TMĐT sẽ đề cập và đi sâu vào các quy định mà Bộ luật Dân sự hiện hành hay Luật
Thương mại mới đề cập ở mức độ chung nhất như: quy định về thông điệp dữ liệu; quy định
về trao đổi dữ liệu điện tử; quy định về chữ ký điện tử; …

Thứ hai, pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử gắn liền với pháp luật về
khoa học công nghệ. Có thể thấy các quy phạm điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử có
rất nhiều quy định về kỹ thuật của công nghệ thông tin như chữ kí điện tử, thông điệp dữ
liệu, môi trường mạng,… Đây là những quy định không thể thiếu của pháp luật thương mại
điện tử, bởi lẽ, nó tạo một khung pháp lý an toàn, điều chỉnh các nền tảng, các bộ phần cơ
sở, cấu thành và tạo nên thương mại điện tử.
Thứ ba, pháp luật thương mại điện tử có những nguyên tắc riêng nhất định ngoài các
nguyên tắc chung của thương mại truyền thống, bao gồm:
- Nguyên tắc tự nguyện lựa chọn sử dụng phương tiện điện tử để thực hiện giao dịch;
- Nguyên tắc tự thỏa thuận về việc lựa chọn loại công nghệ để thực hiện giao dịch;
- Nguyên tắc không một loại công nghệ nào được xem là duy nhất trong giao dịch điện
tử.
Thứ tư, pháp luật thương mại điện tử có tính quốc tế hóa nhanh chóng. Trong xu thế
toàn cầu hóa thì hầu hết các ngành kinh tế đều theo xu hướng này, tuy nhiên do đặc tính “phi
biên giới” của thương mại điện tử khiến cho pháp luật về thương mại điện tử cũng mang tính
hội nhập và quốc tế cao hơn so với pháp luật của các lĩnh vực khác. Ví như, Luật Giao dịch
điện tử 2005 của Việt Nam được soạn thảo và xây dựng dựa trên chuẩn mực của Luật mẫu
về thương mại điện tử của Ủy ban Liên hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế và có tính
tương đồng tương đối cao so với pháp luật quốc tế. Ngoài ra, các điều ước quốc tế, các hiệp
định mà Việt Nam tham gia cũng đều có các quy định về thương mại điện tử, có thể kể đến
như: Hiệp định khung e-ASEAN; Hiệp định đối tác kinh tế xuyên Thái Bình Dương (TPP)…
5 Đại học Luật Hà Nội, giáo trình “Lý luận nhà nước và pháp luật”, 2010, NXB Công an nhân dân, tr98.
6 Đại học Luật Hà Nội, giáo trình “Lý luận nhà nước và pháp luật”, 2010, NXB Công an nhân dân, tr 128.


Thứ năm, pháp luật về TMĐT được thực thi chủ yếu trên môi trường mạng. Để điều
chỉnh các hoạt động thương mại điện tử, các quy định của pháp luật về TMĐT cũng được
xây dựng phù hợp với các đặc điểm của loại hình này. Ví dụ như các quy định về hành vi
giao kết; hành vi trưng bày, quảng cáo trực tuyến; quy định thanh toán; quản lý; thu thập
chứng cứ điện tử…

Như vậy, có thể kết luận rằng, pháp luật thương mại điện tử là một bộ phận của pháp
luật thương mại truyền thống đồng thời nó cũng có những quy định riêng gắn liền với các
phương tiện điện tử mà các hoạt động thương mại điện tử thực hiện.
1.3.2. Hệ thống pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
Trong những năm gần đây, Việt Nam đã tích cực xây dựng khung pháp lý cho hoạt
động thương mại điện tử. Cùng với hệ thống pháp luật chung, các văn bản pháp luật liên
quan đến thương mại điện tử cũng bước đầu được hình thành và dần hoàn thiện. Cũng giống
như đa phần các ngành luật khác, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động TMĐT ở Việt
Nam cũng bao gồm các bộ phận cấu thành cơ bản: Pháp luật quốc gia; Pháp luật quốc tế, cụ
thể, hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam như sau:
1.3.2.1.
Hệ thống pháp luật quốc gia
- Các Văn bản pháp luật quy định chung về thương mại điện tử:


Bộ luật Dân sự

Bộ luật Dân sự vốn được coi là đạo luật gốc điều chỉnh mọi quan hệ dân sự phát sinh
trong đó có hoạt động thương mại và thương mại điện tử.
 Luật Thương mại
Luật Thương mại (sửa đổi) được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày
14/06/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/01/2006 là văn bản pháp lý làm nền tảng cho các hoạt
động thương mại, trong đó có thương mại điện tử.
- Các văn bản trực tiếp quy định và điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử ở Việt
Nam


Luật Giao dịch điện tử

Luật Giao dịch điện tử được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày

29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 1/03/2006. Luật gồm 8 chương, 54 điều quy định về
thông điệp dữ liệu, chữ ký điện tử và chứng thực chữ ký điện tử, giao kết và thực hiện hợp
đồng điện tử, giao dịch điện tử của cơ quan nhà nước, an ninh, an toàn, bảo vệ, bảo mật
trong giao dịch điện tử, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm trong giao dịch điện tử. Phạm
vi điều chỉnh chủ yếu của Luật là giao dịch điện tử trong hoạt động của các cơ quan nhà
nước, trong lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại.
 Nghị định về thương mại điện tử
Nghị định đầu tiên về thương mại điện tử là Nghị định số 57/2006/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 09/6/2006 hiện nay đã được thay thế bằng Nghị định số 52/2013/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 16/5/2013 về thương mại điện tử. Đây được coi là văn bản quy định rõ ràng và chi
tiết nhất về hoạt động thương mại điện tử trên thực tế diễn ra ở Việt Nam.
 Nghị định về Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về
Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số được ban hành ngày 15/2/2007. Nghị định này
quy định về chữ ký số và các nội dung cần thiết liên quan đến sử dụng chữ ký số, bao gồm
chứng thư số và việc quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ chứng thực chữ ký số. Đây là
những quy định nền tảng để thiết lập một cơ chế đảm bảo an ninh an toàn cũng như độ tin
cậy của các giao dịch điện tử, thúc đẩy thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ hơn.
 Nghị định về Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính


Ngày 23/2/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 27/2007/NĐ-CP quy định chi tiết
thi hành Luật Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính. Nghị định này ra đời nhằm đảm
bảo các điều kiện cần thiết để hình thành và phát triển một môi trường giao dịch điện tử an
toàn, hiệu quả, giúp Chính phủ quản lý được giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ tài
chính, giảm thiểu hậu quả xấu phát sinh trong giao dịch điện tử như trốn thuế, gian lận khi
lập hóa đơn chứng từ, v.v…, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình cải cách của
ngành tài chính trên nền tảng ứng dụng công nghệ thông tin.
 Nghị định về Giao dịch điện tử trong hoạt động ngân hàng
Nghị định số 35/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 về Giao dịch điện tử trong hoạt động

ngân hàng là nghị định thứ ba liên tiếp được ban hành trong năm 2007 nhằm hướng dẫn Luật
Giao dịch điện tử. Nghị định này tập trung hướng dẫn việc áp dụng Luật Giao dịch điện tử
cho các hoạt động ngân hàng cụ thể, bảo đảm những điều kiện cần thiết về môi trường pháp
lý để củng cố, phát triển các giao dịch điện tử an toàn và hiệu quả đối với hệ thống ngân
hàng.
 Nghị định về Ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước
Ngày 10/4/2007, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2007/NĐ-CP về Ứng dụng
công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Đây là văn bản hướng dẫn đồng
thời Luật Giao dịch điện tử 2005 và Luật Công nghệ Thông tin 2006 với phạm vi rất rộng,
bao gồm xây dựng cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, đầu tư cho ứng dụng CNTT và hoạt
động của cơ quan nhà nước trên môi trường mạng.
Đó là những văn bản rất căn bản để điều chỉnh hoạt động thương mại điện tử ở Việt
Nam. Bên cạnh những văn bản quy định chi tiết này, hệ thống pháp luật Việt Nam còn có
các văn bản có liên quan khác góp phần điều chỉnh các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực
thương mại điện tử có thể kể đến như:
 Luật Sở hữu trí tuệ
Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29/11/2005
và có hiệu lực từ ngày 1/07/2006 thể hiện một bước tiến trong việc hoàn thiện hệ thống văn
bản pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Tuy không có quy định cụ thể liên quan trực tiếp
đến lĩnh vực thương mại điện tử, nhưng các nguyên tắc trong Luật Sở hữu trí tuệ có thể áp
dụng đối với lĩnh vực này.
 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ra đời năm 2010 và có hiệu lực từ ngày
1/7/2011được coi là khung pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng. Mặc dù
Luật này không quy đinh cụ thể về hành vi xảy ra trong thương mại điện tử, tuy nhiên đã quy
định khái quát các quyền của người tiêu dùng cũng như trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân
sản xuất, kinh doanh từ đó làm cơ sở áp dụng cho việc bảo vệ người tiêu dùng trong lĩnh vực
thương mại điện tử.
Ngoài ra đối với thương mại điện tử trong từng lĩnh vực cụ thể sẽ chịu sự điều chỉnh
của các văn bản pháp luật chuyên ngành có liên quan. Do đó, có thể thấy, pháp luật về

thương mại điện tử là tương đối rộng.
Dưới đây là bảng tổng hợp khung pháp lý cơ bản trong lĩnh vực TMĐT tính đến hết
thời điểm 1/7/2016:
Thời gian
I.
Luật
Ghi chú
21/12/1999

Bộ luật Hình sự

14/6/2005

Bộ luật Dân sự

Bộ luật Hình sự 2015 đã
được hoãn thi hành
Bộ luật Dân sự 2015 sẽ có
hiệu
lực
vào
ngày
1/1/2017


14/6/2005
29/11/2005
29/11/2005
29/06/2006
23/11/2009

30/11/2010
21/6/2012
26/11/2014
26/11/2014
15/02/2007
23/02/2007
08/03/2007
13/08/2008
06/04/2011
13/06/2011

23/11/2011
5/10/2012
23/10/2012

22/11/2012

16/5/2013
15/7/2013
13/11/2013

Luật Thương mại
Luật Giao dịch điện tử
Luật Sở hữu trí tuệ
Luật Công nghệ thông tin
Luật Viễn Thông
Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Luật Quảng cáo
Luật Đầu tư
Luật Doanh nghiệp

II. Nghị định
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP quy định chi
tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về Chữ
ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số
Nghị định 27/2007/NĐ-CP về Giao dịch
điện tử trong hoạt động tài chính
Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về Giao dịch
điện tử trong hoạt động ngân hàng
Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về Chống thư
rác
Nghị định số 25/2011/NĐ-CP quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Viễn Thông
Nghị định số 43/2011/NĐ-CP quy định về
việc cung cấp thông tin và dịch vụ công
trực tuyến trên trang thông tin điện tử hoặc
cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà
nước
Nghị định số 106/2011/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 26/2007/NĐ-CP về Chữ
ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số
Nghị định số 77/2012/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 90/2008/NĐ-CP Chống
thư rác
Nghị định 87/2012/NĐ-CP quy định chi tiết
một số điều của Luật Hải quan về thủ tục
Hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu thương mại
Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về Thanh Thay thế Nghị định số
toán không dùng tiền mặt

64/2001/NĐ-CP về hoạt
động thanh toán qua các tổ
chức cung ứng dịch vụ
thanh toán
Nghị định số 52/2013/NĐ-CP về Thương Thay thế Nghị định số
mại điện tử
57/2006/NĐ-CP
về
Thương mại điện tử
Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về Quản lý,
cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông
tin trên mạng
Nghị định số 170/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ


14/11/2013

15/09/2008

30/12/2008
02/03/2009

16/03/2009
31/07/2009

14/12/2009

22/07/2010
28/9/2010


9/11/2010
20/12/2010
14/3/2011
14/2/2014

sung một số điều của Nghị định số
26/2007/NĐ-CP ngày 15/2/2007 quy định
chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về
chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số
Nghị định số 181/2013/NĐ-CP quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật
Quảng cáo
III.
Thông tư hướng dẫn
Thông tư số 78/2008/TT-BTC hướng dẫn
thi hành một số nội dung của Nghị định số
27/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong
hoạt động tài chính
Thông tư số 12/2008/TT-BTTTT hướng
dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị
định số 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác
Thông tư số 03/2009/TT-BTTTTquy định
về mã số quản lý và mẫu giấy chứng nhận
mã số quản lý đối với nhà cung cấp dịch vụ
quảng cáo bằng thư điện tử, tin nhắn; nhà
cung cấp dịch vụ tin nhắn qua mạng
Internet
Thông tư số 50/2009/TT-BTC về việc
hướng dẫn giao dịch điện tử trên thị trường
chứng khoán

Thông tư số 26/2009/TT-BTTTT quy định
về việc cung cấp thông tin và đảm bảo khả
năng truy cập thuận tiện đối với trang thông
tin điện tử của cơ quan nhà nước
Thông tư số 37/2009/TT-BTTTT quy định
về hồ sơ và thủ tục liên quan đến cấp phép,
đăng ký, công nhận các tổ chức cung cấp
dịch vụ chứng thực chữ ký số
Thông tư số 17/2010/TT-BLH quy định chi
tiết thí điểm đấu thầu qua mạng
Thông tư số 153/2010/TT-BTC hướng dẫn
thi hành Nghị định số 51/2010/NĐ-CP ngày
14/5/2010 quy định về hóa đơn bán hàng
hóa, cung ứng dịch vụ
Thông tư số 23/2010/TT-NHNN quy định
về việc quản lý, vận hành và sử dụng hệ
thống thanh toán điện tử liên ngân hàng
Thông tư số 209/2010/TT-BTC quy định
giao dịch điện tử trong hoạt động nghiệp vụ
kho bạc nhà nước
Thông tư số 32/2011/TT-BTC hướng dẫn
về khởi tạo, phát hành và sử dụng hóa đơn
điện tử bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
Thông tư số 22/2014/TT-BTC quy định thủ
tục hải quan điện tử đối với hàng hóa xuất


khẩu, nhập khẩu thương mại
Thông tư số 47/2014/TT-BCT quy định về Thay thế Thông tư ssoo
quản lý website thương mại điện tử

12/2013/TT-BTC quy định
thủ tục thông báo đăng ký
và công bố thông tin liên
quan đến website TMĐT
11/12/2014 Thông tư số 39/2014/TT-NHNN hướng dẫn
về dịch vụ trung gian thanh toán
31/12/2014 Thông tư số 46/2014/TT-NHNN hướng dẫn
về dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt
28/7/2015
Thông tư 110/2015/TT-BTC hướng dẫn
giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế
18/8/2015
Thông tư số 24/2015/TT-BTTT quy định về
quản lý và sử dụng tài nguyên Internet
31/12/2015 Thông tư số 59/2015/TT-BCT quy định về
quản lý hoạt động thương mại điện tử qua
ứng dụng trên thiết bị di động
Quy định xử lý vi phạm về TMĐT
10/9/2012
Thông tư liên tịch số 10/2012/TTLT-BCABQP-BTP-BTTTT-VKSNDTC-TANDTC
hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật
Hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực
công nghệ thông tin và truyền thông
12/11/2013 Nghị định số 158/2013/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực văn
hóa, thể thao, du lịch và quảng cáo
13/11/2013 Nghị định 174/2013/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu
chính, viễn thông, công nghệ thông tin và
tần số vô tuyến điện

15/11/2013 Nghị định số 185/2013/NĐ-CP quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
thương mại, sản xuất buôn bán hàng giả,
hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng
07/04/2014 Nghị định 25/2014/NĐ-CP quy định về
phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp
luật khác có sử dụng công nghệ cao
19/11/2015 Nghị định số 24/2015/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số
185/2013/NĐ-CP ngày 15/11/2013 quy
định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt
động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng
giải, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người
tiêu dùng
Bảng 1. Khung pháp lý cơ bản về TMĐT của Việt Nam
I.3.2.2.
Hệ thống pháp luật quốc tế
- Luật Mẫu về thương mại điện tử của UNCITRAL
05/12/2014


Nhằm tạo khung pháp lý cho phát triển thương mại điện tử, năm 1996 Uỷ ban
Luật Thương mại quốc tế của Liên hợp quốc (UNCITRAL) đã soạn thảo một luật mẫu về
thương mại điện tử, hình thành những quy định mẫu về thừa nhận giá trị pháp lý của các
thông điệp dữ liệu nhằm bảo vệ về mặt pháp lý cho những tổ chức, cá nhân mong muốn
tham gia thương mại điện tử. Luật mẫu có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo cho
các nước trong quá trình xây dựng pháp luật về thương mại điện tử của mình. Tinh thần của
Luật mẫu là bảo đảm những giao dịch thương mại điện tử được thừa nhận giá trị pháp lý và
nếu cần thiết thì sẽ có những hành động thích hợp để tăng cường khả năng thi hành cho

những giao dịch bằng phương tiện điện tử. Luật mẫu được soạn thảo dựa trên những nguyên
tắc cơ bản sau:
 Tài liệu điện tử có thể được coi là có giá trị pháp lý như tài liệu ở dạng văn bản nếu
thoả mãn các yêu cầu kỹ thuật nhất định;
 Tự do thoả thuận hợp đồng;
 Tôn trọng việc sử dụng tự nguyện phương thức truyền thông điện tử;
 Giá trị pháp lý của hợp đồng và tính ưu việt của những quy định pháp lý về hình thức
hợp đồng; những đòi hỏi đối với hợp đồng để có giá trị pháp lý và khả năng được thi
hành phải được tôn trọng;
 Áp dụng về mặt hình thức hơn là quan tâm tới nội dung : luật chỉ áp dụng đối với
hình thức hợp đồng mà không đề cập nội dung, trên cơ sở phải thoả mãn những đòi
hỏi pháp lý nhất định;
 Pháp luật về bảo vệ người tiêu dùng phải đi trước. Nhiều quốc gia đã thể hiện các
nguyên tắc và nội dung của luật mẫu UNCITRAL vào hệ thống pháp luật quốc gia
của nước mình.
- Đạo luật mẫu về chữ ký điện tử của UNCITRAL
Ngày 05 tháng 7 năm 2001, UNCITRAL đã thông qua Luật mẫu về Chữ ký điện tử
và sách hướng dẫn về việc áp dụng. Mục đích của việc ban hành Luật mẫu thứ hai này là
nhằm hướng dẫn các quốc gia thành viên trong việc xây dựng các văn bản quy phạm pháp
luật về chữ ký điện tử, góp phần hài hòa pháp luật quốc tế về lĩnh vực này. Luật mẫu về Chữ
ký điện tử đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể để đảm bảo độ an toàn kỹ thuật và pháp lý cho các
giao dịch điện tử, cũng như giao kết hợp đồng điện tử, quy định trách nhiệm của các bên liên
quan, từ đó đem lại sự tin tưởng khi sử dụng các kỹ thuật về chữ ký điện tử trong các giao
dịch điện tử và góp phần phát triển thương mại điện tử.
Vẫn dựa trên nguyên tắc soạn thảo được sử dụng khi xây dựng Luật mẫu về Thương
mại điện tử, đó là nguyên tắc tương đương chức năng, nguyên tắc không phân biệt và
nguyên tắc trung lập về công nghệ, với 12 điều luật. Những quy định của đạo luật này góp
phần bảo đảm tính an toàn, giá trị chứng cứ của các hợp đồng điện tử và quan trọng hơn nó
giúp cho các bên thực sự yên tâm về tính khả thi của nó trong quá trình thực hiện các hợp
đồng điện tử đã giao kết.

- Các Hiệp định, thỏa thuận quốc tế mà Việt Nam là thành viên
Ngoài hai đạo luật chung trên của UNCITRAL, pháp luật về thương mại điện tử ở
Việt Nam còn phải phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, có thể kể đến
như Hiệp định e-Asean về thương mại điện tử năm 2000 và mới đây nhất là Hiệp định Đối
tác xuyên Thái Bình Dương (TPP)… Đây là các Hiệp định khung có tính định hướng trong
quá trình xây dựng pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam cũng như việc áp dụng trong
quá trình giải quyết giao dịch về thương mại điện tử giữa các doanh nghiệp Việt Nam với
doanh nghiệp các nước thành viên của Hiệp định.
1.3.3. Nội dung của pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
Trước năm 2000, thương mại điện tử còn là thuật ngữ pháp lý mới. Hệ thống pháp
luật Việt Nam có quy định nhưng chưa thể hiện được bản chất và tầm quan trọng của thương


mại điện tử. Luật Thương mại năm 1997 nhắc tới hình thức hợp đồng bằng phương tiện điện
tử như fax, telex, thư điện tử và coi chúng là văn bản (Điều 49). Quy định này chỉ mang tính
hình thức và chưa cụ thể hóa các khía cạnh cụ thể hóa đủ cho việc áp dụng một cách có hiệu
quả.
Trong giai đoạn 2000-2003, một số văn bản pháp lý chuyên ngành đã có những quy
định cụ thể hơn về giao dịch điện tử, như Bộ luật Hình sự năm 1999, Luật Hải quan năm
2001, Pháp lệnh Quảng cáo năm 2001, những văn bản dưới luật trong lĩnh vực ngân hàng. Ví
dụ, Luật hải quan 2001 đã quy định về hình thức tờ khai điện tử, hay quy định về Hàng hóa
xuất khẩu, nhập khẩu bằng phương thức thương mại điện tử (Điều 39). Tuy nhiên, đây vẫn là
những quy định khá chung chung dẫn tới việc khó áp dụng trên thực tế.
Theo đánh giá tại Báo cáo Thương mại điện tử Việt Nam 2006 (Vụ Thương mại điện
tử - Bộ Thương mại): “Năm 2006 là năm mở đầu một giai đoạn mới của thương mại điện tử
Việt Nam, đánh dấu việc thương mại điện tử đã chính thức được pháp luật thừa nhận và bắt
đầu phát triển mạnh mẽ trên tất cả mọi khía cạnh; Năm 2006 có ý nghĩa đặc biệt đối với
thương mại điện tử Việt Nam, là năm đầu tiên thương mại điện tử được pháp luật thừa nhận
chính thức khi Luật Giao dịch điện tử, Luật Thương mại (sửa đổi), Bộ luật Dân sự (sửa đổi)
và Nghị định Thương mại điện tử có hiệu lực. Năm 2006 cũng là năm đầu tiên triển khai Kế

hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử giai đoạn 2006-2010 theo Quyết định số
222/2005/QĐ-TTg ngày 15 tháng 9 năm 2005 của Thủ tướng Chính phủ”.
Nhìn chung, những văn bản được coi là quan trọng nhất nhằm hình thành khung khổ
pháp lý cho ứng dụng và phát triển thương mại đều được khởi động xây dựng trong năm
2004 và bắt đầu ban hành từ năm 2005.
Cho tới nay, hàng loạt các văn bản pháp luật về thương mại điện tử đã được ban hành
và có hiệu lực tại Việt Nam như đã đề cập ở phần 1.2 Chương I luận văn, có thể kể đến cụ
thể như: Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 9/6/2006 của Chính phủ về Thương mại điện tử;
Nghị định số 26/2006/NĐ-CP ngày 15/2/2007 của Chính phủ về hướng dẫn Luật Giao dịch
điện tử về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số; Nghị định số 27/2007/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 23/2/2007 về giao dịch điện tử trong 20 hoạt động tài chính; Nghị định số
35/2007/NĐ-CP ngày 8/3/2007 của Chính phủ về giao dịch điện tử trong hoạt động ngân
hàng, … Song song với việc xây dựng những văn bản điều chỉnh thương mại điện tử, các kế
hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử cũng được thông qua. Cụ thể, ngày 17/10/2010,
Thủ tướng Chính phủ đã quyết định phê duyệt Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện
tử giai đoạn 2010 – 2020. Trước đó, Chiến lược phát triển công nghệ thông tin và truyền
thông Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 của Bộ Bưu chính Viễn thông
cũng đã được phê duyệt. Các văn bản này đã hình thành những chính sách khung hỗ trợ việc
phát triển hoạt động thương mại điện tử. Hiện nay, Kế hoạch tổng thể phát triển Thương mại
điện tử giai đoạn 2016-2020 và Thông tư quy định về Quản lý hoạt động TMĐT trên nền
tảng di động đang được lấy ý kiến rộng rãi sẽ đề xuất lộ trình phát triển tổng thể TMĐT
trong 05 năm tới và quy định các vấn đề liên quan đến sở hữu website, ứng dụng, dịch vụ
trung gian để kinh doanh thương mại điện tử trên nền tảng di động.
Mặc dù quy định của pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam được đánh giá là
tương đối tản mạn ở nhiều văn bản chưa có sự tập trung cao, song tựu chung lại có thể thấy
pháp luật thương mại điện tử ở Việt Nam có những nội dung chính sau:
-

Quy định điều chỉnh các vấn đề cơ bản về thông điệp dữ liệu và chữ ký điện tử: Pháp
luật thương mại điện tử ở Việt Nam công nhận giá trị thông tin của thông điệp dữ

liệu điện tử và giá trị chứng cứ của nó cũng như giá trị pháp lý của chữ ký điện tử


trong các giao dịch điện tử. Đồng thời, đưa ra các điều kiện để đảm bảo tính toàn vẹn
và giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu cũng như các cách tạo lập chữ ký điện tử. So
với quy định của pháp luật thế giới về lĩnh vực này thì pháp luật Việt Nam có nhiều
điểm tương đồng và có sự học hỏi, tiếp thu.
-

Quy định về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong thương mại điện tử: Các quy định của
Việt Nam về vấn đề này chủ yếu vẫn nằm trong Luật Sở hữu trí tuệ và các Điều ước
quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Quy định của pháp luật chủ yếu tập trung ở việc
cho phép các chủ thể có quyền thực hiện các hành vi tự vệ hoặc khởi kiện tòa án để
bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm phạm đồng thời quy định các vấn đề về quyền
sao chép, quyền tác giả đối với các chương trình máy tính, các đối tượng liên quan
đến giao dịch điện tử.

-

Quy định các vấn đề về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong giao dịch thương mại
điện tử: Pháp luật về vấn đề này có thể chia thành các nhóm vấn đề chính như: Pháp
luật về bảo vệ thông tin người tiêu dùng; pháp luật bảo vệ người tiêu dùng đối với
các hoạt động quảng cáo, nhắn tin qua phương tiện điện tử; và các quy định về các
hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu dùng trong thương mại điện tử.

-

Quy định các hành vi vi phạm pháp luật thương mại điện tử: Pháp luật không có quy
định riêng biệt đối với các hành vi vi phạm cũng như chế tài xử lý đối với hành vi vi
phạm trong thương mại điện tử. Đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong thương

mại điện tử, các cơ quan nhà nước có thể áp dụng các chế tài hành chính; dân sự hoặc
hình sự tùy theo tính chất nghiệm trọng của hành vi và hậu quả mà nó gây ra.
1.3.4. Đánh giá sự hình thành pháp luật về thương mại điện tử ở Việt Nam
trong tương quan so với pháp luật thương mại điện tử trên thế giới

-

Quy định của một số quốc gia về Thương mại điện tử
Tùy tên gọi văn bản có thể khác nhau, xong nhìn chung các quốc gia đều ban hành
những quy định liên quan đến Thương mại điện tử để điều chỉnh hoạt động này. Có thể kể
đến một số quốc gia tiêu biểu như sau:
TT

Nước

Tên văn bản

ban hành

Loại

Năm

Văn bản

ban hành

A. Châu Mỹ
1


Argentina

Luật Chữ ký số

Luật

2002

2

Canada

Luật Giao dịch điện tử

Luật

2001

Luật Thương mại điện tử thống nhất

Luật

1999

Luật chứng cứ điện tử thống nhất

Luật

1999


3

Columbia

Luật Thương mại điện tử

Luật

1999

4

Hoa Kỳ

Luật Giao dịch điện tử thống nhất

Luật

1999


5

Peru

Luật Giao dịch thông tin máy tính
thống nhất

Luật


1999

Luật Chữ ký điện tử trong thương mại
toàn cầu và quốc gia

Luật

2000

Luật Chữ ký số

Luật

2000

B. Châu Âu
6

Anh

Luật Truyền thông điện tử

Luật

2000

7

Áo


Luật Chữ ký điện tử

Luật

2000

8

Bỉ

Luật Chữ ký điện tử và dịch vụ chứng
thực

Luật

2000

9

Đan Mạch

Luật về chữ ký số

Luật

2001

10

Đức


Pháp lệnh về chững kí số

Pháp lệnh

1997

Luật Thương mại điện tử

Luật

2001

11

Hà Lan

Luật Chữ ký điện tử

Luật

2000

12

Pháp

Luật về Chữ ký điện tử

Luật


2000

13

Thụy Điển

Luật Chữ ký điện tử

Luật

2001

Luật Công nghệ thông tin

Luật

2000

Luật Thương mại điện tử

Luật

1998

Luật Chữ ký điện tử

Luật

1999


Luật Cơ bản về Thương mại điện tử

Luật

1999

C. Châu Á
14

15

Ấn Độ

Hàn Quốc

16

Malaysia

Luật Chữ ký số

Luật

1997

17

Nhật Bản


Luật Chữ ký điện tử và dịch vụ chứng
thực

Luật

2001

18

Singapore

Luật Giao dịch điện tử

Luật

1998

19

Myanmar

Luật Giao dịch điện tử

Luật

2004

20

Brunei


Pháp lệnh Giao dịch điện tử

Pháp lệnh

2000

21

Hong Kong

Pháp lệnh Giao dịch điện tử

Pháp lệnh

2000

22

Thái Lan

Luật Giao dịch điện tử

Luật

2001

23

Trung Quốc


Luật Hợp đồng thống nhất

Luật

1999


Luật về Chữ ký điện tử

Luật

2006

D. Châu Úc
24

Australia

Luật Giao dịch điện tử

Luật

1999

25

New
Zealand


Luật Giao dịch điện tử

Luật

2002

Nguồn: Ủy ban khoa học, công nghệ và môi trường của Quốc hội
Đa số các nước đều ban hành một luật điều chỉnh bao trùm cả giao dịch điện tử,
thương mại điện tử, chữ ký điện tử. Luật đó thường được gọi tên là Luật Giao dịch điện tử
hoặc Luật Thương mại điện tử. Tuy nhiên, có một số nước ban hành Luật về Chữ ký điện tử
hoặc chữ ký số bên cạnh luật về giao dịch điện tử hoặc thương mại điện tử. Cũng có những
nước như Thái Lan lúc đầu ban hành Luật Giao dịch điện tử và chữ ký điện tử riêng rẽ
nhưng đến tháng 4/2002 đã hợp nhất thành một luật thống nhất là Luật Giao dịch điện tử.
-

Quá trình hình thành pháp luật thương mại điện tử Việt Nam so với thế giới
Có thể thấy, nếu chỉ so sánh về thời điểm chính thức ra đời của các văn bản pháp luật
quy định chính thức về thương mại điện tử thì hệ thống pháp luật Việt Nam có thể coi là
muộn hơn so với đa số nước trên thế giới. Tuy nhiên, mặc dù cho tới năm 2005 chúng ta mới
có những văn bản quy phạm pháp luật quy định chính thức về các vấn đề liên quan đến
thương mại điện tử song ngay từ những năm 2000 – 2003 chúng ta cũng đã có những đường
hướng và chính sách định hướng cho sự phát triển của lĩnh vực này và không phải là quá
chậm so với thế giới bởi nó phù hợp với sự phát triển thực tế về mặt thị trường thương mại
điện tử ở Việt Nam.
Về nội dung các văn bản quy phạm pháp luật, xu hướng của sự hình thành pháp luật
Việt Nam về thương mại điện tử cũng có nét tương đồng so với thế giới khi mà các văn bản
pháp luật của Việt Nam về lĩnh vực này cũng tập trung trong việc ban hành các văn bản điều
chỉnh giao dịch điện tử, thương mại điện tử, chữ ký điện tử mặc dù chúng ta mới chỉ có một
luật về giao dịch điện tử còn các vấn đề khác đang nằm ở mức độ nghị định và thông tư.
Đồng thời, trong quá trình xây dựng các văn bản pháp luật liên quan đến thương mại điện tử,

các nhà làm luật Việt Nam cũng đã có những học hỏi ở các văn bản pháp luật trước đó của
thế giới, ví dụ như: các quy định về chữ ký điện tử được xây dựng dựa trên Luật mẫu về Chữ
ký điện tử của UNCITRAL, các quy định về thương mại điện tử cũng tham khảo và tiếp
nhận từ Công ước Liên hiệp quốc về các chứng cứ trong hợp đồng quốc tế… vấn đề này sẽ
được phân tích cụ thể tại mục 2.2 Chương 2 của luận văn.
Về quá trình tham gia vào các Hiệp định, công ước quốc tế về lĩnh vực thương mại
điện tử: song song với việc xây dựng các văn bản pháp luật về thương mại điện tử thì Việt
Nam cũng gia nhập các diễn đàn, Hiệp định… liên quan đến thương mại điện tử có thể kể
đến như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Hiệp định e-Asean, và mới đây nhất là Hiệp
định Đối tác thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP). Cụ thể:
-

Cam kết của WTO:

Suốt quá trình hơn 20 năm tiến hành đổi mới nền kinh tế, hội nhập ngày càng sâu
rộng hơn vào nền kinh tế thế giới của Việt Nam đều gắn liền với sự phát triển của thương
mại điện tử. Ngay từ khi bắt đầu mở cửa hội nhập với thế giới, chúng ta đã tham gia vào
hàng loạt các cam kết đa phương, khu vực có liên quan đến tự do hóa về thương mại điện tử.
Trên bình diện hợp tác đa phương, chúng ta đã tuân thủ nghiêm túc các cam kết của WTO về


×