Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND lào từ kinh nghiệm của nước CHXHCN việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (642.33 KB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

SOUMALY SEMPHIMMACHACK

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NƯỚC CHDCND
LÀO TỪ KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC CHXHCN VIỆT NAM

Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. BÙI NGUYÊN KHÁNH


HÀ NỘI - 2016
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin được gửi lời cảm ơn đến các thầy cô giáo Trường
Đại học Luật Hà Nội, đặc biệt là các thầy cô giáo Khoa sau Đại học và Khoa
Luật Kinh tế đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên
cứu chương trình thạc sĩ luật học tại trường.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất của mình đến người


hướng dẫn khoa học PGS.TS. Bùi Nguyên Khánh, người đã tận tâm, nhiệt
tình chỉ bảo và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè đã luôn động
viên, quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian qua. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

SOUMALY SEMPHIMMACHACK


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng cá
nhân tôi. Mọi tài liệu, số liệu trong luận văn là khách quan, trung thực.
Những kết quả, những đánh giá trong luận văn chưa được ai công bố ở bất kỳ
một công trình nghiên cứu khoa học nào.
Hà Nội, ngày…tháng…năm 2016
XÁC NHẬN CỦA NGƯỜI

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

HƯỚNG DẪN

SOUMALY SEMPHIMMACHACK


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

CHDCND Lào

: Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào


ĐTTT

: Đầu tư trực tiếp

ĐTGT

: Đầu tư gián tiếp

WTO

: Tổ chức Thương mại Thế giới


MỤC LỤC
Trang
1
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP VÀ PHÁP
6
LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở LÀO VÀ VIỆT NAM
1.1. Khái quát về đầu tư trực tiếp
6
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp
6
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp
9
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của đầu tư trực tiếp
12
1.2. Pháp luật đầu tư trực tiếp tại Việt Nam

14
1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư trực tiếp
14
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư trực tiếp tại
Việt Nam
17
1.2.3. Nội dung pháp luật về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 21
1.3. Pháp luật về đầu tư trực tiếp tại Lào
23
1.3.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư trực
tiếp tại Lào
23
1.3.2. Nội dung pháp luật về đầu tư trực tiếp tại Lào
26
1.3.3. Vai trò của pháp luật về đầu tư trực tiếp tại Lào
29
31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở LÀO TRONG
32
SỰ SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về chủ thể có quyền đầu tư trực tiếp tại Lào
32
2.2. Thực trạng pháp luật về hình thức, lĩnh vực đầu tư trực tiếp tại Lào 34
2.2.1. Các quy định về hình thức đầu tư của nhà đầu tư trực tiếp
34
2.2.2. Các quy định về lĩnh vực đầu tư của nhà đầu tư trực tiếp tại Lào 38
2.3. Thực trạng pháp luật về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích
đầu tư

41
2.3.1. Các quy định về bảo đảm đầu tư
41
2.3.2. Quy định về khuyến khích đầu tư
44
2.4. Thực trạng pháp luật về quyền, nghĩa vụ của nhà đầu tư
47
2.4.1. Quy định của pháp luật về quyền của nhà đầu tư trực tiếp
47
2.4.2. Quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà đầu tư trực tiếp
49
2.5. Thực trạng pháp luật về quản lý nhà nước trong hoạt động đầu tư
trực tiếp tại Lào
51
2.5.1. Thủ tục cấp Giấp phép đầu tư
51
2.5.2. Thủ tục theo dõi, đánh giá, thanh tra và kiểm tra dự án đầu tư
55
58
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2


CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở NƯỚC CHDCND LÀO TỪ KINH NGHIỆM CỦA NƯỚC
59
CHXHCN VIỆT NAM

3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ở nước
CHDCND Lào
59

3.2. Phương hướng hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ở nước
CHDCND Lào theo kinh nghiệm của Việt Nam
61
3.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp nước
nước CHDCND Lào theo kinh nghiệm của Việt Nam
65
3.3.1. Nhóm giải pháp hoàn thiện về hình thức pháp luật đầu tư
65
3.3.2. Nhóm giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật đầu tư
65
72
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
74
KẾT LUẬN
75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


7

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đầu tư trực tiếp ngày nay đang là một xu thế chung của thời đại, nó
không những có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế các nước đang phát
triển mà còn đối với ngay cả nền kinh tế các nước phát triển. Động thái chi
phối của hoạt động đầu tư trực tiếp luôn được quyết định bởi cơ chế lợi ích
của các bên tham gia hoạt động đầu tư. Hoạt động đầu tư trực tiếp sẽ tiếp tục
phát triển khi nó đem lại lợi ích cho cả nhà đầu tư lẫn nền kinh tế tiếp nhận
đầu tư, trong đó nó đem lại các điều kiện để giải quyết hai vấn đề cơ bản nhất
hiện nay đó là vốn và kỹ thuật – hai vấn đề quan trọng và cơ bản nhất đối với

sự nghiệp công nghiệp hóa của các nước đang phát triển.
Trong thời gian qua, hoạt động đầu tư trực tiếp tại Lào đã đạt được
những thành tự quan trọng, đóng góp ngày càng lớn vào sự tăng trưởng kinh
tế, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, tạo thêm thế và lực cho Lào chủ động hội nhập với kinh tế thế
giới và khu vực… Tuy nhiên, hiện nay Lào đang phải đối mặt với xu hướng
cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài ngày càng gay gắt từ các nước trên thế
giới và trong khu vực, trong khi năng lực cạnh tranh quốc gia nói chung và
sức cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nói riêng còn nhiều mặt hạn chế. Lĩnh
vực và địa bàn khuyến khích đầu tư còn dàn trải, thiếu tính thống nhất và
chưa thật sự hướng mạnh vào thu hút các dự án đầu tư với chất lượng và hiệu
quả cao hơn. Các quy định về điều kiện và thủ tục đầu tư còn thiếu tính minh
bạch, khả thi và đồng bộ, chưa thật sự tạo lập được mặt bằng pháp lý bình
đẳng cho các nhà đầu tư. Các quy định về thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tư
và triển khai thực hiện dự án còn phức tạp, tồn tại nhiều đầu mối xem xét, giải
quyết, không phù hợp với chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính cho
người dân và doanh nghiệp. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân,
trong đó có một nguyên nhân cơ bản là hệ thống pháp luật về đầu tư của Lào


8

còn nhiều hạn chế, bất cập. Từ đây, yêu cầu thực tế đặt ra là phải sửa đổi,
hoàn thiện pháp luật về đầu tư đảm bảo phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội
của đất nước trong giai đoạn phát triển mới.
Việc hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp của Lào cần dựa trên kinh
nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật của các quốc gia phát triển hơn, đặc
biệt là của Việt Nam – một trong số những quốc gia có nhiều nét tương đồng
về kinh tế - xã hội với Lào. Bên cạnh đó, Việt Nam còn là quốc gia có xuất
phát điểm tương đối giống Lào xong hiện nay nền kinh tế Việt nam đã có

nhiều chuyển biến tích cực với nhiều hoạt động kinh tế sôi động, bắt kịp với
sự phát triển của nền kinh tế thế giới đặc biệt là hoạt động đầu tư trực tiếp.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp
luật về đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào từ kinh nghiệm của nước
CHXHCN Việt Nam” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình
với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tiếp tục hoàn thiện các
quy định của pháp luật trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp tại Lào.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, đã có một số công trình nghiên cứu pháp
luật về đầu tư nói chung cũng như đầu tư trực tiếp nói riêng như:
Ở Việt Nam đã có các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả Việt
Nam về vấn đề đầu tư trực tiếp như luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Khắc
Định với đề tài “Hoàn thiện pháp luật đầu tư trực tiếp nước ngoài trong xu
hướng nhất thể hóa pháp luật về đầu tư ở nước ngoài”, luận văn thạc sĩ luật
học “Vấn đề khuyến khích vào bảo hộ đầu tư nước ngoài trong pháp luật Việt
Nam” của Bùi Giang Nam (năm 2000), luận văn thạc sĩ “Pháp luật quản lý
nhà nước về đầu tư – những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Duy
Nam (năm 2013), luận văn thạc sĩ “Pháp luật hiện hành về đầu tư trực tiếp


9

nước ngoài tại Việt Nam – thực trạng và giải pháp hoàn thiện” của Đỗ
Phương Hiền (năm 2014),…
Về pháp luật đầu tư Lào, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu
như: luận văn thạc sỹ luật học của Souliya Pouamgpadith “Các biện pháp
khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào”; luận văn thạc sĩ của Nor Keo Kommadam với đề tài “Pháp luật về
bảo đảm đầu tư trực tiếp ở CHDCND Lào” (năm 2008); luận văn thạc sỹ luật
học của Phutsaydy Phanyasith “Pháp luật về khuyến khích đầu tư ở nước

CHDCND Lào – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện” (năm 2008);…
Các công trình kể trên chủ yếu đề cập tới các biện pháp đảm bảo hoặc khuyến
khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Lào nói chung từ đó đưa ra các giải pháp
trên cơ sở pháp luật và thực tiễn Lào mà chưa có công trình nào nghiên cứu
về pháp luật đầu tư trực tiếp của Lào và bài học kinh nghiệm hoàn thiện từ
pháp luật Việt Nam. Vì thế, luận văn này sẽ là một công trình khoa học đầu
tiên nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện các quy định về đầu tư trực tiếp
tại Lào, và những bài học kinh nghiệm trong hoàn thiện pháp luật đầu tư trực
tiếp của pháp luật Việt Nam.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật về đầu tư trực tiếp ở nước
CHDCND Lào từ kinh nghiệm của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là: vấn đề về đầu tư trực tiếp, đặc biệt là
pháp luật về đầu tư trực tiếp của nước CHDCND Lào và pháp luật về đầu tư
trực tiếp của Việt Nam.
4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là: Trình bày và phân tích một
cách có hệ thống các quy định của pháp luật về đầu tư trực tiếp tại Lào trên cơ
sở so sánh với các quy định của pháp luật đầu tư trực tiếp của Việt Nam; từ


10

đó rút ra bài học kinh nghiệm để hoàn thiện pháp luật đầu tư trực tiếp tại Lào.
Bên cạnh đó, luận văn lập luận một cách thuyết phục sự cần thiết phải hoàn
thiện pháp luật đầu tư trực tiếp của Lào trên cơ sở học hỏi kinh nghiệm pháp
luật đầu tư Việt Nam.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn trả lời hai câu hỏi nghiên cứu chính:
- Thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào và bài

học kinh nghiệm từ nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó, luận văn trả lời cho
các câu hỏi: Thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào
(nội dung quy định của pháp luật, những ưu điểm và hạn chế của quy định
pháp luật); Bài học kinh nghiệm từ nước CHXHCN Việt Nam mà Lào có thể
học hỏi.
- Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ở
nước CHDCND Lào từ kinh nghiệm của nước CHXHCN Việt Nam. Theo đó,
luận văn trả lời cho các câu hỏi, từ kinh nghiệm của Việt Nam thì phương
hướng để hoàn thiện pháp luật về đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào là gì
và các giải pháp cụ thể để thực hiện các phương hướng đó.
6. Phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng phương pháp
phân tích tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp duy vật biện chứng,
phương pháp duy vật lịch sử… Trong đó phương pháp chủ yếu là so sánh,
phân tích tổng hợp.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Luận văn cũng đưa ra những bài học kinh nghiệm trong xây dựng và
hoàn thiện pháp luật Lào trên cơ sở học tập kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật
của Việt Nam. Với việc nghiên cứu những quy định pháp lý mới nhất của


11

Việt Nam, những đề xuất của luận văn sẽ là những đề xuất có tính mới và có
căn cứ khoa học cho việc
8. Bố cục của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo kết cấu
của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1. Những vấn đề khái quát về đầu tư trực tiếp và pháp luật về
đầu tư trực tiếp ở Lào và Việt Nam.

Chương 2. Thực trạng pháp luật về đầu tư trực tiếp ở Lào trong sự so
sánh với pháp luật đầu tư trực tiếp của Việt Nam.
Chương 3. Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về đầu tư
trực tiếp ở nước CHDCND Lào từ kinh nghiệm của nước CHXHCN Việt Nam.


12

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP VÀ PHÁP
LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP Ở LÀO VÀ VIỆT NAM
1.1. Khái quát về đầu tư trực tiếp
1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp
Khái niệm đầu tư
Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế,
sự phát triển của nền kinh tế quốc gia gắn liền với vai trò và tác động tích cực
của hoạt động đầu tư kinh tế cả trong nước và nước ngoài. Vấn đề đầu tư đã
được sự quan tâm và trú trọng của nhiều nước song quan niệm về đầu tư vẫn
chưa có sự thống nhất.
Theo cách hiểu thông thường, đầu tư được hiểu là “sự hi sinh các
nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho
người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã
bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên
nhiên, là sức lao động và trí tuệ”1.
Dưới góc độ khoa học kinh tế, đầu tư được hiểu là khâu đầu tiên trong
quá trình sản xuất, kinh doanh của một chủ thể đầu tư, là chi phí ban đầu phục
vụ một đối tượng nào đó, được sử dụng một cách có mục đích nhằm thỏa mãn
nhu cầu của chủ đầu tư2.
Có quan điểm coi đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, tài nguyên
trong một thời gian tương đối dài nhằm thu lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế - xã

hội. Cũng có quan điểm khẳng định đầu tư là việc bỏ vốn vào một cơ sở sản
xuất, một công trình xây dựng hay một đơn vị sự nghiệp bằng nhiều biện pháp
1 Nguyễn Thị Lan Phương, Hoàn thiện pháp luật vè khuyến khích đầu tư ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường đại học Luật Hà Nội, 2005
2 Nguyễn Thị Lan Phương, Hoàn thiện pháp luật vè khuyến khích đầu tư ở Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật
học, Trường đại học Luật Hà Nội, 2005


13

như: cấp phát ngân sách, vốn tự có, liên doanh hoặc vay dài hạn để mua sắm
thiết bị, xây mới…nhằm thu doanh lợi hay phát triển phúc lợi công cộng.
Ở góc độ pháp lý thì đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các
hình thức và cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm
mục đích lợi nhuận hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác3.
+ Luật đầu tư 2014 quy định: “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ
vốn đầu tư để thực hiện hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ
chức kinh tế; đầu tư góp vốn, mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế;
đầu tư theo hình thức hợp đồng hoặc thực hiện dự án đầu tư.” Với việc thu
hẹp khái niệm đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của luật đầu tư, khái niệm đầu
tư kinh doanh theo quy định của Luật đầu tư 2014 đã quy định cụ thể, chi tiết
và khái quát được hết các nội hàm đầu tư thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật
đầu tư 2014.
+ Ở nước CHDCND Lào, khái niệm đầu tư được hiểu rất rộng. Theo đó
tại khoản 1 Điều 3 Luật khuyến khích đầu tư năm 2009 có quy định: “Đầu tư
có nghĩa là nhà đầu tư sử dụng vốn hữu hình và vốn vô hình vào kinh doanh
sản xuất”.
Như vậy, có nhiều quan điểm khác nhau về đầu tư, xuất phát từ cách
tiếp cận hoạt động đầu tư khác nhau mà quan điểm khác nhau. Mặc dù cách
diễn giải và cách thức tiếp cận khác nhau song tựu chung lại các quan điểm

này đều thống nhất với nhau về bản chất của hoạt động đầu tư. Theo đó, “đầu
tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất đai,…
vào một hoạt động kinh tế cụ thể bằng nhiều cách thức khác nhau nhằm tạo ra
một hoặc nhiều sản phẩm cho xã hội để thu lợi nhuận”. Người bỏ ra một số
lượng tài sản được gọi là nhà đầu tư hay chủ đầu tư. Chủ đầu tư có thể là các
tổ chức, cá nhân và cũng có thể là nhà nước. Căn cứ vào mức độ tham gia
3 Bộ Tư pháp (2012), Xây dựng và hoàn thiện pháp luật đảm bảo lồng ghép yêu cầu phát triển bền vững
trong các dự án đầu tư, Đề tài NCKH cấp Bộ năm 2012, Chủ nhiệm đề tài: GS.TS. Lê Hồng Hạnh


14

quản lý của nhà đầu tư vào đối tượng bỏ vốn, đầu tư được chia ra hai cách
thức đầu tư: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn chỉ phân tích và tìm hiểu
khái niệm đầu tư trực tiếp.
Theo quan điểm vĩ mô, ĐTTT là việc chủ ĐTTT đưa vốn và kỹ thuật
vào nơi nhận đầu tư, thực hiện quá trình sản xuất kinh doanh trên cơ sở thuê
mướn, khai thác các yếu tố cơ bản của nơi nhận đầu tư 4[10].
Theo quan điểm vi mô, ĐTTT là việc chủ đầu tư đóng góp một số vốn
lớn, trực tiếp tham gia vào việc quản lý, điều hành đối tượng bỏ vốn5 [10].
Theo quy định tại khoản 11 Điều 3 Luật khuyến khích đầu tư 2009 của
Lào: “Đầu tư trực tiếp có nghĩa là việc nhà đầu tư hoặc nhóm nhà đầu tư đưa
vốn tiến hành kinh doanh sản xuất, họ là chủ doanh nghiệp và quản lý hành
chính hoặc phát triển doanh nghiệp liên quan.” Theo như quy định trên, yếu
tố để phân biệt hoạt động ĐTTT và ĐTGT là vai trò của chủ đầu tư trong hoạt
động đầu tư, theo đó trong ĐTTT, chủ đầu tư phải là chủ doanh nghiệp và
quản lý hành chính hoặc phát triển doanh nghiệp liên quan, có nghĩa là chủ
đầu tư phải trực tiếp tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
Như vậy, có thể thấy ĐTTT là hoạt động đầu tư do chủ ĐTTT quyết

định về các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, quản lý vốn, quản lý quá trình sản
xuất,… Hoạt động ĐTTT thường gắn liền với hoạt động quản lý trực tiếp của
nhà đầu tư. Người đầu tư cũng đồng thời là người trực tiếp quản lý điều hành
hoạt động đầu tư, là người nắm giữ các cương vị then chốt, quyết định hướng
đầu tư và chịu trách nhiệm về hiệu quả của việc đầu tư. Đầu tư trực tiếp là sự
đầu tư gắn chặt với hoạt động kiểm soát vốn, nhà đầu tư có thể thấy ngay
được hiệu quả của việc đầu tư.
4 Võ Hải Long (2009), Phát huy vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Tạp
chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
5 Võ Hải Long (2009), Phát huy vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Tạp
chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.


15

1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp
Từ khái niệm ĐTTT nêu trên, có thể phân loại hoạt động ĐTTT theo
các tiêu chí chủ thể tiến hành hoạt động đầu tư: ĐTTT trong nước và ĐTTT
nước ngoài. Đầu tư trực tiếp trong nước là việc các nhà đầu tư trong nước bỏ
vốn vào hoạt động đầu tư kinh doanh tại nước mình và trực tiếp quyết định về
các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, quản lý vốn, quản lý quá trình sản xuất đó.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là sự bỏ vốn dài hạn của cá nhân hay công ty
nước này vào nước khác bằng cách thực hiện hoạt động kinh doanh thương
mại nhằm mục tiêu lợi nhuận và cá nhân hay công ty nước ngoài thực hiện
hoạt động đầu tư được quyền quản lý hoạt động kinh doanh của mình tại nước
mà họ thực hiện hoạt động đầu tư. Như vậy hoạt động ĐTTT trong nước và
ĐTTT nước ngoài được phân biệt bởi chủ thể tiến hành hoạt động đầu tư,
ngoài những điểm khác nhau đặc thù để phân biệt các hoạt động ĐTTT thì
hoạt động ĐTTT có những đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện đầu tư trực tiếp là nhà đầu tư – cá nhân

hoặc pháp nhân trong và ngoài nước tiến hành kinh doanh sản xuất tại
CHDCND Lào. Đây là đặc điểm quan trọng để phân biệt ĐTTT nước ngoài
với đầu tư trong nước. Theo Điều 3 Luật khuyến khích đầu tư 2009 của Lào:
“Nhà đầu tư trong nước có nghĩa công dân Lào, người nước ngoài, người
không có quốc tịch và pháp nhân của nhóm người trên đang sinh sống và kinh
doanh sản xuất tại CHDCND Lào”; “Nhà đầu tư nước ngoài có nghĩa cá nhân
hoặc pháp nhân nước ngoài đến kinh doanh sản xuất tại CHDCND Lào”. Như
vậy, yếu tố quan trọng để phân biệt nhà đầu tư trong nước với nhà đầu tư
nước ngoài theo quy định của pháp luật Lào không dựa vào yếu tố quốc tịch
mà dựa vào thời điểm và thời gian sinh sống của nhà đầu tư trên lãnh thổ
nước Lào. Với quy định như trên sẽ không tạo ra sự phân biệt giữa các nhà
đầu tư là công dân Lào với nhà đầu tư là người nước ngoài đang sinh sống và
làm việc tại Lào, tuy nhiên trên thực tế khi áp dụng quy định này rất dễ gặp
phải vướng mắc trong việc xác định như thế nào là đang sinh sống và làm


16

việc tại Lào về mặt thời gian là bao lâu hay về tính liên tục; ví dụ trong trường
hợp nhà đầu tư nước ngoài vào Lào đầu tư, hoạt động đầu tư đầu tiên họ được
xác định là nhà đầu tư nước ngoài, tuy nhiên trong quá trình thực hiện hoạt
động đầu tư, họ tiếp tục tiến hành hoạt động đầu tư thứ hai, như vậy lúc này
khi đang sống và làm việc tại Lào họ được coi là nhà đầu tư trong nước hay
vẫn là nhà đầu tư nước ngoài?
Thứ hai, về thời hạn đầu tư: ĐTTT là đầu tư dài hạn. Vốn đầu tư vào
nước nhận đầu tư là nguồn vốn dài hạn, ít biến động. Sở dĩ ĐTTT là đầu tư
dài hạn bởi các chủ đầu tư khi trực tiếp thực hiện hoạt động kinh doanh
thương mại, ngoài việc họ mang nguồn “vốn đầu tư” từ nước ngoài sang thì
họ phải tiến hành một chu trình kinh doanh thương mại hoàn chỉnh nhằm thực
hiện mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận lâu dài. Mục tiêu lợi ích dài hạn đòi hỏi phải

có một quan hệ lâu dài giữa nhà ĐTTT và doanh nghiệp nhận ĐTTT, do đó
nguồn vốn đầu tư trong trường hợp này được xác định là vốn dài hạn6 [7, tr9].
Thứ ba, mục đích đầu tư trực tiếp là nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Đầu tư
trực tiếp là một hình thức kinh doanh theo cơ chế thị trường, các nhà ĐTTT
được xác định là tư nhân, vốn đầu tư là vốn tư nhân, họ bỏ vốn thực hiện hoạt
động kinh doanh và họ cũng phải chịu hoàn toàn về lỗ và lãi của hoạt động
kinh doanh đó. Vì vậy, trong ĐTTT, tìm kiếm lợi nhuận là ưu tiên hàng đầu
của các chủ đầu tư 7.
Thứ tư, vốn đầu tư:Vốn đầu tư là loại vốn tích lũy được trong hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các cá nhân, tập thể và nhà nước nhằm thực hiện đầu
tư để mở rộng sản xuất và dịch vụ hay tạo ra năng lực sản xuất mới. Trên giác
độ quốc gia, nguồn vốn đầu tư được chia làm hai loại là nguồn vốn trong nước
và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Do đó, hoạt động đầu tư cũng được phân chia
thành hai hình thức cơ bản là đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài. Nguồn
6 Nor Keo Kommadam, Pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào, Luận văn thạc sĩ Luật
học trường Đại học luật Hà Nội, 2008
7 Nor Keo Kommadam, Pháp luật về bảo đảm đầu tư trực tiếp ở nước CHDCND Lào, Luận văn thạc sĩ Luật
học trường Đại học luật Hà Nội, 2008


17

vốn đầu tư bao gồm: những tài sản hữu hình như tiền vốn, đất đai, nhà cửa,
thiết bị, vật tư..; những tài sản vô hình như bằng phát minh, sáng chế, bí quyết
kỹ thuật, nhãn hiệu hàng hóa… Ngoài ra, các nhà đầu tư cũng có thể đầu tư
bằng cổ phiếu, trái phiếu, quyền sở hữu về tài sản khác như quyền thế chấp,
cầm cố tài sản, khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên8.
Thứ năm, trong đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư có quyền kiểm soát doanh
nghiệp trực tiếp nhận vốn đầu tư của mình. Quyền kiểm soát doanh nghiệp là
quyền tham gia vào các quyết định quan trọng ảnh hưởng đến sự tồn tại và

phát triển của doanh nghiệp như thông qua chiến lược hoạt động của công ty,
thông qua phê chuẩn kế hoạch hành động do người quản lý hàng ngày của
doanh nghiệp lập ra, quyết định việc phân chia lợi nhuận doanh nghiệp, quyết
định phần vốn góp giữa các bên, tức là những quyền ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển, sống còn của doanh nghiệp. Quyền kiểm soát doanh nghiệp, xuất
phát từ quyền sở hữu đối với vốn mà chủ đầu tư bỏ ra, và xuất phát từ mục
tiêu tìm kiếm lợi nhuận của mình mà các chủ đầu tư được quyền kiểm soát
hoạt động để đảm bảo lợi ích từ hoạt động đầu tư đó9.
Thứ sáu, hoạt động đầu tư trực tiếp phải được sự chấp thuận của nước
nhận đầu tư. Bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng phải chịu sự giám sát và điều
tiết của nhà nước. Dù là ĐTTT trong nước hay ĐTTT ra nước ngoài thì đều
phải chịu sự quản lý của Nhà nước. Tuy nhiên, đối với hoạt động ĐTTT ra
nước ngoài, chủ đầu tư phải chịu cơ chế giám sát của nước nhận vốn đầu tư
thông qua hoạt động cấp phép đầu tư vào các ngành nghề, lĩnh vực kinh
doanh nhất định nhằm cân bằng nền kinh tế, phát triển cơ cấu kinh tế theo
hướng quản lý vĩ mô của mình, tránh trường hợp chỉ phục vụ lợi ích, lợi
nhuận cho nhà đầu tư mà làm cho cơ cấu nền kinh tế mất cân đối.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của đầu tư trực tiếp
8 Souliya Pouangpadith, Các biện pháp khuyến khích và bảo hộ đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Cộng hòa
dân chủ nhân dân Lào, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007.
9 Võ Hải Long (2009), Phát huy vai trò của pháp luật đối với phát triển bền vững ở Việt Nam hiện nay, Tạp
chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.


18

Đối với tổng thể một nền kinh tế, hoạt động đầu tư có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng, nó không chỉ đóng vai trò trong quá trình tái sản xuất của xã hội
mà còn tạo ra những cú hích cho sự phát triển của nền kinh tế. Đối với các
nước đang phát triển, tác dụng chủ yếu của ĐTTT nước ngoài và các nhà đầu

tư trong nước là tăng tích lũy vốn và bù đắp sự thiếu hụt ngoại tệ. Do thu
nhập của các nước đang phát triển thấp nên tích lũy thấp mà tỷ lệ nhu cầu đầu
tư cao, vốn đầu tư nước ngoài sẽ góp phần thu cho ngân sách Nhà nước thông
qua việc đánh thuế vào các công ty nước ngoài. Thông qua hợp tác với nước
ngoài, nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện thâm nhập vào thị trường thế giới.
Thông qua thu hút hoạt động ĐTTT, giúp những nước đang phát triển thoát
khỏi vòng luẩn quẩn của nợ nần và nghèo đói, tạo ra sự phát triển của các nền
kinh tế phát triển.
Đầu tư tác động đến sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. Nhằm đạt được tốc
độ tăng trưởng kinh tế như mong muốn thì việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh
tế là thực sự cần thiết. Việc tăng trưởng đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển ở khu
vực công nghiệp và dịch vụ sẽ thuận lợi hơn so với đầu tư phát triển ngành
nông nghiệp. Đối với các ngành nông, lâm, ngư nghiệp do một số hạn chế về
đất đai và các khả năng sinh học, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao là rất
khó khăn. Vì vậy, hoạt động đầu tư sẽ quyết định quá trình dịch chuyển cơ
cấu kinh tế ở các nước nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ
nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân
đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát
khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên,
địa thế, kinh tế, chính trị... những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm
bàn đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
Đầu tư làm tăng khả năng khoa học và công nghệ của đất nước. Công
nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá, đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự
phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của các nước đang phát triển
hiện nay. Thực tế hiện nay, trình độ công nghệ của Lào lạc hậu nhiều thế hệ


19

so với thế giới và khu vực. Do đó, với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá

trình công nghiệp hoá của Lào sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra
được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Thông
qua hoạt động ĐTTT nước ngoài, nước CHDCND Lào cũng có thể tiếp
nhận được những công nghệ hiện đại, trình độ quản lý tiên tiến, tăng thu ngân
sách, phát triển ngành nghề mới. Nó có tác dụng to lớn đối với quá trình công
nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Lào. Như vậy, ĐTTT nước ngoài có vai
trò hết sức quan trọng đối với các nước tiếp nhận đầu tư nói chung và đối với
CHDCND Lào nói riêng, do đó góp phần giải quyết được những vẫn đề hết
sức quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế10.
Đầu tư tác động đến các cơ sở sản xuất kinh doanh. Đối với mỗi doanh
nghiệp thì đầu tư có vai trò quyết định đến cả sự ra đời, tồn tại và phát triển
của mỗi cơ sở. Khi tạo dựng cơ sở vật chất kĩ thuật cho sự ra đời của bất kì
doanh nghiệp nào cũng cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua
sắm và lắp đặt thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành công tác xây dựng cơ
bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kì
của các cơ sở vật chất kĩ thuật vừa được tạo ra. Các hoạt động này chính là
hoạt động đầu tư. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ đang tồn tại
sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này đã
hao mòn, hư hỏng. Để duy trì được sự hoạt động bình thường cần định kì tiến
hành sửa chữa lớn hoặc thay mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới
của sự phát triển khoa học kĩ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã
hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ đã
lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư11.
Tuy nhiên, không phải ĐTTT chỉ mang lại những tác động tích cực cho
các bên mà nó cũng mang lại những tác động tiêu cực đến nền kinh tế xã hội
của các quốc gia. Các tác động tiêu cực đó được thể hiện ở một số điểm như:
10 Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư nước ngoài, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11 Vũ Chí Lộc (1997), Giáo trình đầu tư nước ngoài, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.



20

(i) Hoạt động ĐTTT thúc đẩy sự phát triển không đồng đều giữa thành thị với
nông thôn, đẩy nhanh quá trình phân hoá giầu nghèo trong xã hội; (ii) Thông
qua ĐTTT, các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp nhận phải những thiết bị lạc
hậu, gây ô nhiễm môi trường; (iii) Đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó các
doanh nghiệp nước ngoài cũng như các nhà đầu trong nước có thể dẫn đến sự
cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau và bị phá sản. Có thể thấy hoạt
động đầu tư tác động đến nền kinh tế theo hai mặt, vì vậy, trong điều hành vĩ
mô nền kinh tế, các nhà hoạch định chính sách cần thấy hết tác động hai mặt
này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác
động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
1.2. Pháp luật đầu tư trực tiếp tại Việt Nam
1.2.1. Khái niệm pháp luật đầu tư trực tiếp
Pháp luật ra đời cùng với nhà nước, lúc đầu, khi ngôn ngữ viết chưa
xuất hiện là pháp luật bất thành văn, sau ngôn ngữ viết xuất hiện là pháp luật
thành văn. Cho đến tận ngày nay nhiều nhà nước vẫn sử dụng pháp luật bất
thành văn, dưới hình thức tập quán pháp. Đạo luật thành văn cổ sơ nhất mà
nhân loại còn giữ được là Bộ luật Hăm-mu-ra-bi, từ thế kỷ XIII trước công
nguyên, cách đây 3500 năm12.
Từ khi pháp luật xuất hiện thì các học thuyết về pháp luật cũng lần lượt
xuất hiện, với các quan niệm rất khác nhau về pháp luật; có quan niệm duy
tâm, có quan niệm duy vật; có quan niệm nhằm phục vụ cho mục tiêu chính
trị, có quan niệm chỉ thuần túy mang tính chất học thuật. Ở mỗi hình thái kinh
tế - xã hội, mỗi chế độ xã hội đều tồn tại một hệ thống tư tưởng pháp lý; mỗi
hệ thống có các khai niệm phạm trù rất khác nhau, trong khi cùng lấy pháp
luật là đối tượng phản ánh.

12 Đỗ Phương Hiền, Pháp luật hiện hành về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam – thực trạng và giải
pháp hoàn thiện, Luận văn thạc sĩ Luật học trường Đại học luật Hà Nội, 2014



21

Trong các nước xã hội chủ nghĩa, khoa học pháp lý, trong đó có bộ
môn lý luận chung về nhà nước và pháp luật đã nghiên cứu các khái niệm cơ
bản, như khái niệm pháp luật, hệ thống pháp luật, ngành luật, văn bản quy
phạm pháp luật, nguồn của pháp luật. Khái niệm nguồn của pháp luật đôi khi
được đồng nhất với khái niệm nguồn của ngành luật, cũng giống như khái
niệm pháp luật được đồng nhất với ngành luật, thậm chí đồng nhất với khái
niệm hệ thống pháp luật.Chính từ những nhầm lẫn đó đã làm cho việc nghiên
cứu các khái niệm pháp luật về một lĩnh vực cụ thể nhiều khi trở nên phức
tạp. Pháp luật về đầu tư, pháp luật về ĐTTT cũng ở trong tình trạng tương tự.
- Có quan niệm cho pháp luật ĐTTT là một ngành luật độc lập, tức là
có đối tượng điều chỉnh riêng, phương pháp điều chỉnh riêng và do đó, nằm
trong hệ thống ngành luật thống nhất.
- Có quan niệm cho rằng pháp luật ĐTTT là một bộ phận hay một chế
định của tư pháp quốc tế, bởi các quan hệ đầu tư mà nó điều chỉnh có yếu tố
nước ngoài, chủ thể đầu tư là cá nhân, tổ chức nước ngoài; địa điểm đầu tư là
thị trường nước ngoài,…
- Có quan niệm cho rằng pháp luật ĐTTT không thuộc một ngành luật
nào mà là ở vùng giao thoa của nhiều ngành luật, song gần gũi với ngành luật
kinh tế.
- Có quan niệm coi pháp luật ĐTTT chỉ là một bộ phận của pháp luật
thương mại, bởi quan niệm có tính phổ biến trên thế giới, trong đó có quan
niệm của tổ chức Thương mại thế giới (WTO), trong các Hiệp định của Tổ
chức này, đầu tư chỉ được coi là một trong các hành vi thương mại.
Những quan niệm về pháp luật đầu tư trên chủ yếu xuất phát từ góc độ
học thuật của khoa học pháp lý xã hội chủ nghĩa, từ quan niệm phân chia
pháp luật thành các ngành luật, nhằm tạo ra cơ sở khoa học cho hoạt động xây

dựng pháp luật. Những quan niệm đó không tồn tại trong các hệ thống khoa
học pháp lý khác, trong các hệ thống pháp luật khác. Quan niệm pháp luật đầu


22

tư là một bộ phận của tư pháp quốc tế cũng có phần không chính xác, bởi cá
nhân, tổ chức đầu tư nước ngoài có quốc tịch nước ngoài, song cá nhân, tổ
chức đó với tư cách là chủ thể kinh doanh (đầu tư trực tiếp) lại là các pháp
nhân có quốc tịch Việt Nam; vốn đầu tư đưa vào kinh doanh của họ chịu sự
điều chỉnh của pháp luật Việt Nam.
Từ những lý do trên, và từ mục tiêu thực tiễn của luận văn, tác giả tiếp
cận khái niệm pháp luật ĐTTT từ góc độ pháp luật thực định. Có thể định
nghĩa pháp luật đó như sau: Pháp luật đầu tư nước ngoài là tổng thể các quy
phạm có nguồn từ các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền ban hành hoặc từ các điều ước quốc tế song phương hoặc đa
phương mà Lào là thành viên, cùng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực ĐTTT trên lãnh thổ Lào.
Từ định nghĩa trên, có một số điểm chú ý sau:
- Pháp luật về ĐTTT có thể quan niệm theo phạm vi rộng hẹp khác
nhau. Theo nghĩa hẹp, pháp luật đó chỉ bao gồm các quy phạm pháp luật do
cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Nhà nước Lào ban hành. Theo nghĩa
rộng, pháp luật ĐTTT bao gồm cả các quy phạm thuộc các điều ước quốc tế
song phương và đa phương liên quan đến đầu tư mà Lào là thành viên.
- Những quan hệ ĐTTT mà pháp luật ĐTTT điều chỉnh, gồm: (i) Quan
hệ giữa nhà đầu tư với Nhà nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào; (ii) Quan
hệ hợp tác kinh doanh, liên doạn giữa nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư
trong nước; (iii) Quan hệ giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế Lào; (iiii) Quan hệ giữa doanh nghiệp, chủ
ĐTTT với người lao động làm việc trong các doanh nghiệp đó; (v) Quan hệ

giữa doanh nghiệp, nhà đầu tư với các cơ quan tài phán trong nước hoặc quốc
tế liên quan đến các tranh chấp kinh tế, phá sản của chủ đầu tư nước ngoài.
- Pháp luật đầu tư nói chung, pháp luật ĐTTT nói riêng là một bộ phận
của pháp luật về thương mại, đồng thời có mối liên hệ chặt chẽ với pháp luật


23

dân sự. Các quy định nguyên tắc chung trong pháp luật dân sự và pháp luật
thương mại có ảnh hưởng sâu sắc tới nội dung của pháp luật đầu tư. Pháp luật
ĐTTT ngoài hệ thống pháp luật quốc gia điều chỉnh hoạt động ĐTTT trong
nước còn có một bộ phận của pháp luật về ĐTTT nước ngoài nằm trong các
điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương và tập quán đầu tư quốc tế.
- Trong tổ chức và quản lý hoạt động ĐTTT, pháp luật ĐTTT có vai trò
đặc biệt quan trọng. Chức năng tổ chức và quản lý nhà nước trong lĩnh vực
ĐTTT có phạm vi rộng, gồm nhiều vấn đề, nhiều mối quan hệ cần được xác lập
như: xác định các lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư, hoạch định chính sách
thu hút ĐTTT, các chế độ thuế, tài chính, ngân hàng,… Toàn bộ quá trình quản
lý hoạt động ĐTTT đòi hỏi sự hoạt động tích cực của nhà nước nhằm tạo ra
một cơ chế đồng bộ, thúc đẩy quá trình ĐTTT phát triển đúng hướng của nền
kinh tế, mang lại hiệu quả thiết thực cho đất nước. Do tính chất phức tạp và
phạm vi rộng của các quan hệ pháp luật ĐTTT, nhà nước không thể trực tiếp
tham gia vào các hoạt động đầu tư cụ thể mà chỉ thực hiện quản lý ở tầm vĩ mô,
mang tính chất hành chính – kinh tế. Quá trình quản lý hoạt động ĐTTT không
thể thực hiện được nếu như không có pháp luật về ĐTTT.
1.2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật đầu tư trực tiếp
tại Việt Nam
Trước khi Luật đầu tư 2005 được ban hành, hệ thống pháp luật về đầu
tư được chia làm hai mảng là đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước. Theo
đó, các quy định về đầu tư cũng được tách thành các quy định về đầu tư dành

cho nhà đầu tư nước ngoài và các quy định đầu tư dành cho nhà đầu tư trong
nước và chúng cũng được quy định trong nhiều văn bản pháp luật khác nhau.
Về đầu tư nước ngoài, cơ sở pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho việc thu
hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là nghị định 115/CP ban hành điều lệ
đầu tư nước ngoài do Chính phủ ban hành ngày 18/4/1977. Nghị định ra đời
nhằm cụ thể hóa chủ trương “Thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa


24

nước ta với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng
và cùng có lợi, tích cực tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng
xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩ xã hội” của Đảng. Điều 1 của
Nghị định quy định: “Chấp thuận đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam và
các bên cùng có lợi, không phân biệt chế độ kinh tế, chính trị - xã hội”. Có thể
thấy Nghị định 115/CP đã bước đầu hình thành một môi trường pháp lý đặc
thù của nền kinh tế tự do, đối với các doanh nghiệp, tạo tiền đề quan trọng
cho những ý tưởng và là cơ sở cho những bước cải cách sau này.
Đầu những năm 1980, đứng trước nguy cơ nền kinh tế Việt Nam rơi
vào khủng hoảng, Bộ chính trị Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ra Nghị quyết số
19/1984/NQ-BCT ngày 17/07/1984 đưa ra đường lối đẩy mạnh giao lưu quốc
tế nhằm thu hút ĐTTT. Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa V (ngày 10/12/1984) ra đời đã đề ra nhiệm vụ hoàn
thiện pháp luật đầu tư nước ngoài. Theo đó, ngày 31/12/1987 Quốc hội đã
thông qua Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Trong đạo luật này, các biện
pháp khuyến khích đầu tư đã được cụ thể hóa thành các quy định pháp luật,
tạo cơ sở pháp lý có giá trị cao cho thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Tuy nhiên, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 được ban hành khi
chưa có khung pháp luật của nền kinh tế thị trường, các quy định liên quan

đến hoạt động thu hút đầu tư và các biện pháp ưu đãi, hỗ trợ đầu tư chưa phản
ánh đúng các quy luật của nền kinh tế thị trường nên chưa đảm bảo yếu tố
cạnh tranh lành mạnh và thực sự bình đẳng giữa các nhà đầu tư.
Ngày 30/6/1990 để tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987. Theo đó, các quy
định về khuyến khích đầu tư đã góp phần thúc đẩy và thu hút đầu tư, cụ thể đó
là các biện pháp như các ưu đãi về thuế: miễn thuế trong bốn năm; hoàn
100% thuế cho phần lợi tức tái đầu tư… Có thể khẳng định, sau khi luật đầu


25

tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 được sửa đổi, bổ sung thì hoạt động
đầu tư nước ngoài đã bước sang một giai đoạn phát triển mới, đánh dấu sự
thành công của chính sách “mở cửa” hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và
Nhà nước. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế có tính cạnh tranh cao thì so
với một số nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan… các biện pháp ưu
đãi, hỗ trợ đầu tư của Việt Nam chưa thực sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư
nước ngoài. Trước tình hình đó, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam lại một
lần nữa được thay đổi và Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1992
được ra đời. Đạo luật này đã bổ sung biện pháp bảo đảm quyền lợi của nhà
đầu tư nước ngoài trong trường hợp pháp luật Việt Nam có thay đổi. Các quy
định về ưu đãi, hỗ trợ đầu tư cũng được hoàn thiện như: xây dựng các mức ưu
đãi về thuế, giá thuê đất, giá điện nước và công nhân, và một số chính sách hỗ
trợ đầu tư khác.
Mặc dù vậy, để đáp ứng được yêu cầu phát triển, thay đổi không ngừng
của nền kinh tế hội nhập quốc tế của Việt Nam thì Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1996 lại được ban hành thay thế Luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam năm 1992 nhằm mục tiêu minh bạch và chuẩn xác hóa các biện

pháp thu hút đầu tư, song một số quy định pháp lý về thu hút đầu tư có liên
quan đến đất đai, chính sách tài chính… vẫn chưa thực sự đáp ứng được yêu
cầu của các nhà đầu tư, vì vậy Luật đầu nước ngoài tại Việt Nam năm 2000 ra
đời. Ngoài việc tiến hành cải tiến chính sách đầu tư liên quan đến thuế, đất
đai, thủ tục cấp giấy phép đầu tư hoặc cho phép nhà đầu tư tham gia hợp đồng
hợp tác kinh doanh được trực tiếp mua ngoại tệ, luật đầu tư nước ngoài tại
Việt Nam 2000 còn từng bước xóa bỏ bảo hộ đối với nhà đầu tư trong nước,
tạo môi trường pháp lý đầu tư bình đẳng.
Về đầu tư trong nước, so với pháp luật về các biện pháp khuyến khích
đầu tư nước ngoài, pháp luật về các biện pháp khuyến khích đầu tư trong
nước ra đời muộn hơn, tuy nhiên, nó đã phản ánh rõ chính sách huy động
nguồn vốn đầu tư trong nước và sử dụng có hiệu quả nguồn lực dồi dào trong


×