Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Những đổi mới trong cách thức tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp năm 2014 (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 77 trang )

BỘ GIÁO
DỤCDỤC
VÀ ĐÀO
TẠOTẠO
BỘ GIÁO
VÀ ĐÀO

BỘ TƢ
PHÁP
BỘ
TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------------

MAI THỊ HƢƠNG CHANH

NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG CÁCH THỨC TỔ CHỨC,
QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

\

HÀ NỘI – NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI


------------------

MAI THỊ HƢƠNG CHANH

NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG CÁCH THỨC TỔ CHỨC,
QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60380107

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Am Hiểu

HÀ NỘI – NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn
đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

Tác giả luận văn

Mai Thị Hƣơng Chanh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT


BKS

: Ban kiểm soát

CTCP

: Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ đông

HĐQT

: Hội đồng quản trị



: Giám đốc

LDN

: Luật doanh nghiệp

QTCT

: Quản trị công ty

TGĐ


: Tổng giám đốc


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................1
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CÔNG
TY CỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH
CÔNG TY CỔ PHẦN ...................................................................................................7
1.1

Một số vấn đề lý luận về tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần .......7

1.1.1

Lịch sử hình thành công ty cổ phần..........................................................7

1.1.2

Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần ...........................................10

1.1.3

Khái niệm tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần ........................13

1.1.4

Vai trò của hoạt động tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần .....17


1.1.5

Các nguyên tắc cơ bản tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần ...19

1.1.6 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tổ chức, quản lý, điều hành công
ty cổ phần ...............................................................................................................21
1.2

Các nội dung chính trong tổ chức quản lý, điều hành công ty cổ phần ....22

1.2.1

Mô hình quản lý công ty cổ phần ............................................................ 22

1.2.2

Đại hội đồng cổ đông ...............................................................................24

1.2.3

Hội đồng quản trị .....................................................................................28

1.2.4

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ................................................................ 29

1.2.5

Ban kiểm soát ........................................................................................... 29


1.3

Các căn cứ để tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần ......................30

1.3.1

Văn bản pháp luật về tổ chức quản lý, điều hành công ty cổ phần .......30

1.3.2

Điều lệ hoạt động của công ty .................................................................31

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ CÁCH THỨC TỔ CHỨC, QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH CÔNG
TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2014 .................................33
2.1

Mô hình quản lý công ty cổ phần .................................................................33

2.2

Đại hội đồng cổ đông......................................................................................37

2.3

Hội đồng quản trị ........................................................................................... 53


2.4


Giám đốc hoặc Tổng giám đốc ......................................................................55

2.5

Ban kiểm soát .................................................................................................56

CHƢƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI
CÁC QUY ĐỊNH MỚI VỀ CÁCH THỨC TỔ CHỨC, QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH
CÔNG TY CỔ PHẦN THEO LUẬT DOANH NGHIỆP 2014 ............................... 59
3.1

Luật hóa khái niệm tổ chức, quản lý, điều hành CTCP ............................. 59

3.2 Tổ chức tập huấn cho doanh nghiệp về các nội dung liên quan đến hoạt
động tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần và những đổi mới của LDN
2014 về tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần ............................................60
3.3 Ban hành các văn bản hƣớng dẫn chi tiết, tiếp tục bổ sung, sửa đổi một số
quy định của LDN 2014 chƣa phù hợp ..................................................................61
3.4 Xây dựng cơ chế thi hành những quy định mới về tổ chức, quản lý, điều
hành công ty cổ phần ............................................................................................... 65
3.5

Hƣớng dẫn doanh nghiệp sử dụng công cụ quản lý là điều lệ công ty......66

KẾT LUẬN ..................................................................................................................67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................68


1


LỜI MỞ ĐẦU
1.

TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Luật doanh nghiệp năm 2005 ra đời đánh dấu một cột mốc quan trọng trong quá

trình hình thành và phát triển hành lang pháp lý của Việt Nam nói chung và hệ thống
pháp luật điều chỉnh về doanh nghiệp nói riêng. Sau hơn 10 năm áp dụng, văn bản luật
này đã chứng minh được tính hiệu quả của nó trong vai trò điều chỉnh các nội dung
liên quan đến loại hình công ty, cơ cấu tổ chức, quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia vào hoạt động thành lập, tổ chức, điều hành công ty. Thực tế đã chứng minh,
so với thời điểm trước khi ra đời Luật doanh nghiệp 2005, số lượng các công ty được
gia tăng nhanh chóng. Cùng với sự phát triển nhanh chóng về số lượng doanh nghiệp
và sự xuất hiện của các công ty lớn, vấn đề tổ chức, quản lý, điều hành công ty đang
ngày càng nhận được sự đầu tư của cộng đồng doanh nghiệp và các nhà xây dựng pháp
luật về doanh nghiệp. Với sứ mệnh xây dựng và hoàn thiện môi trường kinh doanh cho
các doanh nghiệp, khung pháp lý về công ty cũng đã từng bước bổ sung và hoàn thiện.
So với thời kỳ trước, khung pháp lý về quản lý công ty ở Việt Nam được đánh giá là
phù hợp với các yêu cầu và nguyên tắc quản lý phổ biến được thừa nhận trên thế giới.
Song so với thế giới, hoạt động quản lý công ty ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.
Đánh giá về vấn đề này, có thể nhìn nhận ở những khía cạnh sau:
Về khuôn khổ pháp lý tổ chức, quản lý, điều hành công ty: Xét trong phạm vi
LDN 2005, LDN 2005 cơ bản đã được thống nhất không phân biệt tính chất sở hữu và
thành phần kinh tế, phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng của LDN 2005 được xác
định theo hình thức tổ chức kinh doanh, không có sự phân biệt sở hữu trong doanh
nghiệp là của Nhà nước, nước ngoài hay trong nước. Nói cách khác, LDN 2005 điều
chỉnh việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các loại công ty thuộc mọi
thành phần kinh tế. Theo báo cáo tổng kết thi hành LDN 2005 của Bộ Kế hoạch và đầu
tư (tháng 8/2013) nhận định: “Lần đầu tiên trong gần 20 năm cải cách, pháp luật về

doanh nghiệp đã được thống nhất không phân biệt tính chất sở hữu và thành phần
kinh tế. Các quy định về quản trị doanh nghiệp trong LDN và một số quy định khác có
liên quan được coi là là một bước tiến dài trong hoàn thiện pháp luật về công ty nói
chung và quản trị doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp có sở hữu nhà nước; tạo ra


2

một thay đổi căn bản trong quá trình hoàn thiện khung quản trị doanh nghiệp ở nước
ta. Những nội dung đó của khung quản trị công ty đã tuân thủ và về cơ bản phù hợp
với các nguyên tắc và thông lệ thông dụng phổ biến. Về cơ bản những thay đổi của
LDN đã phát huy những tác động tích cực trên thực tế, được các bên có liên quan và
cộng đồng doanh nghiệp đánh giá cao và hưởng ứng”. Bên cạnh những đóng góp to
lớn trong quá trình áp dụng, LDN 2005 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập trước sự vận
động và phát triển không ngừng nghỉ của nền kinh tế. Các quy phạm còn mâu thuẫn,
chồng chéo. Khả năng làm luật còn hạn chế, các quy định thiếu tính dự báo. Do đó gặp
khó khăn trong việc hoàn thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh. Trong
số những hạn chế đó có các quy định liên quan đến điều chỉnh nội dung tổ chức, quản
lý, điều hành doanh nghiệp.
Về mặt thực tiễn: vấn đề tổ chức, quản lý tại các doanh nghiệp Việt Nam còn rất
yếu kém. Không thể phủ nhận những tác động tích cực trong tạo lập môi trường kinh
doanh thuận lợi, bình đẳng; thúc đẩy huy động vốn, phát triển và mở rộng kinh doanh
của các doanh nghiệp; góp phần gia tăng tốc độ tăng trưởng và giải quyết các vấn đề
xã hội của LDN năm 2005; tuy nhiên việc triển khai thi hành luật còn nhiều khiếm
khuyết, làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác điều hành và hiệu quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Khiếm khuyết trong các quy định khiến việc quản lý, điều
hành doanh nghiệp nói chung, nhất là công ty cổ phần, trở nên kém linh hoạt, tăng
thêm chi phí tuân thủ và làm chậm quá trình ra quyết định của doanh nghiệp,…Một
yếu tố khác ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý doanh nghiệp đó là do sự hời hợt của các
doanh nghiệp trong việc đánh giá vai trò của cách thức tổ chức và quản lý nội bộ công

ty. Một bộ máy công ty đơn giản, gọn nhẹ, linh hoạt với sự phân công chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn rõ ràng đồng thời xây dựng được cơ chế phối hợp đồng bộ, ăn
khớp với nhau, thiết lập được cơ chế giám sát và giảm thiểu mâu thuẫn trong nội bộ là
một trong những yếu tố bảo đảm cho hiệu quả kinh doanh của công ty. Nhưng trên
thực tế, việc thiết lập bộ máy quản lý trên tại một số doanh nghiệp còn mang tính hình
thức, các hoạt động điều hành theo hướng tự do, “bản năng” tự quyết của doanh
nghiệp.
CTCP là loại hình doanh nghiệp được sử dụng phổ biến nhất hiện nay, đặc biệt
với những lĩnh vực kinh doanh cần phải có nguồn vốn lớn, huy động vốn dễ dàng. Bên


3

cạnh đó, xuất phát từ đặc điểm là công ty đối vốn không hạn chế về số lượng chủ sở
hữu, vấn đề tổ chức, quản lý, điều hành trong CTCP là một vấn đề hết sức phức tạp đòi
hỏi phải có một cơ chế pháp lý điều chỉnh hợp lý. Giải quyết tốt các vấn đề pháp lý
trong quản lý CTCP sẽ: (i) làm cho từng công ty nói riêng và nền kinh tế nói chung
huy động được nhiều hơn vốn đầu tư xã hội, kể cả vốn đầu tư nước ngoài; (ii) phân bổ
và sử dụng vốn đầu tư có hiệu quả hơn, qua đó nâng cao hiêu quả và năng lực cạnh
tranh của cả công ty và nền kinh tế; (iii) là một yếu tố cơ bản thúc đẩy phát triển nền
kinh tế và tự do hóa thị trường vốn; (iv) góp phần cải thiện và làm hài hòa các mối
quan hệ xã hội. Chính vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống và khoa
học nhằm hoàn thiện pháp luật về tổ chức, quản lý, điều hành CTCP là một việc làm
vô cùng có ý nghĩa về mặt lý luận cũng như thực tiễn trong thời điểm hiện tại. Trước
yêu cầu thực tiễn đặt ra, Luật doanh nghiệp năm 2014 đã được Quốc hội thông qua và
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 07 năm 2015. LDN 2014 chứa đựng nhiều nội dung mới,
trong đó có nhiều quy định về tổ chức quản lý, điều hành công ty cổ phần…Thực tế
này đã đặt ra nhu cầu phải nghiên cứu các quy định mới, đánh giá sự tác động của
chúng tới sự phát triển của nền kinh tế nói chung và cơ cấu, tổ chức quản lý các công
ty trên thị trường. Chính vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Những đổi mới trong cách

thức tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần theo luật doanh nghiệp năm
2014” để làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.
2.

TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Nhìn chung, các nội dung liên quan đến mô hình doanh nghiệp nói chung, cơ cấu

tổ chức quản lý hay quản trị công ty không phải là một đề tài mới ở Việt Nam cũng
như là trên thế giới. Cùng với sự phát triển không ngừng của nền kinh tế, các mối quan
hệ ngày càng đa dạng trong hoạt động kinh doanh, sự phức tạp trong hoạt động điều
hành các loại hình doanh nghiệp, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đã phát triển và tập
trung sâu hơn trong việc nghiên cứu các nội dung liên quan đến cách thức tổ chức,
quản lý, điều hành công ty cổ phần. Cụ thể như:
- “Những điểm mới về tổ chức quản lý công ty theo Luật doanh nghiệp năm
2014” của Thạc sĩ Võ Đình Đức, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015;
- “ Tổ chức quản lý nội bộ công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp năm 2014”
của Thạc sĩ Lưu Thị Dung, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2015;


4

- “Hoàn thiện pháp luật về quản trị công ty cổ phần” của Thạc sĩ Nguyễn Thùy
Linh, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2014;
- “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về tổ chức quản lý CTCP – góc nhìn từ kinh
nghiệm của Nhật Bản” của Thạc sĩ Đào Thúy Anh, Trường Đại học Luật Hà Nội,
năm 2014;
- “Mô hình quản trị công ty cổ phần tại Việt Nam hiện nay – thực trạng và
phương hướng hoàn thiện” của Thạc sĩ Phan Thị Bảo Yến, Trường Đại học Luật Hà
Nội, năm 2014;
- “ Pháp luật về quản trị công ty cổ phần – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”

của thạc sĩ Vũ Thị Niềm, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012;
- “Đánh giá khung pháp lý về quản trị công ty và các kiến nghị hoàn thiện”
của TS Lê Vũ Nam – Tạp chí nghiên cứu pháp luật, năm 2012;
Đã có đề tài “Những điểm mới về tổ chức quản lý công ty theo Luật doanh
nghiệp năm 2014”. Tuy nhiên, hiện chưa có đề tài tập trung nghiên cứu sâu hơn về
những đổi mới trong cách thức tổ chức quản lý, điều hành công ty cổ phần theo Luật
doanh nghiệp năm 2014.
3.

MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ CỦA LUẬN VĂN
Luận văn đặt ra mục đích nghiên cứu làm rõ các quy định mới về cách thức tổ

chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần; phân tích những ưu, nhược điểm của những
quy định mới so với các quy định của LDN 2005; đồng thời đánh giá tác động và dự
báo những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành để từ đó đề xuất các kiến
nghị, phương thức thực hiện, thi hành hiệu quả những quy định mới về cách thức tổ
chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần theo LDN 2014.
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài nhằm làm rõ những vấn đề sau đây:
i.

Chỉ rõ cơ sở lý luận về tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần; vai

trò và những nguyên tắc đặt ra đối với hoạt động tổ chức, quản lý, điều hành
công ty cổ phần.
ii.

Những hạn chế của hoạt động về tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ

phần theo LDN 2005 trước những yêu cầu và điều kiện mới.



5

iii.

Chỉ rõ, đánh giá những quy định mới về tổ chức, quản lý, điều hành công

ty cổ phần theo LDN 2014; phân tích, bình luận hiệu quả, hạn chế và sự tác động
của các quy định đó.
iv.

Đưa ra những đề xuất, kiến nghị nhằm áp dụng hiệu quả các quy định

mới của pháp luật về tổ chức quản lý công ty trong thực tiễn thi hành pháp luật.
ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.

- Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu những quy định mới về tổ chức, quản lý, điều hành
công ty cổ phần theo LDN 2014 trong quan hệ đối chiếu, so sánh với những quy định
tương ứng trong LDN 2005; đồng thời liên hệ với thực tiễn của hoạt động tổ chức,
quản lý, điều hành công ty cổ phần trong thời gian qua để đánh giá tác động của những
quy định mới đó trong sự hình thành và phát triển công ty nói chung.
- Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định mới về tổ chức, quản lý, điều
hành công ty cổ phần theo LDN 2014 trên cơ sở đánh giá những quy định về cùng nội
dung điều chỉnh trong LDN 2005. Do đó, luận văn không đề cập đến những quy định
mới về tổ chức, quản lý, điều hành công ty TNHH, công ty hợp danh hay loại hình
doanh nghiệp Nhà nước hoặc những nội dung liên quan đến hoạt động tổ chức, quản

lý, điều hành công ty cổ phần nhưng không phải là những điểm đổi mới theo LDN
2014.
5.

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
 Phương pháp mô tả
 Phương pháp phân tích tổng hợp
 Phương pháp so sánh
Bằng các phương pháp nghiên cứu nói trên, luận văn trước hết sử dung phương

pháp mô tả để trình bày các quy định mới của pháp luật về cách thức tổ chức, quản lý,
điều hành CTCP. Tiếp đến là vận dụng phương pháp phân tích tổng hợp kết hợp với
phân tích đánh giá để chỉ ra những ưu điểm hay những vướng mắc, hạn chế trong các
quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện.


6

6.

KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo.nội dung Luận văn

gồm 03 chương:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ
phần và pháp luật về cách thức tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần
Chƣơng 2: Thực trạng về cách thức tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ
phần theo Luật doanh nghiệp năm 2014
Chƣơng 3: Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao hiệu quả thực thi các quy
định mới về cách thức tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần theo Luật

doanh nghiệp năm 2014


7

CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ, ĐIỀU HÀNH
CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, QUẢN LÝ, ĐIỀU
HÀNH CÔNG TY CỔ PHẦN

1.1
1.1.1

Một số vấn đề lý luận về tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần
Lịch sử hình thành công ty cổ phần
Công ty cổ phần (CTCP) là một hình thức tổ chức kinh doanh ra đời, tồn tại và

phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Sự hình thành và phát triển
của công ty cổ phần gắn liền với sự hình thành của thị trường vốn và thị trường tiền
tệ.“Công ty cồ phần là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được xem là
phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn cho kinh
doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển”. Quá trình công
nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ 18, 19 cùng với nhu cầu tích tụ
vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm xuất hiện loại hình CTCP. Sự phát triển mạnh
mẽ của chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi sản xuất kinh doanh phải có quy mô ngày càng to
lớn, cạnh tranh và độc quyền có mức độ ngày càng gay gắt. Các chủ tư bản đi đến thoả
hiệp với nhau nhằm thu được lợi nhuận tối đa và bành trướng hơn nữa thế lực kinh tế
của mình. CTCP là hình thức kinh doanh thoả mãn được những nhu cầu này, nó tạo
điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và tập trung tư bản, như nhận định của Các Mác

“Qua các công ty cổ phần, sự tập trung đã thực hiện được việc đó trong nháy mắt”.1
Về mặt lịch sử hình thành, CTCP ra đời sau các loại công ty đối nhân nhưng là
hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn. Khác với sự ra đời của hình thức
công ty TNHH – là sản phẩm của các nhà lập pháp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn
kinh doanh, CTCP được hình thành trong hoạt động kinh doanh và do nhu cầu của các
nhà kinh doanh rồi sau đó mới được pháp luật thừa nhận và được hoàn thiện thành một
chế định pháp lý. Chẳng hạn như ở Anh, Luật công ty được ban hành lần đầu tiên năm
1

Từ Thảo (2010), Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam,
/>

8

1844 nhưng trước đó hơn 100 năm đã có sự xuất hiện của các công ty cổ phần. Và đến
năm 1856, ở Anh mới có Luật về công ty cổ phần. Công ty cổ phần đầu tiên đánh dấu
sự ra đời của CTCP trên thế giới đó là công ty Đông Ấn của Anh, được thành lập ngày
31/10/1860 bởi một nhóm có 218 người, và được cấp phép độc quyền kinh doanh
trong vòng 15 năm ở vùng Đông Ấn, các quốc gia và hải cảng ở châu Á, châu Phi và
được đi lại từ tất cả các hải cảng của các đảo, thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi
và Mỹ hay bất kỳ địa điểm nào như thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng và Eo biển
Magellan. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các công ty cổ phần theo hình thức
tương tự công ty Đông Ấn của Anh, rồi lần lượt CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan
Mạch, Đức…Từ cuối thế kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, CTCP bắt đầu phát triển ở nhiều
lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây dựng, các ngành chế tạo cơ khí, ngân
hàng, bảo hiểm… các nước tư bản phát triển và về sau phát triển rộng rãi ở các nơi
khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30 của thế kỷ 19, với sự phát triển nhanh chóng
của khoa học, kỹ thuật, nền kinh tế thế giới có bước phát triển mạnh mẽ, điều đó dẫn
đến nhu cầu phải tập trung những nguồn vốn lớn để xây dựng cơ sơ hạ tầng kinh tế –
xã hội. Công ty cổ phần là một trong những công cụ giúp thực hiện nhanh chóng vấn

đề tập trung vốn. Sự ra đời của CTCP đã giúp cho các nhà doanh nghiệp giải quyết
được mâu thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo. Ở Mỹ, CTCP phát triển rất mạnh. Năm
1989, số lượng các công ty cổ phần chiếm 31,7% trong tổng số các xí nghiệp công
nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp. Ngày nay, công ty cổ phần
đã chiếm vị trí thống lĩnh trong các ngành công nghiệp, dịch vụ công cộng và trong
các ngành khác nhau của nền kinh tế Hoa Kỳ. Ở các nước phương Tây, CTCP là mô
hình phổ biến nhất cho các doanh nghiệp có quy mô lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung
bình của các công ty cổ phần năm 1980 là 43 triệu DM, trong khi đó vốn trung bình
của một công ty TNHH chỉ là 0,38 triệu DM. Trong 100 công ty lớn nhất của Đức năm
1980 có tới 66 công ty cổ phần. Ở Pháp, vào năm 1986, có tới 123.303 công ty cổ
phần, chiếm tới 15,22% tổng số các doanh nghiệp. Ở Nhật Bản, CTCP được coi là trụ
cột của nền kinh tế. Luật thương mại Nhật Bản với bề dày lịch sử hàng trăm năm đã
công nhận sự tồn tại của loại hình công ty này. Trải qua hàng trăm năm phát triển, cho
đến nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa, hình thức CTCP đã có sức bật mới với sự
xuất hiện của các loại hình CTCP “đa quốc gia”, “xuyên quốc gia” có tầm hoạt động


9

rộng lớn và khả năng cạnh tranh cao, hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng
như nhận định: “Công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước từ đơn giản đến
phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia
đến nhiều quốc gia thông qua các công ty siêu quốc gia”.2
Ở Việt Nam, so với các nước trên thế giới, loại hình CTCP ra đời muộn và chậm
phát triển hơn. Trước năm 1954 đã xuất hiện loại hình công ty này tại Việt Nam. Tuy
nhiên, miền Bắc Việt Nam sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước vào năm
1975 và trên phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế kỷ 20, với
chính sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hình thức công ty nói chung và CTCP
nói riêng hầu như không được pháp luật thừa nhận. Đến năm 1990 khi Luật công ty
được ban hành (ngày 21/12/1990), hình thức CTCP mới chính thức được quy định cụ

thể. Việc ban hành đạo luật này đã đặt cơ sở pháp lý cho việc hình thành và phát triển
hệ thống doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam nói chung và CTCP nói riêng.
Tuy nhiên, sau gần mười năm thực hiện, nhiều nội dung của hai đạo luật trên đã tỏ ra
bất cập, không đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh hoạt động của các loại hình doanh
nghiệp nên rất cần phải sửa đổi bổ sung cho phù hợp với yêu cầu của thời kỳ mới. Đáp
ứng nhu cầu đó LDN 1999 đã ra đời và bắt đầu có hiệu lực thi hành từ ngày
01/01/2000. LDN 1999 là nền tảng quan trọng nhất cho sự phát triển của CTCP tại
Việt Nam. Theo số liệu thống kê của Cục Phát triển Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư), từ đầu năm 2000 đến hết năm 2006, số lượng các CTCP ở Việt Nam
đã liên tục tăng lên, tăng từ khoảng 7% tổng số các doanh nghiệp thành lập năm 2000
lên trên 20% năm 2006.
Dưới áp lực và nhu cầu mạnh mẽ của việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới WTO, tham gia các hiệp định FTA thế hệ mới, hàng loạt các luật có liên quan
phải ban hành mới hoặc sửa đổi, bổ sung; trong đó có Luật doanh nghiệp. LDN 2005,
LDN 2014 đã lần lượt ra đời trong hoàn cảnh đó, thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của
loại hình doanh nghiệp là CTCP. Cho đến nay, CTCP là một loại hình khá phố biến, là
sự lựa chọn với nhiều điểm ưu việt cho các nhà đầu tư khi quyết định thành lập công
ty.

2

Từ Thảo (2010), Lịch sử hình thành và phát triển công ty cổ phần trên thế giới và ở Việt Nam,
/>

10

1.1.2

Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần
Do tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định nên ở các


nước khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau. Cụ thể như:
Ở Pháp, CTCP được gọi là công ty vô danh, đảm bảo điều kiện phải có ít nhất
7 cổ đông, vốn pháp định tối thiểu là 25.000 FF đối với các công ty không phát hành
chứng khoán và 1.500.000 FF đối với các công ty phát hành chứng khoán, mệnh giá
thống nhất ở mỗi cổ phiếu là 100FF đối với các công ty phát hành chứng khoán. Các
cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần. Trường hợp có đủ điều kiện, công ty
có thể phát hành chứng khoán để huy động vốn. (Theo Luật quy định điều kiện để công
ty phát hành các loại chứng khoán ngày 14/12/1985), [16.tr7].
Ở Anh, CTCP được định nghĩa như sau: "Công ty cổ phần có nghĩa là một công
ty có vốn điều lệ đã góp hoặc cổ phần danh nghĩa của tổng số vốn cố định được chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cũng có số vốn cố định, hoặc nắm giữ và
chuyển giao như chứng khoán, hoặc được chia và nắm giữ một phần bằng cách này và
một phần bằng cách khác, được thành lập trên nguyên tắc có các thành viên sở hữu cổ
phiếu hoặc chứng khoán đó và không có những người khác" (Điều 1041 Luật công ty
Anh năm 2006), [16.tr8].
CTCP ở Đức, là mô hình công ty đối vốn có tư cách pháp nhân sau khi tiến
hành đăng ký kinh doanh; vốn điều lệ tối thiểu khi thành lập công ty là 50.EUR và
được chia thành các cổ phần có mệnh giá thấp nhất là 1 EUR; cổ đông của CTCP có
thể là cá nhân hoặc tổ chức; công ty chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của
công ty trong phạm vi tài sản của công ty; cổ phần của công ty được tự do chuyển
nhượng và CTCP được phát hành các loại cổ phần khác nhau để huy động, [16.tr7].
Pháp luật Việt Nam không đưa ra định nghĩa cụ thể về CTCP mà chỉ quy định
những dấu hiệu để nhận biết nó. Theo đó các quy định có nội dung giải thích về CTCP
cũng được hoàn thiện từ Luật Công ty năm 1990, LDN 1999, LDN 2005 và LDN
2014. Ghi nhận tại Luật Công ty năm 1990, CTCP được coi là "doanh nghiệp trong đó
các thành viên cùng góp vốn, cùng chia nhau lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với
phần vốn góp và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần
vốn của mình góp vào công ty" (Điều 2 Luật Công ty năm 1990). Quy định về CTCP
được hoàn thiện không những về kỹ thuật lập pháp mà còn về nội dung định nghĩa.



11

Theo đó, CTCP là một loại hình doanh nghiệp (LDN 1999, LDN 2005, LDN 2014).
Theo Khoản 7 Điều 4 LDN 2014 thì: “Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản,
có trụ sở giao dịch, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích kinh doanh.” Theo điều 111 LDN 2014, CTCP là doanh nghiệp có các dấu hiệu
cơ bản sau: “Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; người
sở hữu cổ phần là các cổ đông, cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng tối thiểu là
ba và không hạn chế số lượng tối đa; Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản
nợ và nghĩa vụ tài sản khác của Doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp; CTCP có quyền phát hành cổ phần các loại để huy động vốn”. Đó cũng là
những đặc điểm đặc trưng, giúp phân biệt CTCP với các loại hình doanh nghiệp khác.
Mặc dù có cách gọi khác nhau về CTCP, có nhiều cách định nghĩa khác nhau
nhưng xét về bản chất, pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số nước trên thế giới
có quan điểm tương đồng khi quan niệm đây là loại hình công ty đặc trưng của công ty
đối vốn với đặc điểm quan trọng là có sự tách bạch tài sản của công ty và tài sản của
các cổ đông.
Từ quy định chung về CTCP theo điều 111 LDN 2014, có thể nhận thấy CTCP
theo pháp luật Việt Nam có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, CTCP có cấu trúc vốn đặc biệt. Khác với các loại hình Doanh nghiệp
khác, vốn điều lệ của CTCP được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá
trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu. Một cổ
phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần. Các cổ đông góp vốn vào
công ty bằng cách mua cổ phần. Vốn điều lệ công ty là tổng giá trị mệnh giá cổ phần
đã bán các loại. Một cổ đông có thể mua nhiều cổ phần, pháp luật không hạn chế số
lượng cố phần mà một cổ đông có thể nắm giữ. Tuy nhiên, các cổ đông có thể thỏa
thuận ghi vấn đề này vào điều lệ công ty để tránh việc cổ đông lớn dần thâu tóm công
ty. Đặc điểm cấu trúc vốn của CTCP còn được thể hiện ở khả năng huy động vốn lớn

bằng việc phát hành chứng khoán. CTCP là loại hình có khả năng huy động vốn lớn
nhất trong tất cả các loại hình doanh nghiệp, công ty được phát hành chứng khoán các
loại để huy động vốn. Cơ chế huy động vốn linh hoạt của công ty đã tạo điều kiện cho
các cá nhân có số vốn nhỏ cũng có thể sở hữu cổ phần trong công ty và được hưởng
lợi nhuận khi công ty làm ăn có hiệu quả đồng thời cũng giúp các nhà đầu tư giảm


12

thiếu rủi ro bằng cách cùng một lúc đầu tư vào nhiều công ty khác nhau. Sự chủ động
về nguồn vốn là một trong những yếu tố rất quan trọng tạo nên sự thành công của
doanh nghiệp. Với khả năng huy động vốn lớn trong công chúng, CTCP cũng đem lại
rủi ro cao cho các nhà đầu tư. Do vậy, CTCP chịu sự điều chỉnh bởi khung pháp lý
khắt khe hơn so với các loại hình doanh nghiệp khác.
Thứ hai, CTCP có số lượng cổ đông rất lớn. LDN 2014 không giới hạn số lượng
tối đa các cổ đông trong CTCP mà chỉ giới hạn số lượng tối thiểu là ba cổ đông (Điểm
b khoản 1 điều 110). So với các quy định cũ như trước đây như quy định số lượng cổ
đông tối thiểu là 7 cổ đông (Điều 30 Luật công ty 1990) thì có thể đánh giá quy định
này có ý nghĩa nhất định về mặt thực tiễn. Một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà
đầu tư khi thành lập công ty. Với khả năng và tiềm lực kinh tế đáp ứng, số lượng ba cổ
đông là đủ để có thể thành lập, điều hành công ty. Mặt khác, với tính tự do chuyển
nhượng cổ phần, quyền phát hành cổ phần để huy động vốn thì số lượng cổ đông trong
công ty luôn biến đổi, quy định này giúp hạn chế nguy cơ công ty phải chấm dứt hoạt
động khi không đủ số lượng cổ đông thiểu số, tạo tâm lý yên tâm cho các nhà đầu tư.
Thứ ba, chế độ chịu trách nhiệm của các cổ đông đối với CTCP là chế độ chịu
TNHH. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp. CTCP với tư cách
là một pháp nhân sẽ tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản của công ty. Các cổ
đông không phải chịu trách nhiệm thay công ty về các khoản nợ của công ty. Chế độ
chịu TNHH trong CTCP giúp các nhà đầu tư hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tránh sự

khánh kiệt gia sản đối với cổ đông khi công ty phá sản như chế độ chịu trách nhiệm vô
hạn của doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Tuy nhiên, đây cũng là điểm bất
lợi cho các chủ nợ vể khả năng thanh toán nợ khi công ty phá sản.
Thứ tư, về tư cách pháp lý: CTCP là một tổ chức kinh tế có tên riêng, trụ sở giao
dịch được thành lập hợp pháp trên cơ sở có đăng ký doanh nghiệp. CTCP có tư cách
pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (Khoản 2 điều
110 LDN 2014). Cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành công ty được pháp luật và điều lệ
công ty quy định chặt chẽ. Công ty có tài sản độc lập và chịu trách nhiệm bằng tài sản
đó đồng thời công ty cũng nhân danh chính mình khi tham gia vào các quan hệ pháp


13

luật, xác lập các quyền và nghĩa vụ cho công ty. Như vậy CTCP thoả mãn điều kiện
của một pháp nhân theo quy định tại Điều 74 Bộ luật dân sự 2015.
Là một pháp nhân, thông qua người đại diện của mình, công ty có thể trở thành
nguyên đơn hoặc bị đơn dân sự trong quan hệ tố tụng tại tòa án. Trong quá trình hoạt
động, công ty phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ bằng chính tài sản của công ty.
Khi công ty mua sắm tài sản mới thì tài sản đó thuộc quyền sở hữu của công ty, các cổ
đông chỉ được sở hữu cố phần trong công ty mà không được quyền sở hữu tài sản của
công ty.
Thứ năm, về khả năng chuyển nhượng cổ phần: So với mô hình công ty TNHH,
phần vốn góp (cổ phần) của cổ đông trong CTCP có khả năng chuyển nhượng dễ dàng
hơn. Theo quy định của LDN 2014, các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ
phần mà mình sở hữu, trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập trong
vòng ba năm đầu kể từ ngày công ty được cấp GCN ĐKKD (Khoản 3 Điều 119) và cổ
phần ưu đãi biểu quyết (Điều 116).
1.1.3

Khái niệm tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần

So với khái niệm tổ chức, quản lý, điều hành công ty, khái niệm quản trị công ty

cũng có nhiều nét tương đồng về nội hàm nhưng được biết và nghiên cứu đến nhiều
hơn. Dưới góc độ pháp lý, QTCT được giải thích bao gồm các quá trình áp dụng, thực
thi và rà soát các chính sách một cách đúng đắn và thường xuyên. Quá trình này
thường được thực hiện thông qua hội đồng quản trị, với mục đích giải trình và cân
bằng quyền lực, qua đó nâng cao giá trị bền vững của một công ty.3 Kế thừa nguồn gốc
cũng như điều chỉnh phù hợp với sự phát triển của QTCT ở từng thể chế, thời kỳ, cho
đến nay, các nhà nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra rất nhiều quan điểm xung quanh
nội dung của QTCT. Tiếp cận QTCT theo định hướng này, Ngân hàng thế giới (World
Bank) định nghĩa: "QTCT đề cập đến các cơ cấu và quá trình cho việc định hướng và
kiểm soát các công ty. QTCT liên quan tới mối quan hệ giữa ban giám đốc, Hội đồng
quản trị, các cổ đông lớn, các cổ đông nhỏ và những bên có quyền lợi liên quan".
Phòng thương mại quốc tế ICC (International Chamber of Commerce) định nghĩa
một cách cụ thể hơn về QTCT, đó là tổng hòa mối quan hệ giữa các nhà quản lý công
3

What is Governance? Black's Law Dictionary, http:// thelawdictionary.org/Governance/


14

ty, các giám đốc và các chủ sở hữu vốn, người dân và các tổ chức giữ và đầu tư vốn
của họ vào công ty để kiếm lợi nhuận. Nó đảm bảo rằng hội đồng quản trị chịu trách
nhiệm cho việc theo đuổi các mục tiêu của công ty và rằng các hệ thống của công ty
phù hợp với luật pháp và các quy tắc.4
Cho đến nay, định nghĩa QTCT của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) ghi nhận trong tài liệu "Các nguyên tắc quản trị công ty" (1999) được xem là
có nội hàm bao quát và có sức ảnh hưởng rộng lớn nhất. OECD cho rằng QTCT là
những biện pháp nội bộ để điều hành và kiểm soát công ty, liên quan đến các mối quan

hệ giữa ban giám đốc, Hội đồng quản trị và các cổ đông của công ty với các bên có
quyền lợi liên quan. QTCT cũng tạo ra một cơ cấu để đề ra các mục tiêu của công ty,
và xác định các phương tiện để đạt được mục tiêu đó, cũng như để giám sát kết quả
hoạt động của công ty. QTCT chỉ được cho là có hiệu quả khi khích lệ được Ban giám
đốc và Hội đồng quản trị theo đuổi các mục tiêu vì lợi ích của công ty và các cổ đông,
cũng như phải tạo điều kiện thuận lợi cho việc giám sát các hoạt động của công ty một
cách hiệu quả từ đó khuyến khích công ty sử dụng nguồn lực một cách tốt hơn. Có thể
nói định nghĩa này đã xác định một cách đầy đủ và rõ ràng nội dung, phạm vi và mục
đích của QTCT hướng tới.
Kế thừa quan điểm của OECD, WB và ICC, khái niệm QTCT được tiếp nhận vào
Việt Nam theo nghĩa rộng. Khái niệm QTCT lần đầu tiên được ghi nhận chính thức tại
Quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán/Trung tâm giao dịch chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số
12/2007/QĐ-BTC ngày 13/03/2007 (Quy chế quản trị công ty áp dụng cho các công ty
niêm yết). Quy chế này định nghĩa: "QTCT là hệ thống các quy tắc để đảm bảo cho
công ty được định hướng điều hành và được kiểm soát một cách có hiệu quả vì quyền
lợi cổ đông và những người liên quan đến công ty".
Đó là cách các nhà quản lý Việt Nam định nghĩa về QTCT. Đối với khái niệm tổ
chức quản lý, điều hành công ty, cho đến nay Việt Nam chưa có văn bản luật chính
thức nào định nghĩa về khái niệm này. Duy có trong Quyết định số 12/2007/QĐ-BTC
ban hành ngày 13 tháng 3 năm 2007 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành quy

4

Ngân hàng thế giới (WB) (2006), Báo cáo về tình hình tuân thủ chuẩn mực và nguyên tắc (ROSC) quản trị
công ty, Đánh giá tình hình quản trị công ty của Việt Nam, Hà Nội


15


chế quản trị công ty niêm yết có định nghĩa quản lý nội bộ công ty là “hệ thống các
quy tắc để đảm bảo cho công ty định hướng điều hành và được kiểm soát một cách có
hiệu quả vì quyền lợi của cổ đông và những người liên quan đến công ty”.
Từ sự phân tích khái niệm QTCT ở trên và nội dung định nghĩa về quản lý nội bộ
công ty được định nghĩa trong một văn bản duy nhất (nêu trên) có thể nhận thấy khái
niệm QTCT và hoạt động quản lý điều hành nội bộ công ty có chung một nội hàm. Sự
đồng nhất hai khái niệm này là chưa hợp lý. Bởi, nếu như quản trị có nghĩa là toàn bộ
quá trình quyết định ra chính sách, các khung về quy tắc, đặt ra các mục tiêu chung.
Đó là các hoạt động cấp cao, là quá trình đặt nền móng các nguyên tắc vận hành cơ
bản cho một doanh nghiệp. Theo đó hướng dẫn, lãnh đạo, kiểm soát tổ chức, doanh
nghiệp để hướng đến việc đạt được mục tiêu chung. Thì quản lý là việc tiếp nhận, kết
nối và khởi động các yếu tố khác nhau, điều phối, thúc đẩy các hoạt động của tổ chức
để hướng đến các mục tiêu đã được đặt ra bởi quản trị. Chức năng của quản trị là ra
quyết định, chiến lược; chức năng của quản lý là thi hành. Xét về cấp độ, quản trị
thuộc cấp độ cao hơn quản lý. Do đó, có thể nhận thấy khái niệm quản lý nội bộ công
ty trong quyết định trên chưa thể hiện được hết phạm vi nội hàm của tổ chức quản lý
công ty điều hành công ty khi chưa khái quát được trong đó là hệ thống các mối quan
hệ bên trong công ty, sự ràng buộc và hỗ trợ lẫn nhau cũng như quy chế hoạt động
trong đó của tổ chức quản lý công ty.
Ngân hàng thế giới (WB), tổ chức quản lý nội bộ công ty được định nghĩa là một
hệ thống kết hợp các yếu tố luật pháp, thể chế các hệ thống quản trị của công ty. Nó
cho phép công ty có thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực hoạt động một
cách hiệu quả, tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các thành viên trong khi vẫn tôn
trọng các quyền lợi của những người có quyền và lợi ích liên quan và của xã hội.5
Theo một nghiên cứu khác về khái niệm Quản lý nội bộ công ty: “Quản lý nội bộ
công ty là hệ thống các cơ chế mà theo đó công ty được quản lý, thông qua việc tổ
chức điều hành nội bộ công ty, mà trong đó các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể

5


Ngân hàng thế giới (WB) (2006), Báo cáo về tình hình tuân thủ chuẩn mực và nguyên tắc (ROSC) quản trị
công ty, Đánh giá tình hình quản trị công ty của Việt Nam, Hà Nội


16

quản lý như các cổ đông, HĐQT, giám đốc, người lao động và những người có lợi ích
liên quan được phân định rõ ràng”.6
So với khái niệm quản lý nội bộ của WB, khái niệm trên đã khái quát được phạm
vi của hoạt động tổ chức quản lý và cho đó là một hệ thống nhằm quản lý công ty, đã
nói lên được mối quan hệ nội tại trong bản thân công ty, giữa các chủ thể và vị trí quản
lý nhất định. Tuy nhiên tác giả mới chỉ đánh giá và đưa ra khái niệm ở một mức độ
chung nhất mà chưa nhìn nhận được các mối quan hệ, quản lý vượt ra ngoài phạm vi
công ty. Cơ cấu tổ chức công ty không chỉ nhằm quản lý công ty mà còn tác động tới
những chủ thể có liên quan và phát huy hiệu quả quản lý đối với những chủ thể khác
nhằm mang lại hiệu quả hoạt động cao nhất. Nội dung này cũng đã được đề cập đến
trong khái niệm của WB.
Mặc dù khái niệm quản lý chưa được định nghĩa một cách triệt để, tuy nhiên
LDN 2014 đã đề cập đến người thực hiện hoạt động tổ chức quản lý, điều hành CTCP,
đó là Chủ tịch hội đồng quản trị, thành viên hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng
giám đốc và cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh công ty ký
kết giao dịch của công ty theo quy định của pháp luật.7 Bên cạnh các chủ thể thực hiện
chức năng quản lý điều hành trong công ty như đã nêu trên còn có chủ thể là cơ quan
thực hiện việc tổ chức quản lý, điều hành CTCP đó là ĐHĐCĐ, HĐQT và BKS.
Nếu giải thích theo ngữ nghĩa thì có thể hiểu:
"Tổ chức" là sắp xếp, bố trí cho thành một chỉnh thể, có một cấu tạo, một cấu
trúc và những chức năng chung nhất định.
"Quản lý" gồm chuỗi các hoạt động có phối hợp để định hướng và kiểm soát một
tổ chức. Quản lý nói chung bao gồm các hoạt động: hoạch định, tổ chức thực hiện và
kiểm soát và điều chỉnh.

"Điều hành" là hướng dẫn cho mọi hoạt động chung diễn ra theo một đường lối,
chủ trương nhất định.
Từ những phân tích các khái niệm trên có thể hiểu: Tổ chức quản lý điều hành
công ty là một chuỗi các hoạt động như thiết lập mô hình nhất định, định hướng và tổ
chức thực hiện, điều chỉnh, kiểm soát, hướng dẫn để các cơ quan, cán bộ thực hiện
6

Cao Thị Kim Trinh (2004), "Tổ chức quản lý nội bộ CTCP những vấn đề lý luận và thực tiễn", Luận văn thạc
sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
7
Khoản 18 Điều 4 LDN 2014


17

chức năng quản lý, điều hành công ty dựa trên các nguyên tắc, mô hình, cơ chế nhất
định, tuân thủ theo quy định của pháp luật và quy chế quản trị của công ty; mục đích
giúp cho bộ máy của công ty được vận hành và hoạt động một cách có hệ thống, hiệu
quả, theo đúng định hướng; đảm bảo quyền lợi của công ty, các cổ đông, những người
và đối tượng khác có liên quan.
Có thể nhận thấy hoạt động tổ chức quản lý, điều hành công ty bao hàm các đặc
điểm sau:
Một là, tạo ra cơ cấu và quy trình nhất định mà thông qua đó tất cả các mối quan
hệ giữa các bên liên quan đến công ty được thiết lập và xác định. Quy trình này thường
được thể hiện dưới dạng các trình tự, thủ tục về quản lý năng lực hoạt động hoặc các
chế độ báo cáo khác nhau.
Hai là mục đích của hoạt động tổ chức quản lý, điều hành công: Xây dựng các
cấu trúc và quy trình hoạt động phục vụ cho điều hành và kiểm soát hoạt động của
công ty.
Ba là mục tiêu hướng tới của hoạt động tổ chức quản lý, điều hành công ty: Phân

chia một cách phù hợp quyền lợi và trách nhiệm các bên có liên quan, từ đó tạo ra giá
trị lâu dài cho các cổ đông, những chủ đầu tư vốn vào công ty nhằm tìm kiếm lợi
nhuận.
1.1.4

Vai trò của hoạt động tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần
Công ty cổ phần là mô hình kinh doanh điển hình trong nền kinh tế thị trường.

Sự trỗi dậy và phát triển mạnh mẽ của loại hình doanh nghiệp này trên thế giới đặt ra
nhu cầu cần thiết về tính hiệu quả của hoạt động quản lý công ty. Mặc dù xuất hiện từ
trước đó rất lâu nhưng cho đến đầu những năm 1990, sau sự thất bại và khủng hoảng
có hệ thống của nhiều công ty, tập đoàn lớn trên thế giới, hoạt động tổ chức quản lý,
điều hành công ty mới được chú trọng nghiên cứu nhằm giải quyết một cách có hệ
thống các vấn đề pháp lý, thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Sở dĩ hoạt động
này được quan tâm hơn là vì vai trò và tác động tích cực nhiều mặt đối với phát triển
của từng công ty cụ thể nói riêng và nền kinh tế nói chung.
a) Vai trò đối với sự phát triển công ty
Tổ chức, quản lý, điều hành công ty tốt là một trong những nhân tố cơ bản xây
dựng, củng cố và duy trì lòng tin của các nhà đầu tư vào thị trường, vào giá trị tài sản


18

của họ vào công ty bởi họ tin rằng việc ký kết hợp đồng hay cấp vốn đầu tư vào đó sẽ
có khả năng thành công và mang lại lợi nhuận nhiều hơn. Do đó, một công ty thực
hiện tốt việc tổ chức, quản lý, điều hành thường sẽ có khả năng tiếp cận dễ dàng hơn
với các nguồn vốn từ bên ngoài và đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn. Bởi các
khoản vốn đầu tư đó thường không cần thế chấp và có thời hạn dài hơn so với tín dụng
ngân hàng. Điều đó sẽ tạo thuận lợi cho công ty mở rộng đầu tư, mở rộng quy mô sản
xuất kinh doanh, làm tăng cầu về đầu tư cổ phiếu, qua đó tăng trị giá của công ty. Bên

cạnh đó, hoạt động quản lý hiệu quả sẽ làm giảm các chi phí không cần thiết trong quá
trình hoạt động của công ty như các chi phí liên quan đến khiếu kiện liên quan đến
giao dịch nội bộ công ty, tham nhũng và giảm thiểu trách nhiệm đền bù của công ty.
Có thể nói khi thiết lập được được một cơ cấu tổ chức hợp lý, hiệu quả; xây dựng được
cơ chế điều hành, phối hợp giữa các cơ quan, bộ phận, người quản lý một cách nhịp
nhàng; có một nguồn nhân lực có trình độ, trách nhiệm để thực hiện sẽ là những yếu tố
mang tính quyết định đến hiệu quả hoạt động và sự phát triển bền vững của một công
ty. Bên cạnh đó, trong khuôn khổ hoạt động của công ty, hoạt động tổ chức, quản lý
điều hành công ty còn có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cổ đông, các nhà đầu tư.
b) Vai trò đối với sự phát triển của hệ thống công ty
Sự ra đời, phát triển của mạng lưới công ty và sự phát triển của nền kinh tế luôn
có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Sự ổn định và hợp lý của những mô hình quản lý
chung là tiền đề cho sự phát triển của hệ thống công ty, thúc đẩy phát triển kinh tế.
Các mô hình quản lý này được hợp pháp hóa trong các quy định của pháp luật và điều
lệ công ty. Đây sẽ là nguồn "thành văn" cho những doanh nghiệp sau kế thừa và áp
dụng. Hiệu quả bền vững của mô hình quản lý sẽ giúp doanh nghiệp có chỗ đứng vững
chắc trên thương trường, nâng cao hiệu quả kinh tế, khả năng cạnh tranh, góp phần vào
sự ổn định và phát triển của hệ thống các công ty.
c) Vai trò đối với nền kinh tế
Các doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng là một bộ phận của nền kinh tế.
Sự tăng trưởng của bộ phận này góp phần duy trì ổn định và phát triển cho nền kinh tế.
Do đó tổ chức, quản lý, điều hành công ty được đánh giá là yếu tố then chốt để
đẩy mạnh hiệu quả thị trường, phát triển kinh tế cũng như tăng cường lòng tin của nhà
đầu tư. Sự tồn tại của một hệ thống quản lý công ty hiệu quả vượt ra ngoài phạm vi tác


19

động của một công ty mà còn tác động chung đến nền kinh tế, là nền tảng cho sự phát
triển kinh tế thị trường. Thực hiện tốt việc quản lý là yếu tố làm cho vốn đầu tư được

huy động nhiều hơn và phân bổ tốt hơn vào những nơi sử dụng nguồn vốn đó có hiệu
quả, từ đó góp phần giúp cho nền kinh tế đạt hiệu quả và mức tăng trưởng cao hơn.
Một quốc gia có nhiều doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức, quản lý, điều hành hiệu quả sẽ
sở hữu mạng lưới đầu tư thu hút, an toàn, ổn định cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Bên cạnh đó, tính hiệu quả của hoạt động quản lý sẽ có vai trò tích cực trong
việc giảm thiểu được rủi ro khủng hoảng tài chính. Các cuộc khủng hoảng kinh tế và
tài chính ở mức độ nhất định đều có nguyên nhân từ sự yếu kém của hoạt động quản
lý, ví dụ như cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ 1997-1998 được cho là xuất phát từ
nguyên nhân yếu kém của hoạt động quản lý tại những nước châu Á. Như vậy, có thể
thấy hoạt động tổ chức, quản lý, điều hành công ty có vai trò khá quan trọng không chỉ
với bản thân công ty mà với cả đối với nền kinh tế nói chung.
Các nguyên tắc cơ bản tổ chức, quản lý, điều hành công ty cổ phần

1.1.5

Thứ nhất, bộ máy tổ chức quản lý điều hành phù hợp với quy định của pháp
luật và tình hình thực tế của công ty.
Nói một cách khái quát, cấu trúc quản trị nội bộ của các CTCP trên thế giới, đặc
biệt là các công ty niêm yết, thường theo một trong hai mô hình sau đây: (i) mô hình
hội đồng đơn – hay còn gọi là hội đồng một tầng (unitary board hay one-tier board
model), và (ii) mô hình hội đồng kép – hay còn gọi là hội đồng hai tầng/mô hình đa
hội đồng (dual board hay two-tier board model). Mô hình đa hội đồng có nguồn gốc từ
cộng hòa liên bang Đức với cấu trúc nội bộ theo pháp luật CHLB Đức gồm: Đại hội
đồng cổ đông, Aufsichtsrat (Hội đồng quản lý/Giám sát), Vorstand (Ban quản trị điều
hành).
Bộ máy tổ chức quản lý điều hành phù hợp với quy định của pháp luật và tình
hình thực tế của công ty là nguyên tắc quan trọng đối với việc quản lý CTCP. Pháp
luật Việt Nam và pháp luật của các nước trên thế giới đều có những quy định rất mở,
cho phép doanh nghiệp được lựa chọn mô hình quản lý phù hợp với tình hình thực tế
của doanh nghiệp hay lựa chọn một nhân sự trong quá trình thực hiện việc quản lý của

mình. Dựa trên những quy định đó, bộ máy quản lý doanh nghiệp xây dựng đảm bảo
tính gọn nhẹ, vận hành tốt sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí đáng kể cho


×