Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 105 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ HOÀNG ANH

ĐỀ TÀI

QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ HOÀNG ANH
ĐỀ TÀI

QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số:

60380103

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ THU HÀ

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Thị Thu Hà.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng
theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn này.

Tác giả luận văn

Vũ Hoàng Anh


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS. Nguyễn Thị Thu Hà - giảng
viên tổ bộ môn Luật tố tụng dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, người đã trực tiếp
hướng dẫn, định hướng và tận tình chỉ dạy trong quá trình tôi thực hiện luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô, anh chị, bạn bè đồng nghiệp và gia
đình đã luôn giúp đỡ và động viên để tôi có đầy đủ điều kiện và động lực để hoàn thành

luận văn này.
Hà Nội, tháng 8 năm 2017
Tác giả

Vũ Hoàng Anh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS 2005

: Bộ luật Dân sự năm 2005

BLDS 2015

: Bộ luật Dân sự năm 2015

BLTTDS 2011

: Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung
năm 2011)

BLTTDS 2015

: Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

NQ số 03/2012/

: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân
tối cao số 03/2012/NQ – HĐTP hướng dẫn thi hành một


NQ -HĐTPTANDTC

số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định
chung” của Bộ luật Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ
sung theo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật
Tố tụng dân sự.
NQ số 05/2012/
NQ -HĐTPTANDTC

: Nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân
tối cao số 05/2012/NQ – HĐTP hướng dẫn thi hành một
số quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ
án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng Dân sự
đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.

NQ số 06/2012/
NQ - HĐTPTANDTC

: Nghị quyết quyết của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
Nhân dân tối cao số 06/2012/NQ – HĐTP hướng dẫn
thi hành một số quy định trong phần thứ ba “Thủ tục
giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật
Tố tụng Dân sự đã được sửa đổi, bổ sung theo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự.

TAND

: Tòa án Nhân dân


TANDTC

: Tòa án Nhân dân tối cao

TTDS

: Tố tụng dân sự

VVDS

: Vụ việc dân sự

VADS

: Vụ án dân sự

VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát Nhân dân


MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU


1

CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN CỦA NGUYÊN

6

ĐƠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò về quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân

6

1.2. Cơ sở khoa học và nội dung cơ bản về quyền của nguyên đơn trong tố tụng

17

sự

dân sự
1.3. Điều kiện bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự

31

CHƢƠNG 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG

35

DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN
2.1. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về


35

quyền tự định đoạt của nguyên đơn
2.2. Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về

53

quyền tranh tụng của nguyên đơn
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ

67

VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN VÀ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN
3.1. Thực tiễn thực hiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền

67

của nguyên đơn
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt

78

Nam hiện hành về quyền của nguyên đơn
KẾT LUẬN

92


1


MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Về lý luận chung, để chủ thể có khả năng tham gia vào các quan hệ pháp luật, Nhà
nước phải bảo đảm cho chủ thể có những quyền năng nhất định. Theo đó, trong tố tụng
dân sự (TTDS), để các đương sự có khả năng tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS, pháp
luật phải trao cho đương sự các quyền năng phù hợp với tư cách của từng đối tượng. Với
vai trò là chủ thể chủ động nhất trong hoạt động tố tụng, nguyên đơn phải được pháp luật
thừa nhận và quy định những quyền năng hợp lý để có thể sử dụng trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại Tòa án. Thực tế, các quy định về quyền của
nguyên đơn trong TTDS có ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội và các vấn đề
chính trị của đất nước. Do vậy, quyền của nguyên đơn trong TTDS là một vấn đề pháp lý
quan trọng cần được nghiên cứu độc lập và có hệ thống trong giai đoạn hiện nay.
Quyền của nguyên đơn đã được quy định trong các văn bản pháp luật của Nhà
nước ta từ năm 1946 và ngày càng được hoàn thiện hơn. Sự ra đời của BLTTDS 2015 (có
hiệu lực toàn phần từ ngày 01/01/2017) đã đánh dấu một bước phát triển của pháp luật
TTDS nói chung và pháp luật TTDS về quyền của nguyên đơn nói riêng. Tuy nhiên, để
nguyên đơn có đầy đủ khả năng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình tại
Tòa án thì các quy định về quyền của nguyên đơn phải được xây dựng hoàn thiện trên cơ
sở bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Dễ dàng nhận thấy, sau khi ban hành và được áp dụng trong thực tiễn, những quy
định của BLTTDS 2015 về quyền của nguyên đơn còn bộc lộ nhiều vướng mắc và bất
cập. Điều đó thể hiện rõ ở việc, có nhiều quy định về quyền của nguyên đơn chưa rõ ràng,
đầy đủ và còn gây ra nhiều cách hiểu khác nhau; một số quy định được xây dựng chưa
phù hợp với các học thuyết, nguyên lý của TTDS hoặc chưa được xây dựng dưới góc độ
tiếp cận quyền con người, quyền công dân; một số quy định chưa bảo đảm sự tương thích
với pháp luật nội dung hay có những quy định còn thiếu khoa học, thiếu logic chưa đáp
ứng yêu cầu về kĩ thuật lập pháp. Bên cạnh đó, mặc dù, BLTTDS 2015 có nhiều quy định
mới liên quan đến quyền của nguyên đơn nhưng lại chưa có văn bản hướng dẫn thi hành

các quy định này dẫn đến việc áp dụng thiết thống nhất. Sự thiếu sót từ bản thân các quy
định của pháp luật TTDS về quyền của nguyên đơn đã gây ra khó khăn cho cơ quan tiến
hành tố tụng khi áp dụng vào thực tiễn. Điều này đã trực tiếp xâm phạm đến quyền lợi của
nguyên đơn khi họ tham gia giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu để làm rõ các vấn đề lý luận, các vấn đề pháp
lý về quyền của nguyên đơn trong TTDS, bảo đảm việc hiểu và áp dụng thống nhất các
quy định pháp luật vào thực tiễn là một yêu cầu bức thiết. Vì vậy, việc lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Quyền của nguyên đơn trong TTDS Việt Nam” sẽ có giá trị khoa học trong
giai đoạn hiện nay.


2

2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Quyền của nguyên đơn là một nội dung quan trọng của pháp luật TTDS Việt Nam.
Có nhiều công trình khoa học có liên quan đến vấn đề này đã được nghiên cứu dưới nhiều
hình thức khác nhau. Có thể kể đến những công trình sau:
- Cuốn sách chuyên khảo “Cơ chế pháp lý bảo đảm quyền con người, quyền công
dân trong giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án Nhân dân” năm 2017 của tác giả Nguyễn
Thị Thu Hà. Đây là công trình mới nhất có liên quan đến đề tài của tác giả. Công trình đã
nghiên cứu công phu và có hệ thống về cả lý luận và thực tiễn trong việc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân trong TTDS. Tuy nhiên, đối tượng mà công trình này tập
trung nghiên cứu là các biện pháp, cách thức để bảo đảm quyền con người, quyền công
dân của đương sự trong TTDS, chứ không đi sâu nghiên cứu về các quyền của nguyên
đơn trong TTDS.
- Đề tài khoa học cấp trường “Cơ chế ảo đảm quyền con người, quyền cơ ản của
công dân trong tố tụng dân sự theo yêu cầu của cải cách tư pháp và thi hành Hiến pháp
năm 2013” năm 2017 do tác giả Nguyễn Thị Thu Hà làm chủ biên, và đề tài “Cơ chế bảo
đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự đáp ứng tiến trình cải cách tư

pháp ở Việt Nam” năm 2015 do tác giả Nguyễn Triều Dương làm chủ biên. Cũng giống
như công trình trên, ở cả hai đề tài này, đối tượng nghiên cứu của đề tài hướng đến không
phải quyền của nguyên đơn mà là các biện pháp, cách thức để bảo đảm quyền tự định đoạt
của đương sự hoặc bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong TTDS.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Quyền tố tụng của đương sự và thực tiễn thực hiện”
năm 2013 của tác giả Đỗ Thị Hà. Có thể nói đây là công trình có liên quan gần gũi nhất
với đề tài mà tác giả nghiên cứu. Ở công trình này, tác giả luận văn đã làm rõ được những
vấn đề lý luận và thực tiễn về quyền tố tụng của đương sự. Tuy nhiên, đối tượng nghiên
cứu của luận văn này là quyền tố tụng của các đương sự nói chung chứ không nghiên cứu
riêng về quyền của nguyên đơn. Bên cạnh đó, cách thức tiếp cận của luận văn này là tập
trung nghiên cứu các nhóm quyền của đương sự một cách có hệ thống chứ không đi sâu
nghiên cứu các quyền cụ thể của nguyên đơn.
- Các luận văn thạc sĩ khác như: “Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự
trong tố tụng dân sự” năm 2011 của tác giả Nguyễn Văn Tuyết; “Quyền tự định đoạt của
đương sự trong vụ án kinh doanh, thương mại” năm 2013 của tác giả Nguyễn Thị Thu
Minh; “Đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong tố tụng
dân sự Việt Nam” năm 2013 của tác giả Nguyễn Thanh Nga; “Quyền yêu cầu, thay đổi,
bổ sung và rút yêu cầu của đương sự trong tố tụng dân sự Việt Nam” năm 2015 của tác
giả Nguyễn Thị Minh Trang. Tất cả những luận văn này đều có một đối tượng nghiên cứu
rõ ràng và ít nhiều đều có giá trị đóng góp cho sự phát triển của khoa học pháp lý TTDS ở
Việt Nam. Tuy nhiên, các luận văn này chỉ có liên quan một phần nhỏ đến đề tài của tác
giả. Chưa có luận văn nào nghiên cứu độc lập và có hệ thống về quyền của nguyên đơn


3

trong TTDS Việt Nam.
- Các bài viết của các tác giả đăng trên các tạp chí pháp luật có nghiên cứu những
vấn đề riêng lẻ có liên quan đến quyền của nguyên đơn như: bài viết “Việc thay đổi, bổ
sung và rút yêu cầu của đương sự tại phiên tòa sơ thẩm dân sự” của tác giả Bùi Thị

Huyền đăng trên tạp chí Luật học số 9/2007; “Giải quyết trường hợp thay đổi địa vị tố
tụng tại phiên tòa sơ thẩm” của tác giả Lê Thu Hà đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp
số 9/2007; “Việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm dân sự”
của tác giả Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên tạp chí Tòa án Nhân dân số 8/2010; “Nguyên
tắc “quyền tự định đoạt và quyết định của đương sự” trong tố tụng dân sự, tố tụng hành
chính” của tác giải Nguyễn Quang Hiền đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số
17/2013; “Giải quyết việc nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện trong vụ án dân sự nhiều
nguyên đơn có cùng yêu cầu” của tác giả Nguyễn Thị Hạnh – Nguyễn Thị Hương đăng
trên tạp chí Tòa án Nhân dân số 20/2013; “Về trường hợp vụ án dân sự có nhiều nguyên
đơn mà có một nguyên đơn rút yêu cầu khởi kiện” của tác giả Nguyễn Thị Hương đăng
trên tạp chí Kiểm sát số 18/2013…Các bài viết này đề cập đến những vấn đề khác nhau
có liên quan đến quyền của nguyên đơn trong TTDS. Tuy nhiên, hầu hết các bài viết chủ
yếu tập trung phân tích, đánh giá các quy định của BLTTDS 2004 hoặc BLTTDS sửa đổi
2011 có liên quan đến quyền của nguyên đơn. Nhiều vấn đề có tính lý luận và thực tiễn
liên quan đến quyền của nguyên đơn chưa được đề cập hoặc đã được đề cập nhưng chưa
được lý giải một cách thỏa đáng và cần được tiếp tục nghiên cứu sâu sắc, toàn diện hơn
trong giai đoạn hiện nay.
Như vậy, qua các công trình đã công bố ở trên, có thể nhận thấy, chưa có một công
trình nào nghiên cứu trực tiếp và cụ thể về quyền của nguyên đơn trong TTDS Việt Nam.
Vì vậy, có thể nói, luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu và có
hệ thống về quyền của nguyên đơn trong TTDS Việt Nam.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

* Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận, các học thuyết, quy định của pháp luật
nước ngoài và Việt Nam về quyền của nguyên đơn trong TTDS; thực tiễn thực hiện các
quy định của pháp luật TTDS Việt nam về quyền của nguyên đơn trong vài năm gần đây.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Luận văn chỉ nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung quyền của
nguyên đơn trong TTDS. Trong luận văn này, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về các

quyền của nguyên đơn đã được ghi nhận nhưng vẫn bị xâm phạm nhiều (thông qua các
bài nghiên cứu chuyên khảo trong 5 năm gần đây) hoặc những quyền mới được ghi nhận
cũng cần nghiên cứu để đánh giá sự phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam. Các quyền
đó có thể chia thành 2 nhóm quyền là nhóm quyền tự định đoạt và nhóm quyền tranh tụng
của nguyên đơn. Trong đó, với nhóm quyền tự định đoạt, tác giả chỉ nghiên cứu các


4

quyền: quyền khởi kiện; quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện; quyền rút đơn khởi
kiện; quyền kháng cáo phúc thẩm; quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo phúc thẩm. Ở nhóm
quyền tranh tụng, tác giả nghiên cứu các quyền: quyền cung cấp chứng cứ chứng minh;
quyền tiếp cận chứng cứ; quyền được loại trừ một phần nghĩa vụ chứng minh; quyền
tranh tụng tại phiên tòa.
- Luận văn tập trung là rõ các quy định của BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung2011)
(BLTTDS 2011), BLTTDS 2015 và các văn bản pháp luật có liên quan về những quyền
của nguyên đơn đã được liệt kê ở trên. Từ đó, luận văn nghiên cứu những điểm tích cực
và hạn chế của pháp luật TTDS hiện hành về quyền của nguyên đơn.
- Luận văn chỉ nghiên cứu hai nhóm quyền này trong việc giải quyết các VADS
theo thủ tục tố tụng thông thường, không nghiên cứu 2 nhóm quyền này trong giải quyết
VADS theo thủ tục TTDS rút gọn.
- Luận văn đưa ra kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật đối với những
quyền của nguyên đơn đã được lựa chọn ở trên.
4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Mục đích nghiên cứu luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng quy
định của pháp luật và thực tiễn thực hiện quyền của nguyên đơn trong TTDS. Trên cơ sở
đó, luận văn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật và bảo
đảm áp dụng thống nhất pháp luật về quyền của nguyên đơn trong TTDS. Để đạt được
mục đích này, luận văn đề ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:

Thứ nhất, làm rõ bản chất của quyền của nguyên đơn trong TTDS, xây dựng được
khái niệm, chỉ ra được những đặc điểm và khái quát được vai trò về quyền của nguyên
đơn trong TTDS. Thứ hai, làm rõ được nội dung một số quyền của nguyên đơn trong
TTDS đã được giới hạn trong phạm vi nghiên cứu đề tài. Thứ ba, chỉ ra những ưu điểm,
hạn chế của các quy định pháp luật hiện hành về quyền của nguyên đơn trong TTDS và
đưa ra kiến nghị cụ thể để giải quyết những vấn đề còn bất cập, vướng mắc.
5. PHƢƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

* Phương pháp luận: việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Để đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra,
luận văn đã sử dụng những nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học. Cụ thể, phương
pháp lịch sử được sử dụng để nghiên cứu về sự hình thành và phát triển của khái niệm
quyền; phương pháp phân tích và bình luận được sử dụng để đem lại góc nhìn đa chiều và
làm rõ các quy định về quyền của nguyên đơn trong pháp luật TTDS hiện hành; phương
pháp so sánh được sử dụng để chỉ ra những điểm khác biệt của pháp luật TTDS Việt Nam
và pháp luật TTDS một số nước về quyền của nguyên đơn; làm rõ những điểm tiến bộ và
hạn chế của quy định pháp luật hiện hành về quyền của nguyên đơn trong TTDS; phương
pháp nghiên cứu học thuyết pháp lý (một phương pháp nghiên cứu luật học truyền thống)


5

được sử dụng để nghiên cứu chuyên sâu về nội dung các quyền của nguyên đơn trong
TTDS, từ đó dùng làm cơ sở vững chắc trong việc kiến nghị hoàn thiện pháp luật; phương
pháp diễn dịch, quy nạp và tổng hợp được tác giả sử dụng để khái quát các ý chính trong
từng vấn đề cụ thể, giúp cho các ý tưởng trong luận văn được sáng rõ.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Kết quả nghiên cứu đề tài “Quyền của nguyên đơn trong TTDS Việt Nam” có thể

đem lại những điểm mới sau:
- Luận văn là công trình đầu tiên trình bày được khái niệm, đặc điểm và vai trò về
quyền của nguyên đơn trong TTDS. Kết quả nghiên cứu ở phần đặc điểm của luận văn đã
giúp phân biệt rõ quyền của nguyên đơn trong TTDS với quyền của một số đối tượng
pháp lý có nét tương đồng. Nội dung này có thể giúp các tác giả khác ngoài chuyên ngành
sử dụng để nhận diện quyền của nguyên đơn trong TTDS với quyền của đối tượng mà họ
đang nghiên cứu. Chẳng hạn như nhận diện quyền của quyền của nguyên đơn dân sự
trong vụ án hình sự với quyền của nguyên đơn trong TTDS… Luận văn cũng làm rõ được
giá trị và sự ảnh hưởng của các quy định về quyền của nguyên đơn trong TTDS với vấn
đề phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Luận văn đã tổng hợp, khái quát và tự rút ra được một số vấn đề lý luận có giá trị
về quyền của nguyên đơn trong TTDS. Những nội dung này có thể được sử dụng như tiêu
chuẩn để đánh giá các quy định pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành về quyền của
nguyên đơn; hoặc có thể dùng như một cơ sở lý thuyết tham khảo giúp các tác giả tiếp tục
nghiên cứu để hoàn thiện các quy định về quyền của nguyên đơn nói riêng và quyền của
các đương sự nói chung trong TTDS.
- Luận văn đã phân tích, đánh giá một cách tương đối toàn diện và sâu sắc các quy
định của pháp luật TTDS Việt nam về một số quyền của nguyên đơn và thực tiễn áp dụng
pháp luật trong những năm gần đây. Từ những nghiên cứu này, luận văn đã làm sáng rõ
những hạn chế, bất cập của các quy định pháp luật hiện hành về quyền của nguyên đơn,
và những vướng mắc trong quá trình áp dụng các quy định về quyền của nguyên đơn
trong thực tiễn xét xử. Đồng thời, luận văn đưa ra những luận giải cụ thể về nguyên nhân
của những vướng mắc, bất cập đó.
- Luận văn đã có những kiến nghị sửa đổi, bổ sung cụ thể đối với một số quyền của
nguyên đơn được quy định trong BLTTDS 2015. Những kiến nghị này không chỉ có giá
trị để hoàn thiện các quy định về quyền của nguyên đơn mà còn có thể dùng như tài liệu
tham khảo để nghiên cứu hoàn thiện các quy định về quyền của bị đơn và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN


Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, nội dung cụ
thể của luận văn được kết cấu thành 3 chương và 7 mục (có thể xem cụ thể hơn ở phần
mục lục của luận văn).


6

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN
CỦA NGUYÊN ĐƠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ VỀ QUYỀN CỦA NGUYÊN ĐƠN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự
Để đưa ra được khái niệm “quyền của nguyên đơn trong TTDS” cần giải thích
được các khái niệm: TTDS và nguyên đơn trong TTDS.
Thứ nhất, về khái niệm TTDS.
Trong hoạt động xây dựng pháp luật, những nhóm quan hệ có cùng tính chất sẽ
được điều chỉnh chung bởi một ngành luật. Danh từ “dân sự” thường được hiểu như một
bộ phận của lĩnh vực luật tư, bản chất là sự bình đẳng trong việc cam kết, rằng buộc, thay
đổi, chấm dứt, thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên. Với tính chất của các quan
hệ dân sự, nhà làm luật đã xây dựng các quy tắc xử sự chung cho các chủ thể khi tham gia
vào quá trình cam kết, thỏa thuận dựa trên cơ sở tự nguyện, tự do và bình đẳng về địa vị
pháp lý. Theo nhà nghiên cứu Vũ Văn Mẫu: “Dân luật (luật dân sự) là những nguyên tắc
cai quản sự giao thiệp giữa tư nhân”1 – ý chỉ các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ
mang tính chất “riêng tư” của các chủ thể.
Bên cạnh đó, theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, khi xây dựng một hệ
thống pháp luật, song song với việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, Nhà
nước cần phải xây dựng các cơ chế để đảm bảo thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Nói
như giáo sư Nguyễn Huy Đẩu: “Một quyền lợi được luật pháp công nhận nhiều khi không

đủ bảo đảm cho người có chủ quyền hưởng dụng: quyền lợi có thể bị phủ nhận, bị xâm
phạm”, vì vậy “chủ thể quyền lợi bị tổn thương có quyền buộc tha – nhân phải tôn trọng
quyền lợi bị đe dọa bằng những phương tiện hợp pháp”, phương tiện này “danh xưng là
Luật tố tụng”2. Với “xứ mệnh” bảo vệ các lợi ích dân sự hợp pháp trong pháp luật nội
dung phải được hiện thực hóa – luật TTDS đã ra đời. Thuật ngữ “tố tụng” có nhiều cách
hiểu khác nhau. Theo Giáo sư Vũ Văn mẫu, “tố tụng” tức là “thủ tục kiện cáo”3. Hay theo
phân tích của Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu từ việc nghiên cứu luật của Nhật Bản và Pháp thì
nói đến “tố tụng” là nói đến “môn luật liên quan đến Tòa án, đến quyền tư pháp” và theo
đó, TTDS là “định lệ tổ chức việc chi phối là điều hành công lý, đặt ra để đảm bảo cho tư
nhân các chế tài và tôn trọng quyền lợi trong tư luật”4. Trong khoa học pháp lý ngày nay,

1

Vũ Văn Mẫu (1961), Dân luật khái luận, Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản năm, tr. 161.
Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật Dân sự - Tố tụng Việt Nam, Xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ Tư pháp, Sài Gòn, tr.3.
3
Vũ Văn Mẫu, tlđd chú thích 1, tr. 153.
4
Nguyễn Huy Đẩu, tlđd chú thích 2, tr. 4 và 6.
2


7

TTDS được lý giải là thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án5.
Từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: TTDS là quy trình, thủ tục do pháp luật quy
định để giải quyết các tranh chấp, yêu cầu phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự (theo
nghĩa rộng) tại Tòa án.
Thứ hai, về khái niệm nguyên đơn trong TTDS.
Để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu trong cuộc sống, con người luôn luôn có nhu cầu

giao kết và thiết lập các quan hệ dân sự. Trong quá trình con người trao đổi lợi ích với
nhau, việc xảy ra tranh chấp, mâu thuẫn là một yếu tố khách quan mang tính quy luật.
Bởi, bản thân con người vốn là thực thể không hoàn hảo nên khi đặt chung vào cùng một
mối quan hệ thì vấn đề nảy sinh mâu thuẫn là lẽ thường tình (dưới quan điểm của Triết
học và Phật giáo)6. Nhận thức được vấn đề đó, pháp luật cần quy định các phương thức để
giải quyết tranh chấp. Một trong những phương thức giải quyết tranh chấp đó là yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Để làm cơ sở cho việc xác định quyền và nghĩa
vụ của từng chủ thể khi giải quyết tranh chấp tại Tòa án, pháp luật TTDS cần trao cho họ
các tư cách pháp lý. Bởi, chỉ khi chủ thể ở trong một tư cách nào đó mới có thể sử dụng
những quyền năng nhất định7. Với vai trò là chủ thể làm phát sinh quá trình tố tụng (thể
hiện bằng việc nộp đơn khởi kiện), pháp luật trao cho chủ thể này tư cách là “nguyên
đơn” trong TTDS.
Cần nói thêm, quan niệm về TTDS cũng có nhiều cách hiểu khác nhau tùy theo
từng mô hình tố tụng và pháp luật của mỗi quốc gia8. Do Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi
mô hình phân loại tố tụng của các nước theo hệ thống luật dân sự, nên thủ tục tố tụng
được chia thành hai loại là thủ tục giải quyết VADS (bao gồm thủ tục thông thường và thủ
tục rút gọn) và thủ tục giải quyết việc dân sự. Và trong hai thủ tục này, tư cách nguyên
đơn chỉ xuất hiện trong VADS.
Theo Từ điển luật học: “nguyên đơn là người được giả thiết có quyền hoặc lợi ích
hợp pháp bị vi phạm hay tranh chấp nên khởi kiện (hoặc được người khác khởi kiện, khởi
tố) theo quy định của pháp luật nhằm bảo vệ những quyền lợi đó”9. Từ khái niệm này, có
thể xác định được điều kiện cần để một chủ thể có thể trở thành nguyên đơn trong TTDS
là họ phải được suy đoán có quyền và lợi ích hợp dân sự hợp pháp bị xâm phạm. Sự xâm
phạm ở đây chỉ được “suy đoán hay giả thiết” vì khi chưa có phán quyết của Tòa án thì
không thể khẳng định chắc chắn quyền lợi của nguyên đơn là hợp pháp. Đồng thời, khái
niệm trên cũng chỉ ra rằng nguyên đơn trong TTDS rất đa dạng. Nguyên đơn có thể là
người khởi kiện VADS khi đáp ứng các điều kiện luật định. Nguyên đơn cũng có thể là
5

Tống Công Cường (2007), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam – Nghiên cứu so sánh, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ Chí

Minh, tr. 10.
6
Trần Anh Tuấn, Pháp luật TTDS Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, tại
địa chỉ ngày truy cập 25/06/2017.
7
Nguyễn Ngọc Bích (Master laws Harvard) (2015), Tư duy pháp lý của luật sư, Nhà xuất bản Trẻ, tr. 65.
8
Tống Công Cường (2007), tlđd chú thích 5, tr. 6.
9
Từ điển Luật học (2006), Bộ Tư pháp Viện khoa học pháp lý, Nxb từ điển bách khoa – Nxb Tư pháp, tr. 566.


8

người được cá nhân, cơ quan, tổ chức được pháp luật trao quyền để khởi kiện thay. Tuy
nhiên, xét về lý thuyết của TTDS, khái niệm trên vẫn chưa bao quát hết các chủ thể có thể
trở thành nguyên đơn trong TTDS. Dựa theo lý thuyết của pháp luật dân sự, Nhà nước
cũng là một trong những chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự10, do vậy, khi bị xâm phạm
về các lợi ích dân sự hợp pháp, Nhà nước cũng có quyền bảo vệ mình. Thông qua các cơ
quan chuyên môn, Nhà nước trao quyền cho những cơ quan này có quyền khởi kiện để
bảo vệ lợi ích của Nhà nước. Hoặc trong trường hợp lợi ích chung của cộng đồng bị xâm
phạm, Nhà nước cũng có thể trao quyền cho một số cơ quan để khởi kiện nhằm bảo vệ lợi
ích công cộng. Khi đó, các cơ quan được trao quyền sẽ trở thành nguyên đơn trong VADS11.
Như vậy, cần hiểu đầy đủ, nguyên đơn trong VADS là người tham gia TTDS được
giả thiết (suy đoán) là có quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, tranh chấp nên đã tự
mình khởi kiện hoặc được các chủ thể khác theo quy định của pháp luật khởi kiện để yêu
cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình hoặc khởi kiện VADS để yêu cầu Tòa án
bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng.
Thứ ba, về khái niệm quyền của nguyên đơn trong TTDS.
Quyền luôn là một phạm trù trừu tượng và được tiếp cận dưới nhiều giác độ khác

nhau. Học thuyết pháp luật tự nhiên cho rằng, khi con người sinh ra đã được hưởng thụ
các quyền mà luật tự nhiên ban cho, các quyền này đã chi phối và hướng dẫn hành vi con
người đi đến sự công bằng và đúng đắn. Luật của tự nhiên đã có trước khi loài người xuất
hiện, nó tồn tại vĩnh hằng, độc lập, bất biến và khách quan12 (cả ở Phương Đông và
Phương Tây đều cùng quan điểm này13). Khi xã hội văn minh ra đời, để bảo vệ được
quyền tự nhiên đó, Nhà nước phải tìm tòi, khám phá luật của tự nhiên để xây dựng thành
hệ thống pháp luật (luật của tự nhiên, chi phối luật của con người).
Trái ngược với quan điểm trên, học thuyết pháp luật thực chứng cho rằng, quyền là
khả năng nhà nước trao cho chủ thể thông qua pháp luật. Thực chứng có nghĩa rằng trước
hết luật phải tồn tại một cách rành rọt, cụ thể, minh chứng được14. Theo học thuyết pháp
luật thực chứng, quyền không phải là những gì bẩm sinh, vốn có một cách tự nhiên mà
phải do các Nhà nước xác định, thừa nhận và pháp điển hóa thành các quy phạm pháp
luật15. Và vì thế, học thuyết này cho rằng “không có một pháp luật lý tưởng nào duy
10

Trường Đại học Luật Hà Nội (2012), Giáo trình Luật dân sự Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, tr. 65.
Xem thêm khoản 2 Điều 68 BLTTDS năm 2015.
12
Đỗ Minh Đức (2014),“Tìm hiểu học thuyết pháp luật tự nhiên”, Nghiên cứu lập pháp, (06), tr.15.
13
Nhà bác học Aristotle – cha đẻ của học tuyết pháp luật tự nhiên Phương Tây cho rằng: pháp luật phải là “sự suy
diễn từ sự hài hòa của trật tự tự nhiên”. Ở Phương Đông, Lão Tử cho rằng, luật là cái có sẵn trong tự nhiên, luân lý tự
nhiên đó không gì phá hủy được, con người nếu soạn luật cần tuân thủ công lý đó. Hay trong triết lý của Đạo Phật
thuyết về luân hồi, nhân quả đều được diễn giải như quy luật vĩnh hằng tồn tại trong vũ trụ.
(Xem: Nguyễn Đăng Dung – Đặng Minh Tuấn (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam, NXB Đại
học Quốc gia Hà Nội, tr.63 và Phạm Duy Nghĩa (2011), Giáo trình pháp luật đại cương, Nxb Công an Nhân dân,
tr.12).
14
Phạm Duy Nghĩa (2014), Phương pháp nghiên cứu luật học, Nxb. Công an Nhân dân, tr.62.
15

Nguyễn Đăng Dung – Vũ Công Giao – Lã Khánh Tùng (chủ biên) (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về
quyền con người, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tlđd chú thích 2, tr.39.
11


9

nhất16”. Ở đây, trong khi các quyền tự nhiên có tính đồng nhất trong mọi hoàn cảnh, mọi
thời điểm, thì các quyền pháp lý mang tính chất khác biệt tương đối về mặt văn hóa, chính trị17.
Như vậy, dù tiếp cận theo học thuyết pháp luật tự nhiên hay pháp luật thực chứng,
phạm trù “quyền” đều có mối liên hệ gần gũi với nhà nước và pháp luật.
Ngày nay, dưới góc độ ngôn ngữ học, quyền được hiểu là điều mà pháp luật hoặc
xã hội công nhận cho được hưởng, được làm, được đòi hỏi18. Nói cách khác, quyền là khả
năng thực hiện ý chí của mình được pháp luật hoặc xã hội chấp nhận. Hay quyền là cái
mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành…và
khi thiếu yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại19. Dưới góc độ khoa
học pháp lý, quyền là những điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với
cá nhân, tổ chức để theo đó cá nhân, tổ chức được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà
không ai ngăn cản, hạn chế”20.
Từ những cách tiếp cận ở trên có thể khái quát lại: Quyền là khả năng mà pháp luật
cho phép chủ thể được hưởng, được thực hiện những hành vi gắn với những điều kiện
nhất định21.
Trong TTDS, nguyên đơn là một trong những chủ thể của quan hệ pháp luật
TTDS. Vì vậy, để có khả năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nguyên đơn
phải có đầy đủ các quyền tố tụng - các quyền này được pháp luật ghi nhận và bảo đảm
thực hiện. Việc pháp luật ghi nhận quyền tố tụng nguyên đơn một mặt giúp cho nguyên
đơn có thể chủ động trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, một mặt giúp cho Tòa án xác
định rõ phạm vi quyền của nguyên đơn, từ đó bảo đảm cho nguyên đơn thực hiện được
quyền mà pháp luật đã ghi nhận. Trong trường hợp có sự thay đổi tư cách của nguyên đơn
từ đương sự này sang đương sự khác thì nguyên đơn mới được hình thành sẽ có toàn bộ

quyền mà pháp luật đã ghi nhận cho nguyên đơn trong TTDS.
Như vậy, từ những phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm: Quyền của nguyên
đơn trong TTDS là khả năng mà pháp luật quy định cho chủ thể giả thiết có quyền lợi dân
sự hợp pháp bị xâm phạm, tranh chấp được hưởng, được sử dụng để bảo vệ quyền lợi của
mình hoặc khả năng mà pháp luật quy định cho cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp
luật được hưởng, được sử dụng để bảo vệ quyền lợi dân sự hợp pháp của Nhà nước, bảo
vệ lợi ích công cộng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án.
1.1.2. Đặc điểm quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự
Thứ nhất, quyền của nguyên đơn trong TTDS được hình thành dựa trên mối quan
hệ giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực pháp luật TTDS.
16

Vũ Văn Mẫu, tlđd chú thích 1, tr. 86.
Đào Trí Úc (2015), Án lệ: Lịch sử, hiện tại và triển vọng phát triển ở Việt Nam, Nghiên cứu lập pháp, (10), tr.16.
18
cập ngày 25/06/2017.
19
truy cập ngày 25/06/2017.
20
Từ điển Luật học, , tr. 648.
21
Lê Văn Long (2003), Quan hệ pháp luật – Những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, tr. 42.
17


10

Theo lý luận chung về nhà nước và pháp luật, để có tư cách tham gia vào một quan
hệ pháp luật, chủ thể của quan hệ pháp luật phải có năng lực chủ thể, bao gồm hai yếu tố

cấu thành là năng lực pháp luật và năng lực hành vi22. Năng lực pháp luật là khả năng các
chủ thể có các quyền và nghĩa vụ pháp lý được pháp luật quy định (năng lực này là hiện
tượng không thay đổi, không chuyển dịch cho chủ thể khác23). Theo đó, để các chủ thể
được quyền tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự thì pháp luật phải thừa nhận cho họ có
năng lực pháp luật; từ đó sẽ trao cho họ có khả năng sử dụng các quyền nhất định. Thế
nhưng, việc ghi nhận quyền phải luôn gắn với việc bảo vệ quyền. Nói các khác, để các
chủ thể ứng xử theo đúng các quy tắc chung mà pháp luật đặt ra thì việc quy định quyền
chỉ là điều kiện cần mà chưa đủ để đảm bảo cho quyền được thực hiện.
Hiện nay, pháp luật TTDS của các nước trên thế giới đều quy định các chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự có năng lực pháp luật TTDS. Bởi, năng lực pháp luật TTDS là
biểu hiện quyền năng của các chủ thể quan hệ pháp luật dân sự trong việc bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án24. Như vậy, khác với các chủ thể của quan
hệ pháp luật khác, trong TTDS, quyền của nguyên đơn được hình thành dựa trên mối liên
hệ giữa năng lực pháp luật dân sự và năng lực pháp luật TTDS - đây là phạm trù pháp lý
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cụ thể, đối với nguyên đơn là cá nhân, ngay từ khi sinh
ra, pháp luật đã trao cho nguyên đơn các quyền trong TTDS, những quyền này chỉ mất
khi cá nhân chết. Còn đối với nguyên đơn là cơ quan, tổ chức, ngay khi cơ quan, tổ chức
được thành lập đã có các quyền mà pháp luật trao và quyền này chỉ chấm dứt khi cơ quan,
tổ chức chấm dứt hoạt động. Quyền của nguyên đơn trong TTDS luôn bình đẳng đối với
tất cả các chủ thể.
Thứ hai, quyền của nguyên đơn trong TTDS là khả năng mà pháp luật quy định
cho các chủ thể được hưởng, được sử dụng trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa
án để bảo vệ quyền và lợi ích trong lĩnh vực dân sự.
Trong pháp luật dân sự, mối quan hệ của các chủ thể được coi là mối quan hệ theo
chiều ngang – luôn có sự ngang bằng về địa vị pháp lý. Vì vậy, khi một chủ thể xâm
phạm đến quyền lợi hợp pháp của chủ thể khác thì chủ thể bị xâm phạm phải được trao
các quyền năng để bảo vệ quyền lợi của mình – quyền năng này đã có sẵn khi chủ thể
được sinh ra (cá nhân) hoặc được thành lập (pháp nhân). Tuy nhiên, chỉ khi chủ thể bị
xâm phạm quyết định khởi kiện thì Tòa án mới có cơ sở để suy đoán họ là nguyên đơn
trong VADS. Và kể từ thời điểm này VADS mới có khả năng được phát sinh khi đáp ứng

các điều kiện của pháp luật. Theo đó, quá trình TTDS sẽ phát sinh từ khi nguyên đơn nộp
đơn khởi kiện và kết thúc khi Tòa án ra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, việc thực hiện các quyền tố tụng của nguyên đơn là để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng.
22

Bùi Thị Thanh Hằng (chủ biên) (2014), Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 123.
Lê Văn Long, tlđd chú thích 21, tr. 21.
24
Trường Đại học Luật Hà Nội (2017), Giáo trình Luật TTDS Việt Nam, Nxb Công an Nhân dân, tr. 111.
23


11

Thông thường, khi một chủ thể bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp họ đã có
sẵn những quyền tố tụng để bảo vệ mình. Nếu các chủ thể có năng lực hành vi TTDS thì
có thể tự mình thực hiện quyền khởi kiện mà không cần thông qua người khác. Bên cạnh
việc khởi kiện để bảo vệ lợi ích trực tiếp của cá nhân, cơ quan, tổ chức; có những chủ thể
được nhà nước trao quyền để bảo vệ lợi ích dân sự của Nhà nước hoặc lợi ích công cộng
khi có hành trái pháp luật xâm phạm. Đơn cử như trường hợp sở tài nguyên môi trường có
quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại do hành vi gây ô nhiễm môi trường, hay
trường hợp các cơ quan quản lý trong lĩnh vực văn hóa, thông tin có quyền khởi kiện đòi
bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm di sản văn hóa thuộc sở hữu toàn dân…Khi đó,
trong phạm vi lĩnh vực mình phụ trách, các cơ quan này sẽ khởi kiện với tư cách là
nguyên đơn để bảo vệ lợi ích Nhà nước, lợi ích công cộng.
Thứ tư, quyền của nguyên đơn trong TTDS được xây dựng dựa trên sự tôn trọng
quyền của mỗi con người khi tham gia vào các quan hệ pháp luật.
Trong quan hệ dân sự, khả năng các chủ thể có thể bị xâm phạm về quyền và lợi
ích là rất lớn, vì vậy, nếu pháp luật chỉ dừng lại ở việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ của các

bên trong pháp luật nội dung là chưa đủ mà cần phải có một cơ chế để bảo đảm cho quyền
và nghĩa vụ đó được bảo vệ và thực hiện trên thực tế. Nói cách khác, nếu những quy tắc
xử sự trong luật dân sự không được hiện thực hóa thì mãi mãi nó chỉ có giá trị trên “trang
giấy”. Việc pháp luật ghi nhận và quy định cho nguyên đơn có các quyền trong TTDS
chính là cách thức mà chủ thể bị xâm phạm có thể sử dụng để bảo vệ quyền lợi dân sự
hợp pháp của mình. Khi có yêu cầu của nguyên đơn, với quyền hạn của mình, Tòa án sẽ
giúp nguyên đơn bảo vệ các lợi ích chính đáng được pháp luật thừa nhận. Phán quyết của
tòa chính là đại diện của công lý, và đó cũng là minh chứng thể hiện sự tôn trọng của Nhà
nước trong việc bảo vệ và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn nói riêng và các
đương sự khác nói chung khi họ tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự.
Từ các đặc điểm đã phân tích ở trên, có thể chỉ ra điểm khác biệt giữa quyền của
nguyên đơn trong TTDS với các đối tượng pháp lý khác.
- Quyền của nguyên đơn trong TTDS có điểm khác với quyền của các đương sự
khác trong TTDS. Vì quyền của các đương sự trong TTDS luôn bình đẳng nên hầu hết các
quyền mà nguyên đơn có thì các đương sự khác cũng có. Tuy nhiên, với vị trí là chủ thể
có quyền chủ động nhất trong các đương sự, nguyên đơn được pháp luật trao những
quyền mà các đương sự khác không có. Đơn cử, như quyền khởi kiện, quyền rút yêu cầu
khởi kiện.
- Quyền của nguyên đơn trong TTDS có điểm khác với quyền của nguyên đơn
trong tố tụng hành chính. Do tính chất của lĩnh vực luật tư và lĩnh vực luật công có sự
khác biệt nên quyền của nguyên đơn trong TTDS cũng có những điểm khác biệt với
quyền của nguyên đơn trong tố tụng hành chính. Quyền của nguyên đơn trong tố tụng
hành chính là khả năng pháp luật trao cho các chủ thể được hưởng, được sử dụng để bảo


12

vệ lợi ích của mình trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án khi cho rằng các quyết
định hành chính, hành vi hành chính xâm phạm đến lợi ích được pháp luật bảo vệ. Mối
quan hệ trong pháp luật hành chính là quan hệ giữa công dân và cơ quan Nhà nước có

thẩm quyền chứ không phải quan hệ bình đẳng như trong pháp luật dân sự. Đối tượng mà
luật tố tụng hành chính bảo vệ là các quyền lợi bị xâm phạm thông qua các hoạt động
quản lý nhà nước của các chủ thể có thẩm quyền chứ không phải các quyền lợi mang tính
tự do, tự nguyện, bình đẳng mà pháp luật TTDS hướng tới bảo vệ. Đồng thời, khác với
nguyên đơn trong TTDS, nguyên đơn trong tố tụng hành chính chỉ có thể khởi kiện để bảo
vệ lợi ích của mình25.
- Quyền của nguyên đơn trong TTDS có những điểm khác biệt với quyền của
nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự (sau đây xin gọi tắt là nguyên đơn dân sự). Do
chịu ảnh hưởng của các hệ thống pháp luật khác nhau nên mỗi quốc gia có thể có quy
định khác nhau về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự. Theo hệ thống common Law việc
giải quyết trách nhiệm dân sự do hành vi phạm tội gây ra được tách ra giải quyết thành hai
thủ tục tố tụng riêng (có sự phân biệt rạch ròi giữa dân sự và hình sự - do đó không xuất
hiện quyền của nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự). Còn theo hệ thống Civil Law
(điển hình là Pháp), trong trường hợp các vi phạm về hình sự kéo theo một thiệt hại về
dân sự sẽ được giải quyết trong cùng một vụ án hình sự26 (trong những người bị thiệt hại
có những người sẽ có tư cách là nguyên đơn dân sự). Hiện nay, về vấn đề này, pháp luật
Việt Nam cũng áp dụng theo nguyên lý của hệ thống pháp luật civil law.
Ý nghĩa của việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự là ở chỗ: (i) tránh
việc tiến hành các hoạt động tố tụng trùng lặp một cách không cần thiết, tức là xem xét
hai lần các tình tiết xâm phạm cùng một lúc đến các giá trị xã hội được pháp luật hình sự
và dân sự bảo vệ, giúp tiết kiệm thời gian, chi phí cho việc xét xử27; (ii) giúp cho người bị
xâm phạm có thể sử dụng những chứng cứ mà cơ quan tố tụng đã thu thập được để phục
vụ cho việc giải quyết vấn đề dân sự28 (về bản chất, đây là sự “nương nhờ” vào việc
chứng minh của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự) - nếu thiệt hại xảy ra được giải quyết
trong một VADS thì chủ thể bị thiệt hại không có quyền đó nữa.
Thực chất, việc giải quyết yêu cầu của nguyên đơn dân sự là việc bảo vệ quyền lợi
dân sự hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm cùng với việc giải quyết vấn đề hình sự trong
vụ án hình sự. Do pháp luật TTDS và tố tụng hình sự đều quy định cho người được suy
đoán là bị thiệt hại có các quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình
nên việc phân biệt quyền của nguyên đơn trong TTDS và nguyên đơn dân sự trong vụ án

hình sự chỉ mang tính chất tương đối. Cụ thể như sau:
Một là, về quyền tự định đoạt.
25

Xem Điều 5 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015.
Nguyễn Xuân Đang (2005), “Giải quyết tránh nhiệm dân sự trong vụ án hình sự”, Tòa án Nhân dân, (11), tr. 2.
27
Hoàng Thị Sơn (1998), “Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”, Luật học, (06), tr. 21.
28
Đỗ Văn Đại (2007), “Bàn về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”, Kiểm sát, (9), tr. 32.
26


13

Xét về quyền yêu cầu có thể nhận định, mặc dù nguyên đơn dân sự không phải là
nạn nhân trực tiếp của tội phạm nhưng thiệt hại xảy ra do hành vi phạm tội gây nên, suy
ra thiệt hại đã xảy ra chỉ có thể là thiệt hại thực tế29. Theo đó, quyền yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn dân sự thường là yêu cầu về bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng30. Trong khi đó, nguyên đơn trong TTDS có quyền yêu cầu giải
quyết rất nhiều các quan hệ pháp luật có tính chất dân sự, những yêu cầu này không chỉ là
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng mà có thể liên quan đến việc chia thừa kế, ly
hôn…Ngoài ra, mức độ chủ động của quyền yêu cầu giữa hai chủ thể cũng có sự khác
biệt. Do là chủ thể của quan hệ có tính chất tự do, tự nguyện, bình đẳng nên nguyên đơn
trong TTDS hoàn toàn chủ động trong việc quyết định vấn đề cần hoặc không cần phát
động một VADS. Còn đối với nguyên đơn dân sự trong vụ án hình sự, mặc dù chủ thể này
cũng có quyền quyết định trong việc đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại, tuy nhiên yêu
cầu này chỉ được chấp nhận khi cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố vụ án hình sự. Như
vậy, quyền yêu cầu của nguyên đơn dân sự bị thụ động hơn so với nguyên đơn trong
TTDS. Cụ thể hơn, hành vi yêu cầu bồi thường thiệt hại của nguyên đơn dân sự không

làm phát sinh vụ án hình sự.
Xét về các quyền tự định đoạt khác có thể thấy, nguyên đơn dân sự không có
quyền định đoạt cao như nguyên đơn trong TTDS. Trong TTDS, do nguyên đơn là một
trong những chủ thể quan trọng nhất của việc giải quyết VADS nên họ được trao rất nhiều
quyền như thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu, hòa giải, tự thỏa thuận, kháng cáo bản án sơ
thẩm…Còn trong tố tụng hình sự, nguyên đơn là người tham gia tố tụng để bảo vệ lợi ích
dân sự của mình trong vụ án hình sự nên quyền tự định đoạt có phần bị ảnh hưởng từ việc
giải quyết vụ án hình sự. Theo đó, nguyên đơn dân sự không có quyền hòa giải31, không
có quyền kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm (chỉ được kháng cáo phần giải quyết dân sự)32…
Hai là, về mục đích yêu cầu. Nguyên đơn trong TTDS có thể yêu cầu Tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích của mình hoặc bảo vệ lợi ích nhà nước, lợi ích công cộng. Còn nguyên
đơn dân sự chỉ có thể yêu cầu Tòa án bảo vệ lợi ích dân sự hợp pháp có liên quan trực tiếp
đến quyền lợi của mình.
Ba là, về sự chuyển đổi tư cách. Khác với TTDS, trong tố tụng hình sự, khi nguyên
đơn dân sự rút yêu cầu, không đặt ra vấn đề thay đổi về tư cách của nguyên đơn dân sự và
các quyền của nguyên đơn chỉ gắn với người đã yêu cầu bồi thường thiệt hại phần dân sự
trong vụ án hình sự. Khi nguyên đơn dân sự có yêu cầu bồi thường thiệt hại, không phải
yêu cầu nào của nguyên đơn dân sự cũng được giải quyết trong vụ án hình sự. Theo quy
29

Trần Thị Liên (2017), “Xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án hình sự”, Nhà nước và pháp luật,
(05), tr. 38 và Trường Đại học Luật Hà Nội (2015), Giáo trình luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Công an Nhân
dân, tr. 134.
30
Thái Chí Bình (2014), “Hoàn thiện quy định của Bộ luật tố tụng hình sư về vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”,
Nhà nước và pháp luật, (03), tr. 65.
31
Thái Chí Bình, tlđd chú thích 30, tr.66.
32
Xem Điều 63 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015.



14

định của luật tố tụng hình sự, chỉ có những yêu cầu của nguyên đơn dân sự có ảnh hưởng
đến việc định tội và quyết định hình phạt mới được giải quyết trong vụ án hình sự, những
yêu cầu không có liên quan có thể tách ra giải quyết trong một VADS độc lập33. Từ đó có
thể thấy, việc giải quyết phần bồi thường dân sự có liên quan mật thiết đến việc xác định
mức độ nguy hiểm của tội phạm. Do vậy, tính chủ động trong việc đưa ra yêu cầu của các
đương sự trong tố tụng hình sự hạn chế hơn nhiều so với TTDS. Bên cạnh đó, nếu các yêu
cầu của đương sự khác hướng đến nguyên đơn dân sự mà không liên quan đến vấn đề
định tội và quyết định hình phạt trong vụ án hình sự sẽ được giải quyết trong một VADS
khác. Tóm lại, trong tố tụng hình sự không có sự thay đổi tư cách nguyên đơn trong quá
trình tố tụng.
1.1.3. Vai trò của quyền của nguyên đơn trong tố tụng dân sự
1.1.3.1. Về phương diện chính trị, kinh tế, xã hội
* Về phương diện chính trị : Sự ghi nhận quyền của nguyên đơn trong TTDS góp
phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, của công dân, đáp ứng các đòi hỏi
của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
Để xây dựng một xã hội văn minh thì đòi hỏi có một nhà nước pháp quyền dường
như là một yếu tố tất yếu. Ngay từ năm 1919, trong bản “Yêu sách gửi tới hội nghị
Vecxây”, tại Điều 7 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc
xây dựng nhà nước pháp quyền. Sau này, ý kiến đó đã được Người viết lại thành diễn ca
với tựa đề “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó đáng lưu ý hơn cả là hai câu thơ: “Bảy xin
Hiến pháp ban hành, trăm điều phải có thần linh pháp quyền”34.
Muốn xây dựng được nhà nước pháp quyền thì các hoạt động của đời sống xã hội
cần có quy định của pháp luật điều chỉnh một cách khoa học và công bằng. Trong lĩnh
vực dân sự, tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống là một yếu tố khánh quan mang tính
quy luật, do đó cần phải có cơ chế để giải quyết các tranh chấp dân sự khi xảy ra trên thực
tế. Quy định nguyên đơn có các quyền trong TTDS (mà bắt đầu bằng quyền khởi kiện)

chính là ý chí của Nhà nước trong việc trao quyền cho con người, công dân có thể yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Nếu Tòa
án có thể giải quyết “thấu tình, đạt lý”, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên
đơn sẽ tạo được lòng tin của người dân đối với Nhà nước, giúp củng cố và duy trì một trật
tự chính trị ổn định và hài hòa.
*Về phương diện kinh tế - xã hội : việc quy định cho nguyên đơn có các quyền
trong TTDS sự giúp nguyên đơn bằng chính quyền năng pháp luật trao có thể sử dụng để
bảo vệ các giá trị pháp lý mà mình xứng đáng được hưởng, góp phần bảo vệ các lợi ích
hợp pháp trong quan hệ pháp luật dân sự và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội.
33

Lê Nguyên Thanh (2010),“Một số vấn đề về giải quyết dân sự trong vụ án hình sự”, Khoa học pháp lý, 01, tr. 28.
Arnaud De Raulin, Jean Paul Pastorel, Trịnh Quốc Toản, Nguyễn Hoàng Anh ( Đồng chủ biên) (2016), Ảnh hưởng
của truyền thống pháp luật tới pháp luật Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 51.
34


15

Từ quá trình phát triển của pháp luật, ngày nay có lẽ cần có một cách tiếp cận mới
về pháp luật, khả năng cạnh tranh và thích ứng bất tận đã làm cho pháp luật dường như
không chỉ còn là thượng tầng kiến trúc mà đã trở thành một hạ tầng quan trọng giúp xã
hội pháp triển35 (việc quả quyết rằng pháp luật chỉ chịu ảnh hưởng bởi kinh tế là một việc
sai lầm36). Thời đại của sự hội nhập đã đến, chất lượng pháp luật là một trong những cơ sở
góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Dưới cái nhìn của các nhà đầu tư, nếu
một hệ thống pháp luật quốc gia không đủ để bảo đảm quyền lợi cho họ khi tranh chấp
xảy ra thì việc từ bỏ cơ hội đầu tư là đương nhiên. Nói cách khác, từ góc độ kinh tế học,
trong các tiêu chí đánh giá tiềm năng của thị trường trước khi đầu tư vào Việt Nam, tiêu
chí về chất lượng của hệ thống pháp luật là một trong những tiêu chí quan trọng.
Một hệ thống pháp luật với các quy định đảm bảo quyền của nguyên đơn trong quá

trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án sẽ góp phần trong việc mở rộng cơ hội lựa chọn đầu
tư kinh doanh của thương nhân vào Việt Nam. Nếu con đường tìm đến công lý trở nên tốn
kém và khó lường trước, thương nhân sẽ tìm đến những con đường khác, những thị
trường có mức độ bảo vệ bằng pháp luật cao hơn hoặc những phương thức giải quyết
tranh chấp không có lợi cho xã hội. Yêu cầu đặt ra là làm sao để Tòa án trở thành chỗ dựa
của doanh nhân? Việc xây dựng một hệ thống pháp luật dân sự minh bạch, công bằng,
thuận tiện và bảo đảm cho cạnh tranh lành mạnh sẽ giúp Việt Nam trở thành một môi
trường tiềm năng cho việc mở rộng quy mô kinh doanh của các thương nhân nước ngoài.
Đồng thời, giúp khuếch trương nguồn nguyên khí quốc gia - một thời đại mới sẽ đến với
người dân Việt Nam: thời đại của những người trẻ tuổi, có học vấn, có dũng khí kinh
doanh, biết giữ gìn vốn cổ của tổ tiên và học hỏi tinh hoa nhân loại để làm giàu cho bản
thân và đất nước37. Muốn đạt được mục đích đó, điều thiết yếu đặt ra là phải quy định cho
các chủ thể bị xâm phạm về quyền và lợi ích hợp pháp có đầy đủ các quyền để yêu cầu cơ
quan tư pháp quốc gia bảo vệ quyền lợi của mình khi bị xâm phạm.
Bên cạnh đó, việc trao quyền cho nguyên đơn trong TTDS góp phần tạo động lực
cho sự phát triển của xã hội, thúc đẩy xã hội phát triển ổn định và lành mạnh. Lĩnh vực
dân sự là lĩnh vực đa dạng, phong phú và phổ biến nhất của đời sống xã hội. Khi tranh
chấp dân sự nảy sinh, nếu không có các quy định cho phép người bị thiệt hại có các quyền
để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình sẽ dẫn đến tình trạng người dân “tự xử tranh
chấp” hoặc giải quyết tranh chấp bằng “luật rừng”, điều này sẽ dẫn đến sự bất ổn trong
các giao lưu dân sự, là rào cản ngăn bước xã hội phát triển. Có đồng quan điểm như trên,
Giáo sư Nguyễn Huy Đẩu khẳng định: “Một tố tụng thiết lập hoàn bị là một sự bảo chứng
cho hòa bình xã hội”38. Hay nói như cách của Tiến sĩ Nguyễn Mạnh Bách: “Một tố tụng

35

Phạm Duy Nghĩa (2011), Giáo trình pháp luật đại cương, Nxb Công an Nhân dân,, tr.46.
Vũ Văn Mẫu, tlđd chú thích 1, tr. 97.
37
Phạm Duy Nghĩa (2009), Giáo trình luật kinh tế, Nxb Công an Nhân dân, tr.8.

38
Nguyễn Huy Đẩu, tlđd chú thích 2, tr. 7.
36


16

tốt là một ảo đảm cho an toàn xã hội 39”.
Ngoài ra, quy định về quyền của nguyên đơn trong TTDS còn là “uy lực” của các
chủ thể bị xâm phạm hoặc tranh chấp về quyền lợi hợp pháp có thể yêu cầu Tòa án buộc
chủ thể xâm phạm phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật dân sự. Trong mối
quan hệ giữa nhà nước và công dân, quyền của công dân sẽ làm phát sinh trách nhiệm của
Nhà nước. Nhân dân thành lập nên Nhà nước thì Nhà nước phải xây dựng các thiết chế để
bảo vệ những giá trị chính đáng của Nhân dân. Trong hệ thống pháp luật dân sự, bằng
quyền năng được trao, nguyên đơn có thể sử dụng các quyền này để yêu cầu Tòa án phải
bảo vệ lợi ích hợp pháp của mình. Thông qua quá trình xét xử, nếu quyền lợi hợp pháp
của nguyên đơn bị xâm phạm, Tòa án với chức năng là cơ quan tư pháp sẽ nhân danh Nhà
nước để giúp nguyên đơn thiết lập, khôi phục, sắp xếp lại những giá trị pháp lý mà họ
đáng lẽ đã được hưởng khi tham gia vào quan hệ pháp luật nội dung.
Mặt khác, thông qua sự ghi nhận quyền của nguyên đơn, pháp luật còn thể hiện
được tính giáo dục, phòng ngừa và ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền. Tính phòng
ngừa thể hiện ở chỗ, khi các chủ thể đã tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, họ phải có
ý thức thực hiện đúng bổn phận với phía bên kia; nếu một bên chủ thể có ý định xâm
phạm đến quyền lợi của chủ thể khác, họ đã biết trước rằng, sẽ thường trực một cơ quan
công quyền đứng phía sau người bị xâm phạm để bảo vệ cho họ. Điều này sẽ tác động đến
ý chí, tâm lí của các chủ thể để họ phải tự điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với ý chí
chung mà các bên đã thống nhất. Tính ngăn chặn thể hiện ở chỗ, nếu pháp luật đã đặt ra
lời cảnh báo để các chủ thể tự giác tuân thủ cam kết, tuân thủ trách nhiệm nhưng họ vẫn
cố ý xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của bên còn lại, khi đó, sẽ có một cơ quan đại
diện cho công lý, chiểu theo sự “cầu viện” và “thỉnh nguyện” của nguyên đơn đứng ra để

giành lại công bằng cho họ. Từ sự phòng ngừa và ngăn chặn đó, vô hình chung, các quy
định về quyền của nguyên đơn nói riêng và pháp luật TTDS nói chung đã góp phần nâng
cao ý thức tuân thủ pháp luật dân sự của người dân và dần hình thành trong Nhân dân
những ứng xử pháp lý dân sự văn minh và lành mạnh, hướng tới đáp ứng các yêu cầu của
cải cách tư pháp.
1.1.3.2. Về phương diện pháp lý
Các quy định về quyền của nguyên đơn trong TTDS là sự ghi nhận một phương
thức giải quyết các tranh chấp dân sự. Trong các luật chuyên ngành (dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động), pháp luật đã ghi nhận rất nhiều các phương thức
khác nhau để giải quyết các tranh chấp dân sự như tự bảo vệ, yêu cầu Tòa án bảo vệ,
thương lượng, hòa giải, trọng tài. Mỗi phương thức đều có những ưu và nhược điểm nhất
định, tuy nhiên có thể khẳng định, phương thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án thể hiện
những ưu điểm vượt trội hơn cả. Bởi lẽ, Tòa án là cơ quan tư pháp, được Nhà nước trao
cho quyền bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân (nói cách khác Tòa
39

Nguyễn Mạnh Bách (1996), Luật tố tụng dân sự Việt Nam (Lược giải), NXB Đồng Nai, tr.6.


17

án chính là đại diện công lý của công dân); bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật sẽ có tính chất bắt buộc tuân theo, nếu các bên không tuân thủ phán quyết của
Tòa sẽ phải chịu sự cưỡng chế bằng quyền lực Nhà nước.
Mặt khác, việc thực hiện quyền của nguyên đơn mà bắt đầu bằng quyền khởi kiện
là cơ sở để hình thành nên một VADS tại Tòa án. Các hoạt động TTDS có thể được phát
sinh nếu nguyên đơn thực hiện quyền của mình theo đúng quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, việc trao quyền và bảo đảm thực hiện quyền của nguyên đơn là sự cụ
thể hóa các giá trị về quyền con người, quyền công dân được ghi nhận trong Hiến pháp.
Với vị trí là đạo luật “mẹ”, Hiến pháp được ví như một bản thỏa thuận lớn của người dân

(khế ước xã hội), có hiệu lực cao nhất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia. Ở đó, người dân
được thỏa thuận và thống nhất ý chí về phạm vi hưởng quyền cũng như những nghĩa vụ
phải thực hiện để duy trì một trật tự vận hành của xã hội. Theo tư tưởng của Rousseau,
khế ước xã hội về bản chất là “hình thức liên kết với nhau để dùng sức mạnh chung mà
bảo vệ mọi thành viên”, sự liên kế đó được thể hiện trong công ước (khế ước), vì vậy
“chúng ta phải luôn luôn trở lại với công ước”. Theo đó, do Hiến pháp là bản thỏa thuận
chung của xã hội nên tất cả các quy tắc xử sự trong pháp luật chuyên ngành khi ban hành
đều phải phù hợp với Hiến pháp. Vậy, quy định về quyền của nguyên đơn chính là sự cụ
thể hóa những tinh thần, giá trị tổng quát mà Hiến pháp đã quy định để bảo vệ quyền con
người, quyền công dân một cách tốt nhất - bảo đảm cho nguyên đơn có đầy đủ những
quyền mà mình đã tham gia “cam kết, thỏa thuận”.
1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ QUYỀN CỦA NGUYÊN
ĐƠN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

Có thể khẳng định, nguyên đơn trong TTDS được trao rất nhiều quyền. Do giới
hạn số lượng trang của luận văn, tác giả không thể nghiên cứu tất cả các quyền của
nguyên đơn. Trong khả năng nghiên cứu của mình, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về các
quyền của nguyên đơn đã được ghi nhận nhưng vẫn bị xâm phạm nhiều (thông qua các
bài nghiên cứu chuyên khảo trong 5 năm gần đây); hoặc các quyền của nguyên đơn đã
được ghi nhận nhưng vẫn còn có những nhận thức khác nhau cần phải làm rõ. Đồng thời,
những quyền của nguyên đơn mới được ghi nhận cũng cần có sự nghiên cứu để đánh giá
được sự phát triển của pháp luật TTDS Việt Nam (các quyền này được nêu rõ trong phạm
vi nghiên cứu của luận văn). Trong đó, các quyền của nguyên đơn có cùng tính chất sẽ
được tác giả nghiên cứu trong cùng một nhóm để tránh sự trùng lặp khi nghiên cứu về cơ
sở của quyền.
Ngoài ra, nghiên cứu quyền của nguyên đơn không chỉ là vấn đề nghiên cứu một
giác độ - nghĩa là chỉ nghiên cứu về việc pháp luật trao cho nguyên đơn những quyền gì;
mà để đánh giá toàn diện các quy định về quyền của nguyên đơn cần xem xét các giác độ
khác như: việc thực hiện quyền của nguyên đơn, trình tự, thủ tục áp dụng khi nguyên đơn
thực hiện quyền có được quy định phù hợp với bản chất của quyền hay không; nghĩa vụ



18

hoặc trách nhiệm đối ứng mà các chủ thể cần làm để đảm bảm nguyên đơn được thụ
hưởng quyền (thực tế, một số quyền nguyên đơn được trao chỉ có thể thỏa mãn khi các
chủ thể khác thực hiện một nghĩa vụ hoặc trách nhiệm tương ứng).
1.2.1. Nhóm quyền tự định đoạt của nguyên đơn
1.2.1.1. Cơ sở khoa học của nhóm quyền tự định đoạt của nguyên đơn
Quyền tự định đoạt của các đương sự nói chung và nguyên đơn nói riêng được
hình thành dựa vào bản chất của quan hệ pháp luật nội dung. Ngay khi tham gia vào quan
hệ pháp luật dân sự, các chủ thể đã có quyền tự định đoạt. Bởi, quan hệ pháp luật dân sự
là các quan hệ được hình thành trên sơ sở tự do, tự nguyện, bình đẳng trong việc cam kết,
thỏa thuận, ràng buộc quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể. Trong mối quan hệ này, các
chủ thể có quyền lựa chọn cách ứng xử trong phạm vi pháp luật cho phép để đạt được
những lợi ích dân sự nhất định. Vậy, nếu có hành vi trái pháp luật xảy ra thì hành vi này là
sự xâm phạm đến thỏa thuận, cam kết mà các bên đã thống nhất hoặc xâm phạm đến các
quyền nhân thân hoặc tài sản được pháp luật bảo vệ.
Với vị trí là luật hình thức, khi ban hành, luật TTDS cần xây dựng các quy phạm
pháp luật phù hợp với bản chất cốt lõi của luật dân sự để đảm bảo sự hợp lý và tương
thích trong toàn bộ hệ thống pháp luật dân sự. Để làm được điều đó thì những đặc trưng
của lĩnh vực luật tư cần phải được kế thừa và chuyển hóa một cách phù hợp trong pháp
trong pháp luật TTDS. Theo đó, pháp luật TTDS luôn tôn trọng ý chí của nguyên đơn
trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Thể hiện điều này, pháp luật đã trao cho
nguyên đơn quyền tự định đoạt để nguyên đơn có thể bảo vệ các quyền lợi hợp pháp mà
mình đã tham gia cam kết, thỏa thuận trong quan hệ dân sự. Như vậy, quyền tự định đoạt
trong TTDS luôn gắn liền với quyền tự định đoạt trong pháp luật nội dung40.
Ngoài ra, nguyên đơn cũng chính là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự có tranh
chấp (là người trong cuộc), và có lợi ích trực tiếp trong quá trình giải quyết vụ án nên phải
có quyền tự định đoạt để quyết định những vấn đề liên quan đến lợi ích thiết thực của

mình.
Trên cơ sở so sánh, có thể thấy, quyền tự định đoạt của đương sự nói chung và
nguyên đơn nói riêng là quyền đặc trưng của TTDS. Khác với TTDS, tố tụng hình sự và
tố tụng hành chính được hình thành để bảo vệ các quan hệ công. Cụ thể, Luật hình sự điều
chỉnh mối quan hệ giữa Nhà nước và người được suy đoán là phạm tội. Một vụ án hình sự
được phát sinh theo trình tự, thủ tục mà Luật tố tụng hình sự quy định. Trong quá trình tố
tụng, khi cơ quan có thẩm quyền có đầy đủ chứng cứ để buộc tội và chứng minh được
một người là có tội thì người đã thực hiện tội phạm không có quyền thỏa thuận với nhà
nước về mức hình phạt, không có quyền định đoạt những vấn đề liên quan đến tội phạm
của mình. Cùng với đó, mặc dù trong luật tố tụng hành chính cũng ghi nhận nguyên tắc
40

Nguyễn Tiến Trung (1999), “Cơ sở pháp lý của quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS”, Luật học, (02), tr.
39.


19

quyền tự định đoạt của đương sự, nhưng do đối tượng mà vụ án hành chính hướng đến
giải quyết là các tranh chấp giữa người dân và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về các
quyết định hành chính, hành vi hành chính nên quyền tự đinh đoạt của đương sự không có
tính chất tuyệt đối như trong TTDS41.
1.2.1.2. Nội dung một số quyền trong nhóm quyền tự định đoạt của nguyên đơn
* Quyền khởi kiện của nguyên đơn
Ngày nay, với sự nhận thức đúng đắn về quyền con người, việc ghi nhận và bảo
đảm quyền khởi kiện là trách nhiệm của Nhà nước. Điều này cũng đã được quy định rõ
trong pháp luật quốc tế. Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc ngày
10/12/1948 đã tuyên bố, mọi quyền con người đều phải được bảo vệ bởi một chế độ pháp
quyền. Đồng thời, tuyên ngôn cũng ghi nhận mọi người đều có quyền yêu cầu cơ quan
pháp lý quốc gia có thẩm quyền chống lại các hành vi đã được hiến pháp và pháp luật

thừa nhận42.
Trong quan hệ pháp luật dân sự, song song với việc ghi nhận quyền và nghĩa vụ
của các chủ thể, Nhà nước cần phải xây dựng các cơ chế để đảm bảo thực hiện các quyền
và nghĩa vụ đó. Theo đó, ngoài việc xây dựng các quy phạm để điều chỉnh các quan hệ
trong pháp luật nội dung, Nhà nước phải quy định cho người bị xâm phạm có quyền yêu
cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi có hành vi
xâm phạm – quyền này được gọi là quyền khởi kiện. Quyền khởi kiện có thể hiểu như
“một phương cách luật định cho phép mỗi người cầu viện đến công lý để xin xác nhận
hay che chở quyền lợi của mình”43. Nói cách khác, hiểu theo nghĩa rộng nhất, “quyền
khởi kiện là phương tiện sử dụng bởi một người cho rằng mình có một quyền để yêu cầu
công lý thừa nhận quyền đó cho mình cũng như bảo đảm việc người khác tôn trọng quyền
đó của mình”44.
Như vậy, tất cả các quan về hệ tài sản hoặc nhân thân là đối tượng được luật dân sự
bảo vệ, khi chúng bị xâm phạm, tất cả các chủ thể trong quan hệ tranh chấp đều có quyền
khởi kiện đến Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc
xác định những quan hệ nào thuộc đối tượng mà luật dân sự hướng đến bảo vệ được quy
định trong Luật Dân sự của từng quốc gia. Tham khảo luật TTDS của Nga, nhằm bảo đảm
tuyệt đối quyền khởi kiện của nguyên đơn, khoản 2 Điều 3 BLTTDS Liên bang Nga quy
định: “Mọi thỏa thuận từ chối quyền khởi kiện đều vô hiệu”.
Để đảm bảo quyền tiếp cận công lý của công dân, trong pháp luật TTDS ở một số
quốc gia đã ghi nhận nguyên tắc Tòa án không được từ chối công lý (bất khẳng công lý)
41

Nguyễn Quang Hiền (2013), “Nguyên tắc “Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự” trong TTDS, tố tụng
hành chính, Nghiên cứu lập pháp, (17), tr. 28 – 30.
42
/>truy cập ngày 01/07/2017
43
Nguyễn Huy Đẩu, tlđd chú thích 2, tr. 36.
44

Nguyễn Ngọc Điện (2016), Giáo trình Luật dân sự - Tập 1, Trường Đại học Mở TP HCM, Nxb Đại học Quốc gia
TP HCM, tr. 19.


×