Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (580.55 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật Hình sự và Tố Tụng hình sự

Mã số

: 60.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Bùi Kiên Điện

HÀ NỘI - 2016


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn,
được sự hướng dẫn, giảng dạy của các thầy cô, sự quan tâm giúp đỡ cùng với
sự đóng góp của bạn bè, đồng nghiệp, tôi đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ luật
học. Qua đây, tôi xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Các thầy cô Khoa Pháp luật Hình sự Trường Đại học Luật Hà Nội đã
tận tình giảng dạy và truyền đạt những kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong


suốt thời gian học tập tại trường.
Cảm ơn Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành Luận văn này.
Cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi
trong suốt thời gian học tập vừa qua.
Đặc biệt tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến TS Bùi Kiên Điện người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện luận
văn này.
Tác giả luận văn

Huỳnh Phương Linh


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng
tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của Luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
VKSND: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
CQĐT: Cơ quan điều tra
CQTHTT: Cơ quan tiến hành tố tụng
TTHS: Tố tụng hình sự
BLTTHS: Bộ luật Tố tụng hình sự




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

3

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4

4. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu của luận văn

5

5. Phương pháp nghiên cứu

6

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn

6


7. Kết cấu của luận văn:

6

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA BỊ CAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

8

1.1. Khái niệm bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự
Việt Nam

………………………………………………………………...8

1.2. Cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự
Việt Nam và ý nghĩa của việc quy định

14

1.3. Khái quát lịch sử lập pháp quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố
tụng hình sự Việt Nam

20

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1……………………………………………................….34
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ NĂM 2003

35


2.1. Kết quả thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can
trong tố tụng hình sự

35

2.2. Tồn tại trong việc thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị
can trong tố tụng hình sự Việt Nam

43

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2……………………………………………...………..….59


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC
HIỆN QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN TRONG TỐ TỤNG HÌNH
SỰ

60

3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can
trong tố tụng hình sự ở giai đoạn hiện nay

60

3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị
can trong Tố tụng hình sự

66


Kết luận chương 3

76

KẾT LUẬN

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................79



9

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm vụ quan trọng của bất kỳ
quốc gia nào. Để làm được việc đó, Nhà nước không chỉ dừng lại ở việc ban
hành các văn bản pháp luật quy định về tội phạm, trách nhiệm hình sự tương
ứng mà còn quy định trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ để làm rõ tội phạm và
đưa người phạm tội ra xét xử công khai trước pháp luật nhằm đạt mục đích
cuối cùng được ghi nhận tại Điều 2 Bộ luật tố tụng hình sự.
Việt Nam đang tiến hành công cuộc cải cách tư pháp mà một trong
những nhiệm vụ hết sức quan trọng là hoàn thiện hệ thống pháp luật tố tụng
hình sự. Đây được coi là một điều kiện không thể thiếu để xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân - một nhà nước mà ở đó, quyền con người
trong tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực tố tụng hình sự, được tôn trọng
và bảo vệ. Vì vậy có thể khẳng định, việc quy định, trình tự, thủ tục tố tụng
hình sự khoa học nhằm đảm bảo quá trình xác lập chân lý khách quan của các
vụ án hình sự được tiến hành một cách thuận lợi, hiệu quả nhưng đồng thời

đảm bảo tính nhân đạo cao, phù hợp chuẩn mực đạo đức và pháp lý của một
xã hội công bằng, văn minh là đòi hỏi của pháp luật tố tụng hình sự trong giai
đoạn hiện nay.
Bị can là một trong những chủ thể tham gia tố tụng hình sự. Do đó, việc
quy định và bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng
hình sự cũng là một nội dung của nguyên tắc tôn trọng, đảm bảo cho quyền và
lợi ích hợp pháp của công dân, quyền con người trong tố tụng hình sự. Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến
lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020 chỉ rõ: "Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước


10

đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ
quan nhà nước, nhất là toà án trong việc bảo vệ các quyền đó; xử lý nghiêm
minh mọi hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân; khắc
phục việc xử lý oan, sai”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 6 năm
2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đề ra
phương hướng: "hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp, bảo đảm tính đồng
bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con người”.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật của
Nhà nước, trong những năm qua, các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố
gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao và đã đạt được nhiều thành
tích đáng khích lệ trong hoạt động bảo vệ việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ của công dân nói chung và của bị can trong tố tụng hình sự nói riêng, góp
phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân.
Cùng với đó trong thời gian qua Quốc hội đã sửa đổi, bổ sung và ban

hành nhiều văn bản pháp luật như: Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
năm 2009, Hiến pháp năm 2013;….Tuy Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003
quy định khá cụ thể về quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự
nhưng trải qua hơn 10 năm thi hành đã bộc lộ những bất cập cần được sửa
đổi, bổ sung cho phù hợp và đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp. Do vậy, để
vấn đề quyền và nghĩa vụ của bị can được bảo đảm thực hiện có hiệu quả,
khắc phục được những tồn tại, hạn chế cần nghiên cứu làm rõ nội dung các
quy định của luật góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động trên thực tế. Đồng
thời, để phù hợp với các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự số
101/2015/QH13 được Quốc hội thứ XIII, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27
tháng 11 năm 2015 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2016 thay thế cho Bộ Luật


11

tố tụng hình sự 2003 đã bổ sung nhiều quy định liên quan đến các quyền và
nghĩa vụ của bị can khi tham gia hoạt động tố tụng hình sự. Trên tinh thần đó,
tác giả quyết định chọn đề tài: “Quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng
hình sự Việt Nam” làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề liên quan đến quyền và nghĩa vụ của bị can trong Tố tụng hình
sự đã được một số tác giả đề cập đến trong những Luận án Tiến sĩ và Thạc sĩ
như: Luận án tiến sỹ: “Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong Tố
tụng hình sự” của tác giả Hoàng Thị Sơn (2003); “Hoàn thiện quy định của
pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can, bị cáo” của tác giả Nguyễn
Sơn Hà (2015); Luận văn thạc sỹ: “Quyền của bị cáo trong Tố tụng hình sự
Việt Nam” của tác giả Trần Thị Thanh Thúy (2013); “Quyền bào chữa của
người bị tạm giữ, bị cáo là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Huy Cường (2013).
Ngoài ra, một số nội dung liên quan đề tài trên cũng được nghiên cứu

trong các tài liệu chuyên khảo như: “Họ vẫn chưa bị coi là có tội: quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo” của tác giả Vũ Đức Khiển, Phạm Xuân Chiến
(Hà Nội năm 1989); “Đảm bảo quyền bào chữa của người bị buộc tội” của
tác giả Phạm Hồng Hải (nxb Chính trị - Hành chính năm 1999).
Đồng thời, có khá nhiều bài viết về một số khía cạnh cụ thể của đề tài
đã được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật như: “Thực trạng thực
hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo” của tác giả Hoàng Thị Sơn (tạp chí
luật học số 05/2000); “Về nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa trong luật tố
tụng hình sự. Việt Nam” của tác giả Nguyễn Trọng Phúc (tạp chí nhà nước và
pháp luật số 02/2008); “Hoàn thiện quy định về bị can, bị cáo trong Bộ luật
Tố tụng hình sự” của tác giả Phạm Hồng Hải (tạp chí kiểm sát số 01/2009);


12

“Quyền bào chữa và việc đảm bảo quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong
Tố tụng hình sự” tác giả Nguyễn Văn Trượng (tạp chí dân chủ và pháp luật số
12/2009); “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về quyền và
nghĩa vụ của bị can, bị cáo và cơ chế bảo đảm và cơ chế thực hiện” của tác
giả Chu Thị Trang Vân (Viện nhà nước và pháp luật số 12/2010); “Bất cập về
thực hiện một số quyền và nghĩa vụ của bị can, bị cáo trong thực tiễn” của tác
giả Nguyễn Khắc Quang (tạp chí nhà nước và pháp luật số 12/2010)… Tuy
nhiên, các đề tài trên chỉ đề cập đến một số vấn đề nhất định liên quan đến
quyền của bị can, bị cáo nhưng chưa nghiên cứu toàn diện, hệ thống về
quyền, nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự. Khi chọn chọn đề tài
“Quyền và nghĩa vụ của bị can trong Tố tụng hình sự” để nghiên cứu làm
luận văn thạc sỹ, tác giả mong muốn thống nhất nhận thức về các vấn đề
thuộc nội dung của đề tài được nghiên cứu, làm rõ những vấn đề chưa được
nghiên cứu, đánh giá thực trạng thực hiện quy định của pháp luật và nhất là
đưa ra những giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả nhất những quy định của

pháp luật đặc biệt những quy định mới của BLTTHS 2015.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận,
những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng
hình sự và thực trạng thực hiện những quy định đó thời gian qua.
Phạm vi nghiên cứu: trong giới hạn của luận văn thạc sĩ chuyên ngành
Tố tụng hình sự, phạm vi nghiên cứu của luận văn là vấn đề thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự ở Việt Nam từ năm 2011
đến năm 2015.
4. Mục tiêu và các câu hỏi nghiên cứu của luận văn


13

Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống
về mặt lý luận, làm rõ cơ sở lý luận về quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố
tụng hình sự, những quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của bị can trong
tố tụng hình sự và đánh giá thực trạng việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị
can trong thực tế tố tụng, luận văn dự kiến sẽ đưa ra những giải pháp phù hợp
nhằm bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự.
Để thực hiện mục đích trên, luận văn đặt ra một số câu hỏi nghiên cứu
là:
4.1. Chứng minh các quyền và nghĩa vụ của bị can là cần thiết trong
hoạt động tố tụng hình sự, có ý nghĩa trong việc đảm bảo quyền con người.
- Khái niệm về bị can; khái niệm và nội dung quyền của bị can, nghĩa
vụ của bị can trong tố tụng hình sự Việt Nam?
- Cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và ý nghĩa của việc quy định quyền và
nghĩa vụ của bị can?
- Lịch sử hình thành các quy định về quyền và nghĩa vụ của bị can
trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ?

4.2. Dựa vào thực trạng các quyền và nghĩa vụ của bị can trong hoàn
cảnh thực tế của Việt Nam xác định:
- Những hạn chế của các quy định của BLTTHS 2003 về các quyền và
nghĩa vụ của bị can?
- Thực tiễn các quyền của bị can được thực hiện trong hoạt động Tố
tụng hình sự?
- Các yêu cầu cơ bản và những điều kiện cần thiết phục vụ cho việc đề
xuất các giải pháp, định hướng góp phần nâng cao việc thực hiện quyền và
nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự.


14

5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm và đường lối của Đảng,
Nhà nước về cải cách tư pháp.
Để giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu đã được xác định, đề tài sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể của khoa học pháp lý phù
hợp với yêu cầu của từng vấn đề nghiên cứu như: các phương pháp phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê…đối với từng vấn đề cụ thể để làm sáng tỏ nội
dung cần nghiên cứu
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
- Thứ nhất, đề tài góp phần tạo sự thống nhất trong nhận thức về quyền
và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự.
- Thứ hai, với việc đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định pháp luật
TTHS về quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự, đề tài đã cơ bản
giải quyết được những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện những quy
định của pháp luật trên thực tế.
- Thứ ba, kết quả nghiên cứu của đề tài có thể sử dụng làm tài liệu để

tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy trong nhà trường và là tài liệu tham
khảo hữu ích cho nghiên cứu khoa học những vấn đề có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về quyền và nghĩa vụ của bị can trong
tố tụng hình sự.
Chương 2. Thực trạng thực hiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của
bị can trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.


15

Chương 3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện quyền và
nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự.

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA BỊ CAN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm bị can, quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự
Việt Nam


16

* Khái niệm bị can
Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 1998 thì Bị can là “người phạm tội
hay bị nghi là có tội đang trong thời gian điều tra xét xử”1. Còn theo Từ điển
luật học năm 2006 thì bị can: người đã bị khởi tố về hình sự 2. Theo quy định

tại khoản 1 điều 49 BLTTHS năm 2003 thì “bị can” là người đã bị khởi tố về
hình sự”.
Thuật ngữ “bị can” đã được sử dụng trong Sắc lệnh số 13 ngày 24
tháng 1 năm 1946 về tổ chức Tòa án và các ngạch thẩm phán và trong nhiều
văn bản pháp luật tố tụng hình sự khác nhưng vẫn chưa có một khái niệm cụ
thể về bị can. Điều 5 Sắc lệnh số 13 quy định như sau: “Khi bắt người trong
hai trường hợp kể trên, ban tư pháp phải lập biên bản hỏi cung và giải bị can
lên ngay Tòa án trên trong thời hạn 24 giờ là cùng”. Điều 41: “Sau khi nghe
các bị can, các người làm chứng, cáo trạng của Chưởng lý, và sau cùng nghe
lời cãi của các bị can, ông Chánh án, hai Hội thẩm, hai Phụ thẩm nhân dân
lui vào phòng nghị xử để cùng quyết nghị về tất cả các vấn đề thuộc về tội
vong, hình phạt, trường hợp tăng tội và trường hợp giảm tội”. Có thể thấy,
trong giai đoạn điều tra và giai đoạn xét xử thì người bị buộc tội đều được gọi
là bị can. Như vậy, vẫn chưa có khái niệm rõ ràng phân biệt được rành mạch
bị can và bị cáo trong thời kỳ này.
Khái niệm bị can được quy định lần đầu tiên tại điều 34 BLTTHS năm
1988. Theo đó, một người chỉ có thể bị khởi tố với tư cách bị can trong vụ án
hình sự khi có đủ căn cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội3.
Việc xác định một người có tư cách bị can từ khi nào là điều rất quan trọng.
1 Nguyễn Như Ý (chủ biên, 1999), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội, tr
156.
2 Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 55.
3 BLTTHS 1988


17

Bởi vì, khi một người phát sinh tư cách bị can đồng nghĩa với việc người đó
có quyền và nghĩa vụ của bị can. Các CQTHTT sẽ áp dụng các biện pháp tố
tụng được phép tiến hành với bị can theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự.

Tuy nhiên, việc xác định thời điểm một người có tư cách bị can khi nào cũng
còn nhiều tranh cãi. Có ý kiến cho rằng khi cơ quan điều tra quyết định khởi
tố bị can thì người bị khởi tố đã là bị can. Ý kiến này xuất phát từ hoạt động
thực tế, sau khi CQĐT ra quyết định khởi tố bị can, CQĐT đã tiến hành triệu
tập, hỏi cung bị can và thực hiện các hoạt động điều tra khác theo quy định
của BLTTHS đối với bị can như: khám xét, thu giữ vật chứng…sau đó mới
chuyển các tài liệu điều tra đến Viện kiểm sát để phê chuẩn quyết định khởi tố
bị can.
Có ý kiến khác cho rằng khi Viện kiểm sát quyết định phê chuẩn quyết
định khởi tố bị can thì người đó mới là bị can. Ý kiến này cho rằng quyết định
khởi tố bị can của CQĐT mới chỉ là căn cứ pháp lý ban đầu, sau khi Viện
kiểm sát có quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bị can thì người đó mới
được xác định là bị can và bị áp dụng các biện pháp tố tụng như bắt để tạm
giữ, tạm giam, truy tố, xét xử 4.
Theo tác giả, mỗi quan điểm đều có những điểm hợp lý.
Quan điểm thứ nhất: khi CQĐT ra quyết định khởi tố bị can thì người
bị khởi tố đã có tư cách bị can, và thực tế cho thấy sau khi có quyết định khởi
tố bị can thì CQĐT có quyền tiến hành các biện pháp tố tụng như bắt để tạm
giam, hỏi cung… nhằm đảm bảo cho việc nhanh chóng, kịp thời xác minh sự
thật vụ án.

4 Nguyễn Tiến Sơn (2008), Cần sửa đổi, bổ sung một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về
khởi tố bị can, thay đổi, bổ sung phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, Kiểm sát (23), tr. 15


18

Quan điểm thứ hai: nếu thực hiện theo quy định này thì việc tiến hành
các biện pháp tố tụng của CQĐT sẽ không đảm bảo được tính cần thiết, nhanh
chóng thu thập chứng cứ…Hơn nữa, nếu phải đợi sau khi Viện kiểm sát phê

chuẩn quyết định khởi tố bị can thì người bị khởi tố mới có tư cách bị can thì
trong khoảng thời gian chờ đợi từ CQĐT ra quyết định khởi tố nhưng Viện
kiểm sát chưa phê chuẩn quyết định đó thì người đó có tư cách gì? Về vấn đề
này pháp luật vẫn chưa có một quy định cụ thể nào.
Theo quy định của pháp luật TTHS hiện hành thì bị can là người bị
khởi tố về hình sự và tham gia tố tụng từ khi có quyết định khởi tố bị can. Bị
can sẽ tham gia vào các giai đoạn điều tra, truy tố và một phần giai đoạn xét
xử sơ thẩm. Tư cách tố tụng của bị can sẽ chấm dứt khi CQĐT đình chỉ điều
tra, Viện kiểm sát đình chỉ vụ án, Tòa án đình chỉ vụ án trong giai đoạn chuẩn
bị xét xử đối với bị can hoặc Tòa án đưa vụ án ra xét xử. Khi một người bị
khởi tố hình sự thì họ sẽ trở thành đối tượng bị buộc tội trong vụ án. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa xác định là họ có tội. Điều 72 Hiến pháp năm
1992, điều 9 BLTTHS năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có tội và phải
chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật”.
Có thể nhận thấy, khái niệm về bị can đã được đề cập nhiều, nhưng
trong BLTTHS năm 2003 vẫn chưa đưa ra được đặc điểm là “người bị tình
nghi” chứ không chỉ đơn giản là người đã bị khởi tố khởi tố hình sự.
Quan điểm thứ ba cho rằng:
Bị can là người bị tình nghi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
được ghi nhận trong pháp luật hình sự, đã bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố
và có quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát để điều tra làm rõ hành vi


19

phạm tội, phải chịu sự tác động về mặt pháp lý và có thể bị áp dụng những
biện pháp cưỡng chế cần thiết được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự5.
Từ khái niệm khoa học trên đây, có thể nhận thấy nội hàm của nó bao
gồm các đặc điểm cơ bản sau đây: bị can phải là người bị tình nghi thực hiện

hành vi nguy hiểm cho xã hội; hành vi nguy hiểm cho xã hội đó phải được ghi
nhận trong pháp luật hình sự; phải bị cơ quan có thẩm quyền khởi tố; Quyết
định khởi tố đó phải được Viện kiểm sát phê chuẩn; Phải chịu sự tác động về
mặt pháp lý và có thể bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế cần thiết được
quy định trong pháp luật tố tụng hình sự.
Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13 ngày 27/11/2015 và có hiệu
lực thi hành từ ngày 1/7/2016 đã quy sửa đổi, bổ sung quy định về bị can như
sau: “Bị can là người hoặc pháp nhân bị khởi tố về hình sự”. Đây là điểm
mới về khái niệm bị can, theo đó quyền và nghĩa vụ của bị can là pháp nhân
được thực hiện thông qua người đại diện theo pháp luật của họ. Như vậy, bị
can là cá nhân hoặc pháp nhân và phải có đủ các đặc điểm được phân tích ở
trên.
* Khái niệm, nội dung quyền và nghĩa vụ của bị can
- Khái niệm quyền và nghĩa vụ của bị can
Theo định nghĩa trong Đại từ điển tiếng việt thì quyền là thế, sức mạnh,
lợi lộc được hưởng do pháp luật công nhận hoặc do địa vị đem lại6, còn nghĩa
vụ là bổn phận phải làm đối với xã hội hoặc với người khác7. Từ điển luật
học năm 2006 thì nghĩa vụ là việc phải làm theo bổn phận8. Dấu hiệu đặc
5 Nguyễn Sơn Hà (2015), Hoàn thiện quy định của pháp luật tố tụng hình sự về quyền của bị can,
bị cáo, Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, tr. 51.

6 Nguyễn Như Ý, tlđd chú thích 1, tr. 1383.
7 Nguyễn Như Ý, tlđd chú thích 1, tr. 1196.


20

trưng thứ nhất của quyền là phải có sự ghi nhận về mặt pháp lí và được bảo
đảm thực hiện bởi các quy định của pháp luật; thứ hai là phải có sự thừa nhận
về mặt xã hội, gắn liền với chủ thể cá nhân, được thể hiện cụ thể trong thực tế

đời sống thông qua các quan hệ xã hội cụ thể của cá nhân trong một cộng
đồng nhất định. Theo đó, trong khoa học pháp lý quyền “dùng để chỉ những
điều mà pháp luật công nhận và đảm bảo thực hiện đối với cá nhân, tổ chức
để theo đó cá nhân được hưởng, được làm, được đòi hỏi mà không ai được
ngăn cản, hạn chế”9, quyền của cá nhân được phát sinh, tăng hay giảm tùy
theo từng thời điểm của quá trình tồn tại và phát triển của xã hội. Đối với cá
nhân, các quyền cơ bản phát sinh khi cá nhân sinh ra và có những quyền cụ
thể khác phát sinh và ghi nhận khi cá nhân phát triển đến một giai đoạn nhất
định, tham gia những quan hệ xã hội, những lĩnh vực hoạt động nhất định.
Quyền phải gắn với phạm vi quyền, nghĩa vụ và năng lực của cá nhân và phải
chịu tác động trong phạm vi giới hạn của pháp luật hay vùng lãnh thổ nhất
định. Quyền của cá nhân chỉ bị tước bỏ bởi pháp luật, chấm dứt khi người đó
chết. Ở nước ta, quyền của công dân được thể chế hóa tại Hiến pháp và luật.
Theo đó, công dân có các loại quyền đương nhiên như quyền làm người,
quyền được sống, quyền tự do; quyền chính trị, văn hóa, kinh tế, tự do dân
chủ, tự do cá nhân….
Quyền là một phạm trù trung tâm trong thực tiễn xây dựng, áp dụng
pháp luật và trong đời sống xã hội. Tôn trọng các quyền của cá nhân và đảm
bảo quyền của cá nhân là nguyên tắc quan trọng của hoạt động tư pháp và là
nội dung quan trọng của quản lý nhà nước.
Học thuyết về quyền tự nhiên của con người khẳng định rằng, con
người từ khi sinh ra đã có quyền tự do từ tạo hóa mà không phụ thuộc vào
8 Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý, tlđd chú thích 2, tr. 560.
9
Viện nghiên cứu Khoa học Pháp lý, tlđd chú thích 2, tr. 648.


21

Nhà nước. Ngược lại, học thuyết về tính Nhà nước của nhân quyền lại cho

rằng, quyền đó là do Nhà nước tạo ra, trao cho cá nhân công dân của mình và
do đó Nhà nước có quyền định đoạt mức độ ảnh hưởng các quyền đó của con
người. Có thể khẳng định rằng, lịch sử phát triển của các học thuyết về nhân
quyền là lịch sử đấu tranh giữa hai quan điểm khác nhau mà điểm chung của
chúng là tâm điểm của mối liên hệ Nhà nước – cá nhân, Quyền lực – con
người.
Quyền được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi
cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợi ích xã hội.
Đảm bảo quyền là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu lực nhà nước
cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân là mục tiêu Đảng và Nhà
nước luôn hướng tới. Việc bảo đảm các quyền của công dân phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng…. trong đó Nhà nước
bảo đảm về mặt pháp lý, các cơ quan tố tụng bảo đảm thực thi pháp luật có
hiệu quả.
Điều 60 BLTTHS năm 2015 về quyền và nghĩa vụ của bị can có thể
nhận thấy bị can là người hoặc pháp nhân có quyền và nghĩa vụ tương tự
nhau, chỉ khác là bị can là pháp nhân được thực hiện thông qua người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân đó theo quy định của Bộ luật. Trong quy định
tại điều 60 dễ nhận thấy quy định về “pháp nhân” nói chung, chưa chỉ ra
được cụ thể. Theo quy định điều 75, điều 76 BLDS năm 2015 pháp nhân có 2
dạng: pháp nhân thương mại và pháp nhân phi thương mại. Trong đó chỉ có
pháp nhân thương mại mới phải chịu trách nhiệm hình sự trong nhóm tội nhất
định được quy định trong BLHS (các tội phạm xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế, các tội phạm về môi trường). Từ những phân tích nêu trên, tác giả xin
mạnh dạn đưa ra định nghĩa khái niệm về quyền và nghĩa vụ của bị can như
sau: quyền và nghĩa vụ của bị can là những đảm bảo của pháp luật tố tụng


22


hình sự đối với người bị tình nghi phạm tội, nhằm bảo vệ và thực hiện các lợi
ích hợp pháp của họ.
1.2. Cơ sở quy định quyền và nghĩa vụ của bị can trong tố tụng hình sự
Việt Nam và ý nghĩa của việc quy định
* Cơ sở lý luận
Thứ nhất, về vấn đề quyền con người
Quyền con người nói chung là một giá trị nhân loại, đồng thời có tính
lịch sử hình thành trong cuộc đấu tranh giai cấp và được bổ sung mới qua các
thời đại khác nhau. Ý thức về nhân quyền và việc thực hiện nhân quyền có
một quá trình lịch sử lâu dài gắn với lịch sử xã hội loài người và giải phóng
con người qua các hình thái kinh tế - xã hội và các giai đoạn đấu tranh giai
cấp qua đó quyền con người trở thành giá trị chung của nhân loại. Trong mỗi
quốc gia, quyền công dân là một nội dung cơ bản của quyền con người, là sự
thể hiện cụ thể của quyền con người đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn độc
lập Hoa Kỳ (1776), Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp (1789),
Tuyên ngôn của thế giới về nhân quyền của Liên hợp quốc và Tuyên ngôn
độc lập ngày 2/9/1945 của Việt Nam.
Quyền con người được đặt trong mối quan hệ với nghĩa vụ, trách nhiệm
của mỗi cá nhân đối với xã hội và được giải quyết trên cơ sở đảm bảo lợí ích
xã hội. Bảo đảm quyền con người là bảo đảm dân chủ, bảo đảm hiệu quả, hiệu
lực nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đây là mục
tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới.
Thứ hai, do yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông
qua ngày 28/11/2013 là Hiến pháp của thời kì đổi mới. So với các bản Hiến
pháp trước, đặc biệt là Hiến pháp năm 1992, 1980 thì phần lớn quyền và


23


nghĩa vụ của công dân được sửa đổi bổ sung theo hướng thể hiện một cách rõ
ràng, cụ thể, chặt chẽ, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước ta
cũng như phù hợp với pháp luật quốc tế.
Chúng ta có thể thấy rõ điều này qua Điều 14 Hiến pháp 2013 của nước
Cộng hoà XHCN Việt Nam: “Ở nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội
được công nhận, tôn trọng,bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và luật”. Đồng
thời, thì quyền công dân không được tách rời với nghĩa vụ công dân.
Kế thừa và phát triển tư tưởng tôn trọng, bảo đảm quyền công dân qua
5 bản hiến pháp, bộ luật TTHS đã có quy định cụ thể hóa tư tưởng đó. Trong
hoạt động Tố tụng, trước khi có bản án kết tội của Toà án có hiệu lực pháp
luật, bị can vẫn chưa bị coi là người có tội, họ vẫn là những công dân, những
con người, chỉ khác là họ đang chịu sự buộc tội và phải chịu những biện pháp
tố tụng nhất định. Những biện pháp tố tụng được tiến hành đối với họ có thể
hạn chế quyền tự do hay động chạm đến quyền bất khả xâm phạm về thân thể,
quyền được pháp luật bảo hộ về danh dự, nhân phẩm… Để đảm bảo các biện
pháp đó được tiến hành một cách cần thiết và hợp pháp tránh được sự độc
đoán một chiều từ phía các CQTHTT, pháp luật đã quy định bị can có các
quyền và nghĩa vụ cụ thể tại khoản 2, 3 điều 49 Bộ luật tố tụng hình sự năm
2003.
Với cấu trúc là một bộ phận rất quan trọng trong thể thống nhất của hệ
thống quyền con người, quyền và nghĩa vụ của bị can cũng có lịch sử ra đời
và phát triển đầy phức tạp, luôn gắn liền với cuộc đấu tranh làm chủ thiên
nhiên và làm chủ xã hội của con người. Con đường phát triển của nó đi từ
những ý tưởng, những quan điểm qua các học thuyết rồi đến những quy phạm
pháp luật quốc tế. Qua mỗi nấc thang phát triển của xã hội, loài người lại bổ
sung thêm cho nó những giá trị mới ngày càng phong phú và tiến bộ hơn.


24


Chính vì vậy nó đã trở thành vấn đề có tính toàn cầu. Mỗi quốc gia, mỗi cộng
đồng dân tộc đều phải có trách nhiệm giữ gìn và bảo đảm cho mỗi người một
cuộc sống phù hợp với tự do và nhân phẩm vốn có của họ. Với ý nghĩa ấy,
điều quan trọng trước hết là Hiến pháp, rồi sau đó là mỗi ngành luật của các
quốc gia phải thể chế hóa thành những quy phạm pháp luật và coi đó là cơ sở,
là nền tảng, là kim chỉ nam cho ngành luật của mình. Đấy chính là cơ sở tự
nhiên, xã hội và pháp lý quốc tế để ngành luật tố tụng hình sự Việt Nam xác
định việc bảo đảm quyền và nghĩa vụ của bị can nói riêng chính là bảo đảm
quyền con người của công dân nói chung là một nguyên tắc quan trọng trong
tố tụng hình sự.
Thứ ba, yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm
Việc quy định các quyền và nghĩa vụ của bị can không chỉ là sự thể
hiện cụ thể của quyền con người mà còn do yêu cầu đấu tranh phòng chống
tội phạm trong thực tiễn. Các quy định trong BLTTHS về quyền, nghĩa vụ của
bị can là sự đảm bảo pháp lý cho bị can được thể hiện các quyền, lợi ích hợp
pháp của mình, cũng để đảm bảo cho công tác chống và phòng ngừa tội phạm
được hiệu quả và tạo hành lang pháp lý cho hoạt động khởi tố, điều tra, truy
tố và xét xử đúng người đúng tội, tránh bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người
vô tội. Hoạt động tố tụng có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do, quyền bất
khả xâm phạm về thân thể, quyền được thông tin và các quyền khác của bị
can. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nắm vững nội dung,
thẩm quyền, thủ tục đối với bị can khi áp dụng trong thực tiễn sẽ góp phần
vào công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm hiệu quả. Việc hiểu
đúng, hiểu đầy đủ và thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật tố
tụng hình sự trong thực tiễn áp dụng pháp luật sẽ nâng cao hiệu quả cuộc đấu
tranh chống và phòng ngừa tội phạm.


25


* Cơ sở thực tiễn
TTHS là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau gồm
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Quyết định khởi tố vụ
án hình sự là cơ sở pháp lý đầu tiên để thực hiện việc điều tra vụ án hình sự.
Các hoạt động điều tra và việc áp dụng các biện pháp nhằm ngăn chặn chỉ
được tiến hành sau khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự. Điều 3 BLTTHS
năm 2003 quy định: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng phải được tiến hành
theo quy định của Bộ luật này”.
Do đó, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, những người tiến hành
và những người tham gia tố tụng phải triệt để tuân thủ các quy định của pháp
luật TTHS về thẩm quyền, căn cứ cũng như về trình tự, thủ tục, thời hạn…
đồng thời việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của bị can cũng như những người
tham gia tố tụng khác phải triệt để tuân thủ pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn
thực hiện vẫn còn nhiều hạn chế cần phải khắc phục chẳng hạn: vẫn xảy ra
nhiều trường hợp các cơ quan tố tụng chưa thực sự công tâm, khách quan
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ từ đó có việc làm “chệch hướng” với luật
định. Việc tiến hành điều tra, truy tố có thể tồn tại các biện pháp như bức
cung, mớm cung buộc bị can phải nhận tội. Những hạn chế này làm cho
nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa bị giảm xuống về hiệu quả
thực thi trên thực tế, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích của những người tham gia
tố tụng.
Việc đặt ra những quy định pháp luật làm cơ sở cho việc thực hiện các
nguyên tắc là cần thiết, song quan trọng không kém đó là cụ thể hóa những
quy định của pháp luật tố tụng hình sự: xác định rõ những điều kiện cần thiết
để áp dụng các biện pháp tố tụng, quy định trách nhiệm mà những người tiến



×