Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 93 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo Nghị quyết số 08-NQ/TƯ
ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp
trong thời gian tới: “Khi xét xử, các Tòa án phải đảm bảo mọi công dân đều bình
đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan. Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
độc lập và chỉ tuân theo pháp luật… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu
vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng
cứ, ý kiến của kiểm sát viên…”1. Trên cơ sở kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết
08-NQ/TƯ, ngày 24/05/2005, Bộ chính trị, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
IX đã ra Nghị quyết 48-NQ/TƯ về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 khẳng định: “Cải cách mạnh
mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch,
chặt chẽ, nhưng thuận tiện... Bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử,
lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây
là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp”2. Tiếp theo đó, Nghị
quyết 49-NQ/TƯ ngày 02/06/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020 cũng nhấn mạnh: “…nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa
xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp... Hoàn thiện cơ chế bảo đảm
để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ
trách nhiệm đối với luật sư”. Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã xác định rõ tranh
tụng là trọng tâm trong xét xử.
Lần đầu tiên, Hiến pháp năm 2013 quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong xét xử. Đây là nguyên tắc mang tính đột phá nhằm bảo vệ quyền con người
trong hoạt động tư pháp. Vì vậy, BLTTDS 2015 với tư cách là ngành luật hình thức
có nhiệm vụ thể chế hóa quy định Hiến pháp năm 2013 đã quy định bảo đảm tranh


Đảng Cộng Sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08 - NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới.
2
Đảng Cộng Sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TƯ của Bộ chính trị ngày 24/5/2005 về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
1


2

tụng trong xét xử là một nguyên tắc của tố tụng dân sự (TTDS). Tuy nhiên, tranh tụng
và nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS là gì? Nội dung, ý nghĩa, vai trò của
nguyên tắc này trong điều kiện cải cách tư pháp được thể hiện ra sao? Việc áp dụng
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong thực tiễn Việt Nam như thế nào? Trên cơ sở
nghiên cứu một số vấn đề mang tính lý luận, pháp luật thực định và thực trạng về
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS trong mối liên hệ với truyền thống lập
pháp, đặc điểm văn hóa, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới,
ta có thể rút ra những giải pháp cụ thể cho việc hoàn thiện pháp luật TTDS. Từ đó
góp phần bảo đảm tranh tụng trong TTDS, nâng cao chất lượng xét xử, hạn chế đến
mức thấp nhất tỷ lệ các quyết định, bản án dân sự bị hủy, sửa, góp phần đáp ứng yêu
cầu của cải cách tư pháp, hội nhập kinh tế quốc tế.
Với các lý do nêu trên đây, tác giả đã chọn đề tài “Nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam ” để làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

Tranh tụng trong quá trình xét xử các vụ án tại Tòa án là biểu hiện tập trung, rõ
nét nhất của tinh thần dân chủ và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Từ trước
đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến vấn đề này, có thể
kể đến một số công trình nghiên cứu sau đây:
Luận văn Thạc sỹ luật học của Nguyễn Thị Thu Hà với nội dung: “Tranh tụng

tại phiên tòa sơ thẩm dân sự - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” (2002); Luận văn
thạc sỹ luật học của Đoàn Thị Xuân Sơn về “Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân
sự Việt Nam năm 2015”; Đề tài cấp cơ sở tại Trường Đại học Luật Hà Nội “Tranh
tụng trong TTDS Việt Nam trước yêu cầu cải cách tư pháp” do chủ nhiệm đề tài
Nguyễn Thị Thu Hà thực hiện năm 2011… là các công trình nghiên cứu đã xem xét
tranh tụng trong TTDS một cách khái quát và khá toàn diện. Ngoài ra còn có một số
bài viết như:
- “Tranh tụng trong TTDS - một số vấn đề lý luận cơ bản” của Nguyễn Thị Thu
Hà đăng trên Tạp chí Nghề Luật số 5/2003;
- “Vấn đề tranh tụng trong TTDS” của Nguyễn Công Bình đăng trên tạp chí
Luật học số 6/2003;
- “Bản chất của tranh tụng tại phiên tòa” của Trần Văn Độ đăng trên tạp chí


3

Khoa học Pháp lý số 4/2004;
- “Một số vấn đề về tranh tụng trong TTDS” của Nguyễn Thị Thu Hà đăng trên
Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 5/2010;
- Kỷ yếu hội thảo của Nhà pháp luật Việt – Pháp ngày 18/01/2002 về “Một số
nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng. Kinh nghiệm của Pháp trong
việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm và quản lý Thẩm phán”…
Tuy nhiên do mục đích nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của các công trình
này mới chỉ đề cập đến một số nội dung của tranh tụng dưới dạng riêng biệt chủ yếu
là vấn đề lý luận về tranh tụng nên chưa nghiên cứu một cách đầy đủ và có hệ thống
các vấn đề liên quan về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
Ngoài ra, phần lớn các công trình này đều được thực hiện trước khi BLTTDS
2015 ra đời, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng chưa được ghi nhận trong pháp luật thực
định, do đó, đề tài nghiên cứu của em bên cạnh việc kế thừa những kết quả nghiên
cứu trước đó thì đã có những điểm mới và khác biệt so với các đề tài trước cùng về

nội dung này.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI

Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cơ bản về nguyên
tắc bảo đảm tranh tụng, phân tích và đánh giá về thực trạng pháp luật, thực tiễn thi
hành pháp luật về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng. Từ đó đề xuất những kiến nghị cụ
thể sửa đổi, bổ sung quy định pháp luật về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong
TTDS.
Với mục đích đó, nhiệm vụ chủ yếu của luận văn là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS
như: Khái niệm, ý nghĩa và cơ sở của việc quy định nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong TTDS, mối liên hệ giữa nguyên tắc đảm bảo tranh tụng với các nguyên tắc
khác, các yếu tố quyết định thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS và
lịch sử hình thành và phát triển các quy định của pháp luật TTDS có liên quan đến
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng;
- Phân tích đánh giá nội dung của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng theo quy định
của pháp luật TTDS Việt Nam hiện hành và thực trạng áp dụng nguyên tắc đó trong
thực tế;


4

- Trên cơ sở thực trạng, đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật
TTDS về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS.
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu là những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc bảo đảm
tranh tụng trong TTDS; định hướng cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước ta về
tranh tụng; các quy định của pháp luật TTDS Việt Nam về nguyên tắc bảo đảm tranh
tụng; thực tiễn áp dụng nguyên tắc bảo đảm tranh tụng tại các Tòa án Việt Nam trong

những năm gần đây.
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS là vấn đề lớn, có nhiều nội dung
khác nhau, trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ không thể xem xét giải quyết hết
mọi vấn đề. Do đó, luận văn chỉ chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu nguyên tắc
bảo đảm tranh tụng trong quá trình giải quyết VADS tại Tòa án. Còn nguyên tắc bảo
đảm tranh tụng trong quá trình giải quyết VADS theo thủ tục rút gọn và thủ tục giải
quyết việc dân sự sẽ được nghiên cứu ở công trình tiếp theo.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Để hoàn thành đề tài này, tác giả đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin (chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về pháp luật và cải cách
tư pháp.
Đồng thời, đề tài sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: Phương
pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh; phương pháp lịch sử… để làm sáng
tỏ những nội dung cần nghiên cứu của đề tài.
6. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN

Đây là công trình nghiên cứu về bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam dưới
góc độ là một nguyên tắc pháp luật nên có những điểm mới sau:
- Bổ sung, làm rõ và góp phần hoàn thiện khái niệm, ý nghĩa, cơ sở, nội dung
của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS Việt Nam.
- Trong bối cảnh BLTTDS 2015 mới ra đời, vừa có hiệu lực pháp luật, đề tài
sẽ làm rõ một số nội dung liên quan đến nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS
giúp cho quá trình áp dụng luật và hướng dẫn luật trong thời gian tới.


5
7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc bảo đảm tranh tụng
trong TTDS Việt Nam.
- Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng.
- Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng
dân sự Việt Nam và một số kiến nghị.


6

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ NỘI DUNG NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
1.1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Tranh tụng ra đời cùng với sự ra đời của Tòa án, là sản phẩm của nền tư pháp
dân chủ. Theo nhiều nhà nghiên cứu thì loại hình tố tụng tranh tụng xuất hiện sớm
nhất ở châu Âu cùng với sự xuất hiện của Tòa án nhà nước. Đầu tiên được áp dụng
tại Hy Lạp cổ đại, sau đó nó được đưa vào La Mã với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên
tục”3. Nguồn gốc ra đời của tranh tụng là từ thực tiễn giải quyết tranh chấp trong xã
hội du mục. Theo đó, thay cho việc sử dụng sức mạnh để tranh giành quyền lợi, thay
vì sử dụng vũ lực, các bên sử dụng biện hộ, biện lý, trạng sư, luật sư để đưa ra lý lẽ
nhằm giành quyền lợi cho mình4. Cùng thời gian, tranh tụng tiếp tục được kế thừa,
phát triển và từng bước được khẳng định và đến nay nó được áp dụng hầu hết ở các
nước thuộc hệ thống luật lục địa cũng như hệ thống luật án lệ.

Ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật tố tụng nói chung, TTDS nói riêng thì
vẫn chưa đưa ra được cách hiểu và nhận thức thống nhất về tranh tụng. Cụm từ “tranh
tụng” được xuất hiện lần đầu tiên tại Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2001 của
Bộ chính trị. Theo đó, Nghị quyết đã nhấn mạnh định hướng mới trong hoạt động của
các cơ quan tư pháp là “Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến
của kiểm sát viên, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để
ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn
pháp luật quy định”5. Để có thể thực hiện được nhiệm vụ này thì việc hiểu chính xác

3

Xem: Nhà pháp luật Việt - Pháp (2002), Một số nội dung về nguyên tắc tố tụng xét hỏi và tranh tụng. Kinh
nghiệm của Pháp trong việc tuyển chọn, bồi dưỡng, bổ nhiệm, quản lý Thẩm phán, Hà Nội, tr. 2.
4
Phạm Hồng Phong (2015), Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong
hoạt động xét xử, Tạp chí nghiên cứu lập pháp (số 8/2015), tr. 14
5
Đảng cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết 08 - NQ/TW ngày 2/1/2002 của Bộ chính trị, Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.


7

về khái niệm, ý nghĩa và nội dung của tranh tụng rất quan trọng không chỉ về mặt lý
luận và thực tiễn mà còn góp phần vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật TTDS, đổi
mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nước ta.
Trước hết về khái niệm, tranh tụng có thể tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau
như sau:
- Về mặt lập pháp: Qua nghiên cứu toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật, ta có

thể nhận thấy khái niệm tranh tụng chưa được chính thức ghi nhận hoặc giải thích
trong bất kỳ văn bản quy phạm pháp luật nào của nước ta từ năm 1945 đến nay.
- Về mặt ngôn ngữ: Theo từ điển Hán Việt thì tranh tụng có nghĩa là “cãi lẽ, cãi
nhau để tranh lấy phải”6 còn theo từ điển tiếng Việt thì tranh tụng có nghĩa là “kiện
tụng”. Theo Từ điển Luật học năm 2006, khái niệm tranh tụng được hiểu như sau:
“tranh tụng là hoạt động tố tụng được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng, có
quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan
điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập”7.
Theo cách giải thích này thì tranh tụng chính là quá trình giải quyết VADS, theo đó
các đương sự được tranh luận về các yêu cầu, các chứng cứ và chứng minh để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp. Khái niệm trên mặc dù đã thể hiện một số đặc trưng cơ
bản của tranh tụng nhưng mới chỉ nhìn nhận tranh tụng là những hoạt động riêng lẻ
của các chủ thể là các bên tham gia tố tụng mà không nhìn nhận tranh tụng là hoạt
động được thực hiện bởi các bên tham gia tranh tụng, thiếu đi một chủ thể rất quan
trọng là Tòa án.
- Về mặt lý luận: Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về tranh tụng trong
TTDS.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: “Tranh tụng trong TTDS là phương pháp giải
quyết tranh chấp dân sự tại Tòa án, diễn ra trong quá trình tố tụng, theo đó các bên
đương sự xuất trình, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện
luận cho yêu cầu của mình; phản bác yêu cầu đối lập trước Tòa án và kết quả của
quá trình này được Tòa án sử dụng làm căn cứ để giải quyết vụ án”8.
Trung tâm ngôn ngữ và văn hóa Việt nam Bộ giáo dục và đào tạo (1998), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn
hóa - thông tin, Hà Nội, tr. 621.
7
Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 807, 808.
8
Trịnh Văn Chung (2016), Nguyên tắc tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học,
Hà Nội, tr. 7.
6



8

Quan điểm thứ hai cho rằng: “Tranh tụng trong TTDS là việc các bên đương sự
đưa ra, trao đổi về chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý, lập luận đối lập, tranh luận với
nhau dựa trên những thủ tục do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của mình trước sự giám sát của Tòa án. Sự tranh tụng chứa đựng trong chính hành
vi khởi kiện”9.
Nghiên cứu các quan điểm nêu trên, nhận thấy mỗi quan điểm đều có những ưu
điểm hoặc hạn chế nhất định. Nếu hiểu tranh tụng theo quan điểm thứ nhất thì chưa
cụ thể vì mới chỉ coi tranh tụng là một phương thức (hay phương pháp) tố tụng để
đương sự bảo vệ quyền lợi của mình, tòa án xác định sự thật khách quan của vụ án.
Theo cách hiểu này thì chưa xác định được những đặc điểm của tranh tụng để phân
biệt với các phương pháp tố tụng khác. Nếu hiểu tranh tụng theo quan điểm thứ hai
đã chỉ ra được những đặc điểm của tranh tụng nhưng chưa nêu được đầy đủ vai trò
của Tòa án. Theo quan điểm này Tòa án chỉ có vai trò giám sát quá trình tranh tụng.
Trong tranh tụng, Tòa án có vai trò quan trọng như là trọng tài giải quyết vụ án, điều
khiển quá trình tranh tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng để ra phán quyết.
Tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ giai đoạn khởi kiện của nguyên đơn
và diễn ra trong suốt quá trình giải quyết vụ án của Toà án. Khi đó, việc thực hiện
tranh luận tại phiên toà chỉ là một phần của tranh tụng. Trong quá trình giải quyết các
VADS, thì quá trình chuẩn bị cho vụ kiện, thu thập, trao đổi chứng cứ do các bên
đương sự và luật sư của họ thực hiện có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thu hẹp các nội
dung tranh chấp. Tranh tụng không phải là bước hay giai đoạn tố tụng mà tranh tụng
cần phải được hiểu là một quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Trong đó
các bên đương sự liên tục thực hiện các hành vi tố tụng cần thiết để thu thập chứng
cứ, cung cấp chứng cứ, thông tin cho nhau, qua đó lập luận nhằm chứng minh và bảo
vệ quyền lợi của mình, đồng thời bác bỏ yêu cầu của bên kia. Tuy nhiên, tranh tụng
chỉ có ý nghĩa khi toà án dựa vào kết quả tranh tụng để ra phán quyết, phán quyết

phải phản ánh đúng thực tế nội dung vụ án và bảo vệ quyền, lợi ích của các đương
sự.
Ở đây cũng cần phân biệt khái niệm tranh tụng và khái niệm tranh luận. Tranh

Đoàn Thị Xuân Sơn (2015), Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học,
Hà Nội,tr. 6.
9


9

tụng và tranh luận là hai khái niệm khác nhau, tranh tụng là một quá trình liên tục
từ khi khởi kiện VADS cho đến khi có phán quyết cuối cùng về việc giải quyết vụ án
đó, còn tranh luận chỉ là một phần của phiên toà dân sự, nó là sự biểu hiện tập trung
nhất của tranh tụng. Do vậy, không nên đồng nhất hoặc nhầm lẫn hai khái niệm này
với nhau. Tuy nhiên, tranh tụng không hoàn toàn đồng nhất với chứng minh.
“Chứng minh trong TTDS là hoạt động tố tụng của các chủ thể tố tụng theo quy định
của pháp luật trong việc làm rõ các sự kiện, tình tiết của vụ việc dân sự”. Như vậy,
có thể hiểu hoạt động chứng minh có sự tham gia của rất nhiều các chủ thể, trong đó
Tòa án là một chủ thể chứng minh có trách nhiệm chứng minh các bản án, quyết định
mà mình đưa ra là có căn cứ và hợp pháp. Trong khi đó, trong quá trình tranh tụng
Tòa án là người trọng tài, người điều khiển quá trình tranh tụng, đảm bảo quá trình
tranh tụng được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật TTDS và căn cứ vào kết
quả tranh tụng để ra phán quyết giải quyết vụ án. Ngoài ra, hoạt động chứng minh có
thể diễn ra một cách đơn chiều, chỉ tồn tại một mối quan hệ giữa các đương sự với Tòa
án khi đương sự cung cấp các chứng cứ, tài liệu cho Tòa án để chứng minh cho yêu
cầu, phản yêu cầu hay phản đối yêu cầu của mình là đúng và Tòa án tiếp nhận các
chứng cứ, tài liệu đó. Còn “Tranh tụng phát sinh ra hai mối quan hệ: giữa các đương
sự tranh nại với nhau, và giữa các đương sự và Quốc gia, mà đại diện là Tòa án có
thẩm quyền”. Hay nói cách khác, quá trình tranh tụng luôn luôn có sự tham gia của ba

chủ thể: hai bên đương sự và Tòa án, trong đó hai bên đương sự đối tụng với nhau theo
các quy định của pháp luật TTDS và Tòa án là người thứ ba, vô tư, khách quan để phân
xử tranh chấp giữa các bên đương sự10.
Từ những phân tích trên thì khái niệm tranh tụng trong TTDS cần được hiểu
thống nhất như sau: Tranh tụng là quá trình làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Quá trình này phải được diễn ra liên tục từ khi nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình cho đến khi tòa án ra quyết định giải quyết
VADS. Theo đó các bên chủ thể tranh tụng dưới sự điều khiển của tòa án được đưa
ra chứng cứ, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh cho quyền lợi
hợp pháp của mình trước Tòa án theo những trình tự, thủ tục do pháp luật TTDS quy

Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tranh tụng trong TTDS Việt Nam trước yêu cầu của cải
cách tư pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Mã số: LH - 2010 - 09/ĐHL - HN, Hà Nội, tr. 4.
10


10

định. Tòa án ra phán quyết VADS căn cứ vào kết quả tranh tụng của các chủ thể
tranh tụng11.
Từ khái niệm tranh tụng nêu trên, ta có thể đưa ra một số đặc điểm của tranh
tụng trong TTDS như sau:
- Bản chất của tranh tụng là việc các chủ thể tranh tụng được đưa ra, trao đổi
các chứng cứ, các căn cứ pháp lí, lập luận, đối đáp lại nhau, tranh luận với nhau trên
cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng dân sự để bảo vệ quyền lợi của mình dưới
sự giám sát của Tòa án.
Các bên đương sự trong VADS luôn bình đẳng với nhau trong việc bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, do đó để làm rõ sự thật khách quan của VADS, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như để Tòa án có căn cứ để giải quyết
VADS thì các bên phải được đưa ra, các chứng cứ, các căn cứ pháp lí, lập luận, đối

đáp lại nhau, tranh luận với nhau. Đúng như Ông Nguyễn Huy Đẩu đã nhận xét:
“nguyên tắc cho hai người đi kiện đối tụng nhau trước Thẩm phán là một yếu tố an
toàn cho họ và cũng là một điều kiện khiến cho tòa hiểu rõ nội tình” (12).
- Các bên đương sự là chủ thể tranh tụng và là người giữ vai trò chủ động, quyết
định kết quả tranh tụng
Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án thì các đương sự
phải có trách nhiệm chứng minh cho Tòa án và những người tham gia tố tụng khác
thấy yêu cầu của mình là đúng đắn và hợp lý. Để thực hiện được nghĩa vụ chứng minh
trong TTDS một mặt các đương sự phải được chủ động trong việc đưa ra yêu cầu,
các chứng cứ, lý lẽ và căn cứ pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Mặt khác, trong suốt quá trình tố tụng, các bên đương sự phải được bình đẳng với
nhau trong việc tham gia tố tụng, có quyền trao đổi cho nhau những căn cứ về mặt
thực tiễn và pháp lý, tranh luận với nhau về các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ án
và căn cứ để giải quyết vụ án.
Như vậy có thể thấy, đương sự là những chủ thể giữ vị trí và vai trò trung tâm
trong quá trình tranh tụng. Tuy nhiên trên thực tế có những đương sự không có hoặc
khó có khả năng để tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình như người chưa

11

Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tlđd, tr. 8.
. Nguyễn Huy Đẩu (1962), Luật dân sự tố tụng Việt Nam, xuất bản dưới sự bảo trợ của Bộ tư pháp, tr. 377.

(12)


11

thành niên, người mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong
nhận thức và làm chủ hành vi của mình nên việc tranh tụng của các đương sự này sẽ

do người đại diện hợp pháp của họ thực hiện.
Trong tranh tụng thì không thể thiếu một chủ thể quan trọng đó là người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Họ là người gúp đỡ đương sự về mặt pháp
lý, đồng thời tham gia tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Người bảo vệ có vị trí pháp lý độc lập với đương sự, có các quyền và nghĩa vụ do
pháp luật quy định chứ không bị ràng buộc vởi quyền và nghĩa vụ của đương sự như
người đại diện. Trong quá trình tranh tụng, do người bảo vệ là người có kiến thức
pháp luật, kinh nghiệm tham gia tố tụng và kỹ năng tranh tụng nên có thể giúp cho
các bên đương sự bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của mình, nhất là trong việc
đưa ra chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lập luận. Không những thế, ý kiến tham gia
tranh tụng của người bảo vệ còn giúp cho Tòa án xác định được sự thật khách quan
của vụ án13.
Ở Việt nam, với tư cách là cơ quan kiểm sát hoạt động tư pháp, VKS thực hiện
quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm đảm bảo cho
việc giải quyết vụ việc dân sự được kịp thời, đúng pháp luật. Như vậy, để thực hiện
chức năng nhiệm vụ của mình trong các vụ việc dân sự thì VKS là cơ quan tiến hành
tố tụng và kiểm sát viên là người tiến hành tố tụng trong TTDS. Tuy nhiên, trong
trường hợp khi VKS kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì
để chứng minh kháng nghị của mình là đúng thì VKS vẫn trở thành một chủ thể tranh
tụng. Có thể nói rằng, VKS của Việt Nam có vị trí rất đặc biệt trong TTDS.
- Trong quá trình tranh tụng, Tòa án có vai trò quan trọng như là trọng tài
giải quyết vụ án, điều khiển quá trình tranh tụng và căn cứ vào kết quả tranh tụng để
ra phán quyết
Để bảo đảm sự công bằng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự
trong tố tụng, đòi hỏi Tòa án phải khách quan, vô tư và công minh. Tòa án có vai trò
quyết định trong quá trình tranh tụng tại phiên tòa. Thẩm phán thay mặt cho quyền
lực của Nhà nước là người trọng tài “cầm cân công lý”. Tòa án giữ vai trò trung gian,
điều khiển quá trình tranh tụng của các bên nhằm đảm bảo quyền tranh tụng của các
13


Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tlđd, tr. 11.


12

bên đương sự cũng như đảm bảo cho quá trình tranh tụng được thực hiện theo đúng
quy định của pháp luật TTDS.
Tòa án không chủ động thu thập chứng cứ trừ một số trường hợp theo quy định
của pháp luật để đảm bảo sự khách quan, vô tư và công minh trong việc phân xử vụ
án, tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự cũng như phát huy tính tích cực, chủ
động của các đương sự. Tòa án chỉ là người đánh giá, đối chiếu và kiểm tra chứng
cứ, lựa chọn quy phạm pháp luật phù hợp đối với vụ án cần giải quyết và ra bản án,
quyết định trong đó xác định quyền và nghĩa vụ của các bên đương sự dựa trên kết
quả tranh tụng.
- Phạm vi tranh tụng là giới hạn những vấn đề mà chủ thể tranh tụng phải làm
rõ bằng các chứng cứ, căn cứ pháp lý và các lý lẽ, lập luận
Trong TTDS, đương sự có quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng
minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, được biết và ghi chép, sao chụp
các chứng cứ do các đương sự khác xuất trình hoặc do Tòa án thu thập. Do đó, đương
sự phía bên này nếu chấp nhận yêu cầu và nhận thấy yêu cầu, chứng cứ mà đương sự
phía bên kia cung cấp là hoàn toàn đúng đắn, có cơ sở và họ thừa nhận chứng cứ đó
thì sẽ giải phóng cho đương sự phía bên kia khỏi nghĩa vụ chứng minh.
Ngược lại, nếu những yêu cầu mà các bên hoặc một bên không chấp nhận và
những thông tin, tài liệu mà các bên không đồng ý hoặc một bên đương sự không
đồng ý là chứng cứ thì khi phiên tòa diễn ra chỉ tập trung vào những vấn đề các bên
hoặc một bên không công nhận. Những vấn đề khác nếu các bên không từ chối thì
coi như đã giải quyết và những chứng cứ nào các bên đương sự đã thừa nhận thì cũng
không tranh luận nữa. Do đó, các chủ thể tranh tụng chỉ tranh luận với nhau những
vấn đề mà các bên đương sự có những yêu cầu, chứng cứ, chứng minh không thống
nhất.

- Quá trình tranh tụng tại phiên tòa được tiến hành một cách công khai, trực
tiếp và bằng lời nói
Tại phiên tòa, các bên đương sự được trực tiếp trình bày các yêu cầu, đưa ra
các chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý bằng lời nói. Việc các bên đương sự trực tiếp,
trình bày, tranh luận bằng lời nói là một yếu tố quan trọng để đảm bảo tính khách
quan, trung thực trong lời khai của họ đồng thời giúp HĐXX giải quyết các yêu cầu


13

của đương sự, ra các quyết định chính xác nhất về việc giải quyết vụ án. Những chứng
cứ tài liệu nào không được trực tiếp thẩm tra, công khai tại phiên tòa đều không được
dùng làm căn cứ cho các quyết định của tòa án.
- Các hành vi tố tụng của các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng phải
tuân theo trình tự, thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định
Pháp luật TTDS và hoạt động TTDS của các chủ thể tham gia tố tụng là hai
mặt không thể tách rời của một quy trình tố tụng. Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ
của mình các chủ thể tham gia vào quá trình tranh tụng phải tuân theo đúng trình tự,
thủ tục và thời hạn do pháp luật quy định nhằm mục đích để cho việc điều hành công
lý được phân minh, có hiệu quả và bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của cá các
nhân, tổ chức, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích công cộng.
1.1.1.2. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Muốn bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp trước Toà án thì các bên đương sự
phải thực hiện được quyền tranh tụng của mình trong TTDS thông qua việc thực hiện
các quyền TTDS như đã phân tích ở phần 1.1.1.1. Tuy vậy, TTDS là một quá trình
phức tạp cho nên không phải trong trường hợp nào các bên đương sự cũng có thể dễ
dàng thực hiện được quyền tranh tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Bởi vì, “đối với những người tham gia vào các vụ kiện, chữ “tố tụng” nhiều khi không
gợi lên ý niệm tự do cá nhân, sự thực hiện dễ dàng các quyền lợi, mà trái lại sự phiền
toái, hao tiền, tốn của, mất thời giờ, lao tâm mệt trí”14. Trên thực tế, việc thực hiện

quyền tranh tụng của đương sự phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như khả năng tham gia
TTDS của đương sự, sự hỗ trợ của những người khác đối với việc tham gia tố tụng
của đương sự và việc tiến hành giải quyết VADS của Toà án v.v... Thông thường, để
thực hiện được quyền tranh tụng của mình thì đương sự phải có một sự hiểu biết pháp
luật nhất định, có năng lực hành vi TTDS và trong trường hợp cần thiết họ phải nhận
được sự hỗ trợ pháp lý từ phía luật sư hay người khác. Ngoài ra, việc thực hiện quyền
tranh tụng của đương sự phải thông qua Toà án cho nên để đương sự thực hiện được
quyền tranh tụng của họ thì Toà án phải thực hiện đúng các quy định của pháp luật
TTDS khi việc giải quyết VADS đồng thời phải giúp đỡ, tạo những điều kiện cần
thiết cho đương sự thực hiện được quyền tranh tụng của họ. Vì vậy, để đương sự bảo

14

Nguyễn Mạnh Bách (1999), Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb Đồng Nai, Đồng Nai, tr. 202.


14

vệ được quyền, lợi ích hợp pháp trước Toà án thì việc bảo đảm cho các đương sự thực
hiện quyền tranh tụng là rất cần thiết.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “bảo đảm” là “làm cho chắc chắn thực hiện được,
giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết”15. Trong TTDS, việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của đương sự chủ yếu được thực hiện thông qua việc thực hiện quyền
tranh tụng của các chủ thể. Bởi vậy, bảo đảm tranh tụng trong TTDS là bảo đảm được
các điều kiện cần thiết làm cho các chủ thể tranh tụng chắc chắn thực hiện được
quyền tranh tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Toà án.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật thì nguyên
tắc của pháp luật là nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo cơ bản, có tính chất xuất phát điểm,
cấu thành một bộ phận quan trọng nhất, thể hiện tính toàn diện, linh hoạt, thấm nhuần
toàn bộ nội dung cũng như hình thức của hệ thống pháp luật16. Các nguyên tắc là cơ

sở chỉ đạo toàn bộ hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Do đó, bất kỳ một hoạt
động nào muốn đi đúng hướng và đạt kết quả đòi hỏi hoạt động đó phải tuân theo
những nguyên tắc nhất định. Hoạt động TTDS là một dạng hoạt động tư pháp với
nhiệm vụ bảo đảm cho việc giải quyết vụ án tiến hành được nhanh chóng và đúng
pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, cơ quan, tổ chức, lợi ích
của Nhà nước, lợi ích công cộng. Vì vậy, hoạt động TTDS được tiến hành theo những
trình tự, thủ tục chặt chẽ do pháp luật TTDS quy định trên cơ sở những nguyên tắc
nhất định. Trong khoa học pháp lý, “nguyên tắc của TTDS được xác định là những
tư tưởng chỉ đạo, biểu thị những đặc trưng của TTDS, được quy định trong pháp luật
làm nền tảng cho các hoạt động TTDS”17. Hay nói cách khác nguyên tắc của TTDS
là những nguyên lý, những tư tưởng chỉ đạo, định hướng chi phối tất cả các giai đoạn
hoặc một số giai đoạn nhất định của quá trình TTDS. Những nguyên tắc này được thể
hiện dưới hình thức các quy phạm pháp luật TTDS và được ghi nhận trong các văn
bản pháp luật TTDS.
Trong lịch sử pháp luật tố tụng nhiều nước trên thế giới, tranh tụng luôn được
xác định là một trong những nguyên tắc cơ bản có vai trò chỉ đạo mọi quy định pháp

Viện ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Hà Nội - Đà Nẵng, tr. 38.
Nguyễn Thị Thu Hà (Chủ nhiệm đề tài) (2011), Tlđd, tr. 13.
17
Nguyễn Công Bình (1998), Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự trong
TTDS Việt Nam, Luận văn thạc sỹ Luật học, Hà Nội, tr. 12.
15
16


15

luật tố tụng nhằm chứng minh sự thật của vụ án. Nguyên tắc tranh tụng được pháp
luật tố tụng các nước ghi nhận với nội dung và phạm vi áp dụng khác nhau. Ở Việt

Nam, tranh tụng là một trong những nội dung quan trọng, mang tính đột phá trong
cải cách tư pháp hiện nay và đã được xác định trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày
02/01/2001 của Bộ chính trị và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ
chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020; Khoản 3 Điều 102 Hiến pháp
năm 2013 quy định: “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý…”. Để đạt được mục tiêu
bảo vệ công lý của TAND, việc bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một
trong những công cụ, biện pháp bảo đảm xét xử công bằng. Từ đó tranh tụng đã trở
thành một nguyên tắc hiến định được chính thức ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013
“Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” (khoản 5 Điều 103 Hiến pháp
2013).
Như vậy, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng là một trong những nguyên tắc cơ bản
trong TTDS, thể hiện quan điểm có tính định hướng của Nhà nước trong việc xác
định trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo đảm được các điều kiện cần thiết làm
cho các chủ thể tranh tụng thực hiện được quyền tranh tụng trong suốt quá trình
TTDS, bao gồm việc đưa ra chứng cứ, trao đổi chứng cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để
chứng minh, biện luận cho yêu cầu của đương sự trước Tòa án. Tòa án căn cứ vào
kết quả tranh tụng để quyết định về việc giải quyết VADS.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
1.1.2.1. Ý nghĩa về chính trị - xã hội
- Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự là thực hiện dân chủ, công bằng
trong tố tụng dân sự
Một trong những mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là xây dựng
Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Hiện nay, Đảng ta coi “phát huy dân chủ xã hội
chủ nghĩa vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới”18. Vì thực hiện
dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội là nhằm phát huy trí tuệ, quyền làm chủ
của nhân dân, khơi dậy được tiềm năng sáng tạo của con người, làm cho mọi người
đều tích cực tham gia vào các lĩnh vực trong đời sống xã hội. Trong TTDS, thực hiện
Đảng cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
18



16

dân chủ là bảo đảm quyền tranh tụng của các bên đương sự. Theo đó, các đương sự,
người đại diện của đương sự và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự đều được bình đẳng, chủ động và công khai đưa ra các lý lẽ, căn cứ pháp lí đối đáp
nhau để làm rõ sự thật khách quan của VADS. Tòa án là cơ quan tiến hành tố tụng
đóng vai trò giám sát quá trình tranh tụng của các bên để giải quyết VADS một cách
khách quan, công bằng và đúng pháp luật.
- Bảo đảm tranh tụng trong TTDS là Nhà nước bảo đảm quyền con người, quyền
công dân trong lĩnh vực TTDS
Ngày 28/11/2013 Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam khóa XIII , kỳ họp thứ
6 đã thông qua Hiến pháp mới, một trong những thay đổi lớn nhất của việc sửa đổi
Hiến pháp này chính là chế định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân. Theo đó, quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được
đề cao, thể hiện nhận thức mới, đầy đủ và sâu sắc trong việc thể chế hóa quan điểm
của Đảng và Nhà nước ta về đề cao nhân tố con người, coi con người là nguồn lực
chủ yếu và là mục tiêu phát triển. Cụ thể: “Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự do của mỗi người”19.
Như vậy, Nhà nước luôn ghi nhận, tôn trọng, thực hiện và bảo vệ quyền con người,
quyền công dân. Nhà nước không cho phép bất cứ một chủ thể nào xâm phạm bất
hợp pháp quyền lợi của người khác. Pháp luật là chuẩn mực của sự công bằng, là
phương tiện thể hiện sự thương thích giữa pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Tranh tụng trong xét xử được đảm bảo chính là phương thức để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho các đương sự và cũng góp phần bảo vệ quyền con người, bảo đảm pháp chế
quốc gia.
Tóm lại, các quan điểm về bảo vệ quyền con người, quyền công dân không chỉ
được quy định trong Hiến pháp 2013 mà còn là nội dung xuyên suốt, nhất quán và
được cụ thể hóa trong tất cả các văn bản pháp luật của nước ta nói chung và TTDS

nói riêng.
- Bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự còn góp phần nâng cao ý thức pháp
luật của người dân nói chung và các chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật tố tụng

Đảng Cộng Sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Bổ sung, phát triển năm 2011).
19


17

dân sự nói riêng
Khi giải quyết tranh chấp, để bảo đảm cho các bên thực hiện được quyền tranh
tụng, Tòa án phải giải thích cho các đương sự biết quyền và nghĩa vụ của họ; quyền
và nghĩa vụ người đại diện của đương sự, quyền và nghĩa người bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của đương sự trong việc tham gia tố tụng bảo vệ quyền lợi hợp pháp
của đương sự. Vì vậy các đương sự được giáo dục các kiến thức pháp luật, giúp nâng
cao ý thức của người dân nói chung và củng cố lòng tin vào công lý, vào pháp chế xã
hội chủ nghĩa.
1.1.2.2. Ý nghĩa pháp lý
- Bảo đảm tranh tụng đã tạo ra cơ hội cho các bên đương sự bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của họ trước Tòa án
Với việc giải quyết VADS theo phương thức tranh tụng, các đương sự có điều
kiện trong việc trình bày, đưa ra các chứng cứ, lý lẽ chứng minh cho quyền lợi và lợi
ích hợp pháp của mình cũng như đối đáp, tranh luận với đương sự phía bên kia để
làm rõ sự thật khách quan của VADS. Hơn nữa tranh tụng cũng buộc các đương sự
phải nỗ lực, tích cực hơn nữa trong việc tham gia tố tụng. Kết quả tranh tụng là cơ sở
để Tòa án quyết định giải quyết vụ án nên đương sự phải tìm mọi cách để thu thập
chứng cứ và tìm ra căn cứ pháp lý để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ
và hợp pháp và bác bỏ yêu cầu của đương sự phía bên kia.

- Bảo đảm tranh tụng góp phần đảm bảo cho bản án, quyết định của Tòa án
tuyên là có căn cứ và hợp pháp
Tranh tụng không những tạo điều kiện cho đường sự thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình mà qua quá trình tranh tụng Tòa án xác định được sự thật khách
quan của VADS. Trên cơ sở đó tòa án giải quyết được yêu cầu của các đương sự, xác
định đúng các quyền và nghĩa vụ của mỗi bên theo quy định của pháp luật. Khi các
đương sự thực hiện đầy đủ các quyền TTDS của mình thì tình tiết vụ án được làm
sáng tỏ, Tòa án có đầy đủ các chứng cứ để giải quyết VADS một cách chính xác,
công minh và đúng pháp luật.
1.1.3. Nội dung của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân sự
Như đã phân tích ở mục 1.1.1 thì tranh tụng là một quá trình được bắt đầu từ
khi có yêu cầu khởi kiện và kết thúc khi bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực


18

pháp luật. Quá trình tranh tụng này không chỉ bao gồm các giai đoạn khởi kiện, chuẩn
bị xét xử, thu thập, trao đổi chứng cứ, tài liệu, quan điểm về việc giải quyết vụ án,
đối chất giữa các bên đương sự, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm mà cả khi vụ án được xem
xét lại theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm. Biểu hiện rõ nét nhất của tranh tụng
được tiến hành tại các phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm. Theo đó, các bên đương sự
dưới sự điều khiển của HĐXX trực tiếp trình bày yêu cầu, chứng cứ, tranh luận và
đối đáp với nhau về chứng cứ, căn cứ pháp lí, lý lẽ, lập luận để chứng minh yêu cầu,
phản yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình đối với đương sự phía bên kia là có căn cứ
và hợp pháp. Trên cơ sở kết quả tranh tụng của các bên đương sự, HĐXX ra phán
quyết về việc giải quyết VADS. Do đó, nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong TTDS
bao gồm những nội dung sau:
- Các chủ thể tranh tụng có quyền tranh tụng trong suốt quá trình Tòa án giải
quyết VADS kể từ khi đương sự có yêu cầu và Tòa án thụ lí cho đến khi xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm. Theo đó, các bên đương sự có quyền đưa ra yêu

cầu; có quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình; có quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu
trữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó cho mình để giao nộp
cho Tòa án; có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc
các biện pháp cần thiết để bảo toàn chứng cứ trong trường hợp chứng cứ đang bị tiêu
huỷ, có nguy cơ bị tiêu huỷ hoặc sau này khó có thể thu thập được; có quyền đề nghị
Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ củ vụ việc mà tự mình không thể thực
hiện được; đề nghị Tòa án yêu cầu đương sự khác xuất trình tài liệu, chứng cứ mà họ
đang giữ; đề nghị Tòa án ra quyết định yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân đang lưu
giữ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu, chứng cứ đó; đề nghị Tòa án triệu
tập người làm chứng, trưng cầu giám định, quyết định việc định giá tài sản; có quyền
được biết, trao đổi và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất
trình hoặc do Tòa án thu thập; có quyền tham gia phiên tòa; có quyền trình bày về
các yêu cầu và chứng cứ chứng minh cho yêu cầu; có quyền hỏi những người tham
gia tố tụng khác; tranh luận về chứng cứ, trình bày quan điểm, lập luận của mình về
các tình tiết của vụ án; có quyền bác bỏ những lập luận của các đương sự khác, đưa
ra quan điểm của mình về hướng giải quyết vụ án; được đối chất với nhau hoặc người


19

làm chứng; có quyền kháng cáo bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp
luật để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm; có quyền đề nghị
người có thẩm kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Các chủ thể tranh tụng được bình đẳng trong việc thực hiện quyền tranh tụng,
theo đó các bên đương sự được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ TTDS và bình đẳng
về trách nhiệm pháp lí
Các chủ thể tranh tụng không chỉ có quyền tranh tụng mà họ còn được bình
đẳng trong việc thực hiện quyền tranh tụng. Theo đó, trước tiên các bên đương sự
được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ TTDS. Bởi nếu không được bình đẳng trong

việc thực hiện quyền và nghĩa vụ TTDS thì sự thật khách quan của VADS không
được sáng tỏ, các bên đương sự không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Ngoài ra, các bên đương sự không chỉ được bình đẳng về quyền và nghĩa vụ
TTDS mà còn bình đẳng về trách nhiệm pháp lý. Theo đó, đương sự có hành vi vi
phạm pháp luật TTDS thì đều bị xử lí theo quy định của pháp luật bất kể đương sự
đó là ai, có hoàn cảnh, tôn giáo, địa vị xã hội, tài sản như thế nào.
- Tòa án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp cần thiết theo quy định của pháp
luật tạo điều kiện cho các chủ thể tranh tụng thực hiện quyền tranh tụng để ra bản
án, quyết định đúng pháp luật. Tòa án phải tôn trọng quyền tranh tụng của các bên
đương sự, phải bảo đảm cho đương sự, những người tham gia tố tụng khác hiểu biết
và đủ điều kiện thực hiện quyền tranh tụng theo quy định của pháp luật. Mọi đương
sự đều phải được Tòa án triệu tập một cách hợp lệ để thực hiện quyền tranh tụng. Tòa
án phải bảo đảm cho đương sự được bình đẳng trong việc thực hiện quyền tranh tụng.
Tòa án chỉ được đưa ra phán quyết dựa vào những chứng cứ, căn cứ pháp lý, lý lẽ
chứng minh đã được hỏi, tranh luận công khai tại phiên tòa. Trong trường hợp Tòa
án có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì Tòa án có trách nhiệm bồi thường.
1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC QUY ĐỊNH NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.2.1. Bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng dân sự
Quyền con người là những quyền tự nhiên mà tạo hóa ban cho con người và
không thể bị tước bỏ với bất kỳ ai và bất kỳ chính thể nào. Tôn trọng và thực hiện
quyền con người luôn là vấn đề trọng tâm được tất cả các Nhà nước quan tâm và lấy


20

đó làm nền tảng để phát triển cũng như đề ra các chính sách, chủ trương. Nhà nước
sinh ra là để đại diện cho nhân dân, để phục vụ nhân dân, do đó, dù tồn tại dưới thể

chế nào thì hoạt động của Nhà nước cũng phải nhằm mục đích là bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của con người. Do đó, Nhà nước trao cho con người những phương tiện
cần thiết để bảo vệ các quyền con người. Một trong phương thức đó chính là các
đương sự được thực hiện quyền tranh tụng trong TTDS.
1.2.2. Bảo đảm bình đẳng, công bằng, dân chủ trong hoạt động tố tụng dân
sự
TTDS chính là quá trình Tòa án đứng ra giải quyết tranh chấp giúp hai bên
đương sự theo thủ tục tư pháp dân chủ. Do đó, nguyên tắc dân chủ, công khai, khách
quan phải là nguyên tắc được quán triệt trong việc xây dựng pháp luật TTDS, đồng
thời cũng là nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của Tòa án.
Thực tế đã chứng minh, bản chất và phương pháp để đạt đến sự dân chủ, công
bằng, vô tư và khách quan trong TTDS chính là qua con đường tranh tụng. Chỉ có
thông qua tranh tụng thì Tòa án mới có thể ra được bản án công khai, minh bạch.
Thẩm phán sẽ xét xử theo pháp luật và bằng pháp luật, còn các đương sự bảo vệ lợi
ích hợp pháp của mình trên cơ sở các chứng cứ được đánh giá một cách khách quan,
công khai và rõ ràng. Điều 10 Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế năm 1948 đã khẳng
định: “Mọi người đều có quyền trình bày việc của mình một cách vô tư và công khai
với sự bình đẳng hoàn toàn, trước một Tòa án độc lập và không thiên vị, để Tòa án
này quyết định các quyền và nghĩa vụ của họ mà đã được Hiến pháp hay luật pháp
quy định”20. Điều này được nhắc tại Điều 14 Công ước quốc tế về quyền dân sự và
chính trị năm 1966 mà Việt Nam cũng là thành viên “Tất cả mọi người đều bình đẳng
trước Tòa án và cơ quan tài phán. Bất kỳ người nào đều có quyền đòi hỏi việc xét xử
công bằng và công khai do một Tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và
được lập trên cơ sở pháp lý…”(21). Vì vậy, bảo đảm quyền tranh tụng trong TTDS của
đương sự, người bảo vệ quyền lợi của đương sự cần được thực sự chú trọng.
1.2.3. Bảo đảm Tòa án ra phán quyết đúng đắn, chính xác
Trong mỗi vụ án thì ở những lĩnh vực khác nhau, có những tình tiết, những

Viện thông tin Khoa học Xã hội (1998), Quyền con người - Các văn kiện quan trọng, Hà Nội, tr. 148.
. Viện thông tin Khoa học Xã hội (1998), Sđd, tr. 236.


20
21


21

diện mạo khác nhau. Do đó, quá trình làm rõ sự thật khách quan của vụ án nếu chỉ để
Thẩm phán tự mình tiến hành thì không tránh khỏi những sai sót, thậm chí là tiêu cực.
Vì vậy, để đảm bảo được sự công bằng, pháp luật quy định tranh tụng trong TTDS.
Tranh tụng xác định vai trò chủ đạo của các bên đương sự, họ thực hiện quyền và
nhiệm vụ của mình dưới sự giám sát và hướng dẫn của Thẩm phán. Điều này là hoàn
toàn hợp lý với một ngành luật hình thức đề cao vai trò và nguyên tắc tự định đoạt
của đương sự. Đương sự là người hiểu rõ vụ án hơn bất kỳ một chủ thể tham gia hay
tiến hành tố tụng nào và phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi
ích hợp pháp của họ. Chính yếu tố lợi ích sẽ dẫn dắt đương sự tích cực hơn, chủ động
hơn trong việc đưa ra những chứng cứ, tài liệu chứng minh yêu cầu của mình là có
căn cứ, thuyết phục được Tòa án ra những phán quyết bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình.
1.2.4. Xuất phát từ thực tiễn hoạt động giải quyết vụ án dân sự
Thực tiễn giải quyết các VADS của Tòa án cho thấy tỷ lệ các VADS bị hủy, sửa
ngày càng tăng do nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó nguyên nhân chủ yếu là
do khi tiến hành giải quyết các VADS Tòa án đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố
tụng mà đặc biệt là chưa tạo điều kiện cho các đương sự trình bày chứng cứ, lý lẽ để
làm sáng tỏ sự thật khác quan của vụ án. Trước yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, việc nâng
cao chất lượng xét xử VADS của Tòa án là một đòi hỏi cấp bách. Vì vậy, để đáp ứng
yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp và thể chế hóa Hiến pháp, cần hoàn thiện mô
hình TTDS Việt Nam theo hướng “tố tụng xét hỏi kết hợp tranh tụng” và đạt được
mục tiêu là: hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự được tiến hành có hiệu lực và

hiệu quả cao, thủ tục tố tụng bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai minh bạch,
đề cao nguyên tắc bảo đảm tranh tụng.22
1.3. MỐI LIÊN HỆ GIỮA NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM TRANH TỤNG TRONG
TỐ TỤNG DÂN SỰ VỚI CÁC NGUYÊN TẮC KHÁC

Để việc bảo đảm tranh tụng trong TTDS đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải thực
hiện tốt các nguyên tắc tố tụng. Các nguyên tắc tố tụng luôn được đặt trong mối liên
hệ với nhau, gắn bó chặt chẽ với nhau, không thể tách rời và cùng nhau điều chỉnh
TANDTC (2015), Chương trình đối tác tư pháp - Tọa đàm về hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự của Việt
Nam, Hà Nội, tr.34.
22


22

các hoạt động tố tụng. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với các nguyên
tắc khác của luật TTDS được thể hiện rõ nét nhất như sau:
1.3.1. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với nguyên tắc quyền
tự định đoạt của đương sự
Quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự là vấn đề cơ bản của TTDS.
Theo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự, các đương sự có quyền tự quyết
định quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật, và tự chủ động
lựa chọn những biện pháp để bảo vệ các quyền, lợi ích đó. Quyền tranh tụng của
đương sự được thể hiện rõ nhất trong sự tự định đoạt của đương sự. Theo đó, các
quyền và nghĩa vụ của đương sự do chính hành vi tố tụng của họ thực hiện. Khi đương
sự đưa ra yêu cầu mà thực hiện được đầy đủ, chính xác quyền và nghĩa vụ tố tụng của
mình thì các quyền và lợi ích hợp pháp của họ sẽ được đảm bảo bằng phán quyết của
Toà. Khi họ không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ này thì đồng
nghĩa với việc họ sẽ tự mang lại cho mình một hậu quả pháp lý bất lợi. Hoạt động
tranh tụng trong TTDS cũng được đảm bảo bằng sự tự chủ của đương sự. Toà án chỉ

có trách nhiệm tạo điều kiện cho các bên đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự thực hiện quyền tranh tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự còn việc các đương sự có thực hiện được quyền tranh tụng hay
không là phụ thuộc và sự chuẩn bị của từng bên đương sự.
Như vậy, nguyên tắc quyền tự định đoạt là cơ sở điều kiện để đương sự thực
hiện được quyền tranh tụng của mình. Do đó, có thể khẳng định quyền tự định đoạt
của đương sự có liên quan chặt chẽ đến nguyên tắc đảm bảo tranh tụng trong TTDS.
1.3.2. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với nguyên tắc chứng
minh trong tố tụng dân sự
Nội dung của nguyên tắc chứng minh trong TTDS xác định nghĩa vụ thu
thập, cung cấp chứng cứ và chứng minh thuộc về đương sự. Toà án chỉ có trách nhiệm
hỗ trợ và thực hiện trong một số trường hợp đặc biệt nhằm đảm bảo cho việc giải
quyết VADS được chính xác và khách quan. Nguyên tắc này đã quy định các điều
kiện căn bản cho việc tranh tụng. Bởi khi tranh tụng, các đương sự không chỉ tranh
luận với nhau về các yêu cầu, phản yêu cầu mà các đương sự còn tranh luận về chứng
cứ để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Ngoài ra, việc các đương sự thực


23

hiện quyền và nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ là điều kiện để các đương sự
thực hiện quyền được biết chứng cứ do bên kia cung cấp. Nội dung của nguyên tắc
này còn xác định rõ vị trí của Tòa án trong tranh tụng đó là: Tòa án sẽ không chủ
động thu thập chứng cứ trừ một số trường hợp đặc biệt theo quy định của pháp luật.
Điều này sẽ đảm bảo tính khách quan, vô tư và công minh của Tòa án trong vai trò
của người trọng tài khi giải quyết vụ án.
1.3.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với nguyên tắc bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự
Theo nguyên tắc này, các đương sự được bình đẳng với nhau trong việc thực
hiện các quyền và nghĩa vụ TTDS. Điều này có nghĩa là khi đương sự phía bên này

được đưa ra yêu cầu, chứng cứ lý lẽ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
thì đương sự phía bên kia cũng sẽ được đưa ra yêu cầu, chứng cứ, lý lẽ căn cứ pháp
lí để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Các đương sự không chỉ được bình
đẳng với nhau trong việc đưa ra yêu cầu, chứng cứ lý lẽ, căn cứ pháp lý mà các đương
sự còn được bình đẳng trong việc tham gia vào các giai đoạn tố tụng trước Tòa
án…Quyền bình đẳng này là cơ sở để các bên đương sự được bình đẳng với nhau
trong việc thực hiện quyền tranh tụng. Bởi tranh tụng chỉ có thể được thực hiện khi
mà có sự bình đẳng của các bên trong tranh tụng. Ngoài ra nguyên tắc này xác định
Tòa án có trách nhiệm bảo đảm cho đương sự được bình đẳng trong việc thực hiện
các quyền và nghĩa vụ TTDS. Khi Tòa án thực hiện trách nhiệm này chính là Tòa án
đã bảo đảm cho các đương sự bình đẳng với nhau trong việc thực hiện quyền tranh
tụng
1.3.4. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bảo đảm tranh tụng với nguyên tắc bảo
đảm quyền bảo vệ của đương sự
Nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự xác định việc bảo đảm đương
sự có thể tự bảo vệ hoặc ủy quyền cho người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Tòa án có trách nhiệm thực hiện các biện pháp, hoạt động cần thiết bảo
đảm cho đương sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ. Thông qua việc thực
hiện quyền tự bảo vệ, quyền được người khác bảo vệ đương sự thực hiện được quyền
tranh tụng của mình như quyền đưa ra yêu cầu, phản yêu cầu, quyền đưa ra chứng cứ,
lý lẽ chứng minh cho yêu cầu của mình, bác bỏ yêu cầu của các đương sự khác, quyền


24

được biết thông tin, quyền được tranh luận về các chứng cứ, viện dẫn các quy định
của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Tòa án…Ngoài ra nguyên
tắc này còn tạo cơ sở cho sự tham gia của các luật sư vào tranh tụng khi mà đương sự
có quyền ủy quyền hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp. Bên cạnh
đó, khi thực hiện quyền tranh tụng, nếu tòa án không bảo đảm việc thực hiện quyền

tự bảo vệ, quyền được người khác bảo vệ thì đương sự sẽ không thực hiện được quyền
tranh tụng và đương sự sẽ không bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình
cũng như việc giải quyết vụ án của Tòa án thiếu đúng đắn.
1.4. CÁC YẾU TỐ QUYẾT ĐỊNH THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
TRANH TỤNG TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.4.1. Các quy định của pháp luật về bảo đảm tranh tụng trong tố tụng dân
sự
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội và bảo đảm cho các quyền
con người được thực hiện. Nhất quán với nguyên tắc tất cả vì sự tự do hạnh phúc của
nhân dân, đảm bảo cho người dân có quyền sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình, Nhà nước ta không ngừng hoàn thiện pháp luật, bảo đảm tốt
nhất quyền tố tụng cho đương sự.
Bảo đảm thực hiện quyền tranh tụng của đương sự phải gắn liền với sự điều
chỉnh của pháp luật. Hiệu quả của bảo đảm tranh tụng trong TTDS một phần được
quyết định bởi các quy định về trình tự thủ tục, nội dung, hình thức và cách thức thực
hiện các quyền TTDS của đương sự như quyền cung cấp chứng cứ, đề nghị Tòa án
thu thập chứng cứ, tranh luận tại phiên tòa, quyền nhờ người khác bảo vệ… từ khi
khởi kiện vụ án đển chuẩn bị xét xử, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc
tái thẩm. Như vậy, quy định của pháp luật là hành lang pháp lý xác định trách nhiệm
của Nhà nước trên các phương diện tôn trọng, bảo vệ và thực hiện quyền tranh tụng
trong TTDS.
1.4.2. Hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án
Tòa án là trọng tài và có quyền áp dụng những quy định của pháp luật để phân
xử tranh chấp giữa các bên đương sự trong VADS. Nhiệm vụ của Tòa án tiếp nhận
chứng cứ của vụ án do các bên đương sự cung cấp và hỗ trợ đương sự thu thập chứng
cứ để giải quyết đúng đắn VADS, điều khiển phiên tòa. Trên cơ sở việc xem xét, đánh
giá chứng cứ, Tòa án thể hiện quyết định về từng vấn đề phải giải quyết trong phần



25

quyết định của bản án và công bố công khai tại phiên tòa. Do đó, để bảo đảm tranh
tụng trong TTDS thì trách nhiệm trước tiên thuộc về Tòa án mà đặc biệt là Thẩm
phán giải quyết vụ án. Tòa án là cơ quan tư pháp nhân danh quyền lực Nhà nước, bắt
buộc phải tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền tranh tụng của đương sự, không có
bất kỳ sự phân biệt, định kiến, coi nhẹ ý kiến, lập luận, chứng cứ do bất kỳ bên đương
sự nào cung cấp.
Trách nhiệm của Thẩm phán là đôn đốc giúp đỡ đương sự thực hiện quyền
tranh tụng. Thẩm phán bảo đảm cho đương sự cùng những người tham gia tố tụng
khác nhận thức được quyền và nghĩa vụ của mình, tạo điều kiện cho đương sự có đủ
thời gian để thu thập, tìm hiểu các tình tiết của vụ kiện, các chứng cứ, căn cứ pháp lý
của đối phương để có đủ cơ sở vững chắc khi tham gia tranh tụng.
1.4.3. Cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động tranh tụng
Để đảm bảo việc giải quyết tranh chấp của Tòa án không mắc phải những sai
lầm, tránh việc lạm quyền, thiếu công bằng và xâm phạm quyền tranh tụng của đương
sự thì cần có một cơ chế kiểm sát, giám sát hoạt động của Tòa án. VKS kiểm sát hoạt
động tư pháp, phát hiện những hành vi xâm phạm quyền tranh tụng của đương sự và
có những biện pháp ngăn chặn kịp thời, tạo môi trường tố tụng an toàn, bảo đảm
quyền tranh tụng cho các đương sự. Tuy nhiên, kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án
và những người tham gia tố tụng để “hỗ trợ cho việc thực hiện chức năng xét xử của
Toà án”23, bảo đảm Tòa án giải quyết vụ việc dân sự khách quan, công bằng, chính
xác và đúng pháp luật cũng như để đương sự thực hiện quyền tranh tụng đúng quy
định của pháp luật chứ không phải kiểm sát là can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa
án hoặc xâm phạm đến quyền tranh tụng của đương sự.
Bên cạnh đó, sự giám sát của công luận (nhân dân, báo chí tham dự phiên tòa)
với các hoạt động TTDS của Tòa án qua đó lên án, ngăn chặn kịp thời những sai sót,
lệch lạc của bất kỳ chủ thể nào trong các hoạt động tố tụng kể cả từ phía Luật sư, Trợ
giúp viên pháp lý. Cộng thêm sự giám sát của các cơ quan đại diện nhân dân cùng
cấp (Hội đồng nhân dân, Mặt trận Tổ quốc) thông qua việc nghe báo cáo hằng năm

của Tòa án các cấp bảo đảm cho các chủ thể tố tụng đều phải tuân thủ pháp luật, bảo
Nguyễn Thái Phúc (2005), “Những chức năng cơ bản trong tố tụng dân sự”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
(12), Hà Nội, tr. 48.
23


×