Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Quyền sở hữu và phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.64 KB, 93 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Trường Đại học Luật Hà Nội
xem xét để tôi có thể bảo vệ Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn!
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN

NGƯỜI CAM ĐOAN

PGS. TS Trần Thị Huệ

Lưu Quang Anh


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng Dân sự


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU VÀ
PHƯƠNG THỨC BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRONG PHÁP LUẬT
DÂN SỰ
6


1.1. Quyền sở hữu
6
1.1.1. Khái niệm
6
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của quyền sở hữu
8
1.1.3. Nội dung của quyền sở hữu
9
1.2. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu
12
1.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu trong hệ thống pháp luật Việt Nam
12
1.2.2. Khái niệm, đặc trưng của phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong pháp
luật Dân sự
16
1.2.3. Phân loại các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự
26
1.3. Sơ lược pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu ở Việt Nam từ năm 1945 đến
nay.
29
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
30
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
31
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
32
1.3.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2013
33
1.3.5. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay
34

1.4. Giá trị quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu theo phương thức
dân sự
35
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU
THEO BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2015
37
2.1. Quy định của Bộ luật dân sự 2015 về các phương thức bảo vệ quyền sở
hữu
38
2.1.1. Chủ sở hữu tự bảo vệ quyền sở hữu
38
2.1.2. Chủ sở hữu yêu cầu Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác
bảo vệ quyền sở hữu
44
2.2. Quy định của Bộ luật dân sự 2015 về các phương thức bảo vệ quyền sở
hữu so với Bộ luật dân sự 2005
66
CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ
QUYỀN SỞ HỮU THEO PHƯƠNG THỨC DÂN SỰ VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG HOÀN THIỆN
69
3.1. Một số vấn đề thực tiễn trong việc thực hiện các phương thức bảo vệ
quyền sở hữu
71
3.1.1. Một số án điển hình và hướng giải quyết của Tòa án nhân dân
71


3.1.2. Đánh giá
79

3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chế định về phương thức bảo vệ
quyền sở hữu hiện nay
81
3.2.1. Hoàn thiện quy định của pháp luật
81
3.2.2. Một số giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp
luật
84
KẾT LUẬN
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
89


5

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong pháp luật dân sự của nhiều nước trên thế giới cũng như của
Việt Nam, chế định quyền sở hữu luôn là vấn đề cơ bản, quan trọng. Nó là
một trong những tiền đề vật chất cho sự phát triển kinh tế, là mức độ xử sự
mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện trong quá trình, chiếm
hữu, sử dụng và định đoạt tài sản. Với vai trò trung tâm của mình như vậy,
nhà nước sử dụng pháp luật như một công cụ pháp lý hữu hiệu để thừa
nhận, bảo vệ các quyền năng cơ bản này và chống lại các hành vi vi phạm
quyền của chủ sở hữu. Do vậy, vấn đề về bảo vệ quyền sở hữu luôn là vấn
đề nhận được sự quan tâm của nhiều chủ thể trong xã hội bởi nó gắn liền
với thực thi quyền sở hữu của các tổ chức, cá nhân trong đời sống pháp lý,
đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Với tầm
quan trọng như vậy, quyền sở hữu được bảo vệ dưới nhiều hình thức khác

nhau, được điều chỉnh bởi mỗi luật chuyên ngành khác nhau như: Luật hình
sự, luật hành chính, luật dân sự…
Với việc Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2015 sẽ có hiệu lực vào ngày 01
tháng 01 năm 2017 sắp tới, việc nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền sở hữu theo
BLDS năm 2015 sẽ phần nào nêu và làm rõ được các điểm mới về bảo vệ
quyền sở hữu theo BLDS năm 2015, đồng thời đóng góp thêm các vấn đề lý
luận cũng như đánh giá được việc áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu
trên thực tế nhằm đưa ra những phương hướng đề xuất nhằm nâng cao khả
năng bảo vệ cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ này.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Phương thức bảo vệ quyền sở hữu tài sản là vấn đề quan trọng trong
chế định quyền sở hữu, thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà
khoa học khác nhau. Tính đến thời điểm hiện nay, có các công trình khoa học
sau nghiên cứu liên quan đến đề tài này:


6

- Hội thảo: “Các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân
sự Việt Nam” (2007), Khoa Luật dân sự - Trường Đại học Luật Hà Nội. Các
chuyên đề tại hội thảo bao gồm: (1) TS. Trần Thị Huệ “Quyền sở hữu và
quyền năng của chủ sở hữu”; (2) ThS. Vương Thanh Thúy “Kiện yêu cầu bồi
thường thiệt hại”; (3) TS. Nguyễn Minh Tuấn “Qui định về kiện đòi lại tài
sản trong pháp luật dân sự Việt Nam và một số nước trên thế giới”; (4) TS.
Phùng Trung Tập “Kiện đòi lại tài sản là động sản không phải đăng ký quyền
sở hữu từ người chiếm hữu ngay tình”; (5) ThS. Nguyễn Như Quỳnh “Kiện
đòi lại tài sản là động sản phải đăng ký quyền sở hữu hoặc bất động sản từ
người chiếm hữu ngay tình”; (6) TS. Nguyễn Văn Cường “Một số vấn đề
thực tiễn trong việc kiện đòi nhà, đất do người khác chiếm hữu không có căn
cứ pháp luật tại Tòa án nhân dân”; (7) ThS. Vũ Thị Hồng Yến “Bảo vệ

quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi chủ sở hữu kiện đòi lại tài sản”; (8)
ThS. Nguyễn Thị Tuyết “Bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp dân sự –
những ưu điểm và hạn chế so với các phương thức khác”; (9) ThS. Vũ Thị
Hải Yến “Tự bảo vệ quyền sở hữu – Những ưu điểm và hạn chế so với các
biện pháp khác” ; (10) ThS. Trần Kim Chi “Thực trạng về biện pháp dân sự
bảo vệ quyền sở hữu”; (11) ThS. Bùi Thị Huyền “Một số vấn đề về thủ tục tố
tụng dân sự trong bảo vệ quyền sở hữu tài sản tại Tòa án nhân dân”. Có thể
thấy, rất nhiều vấn đề liên quan đến phương thức bảo vệ quyền sở hữu được
trao đổi, bàn luận tại hội thảo.
- Luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp gồm: Tống Thị Hương (2014),
Luận văn Thạc sĩ Luật học, “Bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt
Nam”; Nguyễn Thị Thủy (2008), Khóa luận tốt nghiệp, “Các phương thức
bảo vệ quyền sở hữu tài sản trong Bộ luật Dân sự”; Vũ Thị Thùy Dung
(2014), Khóa luận tốt nghiệp, “Các phương thức dân sự bảo vệ quyền sở
hữu”. Đây đều là những đề tài nghiên cứu diện rộng các vấn đề liên quan đến


7

các phương thức bảo vệ quyền sở hữu với các nội dung chính như: phương
thức kiện đòi tài sản, phương thức kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái
pháp luật, kiện yêu cầu bồi thường thiệt hại…
- Bên cạnh đó, nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành liên quan
đến đề tài các phương thức bảo vệ quyền sở hữu như: Hà Thị Mai Hiên,
“Phương thức bảo vệ quyền sở hữu cá nhân trong luật dân sự Việt Nam”;
“Bảo đảm và bảo vệ quyền sở hữu tài sản của công dân ở Việt Nam hiện
nay”; Tưởng Duy Lượng “Bảo vệ quyền sở hữu trong Bộ luật dân sự năm
2005”; Nguyễn Hữu Huyên, “Bảo vệ quyền sở hữu - nhìn từ góc độ luật so
sánh” hay “Bảo vệ quyền sở hữu bằng phương thức kiện đòi tài sản trong
pháp luật dân sự Việt Nam và pháp luật dân sự của một số nước” của tác giả

Nguyễn Minh Tuấn… cùng với nhiều bài viết khác phân tích, bình luận một
số vấn đề về bảo vệ quyền sở hữu
Mỗi công trình nghiên cứu tiếp cận và giải quyết vấn đề bảo vệ quyền
sở hữu theo các góc độ khác nhau. Kế thừa kết quả nghiên cứu trong các công
trình liên quan và trên cơ sở phát triển, tác giả nghiên cứu đề tài của mình
dưới nhiều góc độ khác nhau và xây dựng những định nghĩa mới liên quan
đến đề tài.
3. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn này nhằm hướng tới nghiên cứu các hình thức bảo vệ quyền
sở hữu trong BLDS 2015 sắp có hiệu lực, thực trạng pháp lý và giải quyết
tranh chấp của vấn đề bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật hiện hành. Từ đó
để ngày càng có một chế định pháp lý hoàn thiện hơn có tính khả thi cao.
Để thực hiện các mục đích trên, luận văn phải phân tích được sự điều
chỉnh của pháp luật về sở hữu của các thời kỳ, làm rõ các phương thức bảo vệ
quyền sở hữu trong BLDS 2015 dựa trên sự so sánh, đối chiếu với các quy
định về bảo vệ quyền sở hữu theo BLDS 2005, tìm hiểu thực tế giải quyết
tranh chấp và áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong BLDS
hiện hành. Từ những kết quả thu được đưa ra một vài nhận xét, kiến nghị.


8

4. Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu là một chế định rộng lớn và
phức tạp, vấn đề này đã được rất nhiều tác giả quan tâm và nghiên cứu trước
đó. Vì vậy, mục đích nghiên cứu của luận văn là tập trung làm rõ những vấn
đề lý luận cơ bản về các phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo BLDS 2015,
phân tích và đánh giá thực trạng pháp luật về việc bảo vệ quyền sở hữu trên
thực tế tại Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số phương hướng và kiến
nghị có giá trị tham khảo nhằm hoàn thiện hơn pháp luật Việt Nam hiện hành

về các phương thức bảo vệ quyền sở hữu. Tuy nhiên trong phạm vi của luận
văn này chỉ đề cập đến vấn đề bảo vệ các tài sản hữu hình, không bao gồm
các phương thức bảo vệ tài sản là quyền sở hữu trí tuệ. Bảo vệ tài sản là
quyền sở hữu trí tuệ được điều chỉnh bởi pháp luật chuyên ngành.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn này được xây dựng chủ yếu dựa trên các câu hỏi như: Các
quy định về bảo vệ quyền sở hữu từ trước đến nay như thế nào? Các phương
thức bảo vệ quyền sở hữu trong BLDS 2015 có điểm gì nổi bật so với các văn
bản pháp luật trước đây? Thực tiễn giải quyết các tranh chấp liên quan đến
bảo vệ quyền sở hữu hiện nay như thế nào? Nêu kiến nghị để hoàn thiện các
quy định của pháp luật về bảo vệ quyền sở hữu?
6. Các phương pháp nghiên cứu áp dụng để thực hiện luận văn
Các phương pháp chính được sử dụng khi nghiên cứu vấn đề bảo vệ
quyền sở hữu bằng phương thức dân sự trong khóa luận này bao gồm:
- Phương pháp phân tích;
- Phương pháp so sánh;
- Phương pháp lịch sử;
- Phương pháp tổng hợp;
- Phương pháp duy vật biện chứng.


9

7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
Đề tài giúp người nghiên cứu và người đọc có được sự hiểu biết bao
quát về các phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo BLDS năm 2015. Bên
cạnh đó, đề tài còn có sự so sánh giữa quy định của pháp luật về các phương
thức bảo vệ quyền sở hữu theo BLDS năm 2015 và BLDS năm 2005, từ đó
đưa ra các đánh giá và nhận xét chung về thực trạng bảo vệ quyền sở hữu hiện
nay trên thực tế. Từ kết quả nghiên cứu vận dụng đưa ra kiến nghị nhằm nâng

cao khả năng bảo vệ quyền sở hữu trên cả hai phương diện: hoàn thiện các
quy định pháp luật và nâng cao khả năng bảo vệ quyền sở hữu trên thực tế.
8. Bố cục của luận văn
Ngoài phần danh mục từ viết tắt, mục lục, mở đầu, kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của Luận văn bao gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về quyền sở hữu và phương thức bảo vệ
quyền sở hữu trong pháp luật dân sự.
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu theo phương thức
dân sự.
Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật bảo vệ quyền sở hữu theo
phương thức dân sự và phương hướng hoàn thiện.


10

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU VÀ PHƯƠNG THỨC
BẢO VỆ QUYỀN SỞ HỮU TRONG PHÁP LUẬT DÂN SỰ
1.1. Quyền sở hữu
1.1.1. Khái niệm
Quyền sở hữu là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống
kinh tế, xã hội cũng như trong pháp luật của các quốc gia trên thế giới nói
chung và của Việt Nam nói riêng. Quyền sở hữu hiểu theo nghĩa hẹp chính là
“mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể thực hiện các quyền năng
chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trong những điều kiện nhất định”1. Mức độ
xử sự ấy qui định giới hạn và khả năng thực hiện của họ trong quá trình học
tập, nghiên cứu khoa học, tham gia lao động sản xuất, kinh doanh… Điều đó
tác động trực tiếp đến nền kinh tế, thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của
nền kinh tế.
Sở hữu phát sinh và tồn tại cùng với sự ra đời và phát triển của xã hội

loài người. Ngay từ những ngày sơ khai, những người nguyên thủy đã có ý
niệm đầu tiên về sở hữu đối với các thành quả lao động của mình có được từ
săn bắn, hái lượm phục vụ cho các nhu cầu sinh hoạt hằng ngày. Song hành
cùng với sự phát triển cấp tiến của xã hội, của cải vật chất được làm ra ngày
một dư thừa, khiến các quan hệ xã hội dần được hình thành giữa cá thể cùng
sinh sống trong một cộng đồng như quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa. Mối
quan hệ giữa người với người trong quá trình chiếm hữu và sản xuất ra của
cải vật chất chính là quan hệ sở hữu. Sự xuất hiện của quan hệ sở hữu cũng
đồng thời dẫn đến hệ quả là việc phân chia giai cấp trong xã hội. Quan hệ sở
hữu là sự chiếm giữ các tư liệu sản xuất, các vật phẩm tiêu dùng giữa người
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật Dân sự Việt Nam Tập 1, NXB Công an nhân dân, Hà Nội,
2010, tr. 178.


11

này với người khác, giữa giai cấp này với giai cấp khác trong một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định. Tổng hòa những quan hệ sở hữu chủ yếu trong xã
hội sẽ hợp thành chế độ sở hữu của xã hội. Tùy thuộc vào bản chất của mỗi
chế độ sẽ có một chế độ sở hữu cùng với những quan hệ sở hữu thích hợp,
tương ứng với chế độ xã hội đó.
Qua các thời kỳ, giai cấp thống trị sử dụng công cụ hữu hiệu nhất của
mình là pháp luật để cụ thể hóa các chế độ sở hữu sao cho phù hợp với lợi ích
của mình. Mỗi hình thái nhà nước khác nhau, giai cấp thống trị luôn tìm cách
thể hiện, ghi nhận quyền lực và lợi ích kinh tế thông qua các quy định của
pháp luật. Do vậy dưới góc độ là một phạm trù pháp lý, quyền sở hữu có thể
được hiểu theo nghĩa rộng là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước
ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình sở hữu
các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng.
Như vậy, quyền sở hữu chỉ tồn tại khi có sự phân chia giai cấp và sự

xuất hiện của nhà nước. Pháp luật chính là công cụ để giai cấp thống trị sử
dụng nhằm củng cố địa vị của mình. Thông qua pháp luật về sở hữu, giai cấp
thống trị:
- Xác nhận và bảo vệ việc chiếm giữ những tư liệu sản xuất của mình,
từ đó có thể khai thác được một cách tốt nhất các lợi ích phát sinh từ những tư
liệu sản xuất đó;
- Bảo vệ những quan hệ sở hữu phù hợp với lợi ích của giai cấp thống trị;
- Xác định mức độ xử sự và các ranh giới hạn chế cho các chủ sở hữu
trong phạm vi các quyền năng: chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản2.
Tóm lại, khái niệm quyền sở hữu được hiểu theo nghĩa rộng là tổng hợp
các quy phạm pháp luật về sở hữu trong một hệ thống pháp luật nhất định để
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực chiếm hữu, sử dụng,
2 Vũ Thị Thùy Dung (2014), Các phương thức dân sự bảo vệ quyền sở hữu, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Luật Hà Nội, tr. 5.


12

định đoạt các tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng và của cải vật chất trong xã
hội. Và hiểu theo nghĩa hẹp, quyền sở hữu là mức độ xử sự mà pháp luật cho
phép chủ sở hữu được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản trong những điều kiện nhất định. Ngoài ra, theo một phương diện
khác, quyền sở hữu còn được hiểu là một quan hệ pháp luật dân sự về sở hữu
bao gồm đầy đủ các yếu tố của quan hệ pháp luật dân sự: chủ thể, khách thể,
nội dung như mọi quan hệ pháp luật dân sự khác.
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của quyền sở hữu
Thứ nhất, quyền sở hữu đem lại cho chủ sở hữu quyền lợi cao nhất
trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản theo ý chí của mình. Trong
khi quyền chiếm hữu cho phép chủ sở hữu trong việc nắm giữ, chi phối tài
sản thuộc quyền sở hữu của mình, thì quyền sử dụng cho phép chủ sở hữu

khai thác các công dụng, hưởng hoa lợi và lợi tức có được tài sản một cách
trọn vẹn và quyền định đoạt cho phép chủ sở hữu toàn quyền quyết định số
phận pháp lý cũng như số phận của tài sản trên thực tế. Trừ những trường hợp
do pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền, lợi ích công cộng và trong chừng
mực không trái với pháp luật, đạo đức xã hội, không một tổ chức hay cá nhân
nào có quyền hạn chế, can thiệp hay cản trở chủ sở hữu thực hiện các quyền
năng của mình3.
Thứ hai, chủ sở hữu thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản của mình vì lợi ích của chính bản thân họ. Các chủ thể không
phải là chủ sở hữu khi thực hiện các công việc được ủy quyền hay theo các hợp
đồng dân sự (gửi giữ, thuê tài sản …) cũng thường là vì lợi ích của chủ sở hữu.
Thứ ba, quyền sở hữu buộc các chủ thể khác phải tôn trọng quyền của
chủ sở hữu, không được xâm phạm hay cản trở việc thực hiện quyền của chủ
sở hữu. Quyền sở hữu được Nhà nước bảo vệ rất chặt chẽ, điều này được thể

3 Vũ Thị Thùy Dung (2014), Các phương thức dân sự bảo vệ quyền sở hữu, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Luật Hà Nội, tr. 5.


13

hiện qua Hiến pháp và được cụ thể hóa ở các luật chuyên ngành: Luật dân sự,
Luật đất đai, Luật nhà ở…
1.1.3. Nội dung của quyền sở hữu
Theo quy định của BLDS năm 2015, dưới góc độ là quyền năng cơ bản
của chủ sở hữu, quyền sở hữu là những quyền năng dân sự đối với tài sản.
Điều 158 BLDS 2015 đã xác nhận: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm
hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định
của pháp luật”.
- Quyền chiếm hữu: là quyền năng của chủ sở hữu được thực hiện mọi

hành vi theo ý chí của mình để nắm giữ, chi phối tài sản của mình nhưng
không được trái pháp luật, đạo đức xã hội. Việc chi phối ở đây có thể hiểu là
ngay cả trường hợp tài sản đã được chuyển giao cho chủ thể khác nắm giữ,
quản lý hay sử dụng thì chủ sở hữu vẫn còn tiếp tục được chi phối tới tài sản,
bởi suy cho cùng thì tai sản vẫn là của chủ sở hữu nên họ có quyền giám sát,
chi phối tài sản của họ là điều hợp lý. Quyền chiếm hữu của chủ sở hữu chỉ
chấm dứt hoàn toàn khi chủ sở hữu từ bỏ quyền sở hữu chuyển quyền sở hữu
của mình cho người khác, từ bỏ quyền sở hữu, tiêu hủy tài sản… (theo các
căn cứ được quy định tại Điều 237 BLDS 2015). Trong thực tế, chủ sở hữu
thường tự mình bằng các hành vi của bản thân để thực hiện quyền chiếm hữu
tài sản hay còn gọi là quyền chiếm hữu thực tế. Tuy nhiên, trong một số
trường hợp, chủ sở hữu chuyển quyền này cho người khác thông qua ủy
quyền quản lý tài sản (Điều 187 BLDS 2015), thông qua giao dịch dân sự
(Điều 188 BLDS 2015) hoặc cũng có thể không theo ý chí của họ như bị đánh
rơi, bỏ quên (Điều 230 BLDS 2015) hay trong trường hợp gia súc, gia cầm,
vật nuôi dưới nước của họ bị thất lạc (Điều 231, 232 và 233 BLDS 2015).
Trong những trường hợp này, chủ sở hữu vẫn có quyền chiếm hữu pháp lý
với những tài sản đó trong chừng mực pháp luật quy định.
Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật là việc chiếm hữu đối với tài sản mà
không dựa trên những cơ sở của pháp luật, nghĩa là họ không phải là chủ sở hữu


14

hoặc không chiếm hữu theo căn cứ do BLDS 2015 quy định (Điều 165 BLDS
năm 2015). Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật được phân loại như sau:
+ Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình (Chiếm hữu
ngay tình): Điều 180 BLDS năm 2015 ghi nhận: “Chiếm hữu ngay tình là việc
chiếm hữu mà người chiếm hữu có căn cứ để tin rằng mình có quyền đối với
tài sản đang chiếm hữu”. Tức là, người chiếm hữu ngay tình là người tin rằng

việc chiếm hữu của mình hoàn toàn có cơ sở pháp lý, họ không thể biết được
rằng việc chiếm hữu của mình là không có căn cứ pháp luật. Ví dụ: A mua lại xe
đạp từ B mà không biết và không thể biết chiếc xe đạp đó là do B ăn trộm của
C. Trong trường hợp này, A là người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật
nhưng ngay tình.
+ Chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình (Chiếm
hữu không ngay tình): Điều 181 BLDS năm 2015 quy định: “Chiếm hữu
không ngay tình là việc chiếm hữu mà người chiếm hữu biết hoặc phải biết
rằng mình không có quyền đối với tài sản đang chiếm hữu”. Như vậy, có thể
hiểu rằng người chiếm hữu không có căn cứ pháp luật và không ngay tình là
người nhận thức được việc chiếm hữu của mình là chiếm hữu bất hợp pháp
hoặc pháp luật buộc họ phải biết được rằng việc chiếm hữu đó là không có cơ
sở pháp lý. Ví dụ: Nếu trong trường hợp ở ví dụ trên, nếu A biết rằng chiếc xe
đạp mà B bán cho mình là đồ ăn trộm mà vẫn mua thì A là người chiếm hữu
không có căn cứ pháp luật và không ngay tình.
- Quyền sử dụng: là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ
tài sản (Điều 189 BLDS năm 2015). Đây là quyền năng quan trọng và có ý
nghĩa thực tế. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi,
lợi tức từ tài sản tùy theo ý chí của mình mà không gây thiệt hại hoặc làm ảnh
hưởng đến lợi ích của nhà nước, lợi ích của cộng đồng, xã hội. Ngoài chủ sở
hữu thì chủ thể khác có thể được sử dụng tài sản thông qua hợp đồng hoặc theo
quy định của pháp luật (Điều 191 BLDS năm 2015) và người chiếm hữu không


15

có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình cũng có quyền sử dụng tài sản theo đúng
tính năng, công dụng của tài sản.
- Quyền định đoạt: là quyền năng của chủ sở hữu trong việc quyết định
số phận pháp lý và số phận thực tế của tài sản thuộc quyền sở hữu của mình

thông qua các hành vi như bán, trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ,
tiêu dùng, tiêu hủy hoặc thực hiện các hình thức định đoạt khác phù hợp với
quy định của pháp luật đối với tài sản (Điều 192, 194 BLDS 2015). Quyền
định đoạt là quyền có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc quyết định số phận
pháp lý của tài sản. Thông qua quyền định đoạt tài sản có thể làm chấm dứt
quyền sở hữu của chủ sở hữu này và phát sinh quyền sở hữu của chủ sở hữu
khác đối với tài sản. Quyền định đoạt cũng cho phép chủ sở hữu có quyền tiếp
tục tiêu dùng hoặc tiêu thụ tài sản đó tùy theo nhu cầu của mình. Quyền định
đoạt chỉ bị hạn chế trong trường hợp do pháp luật quy định. Ngoài chủ sở hữu
thì người được chủ sở hữu ủy quyền định đoạt tài sản cũng được định đoạt tài
sản, người giám hộ được định đoạt tài sản của người được giám hộ để phục
vụ cho nhu cầu của người được giám hộ, Nhà nước được phép định đoạt tài
sản của cá nhân, tổ chức trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng,
an ninh, trong trường hợp khẩn cấp hay phòng chống thiên tai.
Dưới góc độ là quan hệ pháp luật dân sự, quyền sở hữu bao gồm ba yếu
tố cấu thành sau:
- Chủ thể của quan hệ sở hữu: là những người tham gia quan hệ pháp
luật dân sự về sở hữu bao gồm các cá nhân, pháp nhân, các tập thể, Nhà
nước… Các chủ thể này có đầy đủ các quyền năng: chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản.
- Khách thể của quan hệ sở hữu: là những lợi ích vật chất, tinh thần và
lợi ích xã hội khác có thể thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể mà vì chúng họ


16

tham gia vào các quan hệ pháp luật. Khách thể của quan hệ pháp luật về sở
hữu là tài sản, được xác định tại Điều 105 BLDS 2015 như sau:
“1. Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản.
2. Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động

sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai.”
- Nội dung của quan hệ sở hữu: bao gồm quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể khi tham gia quan hệ pháp luật. Ba quyền năng chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt hợp thành nội dung của quyền sở hữu.
Cả ba quyền năng cụ thể tạo thành một thể thống nhất trong nội dung của
quyền sở hữu, chúng có mối liên quan mật thiết với nhau nhưng mỗi quyền năng
lại mang một ý nghĩa khác nhau. Pháp luật nước ta ghi nhận và bảo vệ quyền sở
hữu ở cả ba quyền năng này, bởi vậy, khi quyền sở hữu bị xâm phạm thì chủ sở
hữu được phép áp dụng các phương thức bảo vệ quyền sở hữu4.
1.2. Các phương thức bảo vệ quyền sở hữu
1.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Quyền sở hữu là một trong các quyền cơ bản, quan trọng nhất của công
dân, do đó, pháp luật của các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đều
có những quy định để bảo vệ quyền sở hữu. Vấn để bảo vệ quyền sở hữu
được thừa nhận ngay tại Hiến pháp – một văn bản pháp lý có giá trị cao nhất,
cụ thể, Điều 32 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,
nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế khác.
2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ.
3. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích
quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”.
4 Vũ Thị Thùy Dung (2014), Các phương thức dân sự bảo vệ quyền sở hữu, Khóa luận tốt nghiệp, Trường
Đại học Luật Hà Nội, tr. 8


17

Theo từ điểm Tiếng Việt, “Bảo vệ có nghĩa là giữ gìn cho khỏi hư

hỏng”, hay “Bảo vệ là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm phạm để giữ cho được
nguyên vẹn...”. Tựu chung lại, đa phần các từ điểm, tài liệu đều thừa nhận bảo
vệ là chống lại sự xâm phạm, hủy hoại tài sản hay các lợi ích hợp pháp khác
nhằm giữ gìn, bảo đảm sự nguyên vẹn của các giá trị.
Bảo vệ quyền sở hữu hiểu theo cách thức thông thường là sự chống lại
mọi sự xâm phạm đến tài sản, qua đó, bảo vệ chủ sở hữu được thực hiện đầy
đủ các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc sở hữu của
mình. Dưới góc độ pháp lý, bảo vệ quyền sở hữu được hiểu là những biện
pháp trong khuôn khổ pháp luật tác động đến hành vi xử sự của con người,
nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu,
khắc phục thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu5.
Nhà nước ta sử dụng nhiều ngành luật khác nhau để bảo vệ quyền sở
hữu như Luật hành chính, Luật hình sự, Luật dân sự… Mỗi ngành luật đều có
những phương pháp, cách thức phù hợp với chức năng, đặc trưng của mình.
Căn cứ mức độ can thiệp của quyền lực nhà nước, tính chất mức độ hành vi
xâm phạm quyền sở hữu, pháp luật ghi nhận các biện pháp phù hợp để quyền
sở hữu được bảo vệ bao gồm: biện pháp hành chính, biện pháp dân sự và biện
pháp hình sự. Mỗi biện pháp được điều chỉnh bởi một ngành luật riêng, mang
đến những biện pháp và hiệu quả bảo vệ quyền sở hữu khác nhau.
1.2.1.1. Phương thức hình sự
Với tư cách là biện pháp bảo vệ sở hữu mang tính quyền lực nhà nước
cao nhất, pháp luật hình sự quy định một số hành vi xâm phạm quyền sở hữu
được xác định là tội phạm và đặt ra các chế tài áp dụng đối với các chủ thể
thực hiện các hành vi phạm tội này. Bảo vệ quyền sở hữu bằng biện pháp hình
sự được thực hiện thông qua hệ thống cơ quan tố tụng như cơ quan cảnh sát
5 TS. Nguyễn Hữu Huyên – Song Huy (2009), “Bảo vệ quyền sở hữu nhìn từ góc độ luật so sánh”


18


điều tra, cơ quan Viện kiểm sát, cơ quan Tòa án, cơ quan Thi hành án với các
quy định đầy đủ về thẩm quyền từ phát hiện, điều tra, khởi tố đến xét xử và
thi hành án. Với tính trừng trị nghiêm khắc, không có sự thỏa thuận về hậu
quả mà người thực hiện hành vi xâm phạm quyền sở hữu được xác định là tội
phạm phải gánh chịu, biện pháp bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp
luật hình sự mang tính chất trừng trị, răn đe qua đó giáo dục ý thức cần phải
tôn trọng quyền sở hữu của người khác, răn đe những cá nhân đang có ý định
thực hiện những hành vi lệch chuẩn nhằm ngăn chặn các hành vi này gia tăng
trên thực tế, góp phần ổn định trật tự đời sống xã hội. Chế tài trong phương
thức hình sự bao gồm: cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, trục xuất,
phạt tù,… và nặng nhất là hình phạt tử hình. Ví dụ: Phạm tội cướp tài sản có
thể bị phạt tù lên đến hai mươi năm (khoản 3 Điều 133 BLHS); Phạm tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản có thể bị tử hình (khoản 4 Điều 139 BLHS)…
Tuy nhiên, do mục đích cao nhất của biện pháp hình sự là trừng trị
người có hành vi xâm phạm quyền sở hữu nhằm bảo vệ trật tự, ổn định quan
hệ xã hội, nên không mang tính bảo đảm lợi ích của người bị thiệt hại do hành
vi xâm phạm quyền sở hữu gây ra. Bên cạnh đó, bảo vệ quyền sở hữu bằng
biện pháp hình sự được thực hiện thông qua hệ thống cơ quan nhà nước với
các trình tự, thủ tục, thời hạn phải tuân thủ do đó không đáp ứng được tính kịp
thời, hạn chế tối đa thiệt hại đối với người có quyền.
1.2.1.2. Phương thức hành chính
Một biện pháp bảo vệ quyền sở hữu mang tính quyền lực nhà nước
được ghi nhận là bảo vệ quyền sở hữu thông qua các biện pháp hành chính áp
dụng trong từng lĩnh vực cụ thể. Luật hành chính là ngành luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước nhằm
đảm bảo trật tự xã hội, hoàn thiện hoạt động chấp hành - điều hành của nhà
nước. Vì vậy, phương pháp điều chỉnh trong luật hành chính là phương pháp


19


mệnh lệnh được hình thành từ quan hệ quyền lực – phục tùng mang tính bất
bình đẳng. Chính sự áp đặt ý chí, khả năng áp dụng các biện pháp cưỡng chế,
tính đơn phương và bắt buộc trong các qui định hành chính là cách thức bảo
vệ quyền sở hữu mang quyền lực nhà nước.
Luật hành chính bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định những thể lệ
nhằm quản lý và bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và cá nhân công dân.
Việc áp dụng các biện pháp hành chính (gồm cưỡng chế, phòng ngừa, ngăn
chặn) do các cơ quan hành chính nhà nước hoặc tòa án nhân dân quyết định
đối với cá nhân, tổ chức đã có hành vi vi phạm hành chính xâm phạm đến tài
sản, quyền sở hữu tài sản hoặc cản trở trái pháp luật chủ sở hữu khi những
hành vi vi phạm này chưa đến mức bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Các biện
pháp cưỡng chế trong phương thức hành chính là: phạt tiền, tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính…
Như vậy, cũng tương tự như phương thức bảo vệ quyền sở hữu bằng
biện pháp hình sự, mục tiêu hướng đến của bảo vệ quyền sở hữu bằng biện
pháp hành chính là trật tự quản lý nhà nước mà pháp luật đã ghi nhận. Trong
phương thức này, người có hành vi vi phạm hành chính xâm hại đến tài sản,
quyền sở hữu hay cản trở trái pháp luật chủ sở hữu thực hiện quyền sẽ bị cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền xử lý mà không có bất kỳ một sự thỏa thuận
nào giữa các bên chủ thể. Hơn nữa, các biện pháp xử lý vi phạm hành chính
được áp dụng trên người có hành vi xâm phạm nhưng chưa thực sự đảm bảo
được quyền lợi của người bị xâm hại. Các quy định về trình tự, thủ tục hành
chính còn rườm rà chưa kể nạn quan liêu, sách nhiễu trong quá trình thực hiện
thủ tục hành chính khiến việc bảo vệ quyền sở hữu của người có quyền không
được thực hiện nhanh chóng và có hiệu quả.
1.2.2. Khái niệm, đặc trưng của phương thức bảo vệ quyền sở hữu
trong pháp luật Dân sự



20

1.2.2.1. Khái niệm
Quyền sở hữu ghi nhận con người có quyền chiếm hữu, sử dụng và
định đoạt tài sản thì bảo vệ quyền sở hữu là cách thức, biện pháp để bảo vệ và
thực thi các quyền năng này trên thực tế. Bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật
dân sự là sự ghi nhận của Nhà nước các biện pháp, cách thức trong luật dân
sự mà chủ thể quyền sở hữu sử dụng để chống lại các hành vi có nguy cơ
hoặc đã xâm phạm đến các quyền năng của mình. Bằng pháp luật, nhà nước
ghi nhận và bảo đảm cho quyền sở hữu được tôn trọng và thực hiện. Điều 163
BLDS năm 2015 đã khẳng định:
“1. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu,
quyền khác đối với tài sản.
2. Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích
quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc
trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường”.
Quy định này đã khẳng định quyền sở hữu của cá nhân là bất khả xâm
phạm, không một chủ thể nào trong xã hội được phép xâm phạm hay tước
đoạt quyền sở hữu của chủ sở hữu. Tuy nhiên, luật dân sự cũng giống như các
nghành luật khác, các vấn đề về an ninh, quốc phòng, lợi ích quốc gia và lợi
ích của dân tộc luôn được ưu tiên hàng đầu, do đó, nếu xuất phát từ các lý do
này thì Nhà nước được trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của
tổ chức, cá nhân theo giá thị trường.
Để quyền sở hữu của các cá nhân, tổ chức được bảo vệ, bên cạnh quy
định chung về nguyên tắc bảo vệ quyền sở hữu (Điều 163) thì BLDS năm
2015 ghi nhận cụ thể các phương thức bảo vệ quyền sở hữu, đây là các cách
thức, biện pháp mà theo quy định của luật dân sự có thể được sử dụng trong
việc bảo vệ quyền sở hữu của chủ sở hữu.



21

Vấn đề bảo vệ quyền sở hữu và các phương thức bảo vệ quyền sở hữu
được ghi nhận từ rất sớm trong pháp luật dân sự, tuy nhiên, khái niệm về
phương thức bảo vệ quyền sở hữu còn là vấn đề mới mẻ, chưa được chú trọng
quan tâm nghiên cứu trong thời gian vừa qua. Điều này dẫn tới tình trạng, có
rất ít các công trình nghiên cứu đưa ra các khái niệm hoàn chỉnh, toàn diện về
phương thức bảo vệ quyền sở hữu nói chung và phương thức bảo vệ quyền sở
hữu trong pháp luật dân sự nói riêng. Hiện nay, liên quan đến vấn đề này còn
nhiều quan điểm khác nhau:
Có quan điểm cho rằng, phương thức bảo vệ quyền sở hữu là cách thức
mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng để khôi phục những thiệt hại vật chất
cho chủ sở hữu. Quan điểm này gắn phương thức bảo vệ quyền sở hữu với
mục đích “khôi khục thiệt hại vật chất” cho chủ sở hữu. Đây là quan điểm
hiểu các phương thức bảo vệ quyền sở hữu theo nghĩa hẹp, chỉ được áp dụng
khi có hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu, do đó, những phương thức bảo
vệ quyền sở hữu chỉ hướng tới mục đích khôi phục thiệt hại vật chất cho chủ
sở hữu. Quan điểm không chính xác vì việc bảo vệ quyền sở hữu được thực
hiện ngay cả khi quyền sở hữu chưa bị xâm phạm, đây là những phương thức
bảo vệ nhằm ngăn ngừa, phòng tránh việc xâm phạm quyền sở hữu từ các chủ
thể khác. Do đó, không phải mọi phương thức bảo vệ quyền sở hữu đều
hướng tới việc khôi phục thiệt hại (Ví dụ: Phương thức tự bảo vệ, chủ sở hữu
bằng các cách thức, biện pháp để không cho chủ thể khác xâm phạm đến tài
sản sở hữu của mình) hoặc có những trường hợp phương thức bảo vệ quyền
sở hữu không thể đạt được mục đích khôi phục thiệt hại do tài sản không còn.
Quan điểm khác lại cho rằng, phương thức bảo vệ quyền sở hữu là
những biện pháp mà cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dụng để bảo vệ cho
quyền sở hữu của các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Theo tác giả, đây là
một khái niệm chung chung “phương thức bảo vệ quyền sở hữu…để bảo vệ



22

quyền sở hữu”, đồng thời, khái niệm chưa ghi nhận đầy đủ các chủ thể được
sử dụng phương thức bảo vệ quyền sở hữu. Khái niệm này mới chú trọng đến
vai trò của Nhà nước trong vấn đề bảo vệ quyền sở hữu mà quên đi vai trò của
chủ sở hữu tài sản trong việc bảo vệ quyền sở hữu của chính mình.
Còn theo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Huyên – Song Huy thì “phương thức
bảo vệ quyền sở hữu là cách thức mà Nhà nước và chủ sở hữu sử dụng để bảo
vệ chủ sở hữu khỏi những hành vi xâm hại đến quyền sở hữu, khắc phục
những thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu”6. So với các định nghĩa nên trên,
định nghĩa này đã khắc phục được tính chung chung và thừa nhận vai trò của
chủ sở hữu trong vấn đề bảo vệ quyền sở hữu tài sản. Theo định nghĩa này,
phương thức bảo vệ quyền sở hữu có các đặc điểm sau đây:
(i) Phương thức bảo vệ quyền sở hữu là cách thức, biện pháp hợp pháp
được luật định. Điều này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong thực tiễn đời
sống – xã hội, những phương thức được thừa nhận trong luật là cơ sở pháp lý
để người dân sử dụng bảo vệ quyền sở hữu của mình. Trên thực tế, có rất
nhiều trường hợp, người dân để bảo vệ quyền sở hữu của mình mà đã sử dụng
rất nhiều các phương thức trái luật (những phương thức không được pháp luật
thừa nhận). Mặc dù, về mục đích thì hợp pháp (nhằm bảo vệ quyền sở hữu)
nhưng phương thức tiến hành vi phạm pháp luật thì không những chủ sở hữu
không bảo vệ được quyền sở hữu của mình mà còn có thể có các hành vi vi
phạm pháp luật, gây thiệt hại cho chủ thể khác. Ví dụ: Trên thực tế, khi bị chủ
thể khác xâm phạm đến quyền sở hữu, chủ sở hữu thường có hành vi hành
hung, đánh người để mang tài sản về hoặc thuê xã hội đen để giải quyết…
(ii) Chủ thể bảo vệ quyền sở hữu: đối với phương thức bảo vệ quyền sở
hữu trong pháp luật hành chính và pháp luật hình sự, chủ thể bảo vệ là Tòa án,
các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác. Bảo vệ quyền sở hữu trong luật
hành chính và hình sự thể hiện rõ nét vai trò, quyền lực của Nhà nước. Còn

đối với phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong luật dân sự, việc bảo vệ
6 TS Nguyễn Hữu Huyên – Song Huy (2009), “Bảo vệ quyền sở hữu nhìn từ góc độ luật so sánh”.


23

quyền sở hữu trước tiên được ghi nhận cho chủ sở hữu tài sản. Chính chủ sở
hữu là người có trách nhiệm bảo vệ tài sản của mình. Bên cạnh đó, chủ sở hữu
được quyền yêu cầu Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác bảo vệ
quyền sở hữu của mình.
(iii) Mục đích của các phương thức bảo vệ quyền sở hữu: Mục đích
cuối cùng của các phương thức bảo vệ quyền sở hữu là nhằm bảo vệ quyền sở
hữu để bảo đảm quyền lợi hợp pháp của chủ sở hữu. Tuy nhiên, với mỗi
phương thức bảo vệ quyền sở hữu khác nhau thì mục tiêu hướng tới cũng
không giống nhau. Tùy từng trường hợp trên thực tế và theo quy định của
pháp luật, mỗi một trường hợp bảo vệ quyền sở hữu có thể áp dụng các
phương thức khác nhau sao cho phù hợp. Trong luật dân sự, các phương thức
bảo vệ quyền sở hữu có các mục đích sau đây: (i) Ngăn ngừa, phòng tránh sự
xâm phạm quyền sở hữu của các chủ thể khác trong xã hội, đây là mục đích
có trong phương thức tự bảo vệ của chủ sở hữu. Chủ sở hữu thông qua hành
vi của mình áp dụng các phương thức cất giấu, bảo quản tài sản nhằm bảo vệ
sự toàn vẹn của tài sản, tránh các hành vi bất hợp pháp tác động và gây ra
thiệt hại cho tài sản; (ii) Lấy lại tài sản: phương thức áp dụng để đạt được mục
đích này là phương thức đòi lại tài sản. Việc đòi lại tài sản có thể được tiến
hành bởi chính chủ sở hữu hoặc thông qua Tòa án, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền khác (khi chủ sở hữu yêu cầu). Tuy nhiên, chỉ áp dụng được phương
thức này khi tài sản phải còn và phải phù hợp với các quy định của luật; (iii)
Bù đắp thiệt hại cho chủ sở hữu: phương thức để nhằm đạt được mục đích này
là phương thức yêu cầu bồi thường thiệt hại. Phương thức này có thể tiến
hành bởi chủ sở hữu tài sản hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chỉ áp

dụng phương thức này thì có thiệt hại thực tế xảy ra đối với tài sản. Ngoài các
mục đích chính đã phân tích ra, các phương thức bảo vệ quyền sở hữu còn


24

nhằm mục đích để đảm bảo chủ sở hữu được chiếm hữu, khai thác tài sản của
mình một cách toàn vẹn và không gặp phải sự cản trở của chủ thể thể khác.
Trên cơ sở phân tích và bình luận để chỉ ra các điểm hạn chế, tích cực
trong các khái niệm về phương thức bảo vệ quyền sở hữu, tác giả đưa ra định
nghĩa về vấn đề này như sau:
Phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự là các cách
thức, biện pháp được ghi nhận trong luật dân sự, do chủ sở hữu, Tòa án hoặc
cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác sử dụng nhằm mục đích ngăn chặn
các hành vi xâm phạm, khôi phục lại các lợi ích vật chất hoặc đền bù những
thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.
1.2.2.2. Đặc trưng của phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong pháp
luật dân sự
Phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự có những
điểm đặc trưng khác với phương thức hành chính và hình sự trong việc bảo vệ
quyền sở hữu như sau:
Thứ nhất, về mục đích bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự
Trong một nghiên cứu luật học đã khẳng định: “Khác với việc thực hiện
bảo vệ quyền sở hữu theo quy định của pháp luật hình sự và pháp luật hành
chính bên cạnh việc bảo vệ quyền sở hữu còn nhằm hướng tới mục đích cao
hơn là trật tự xã hội, trật tự quản lý hành chính do nhà nước thông qua pháp
luật thiết lập. Mục đích cao nhất của việc quy định các biện pháp bảo vệ
quyền sở hữu theo pháp luật dân sự chính là đảm bảo quyền dân sự của cá
nhân, cơ quan, tổ chức, đảm bảo quá trình thực hiện quyền sở hữu, chiếm hữu
hợp pháp diễn ra một cách bình thường và mang lại lợi ích cho chủ sở hữu,

người chiếm hữu hợp trong quá trình chiếm hữu, khai thác, sử dụng tài sản
bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”7. Mục đích trước tiên


25

và quan trọng nhất của các phương bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân
sự là hướng tới bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu. Do đó, những
phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự nhằm ngăn chặn các
hành vi có nguy cơ gây thiệt hại, cản trở quá trình chiếm hữu, sử dụng tài sản.
Người áp dụng các phương thức nhằm ngăn chặn, phòng ngừa này thuộc về
trách nhiệm của chủ sở hữu. Bằng hành vi của mình, chủ sở hữu tự bảo vệ
quyền sở hữu thông qua việc cất giữ, bảo quản tài sản. Ví dụ: Chủ sở hữu cất
giấu vàng, tiền ở trong két sắt; chủ sở hữu trang bị hệ thống an ninh, cửa
chống trộm thông minh cho tòa nhà của mình…Đây được đánh giá là một
trong các phương thức bảo vệ quyền sở hữu một cách hữu hiệu nhất. Phương
thức này chỉ áp dụng được khi quyền sở hữu chưa bị xâm phạm, còn khi
quyền sở hữu đã bị xâm phạm thì tủy tùy từng trường hợp, các phương thức
bảo vệ quyền sở hữu được áp dụng sẽ mang những mục đích khác nhau. Khi
tài sản rời khỏi sự chiếm hữu của chủ sở hữu thì tùy theo thực trạng tài sản và
phù hợp với quy định của pháp luật, chủ sở hữu được quyền đòi lại tài sản
hoặc yêu cầu đền bù cho chủ sở hữu nếu có thiệt hại phát sinh.
Không giống như phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong luật hành
chính và luật hình sự, kết quả của việc áp dụng các biện pháp bảo vệ quyền sở
hữu một phần hướng tới đảm bảo lợi ích cho chủ sở hữu thì còn mục đích
trừng trị, tước đoạt tự do, thậm chí tính mạng của các chủ thể có hành vi xâm
phạm thì các phương thức bảo vệ quyền sở hữu trong pháp luật dân sự chỉ
nhằm mục đích khôi phục hay bồi thường lợi ích vật chất cho chủ thể quyền
là người sở hữu tài sản. Do đó, xét dưới góc độ kinh tế, phương thức bảo vệ
quyền sở hữu trong pháp luật dân sự là phương thức mang lại và bảo đảm lợi

ích vật chất tốt nhất cho chủ sở hữu.

7 Tống Thị Hương (2014), Bảo vệ quyền sở hữu theo pháp luật dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.11


×