Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố hà nội (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (680.07 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC ÁNH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - NĂM 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN NGỌC ÁNH

THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số


: 60380104

HÀ NỘI - NĂM 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, thông tin và kết quả được nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của Luận văn chưa từng được công bố trong bất kì công trình
nghiên cứu khoa học nào khác.

Xác nhận của người hướng dẫn

Tác giả Luận văn

Nguyễn Ngọc Ánh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra


KSĐT

Kiểm sát điều tra

THQCT

Thực hành quyền công tố

TTHS

Tố tụng hình sự

VKS

Viện kiểm sát

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng số 1: Số liệu vụ án, bị can tội xâm phạm sở hữu VKS hai cấp thành phố Hà
Nội kiểm sát việc khởi tố giai đoạn 2011 – 2015
Bảng số 2: Số liệu kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong các tội xâm
phạm sở hữu giai đoạn 2011 - 2015
Bảng số 3: Số vụ án, bị can tội xâm phạm sở hữu tạm đình chỉ giai đoạn 2011 –
2015

Bảng số 4: Số vụ án, bị can tội xâm phạm sở hữu đình chỉ giai đoạn 2011 - 2015
Bảng số 5: Số vụ án VKS trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung giai đoạn
2011 - 2015


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

3

3.Mục đích, nhiệm vụ của đề tài

4

4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài

5

5.Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


6

6.Những điểm mới và đóng góp của luận văn6
7. Kết cấu của luận văn

7

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRACÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
8
1.1.Khái niệm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra 8
1.1.1.Khái niệm thực hành quyền công tố8
1.1.2.Khái niệm Kiểm sát điều tra15
1.1.3.Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra19
1.2.Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án xâm phạm sở hữu
23
1.2.1.Các tội xâm phạm sở hữu23
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án xâm phạm sở hữu
27
1.3.Khái quát lịch sử hình thành chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra ở Việt Nam
29
CHƯƠNG 2. PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC TRẠNG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ÐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ
HỮU TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
35
2.1. Pháp luật hiện hành về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ

án hình sự
35
2.1.1. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ
án hình sự
35
2.1.2. Quy định của pháp luật về kiểm sát điều tra vụ án hình sự

44


2.2. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án xâm
phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội

47

2.2.1. Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố
Hà Nội
49
2.2. 2. Những hạn chế trong thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
xâm phạm sở hữu của Viện kiểm sát nhân dân hai cấp thành phố Hà Nội và nguyên
nhân của những hạn chế
56
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
66
3.1. Giải pháp về pháp luật
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật Tố tụng hình sự


66
66

3.1.2. Hoàn thiện pháp luật hình sự và tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật hình
sự
69
3.2. Những giải pháp khác

74

3.2.1. Tiếp tục kiện toàn biên chế, nâng cao‎ ý thức chính trị, phẩm chất đạo đức và
trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên ở Viện kiểm sát hai cấp
Thành phố Hà Nội
74
3.2.2. Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho ngành Kiểm sát; hoàn
thiện chế độ chính sách đối với cán bộ, Kiểm sát viên.
77
3.2.3. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo và kiểm tra của Viện kiểm sát cấp trên
đối với Viện kiểm sát cấp dưới.
79
3.2.4. Hoàn thiện cơ chế giám sát của Hội đồng nhân dân và của nhân dân đối với
hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các tội xâm phạm sở hữu của
Viện kiểm sát nhân dân ở thành phố Hà Nội.
80
3.2.5. Tiếp tục tăng cường quan hệ phối hợp giữa ngành Kiểm sát Hà Nội với Cơ quan
điều tra trong việc giải quyết các vụ án xâm phạm sở hữu
82
KẾT LUẬN

84


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), đất nước ta tiến hành
công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản
Việt Nam. Trải qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành quả
đáng khích lệ trên mọi mặt của đời sống chính trị, xã hội… nền kinh tế cơ bản
phát triển theo hướng kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả mà nền kinh tế thị
trường mang lại thì mặt trái của nó chính là tai, tệ nạn xã hội, là vi phạm pháp
luật và tội phạm gia tăng, diễn biến của tội phạm phức tạp, tính chất thủ đoạn
ngày càng tinh vi. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam hiện
hành, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là cơ quan duy nhất có chức năng thực
hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp, trong đó bao
gồm hoạt động Kiểm sát điều tra (KSĐT). KSĐT là hoạt động của VKSND
trong quá trình giải quyết án hình sự. KSĐT đảm bảo cho hoạt động điều tra
được thực hiện theo đúng quy định của pháp luật, đảm bảo mọi hành vi vi phạm
và tội phạm phải được phát hiện và xử lý trước pháp luật.
Công tác THQCT và KSĐT được thực hiện đúng theo quy định của pháp
luật sẽ giúp cho việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can được đúng người đúng tội,
hoạt động điều tra được đầy đủ, chính xác và kịp thời, tạo tiền đề cho công tác
truy tố và xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, tránh làm oan
người vô tội hay bỏ lọt tội phạm.
Trước những yêu cầu của tình hình mới, VKSND cần tiếp tục thực hiện

đổi mới toàn diện cả về tổ chức và hoạt động thì mới hoàn thành được nhiệm vụ
của mình.Việc đổi mới của VKSND đã được Nghị quyết số 08/ NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị: “Về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp trong thời gian tới” xác định: “Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức
năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt
động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án trong suốt quá trình
tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, xử lý
kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố tụng khi thi
hành nhiệm vụ…”
Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý… Nghị quyết số 49 - NQ/TW ngày 02/6/2005 của


Bộ Chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam (khoá X) “Về
chiến lược cải cách đến năm 2020” đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của các
cơ quan tư pháp trong đó có VKSND:“...Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ,
cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý. Đội ngũ cán bộ tư
pháp, bổ trợ tư pháp còn thiếu, trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị của một
bộ phận cán bộ còn yếu, thậm chí có một số cán bộ sa sút về phẩm chất, đạo đức
và trách nhiệm nghề nghiệp. Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt giam
giữ, truy tố xét xử. Cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các cơ quan tư pháp
còn thiếu thốn, lạc hậu…”
Thành phố Hà Nội là Thủ đô, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của
nước ta. Trong những năm gần đây, bên cạnh việc giữ vững ổn định chính trị,
tập trung phát triển kinh tế, Thành phố Hà Nội còn phải đối mặt với nhiều vấn
đề xã hội cần giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phòng và chống tội phạm
nói chung, phòng chống tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng. So với các địa
phương trên cả nước, tội phạm xâm phạm sở hữu ở Thành phố Hà Nội luôn
chiếm tỷ lệ lớn và đang có chiều hướng gia tăng. Loại tội phạm này đã và đang
diễn biến phức tạp với tính chất, thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn gây không ít

khó khăn cho công tác điều tra, giải quyết vụ án.
Công tác THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở
Thành phố Hà Nội trong những năm gần đây đạt được nhiều kết quả quan trọng,
góp phần không nhỏ vào công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm và tội phạm
xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, qua tổng kết thực tiễn cho thấy công tác THQCT
và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở Thành phố Hà Nội còn bộc lộ
nhiều hạn chế như: Hoạt động KSĐT chưa được thực hiện ngay từ giai đoạn đầu
của vụ án, Kiểm sát viên (KSV) thiếu chủ động trong việc đề ra yêu cầu điều tra,
chưa thường xuyên trao đổi nắm bắt thông tin về hoạt động điều tra nên còn bị
động trong quá trình giải quyết vụ án, kỹ năng KSĐT của nhiều KSV còn hạn
chế… Điều này dẫn đến nhiều vụ án bị kéo dài, phải gia hạn thời hạn điều tra,
thời hạn tạm giam, còn bỏ lọt tội phạm…Những tồn tại nêu trên xuất phát từ
nhiều nguyên nhân khác nhau, tuy nhiên nguyên nhân cơ bản là do nhận thức
pháp luật và áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết các vụ án xâm phạm sở
hữu của Cơ quan điều tra (CQĐT) và VKSND còn chưa thống nhất. Lý luận về
hoạt động kiểm sát trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự chưa được xem
xét, nghiên cứu có tính hệ thống, đầy đủ và toàn diện. Thực tiễn hoạt động của


VKSND trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự nói chung và các vụ án xâm
phạm sở hữu nói riêng chưa được quan tâm, nghiên cứu, tổng kết thường xuyên.
Trước thực trạng nêu trên, với xu hướng hội nhập quốc tế như hiện nay,
việc nghiên cứu về cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt động THQCT và KSĐT các
tội xâm phạm sở hữu, đánh giá kết quả đạt được và những hạn chế, tồn tại từ đó
đưa ra các giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả và chất lượng THQCT và
KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở Thành phố Hà Nội là vô cùng
cần thiết.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, học viên chọn đề tài: “Thực hành
quyền công tố và Kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn
thành phố Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
THQCT và KSĐT là chủ đề đã được nhiều học giả nghiên cứu dưới góc
độ lý luận và từ nhiều phương diện khác nhau, trong đó phải kể đến một số công
trình điển hình như sau:
- Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Hà Thị Minh Hạnh (2011), Chất lượng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của Viện kiểm
sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Hà Nội
- Cao Việt Cường (2013), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành
quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
(trên cơ sở số liệu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội), Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội.
- Trịnh Duy Tám (2005), Áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công
tố ở giai đoạn điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong tố
tụng hình sự theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ X - Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.
Bên cạnh đó còn có các bài viết của nhiều tác giả khác với các ý kiến,
quan điểm khác nhau được đăng tải trên các báo, tạp chí như: Tổ chức bộ máy


và chức năng, nhiệm vụ của Viện Kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp của
tác giả Lê Hữu Thể, Tạp chí Kiểm sát số 14 – 16, 2008; Bàn về mô hình Viện
kiểm sát theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Lại Hợp Việt, Tạp chí Kiểm
sát số 14 – 16, 2008; Thể chế chủ trương “Tăng cường trách nhiệm của công tố
trong hoạt động điều tra” trong Bộ luật tố tụng hình sự của tác giả Nguyễn Tiến
Sơn, Tạp chí Kiểm sát số 09, 2015…

Các công trình nghiên cứu các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ khác
nhau của hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án hình sự. Tuy nhiên, chưa có
một công trình khoa học nào nghiên cứu hoạt động THQCT và KSĐT cụ thể đối
với các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
- Mục đích của đề tài: Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về THQCT và
KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu, đánh giá thực trạng và đưa ra các đề xuất,
phương hướng để nâng cao chất lượng THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm
sở hữu nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó góp phần hoàn thiện
hơn nữa các quy định của pháp luật về THQCT và KSĐT các vụ án hình sự theo
tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
Chính trị đề ra.
- Nhiệm vụ của đề tài: Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có
những nhiệm vụ sau:
+ Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về THQCT và KSĐT nói chung và
đặc điểm THQCT và KSĐT đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng
+ Phân tích, đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại, hạn chế
và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế về THQCT và KSĐT các tội xâm
phạm sở hữu của VKSND ở Thành phố Hà Nội (ở cả hai cấp)
+ Đề xuất những giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo và nâng cao chất
lượng công tác THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở
Thành phố Hà Nội.
4. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về THQCT và KSĐT các vụ
án hình sự và hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu của
VKSND ở Hà Nội.


- Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi về không gian và thời gian: Luận văn chủ yếu nghiên cứu thực
tiễn áp hoạt động THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của VKSND ở
Thành phố Hà Nội trong giai đoạn 05 năm từ năm 2011 đến hết năm 2015.
+ Phạm vi về giai đoạn tố tụng: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn
đề lý luận và thực tiễn về THQCT và KSĐT các tội xâm phạm sở hữu của
VKSND ở Thành phố Hà Nội bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra hoặc phát hiện
được dấu hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kết thúc điều tra bằng bản
kết luận điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho Viện kiểm sát đề nghị
truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra vụ án.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và pháp
luật, đặc biệt là các quan điểm chỉ đạo của Đảng về cải cách tư pháp trong Nghị
quyết số 08/ NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị: “Về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị: “Về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020”.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương
pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học điều tra hình
sự và các phương pháp, kỹ năng khác, như: Phương pháp kết hợp giữa lý luận và
thực tiễn; phương pháp phân tích - tổng hợp; phương pháp lịch sử cụ thể; kết hợp
sử dụng các phương pháp khoa học khác như : thống kê tội phạm, so sánh, phương
pháp hệ thống…
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý
luận và thực tiễn, vì đây là công trình nghiên cứu đầu tiên và có hệ thống ở cấp
độ một luận văn thạc sĩ luật học về hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án xâm
phạm sở hữu mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong việc áp dụng
pháp luật tố tụng hình sự và hình sự để làm sáng tỏ các vấn đề cần chứng minh
trong vụ án hình sự thông qua hoạt động THQCT và KSĐT của Viện kiểm sát.
Những điểm mới cơ bản của luận văn là:

- Phản ánh được thực trạng THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu;


- Phân tích, đánh giá, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế mà hoạt động
THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sở hữu thường gặp phải;
- Đưa ra những vấn đề cần lưu ý, những kinh nghiệm khi THQCT và KSĐT
các vụ án xâm phạm sở hữu;
- Đề xuất hoàn thiện hơn nữa các quy định của pháp luật tố tụng hình sự cũng
như pháp luật hình sự liên quan đến THQCT và KSĐT các vụ án xâm phạm sở
hữu trong chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ yêu
cầu không ngừng nâng cao chất lượng công tác THQCT và KSĐT các tội xâm
phạm sở hữu, đồng thời có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng
dạy, nghiên cứu các chuyên đề có liên quan đến thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu
Chương 2: Pháp luật hiện hành và thực trạng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội từ
năm 2011 đến năm 2015.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố và kiểm
sát điều tra các vụ ánxâm phạm sở hữu trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ
KIỂM SÁT ÐIỀU TRACÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1.Khái niệm, mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát

điều tra
1.1.1. Khái niệm thực hành quyền công tố
1.1.1.1. Quyền công tố


Trên thế giới, khái niệm quyền công tố và THQCT đã xuất hiện từ rất
sớm, gắn liền với lịch sử ra đời và phát triển của nhà nước và pháp luật. Nhưng
ở nước ta dưới góc độ lập pháp thì Hiến pháp 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên
đưa ra thuật ngữ “Thực hành quyền công tố” khi đề cập đến chức năng của
VKSND (Điều 137). Thuật ngữ này được nhắc lại ở Điều 1 và Điều 3 Luật Tổ
chức VKSND năm 1981. Như vậy, hoạt động của VKSND bên cạnh khái niệm
truyền thống “kiểm sát việc tuân theo pháp luật” đã xuất hiện khái niệm “quyền
công tố” và “Thực hành quyền công tố”. Từ đó đến nay đã có nhiều tài liệu
giảng dạy, nhiều bài viết trên các tạp chí khoa học đề cập đến khái niệm
này.Song cho đến nay, khi chúng ta đang trong quá trình đẩy mạnh cải cách tư
pháp, vẫn chưa đạt được sự thống nhất cao trên phương diện nhận thức về vấn
đề này.
Theo Đại từ điển tiếng Việt thì "công tố" có nghĩa là "điều tra, truy tố,
buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án".1Như vậy, theo từ điển
tiếng Việt thì công tốđược hiểu với các nội dung khác nhau bao gồm: Điều tra,
truy tố, buộc tội kẻ phạm pháp và phát biểu ý kiến trước Tòa án.
Ở nước ta, trong thời gian qua đang tồn tại nhiều quan điểm khác nhau
về khái niệm thế nào là quyền công tố, có thể khái quát một số quan điểm sau:
Quan điểm thứ nhất: Là quan điểm cho rằng tất cả các hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của VKS đều là THQCT. Những người theo quan
điểm này đã đồng nhất khái niệm quyền công tố với hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKSND. Quan điểm này xuất phát từ chức năng của
VKSND để xem xét quyền công tố. Họ cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đều là THQCT. Điều đó có nghĩa là ngay cả khi Viện
kiểm sát kiến nghị yêu cầu các cơ quan nhà nước sửa chữa những vi phạm của

mình trên lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã hội cũng là THQCT. Theo quan điểm
này, công tố không phải là một chức năng độc lập của VKS mà chỉ là một quyền
năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp2
Quan điểm thứ hai: Quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước đưa
các vụ việc vi phạm pháp luật nói chung ra trước Tòa án để xét xử nhằm bảo vệ
1Nguyễn Như Ý (2007), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh.
2Võ Quang Nhạn (1984), “Bàn về quyền công tố”, Tập san kiểm sát, (2)


lợi ích của Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật; ở Việt Nam, quyền này được giao
cho VKSND.3Theo quan điểm này thì đầu tiên quyền công tố chỉ có trong lĩnh
vực hình sự, về sau nó được mở rộng sang các lĩnh vực tư pháp khác và cho đến
nay thì quyền công tố không chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự (TTHS) mà
còn có cả trong các lĩnh vực tố tụng dân sự và các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Theo tác giả, quan điểm này quá mở rộng cả khái niệm, nội dung và
phạm vi của quyền công tố, đã đồng nhất quyền công tố với những quyền năng
khác của VKS trong quá trình kiểm sát các hoạt động tư pháp (giải quyết các vụ
án dân sự, hành chính, kinh tế và lao động…).
Quan điểm thứ ba: Là quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ tồn tại
trong lĩnh vực hình sự, là quyền của Nhà nước nhân danh công quyền truy tố kẻ
phạm tội ra trước Tòa án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội đó tại phiên tòa hình sự
sơ thẩm (duy trì quyền công tố); ở Việt Nam quyền này được Nhà nước giao cho
VKSND. Theo quan điểm này thì chỉ có duy nhất một chủ thể có quyền công tố
- đó là VKS; việc thực hiện quyền công tố chỉ diễn ra ở một lĩnh vực duy nhất là
Tố tụng hình sự (TTHS) và cũng chỉ có ở một giai đoạn duy nhất của TTHS là
giai đoạn xét xử sơ thẩm.4
Theo tác giả, quan điểm này trái ngược với quan điểm thứ hai, đã quá
thu hẹp không chỉ khái niệm, nội dung mà còn cả phạm vi của quyền công tố;
không những vậy còn không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền công tố.
Trên thực tế, hoạt động truy tố và buộc tội của Viện kiểm sát tại phiên ṭa chỉ là

một trong số những nội dung của hoạt động THQCT.
Quan điểm thứ tư: Quyền công tố là quyền của Nhà nước giao cho các
cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội.5Theo quan điểm này thì chủ thể thực hành quyền công tố không chỉ
có VKS mà còn có các cơ quan tiến hành tố tụng khác (Cơ quan điều tra, Tòa

3Trần Văn Độ (1999), "Một số vấn về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố
và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà Nội.

4Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2002), "Những vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố ở Việt Nam từ
năm 1945 đến nay", Thông tin khoa học pháp lý, Số chuyên đề, (1)

5Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về quyền công tố”, Nhà nước và pháp luật (10)


án, Thi hành án) và như vậy quyền công tố có trong tất cả các giai đoạn từ điều
tra, truy tố, xét xử đến thi hành án.
Như vậy có thể thấy, về khái niệm quyền công tố có rất nhiều quan điểm
khác nhau.Mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó. Tuy
vậy, xuất phát từ căn cứ khoa học, các quy định của pháp luật, thực tiễn hoạt
động của các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động của
các cơ quan tư pháp cũng như kinh nghiệm tổ chức và hoạt động công tố ở các
nước khác cho thấy các quan điểm nêu trên đã bộc lộ một số bất cập như: Hoặc
là đánh đồng quyền công tố với kiểm sát tuân theo pháp luật, coi quyền công tố
chỉ là quyền năng của VKS trong kiểm sát tuân theo pháp luật nên đã mở rộng
phạm vi của quyền công tố sang các lĩnh vực khác ngoài TTHS; hoặc là quá thu
hẹp phạm vi của quyền công tố, cho rằng quyền công tố chỉ có trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm; hoặc xác định không đúng chủ thể của quyền công tố…
Theo tác giả luận văn, để làm rõ khái niệm quyền công tố, phải xuất phát
từ lịch sử Nhà nước và pháp luật. Dù muốn hay không, chúng ta không thể

không thừa nhận Nhà nước ra đời và tồn tại luôn luôn là đại diện chính thức cho
xã hội (xét về mọi phương diện). Trong xã hội có giai cấp, bất kể là xã hội nào,
có nhiều loại quan hệ còn tồn tại, nhưng chung quy lại có hai nhóm quan hệ xã
hội cơ bản: nhóm quan hệ xã hội thể hiện lợi ích công cộng và nhóm quan hệ xã
hội thể hiện lợi ích của từng công dân. Nhà nước nói chung luôn luôn có trách
nhiệm bảo vệ các quan hệ xã hội liên quan đến lợi ích chung, đến trật tự xã hội
chung và trừng trị những hành vi vi phạm các quan hệ xã hội này. Nhà nước bảo
vệ các quan hệ xã hội loại này bằng cách quy định phạm vi những hành vi nguy
hiểm cho xã hội là tội phạm và hình phạt với các tội phạm. Nhà nước thông qua
cơ quan chuyên môn của mình là VKS có quyền truy tố kẻ phạm tội ra trước
Tòa án và bảo vệ sự buộc tội trước phiên tòa. Quyền công tố là quyền của VKS
thay thế Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm
tội. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực duy nhất đó là lĩnh vực TTHS.Ở nước
ta, quyền công tố được Nhà nước giao cho một cơ quan duy nhất là VKS, không
có bất cứ cơ quan nào có thể thay thế được. Điều này thể hiện qua các quy định
của pháp luật, các ‎ kiến, tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước:
- Khi nói về vai trò nhiệm vụ của VKSND, đồng chí Trường Chinh đã
khẳng định: "Không có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để
sử dụng quyền công tố, bắt, giam, tha, điều tra, truy tố, xét xử có đúng người,


đúng tội, đúng pháp luật hay không, đó chính là việc Viện kiểm sát nhân dân
phải trông nom, đảm bảo tốt".
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Ban Chấp
hành Trung ương Đảng nêu rõ: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt chức năng
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp".6
- Kết luận tại Hội nghị của ngành kiểm sát nhân dân quán triệt những nội
dung cơ bản của Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và những công tác trọng tâm
của VKSND nhằm thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được
tổ chức tháng 6/2002, đồng chí Hà Mạnh Trí - Viện trưởng VKSNDTC đã

khẳng định: "Việc thực hành quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực hình sự và chỉ
trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử".
- Hiến pháp 2013 (Điều 107) quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp".7Quy dịnh này cũng được
cụ thể hóa trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta (Điều 2 Luật Tổ chức
VKSND năm 2014, Điều 23 BLTTHS năm 2003).
Như vậy có thể thấy quyền công tố ở nước ta được giao cho một chủ thể
duy nhất đó là Viện kiểm sát. Quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực TTHS và có ở
tất cả các giai đoạn tố tụng từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử
Từ những nội dung được trình bày trên, tác giả cho rằng: Quyền công tố
ở Việt Nam là quyền của Nhà nước giao cho VKSND thực hiện việc buộc tội đối
với người phạm tội nhằm bảo vệ lợi ích chung của toàn xã hội.
1.1.1.2. Thực hành quyền công tố
Khái niệm quyền công tố và THQCT có quan hệ mật thiết với nhau, giải
quyết chính xác, rõ ràng, rành mạch những vấn đề liên quan đến khái niệm
quyền công tố và THQCT sẽ giúp cho chúng ta nhận thức đầy đủ, chính xác vị
trí, vai trò của VKSND trong hệ thống cơ quan nhà nước nói chung, trong mối
quan hệ với các cơ quan tư pháp nói riêng cũng như chức năng, nhiệm vụ của
VKS, đặc biệt là trong TTHS. Điều này có ‎ nghĩa đặc biệt quan trọng trong giai
6Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01 củaBộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới, Hà Nội.

7Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 (2013), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.


đoạn hiện nay khi chúng ta tích cực triển khai thực hiện các Nghị quyết của
Đảng về cải cách bộ máy Nhà nước, cải cách cơ quan tư pháp.
Cũng như khái niệm quyền công tố, khái niệm THQCT cũng ít được đề
cập đến trong các tài liệu pháp l‎ý ở nước ta và cũng còn nhiều ý kiến khác nhau
về vấn đề này.

Như phân tích trên, quyền công tố là quyền đại diện cho Nhà nước truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi phạm tội. Đây là quyền của Nhà nước
nhưng được giao cho cơ quan duy nhất là VKS. Phạm vi quyền này bắt đầu từ khi
có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án đã có hiệu lực pháp luật, không bị kháng
nghị. Để đảm bảo thực hiện quyền công tố thì Nhà nước ban hành các văn bản
pháp luật, trong đó quy định các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công
tố.Các quyền năng đó được giao cho VKS thực hiện để phát hiện tội phạm và truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Do đó, VKS chính là cơ quan duy
nhất THQCT. Thực tiễn hoạt động THQCT mấy chục năm qua của ngành Kiểm sát
cho thấy 100% các vụ án hình sự đều do VKS truy tố và thực hiện sự buộc tội trước
phiên tòa sơ thẩm, đưa ra lời kết luận của mình tại phiên tòa phúc thẩm, giám đốc
thẩm và tái thẩm.
Việc Cơ quan điều tra và Tòa án thực hiện việc khởi tố vụ án hình sự, cơ
quan điều tra bắt giữ người phạm tội, điều tra thu thập chứng cứ...thực chất chỉ là
những hoạt động hỗ trợ, phục vụ cho công tác công tố. Trước cơ sở kết quả điều
tra, lời luận tội của Kiểm sát viên và kết quả tranh tụng dân chủ tại phiên tòa, Tòa
án áp dụng pháp luật để quy kết trách nhiệm đối với bị cáo. Bản án kết tội của Tòa
án chính là sự chấp nhận lời buộc tội của VKS đối với người phạm tội.
Pháp luật hiện hành cũng đã có quy định cụ thể về THQCT tại Điều 3
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 “ Thực hành quyền công tố là hoạt động của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà
nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin
báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự”
Phạm vi thực hành quyền công tố: Theo quy định của pháp luật nước ta
thì cơ quan VKS có trách nhiệm thực hành quyền công tố trong tất cả mọi giai
đoạn của TTHS từ điều tra, truy tố đến xét xử (bao gồm cả xét xử sơ thẩm, phúc
thẩm và giám đốc thẩm, tái thẩm).



Quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với người phạm tội; để đảm bảo thực hiện được sự buộc tội nhân danh
Nhà nước đó pháp luật quy định các chức năng, nhiệm vụ cụ thể, các chức năng,
nhiệm vụ đó chính là thực hành quyền công tố.8Như vậy, có thể thấy rõ quyền
công tố là cơ sở của thực hành quyền công tố, phải có quyền công tố thì mới có
thực hành quyền công tố cho nên để xem xét phạm vi của thực hành quyền công
tố thì trước hết phải xem xét đến phạm vi của quyền công tố. Như phần trên đã
nêu, phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi tội phạm được thực hiện … Còn
thực hành quyền công tố thì chỉ phát sinh kể từ thời điểm vụ án được khởi tố
bằng quyết định chính thức của cơ quan có thẩm quyền - tức là khi cơ quan tố
tụng đã áp dụng một trong các biện pháp thực hành quyền công tố. Tuy nhiên,
trên thực tế có không ít những trường hợp mặc dù có tội phạm xảy ra nhưng
không được khởi tố; điều này do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong khoa học
pháp lý gọi là "tội phạm ẩn" (tức là những tội phạm trên thực tế đã xảy ra nhưng
chưa được khởi tố để điều tra)9cho nên cơ quan tố tụng không áp dụng được bất
cứ một biện pháp thực hành quyền công tố nào. Qua đây, có thể thấy rằng phạm
vi của thực hành quyền công tố hẹp hơn so với phạm vi của quyền công tố, nó
chỉ bắt đầu từ khi có quyết định khởi tố vụ án và kết thúc khi bản án có hiệu lực
pháp luật (trừ trường hợp vụ án bị tạm đình chỉ, đình chỉ).
Nội dung của thực hành quyền công tố:Nội dung thực hành quyền công
tố là việc Viện kiểm sát nhân dân sử dụng tổng hợp các quyền năng tố tụng độc
lập để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội nhằm bảo đảm việc
truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và được thực hiện ngay từ khi khởi
tố vụ án đến khi bản án có hiệu lực pháp luật. Theo đó, nội dung thực hành
quyền công tố bao gồm: Khởi tố vụ án; khởi tố bị can; đề ra yêu cầu điều tra và
yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; khi cần thiết, trực tiếp tiến hành một
số hoạt động điều tra; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn;
phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra; hủy bỏ các

8Lê Cảm (2001), "Một số vấn đề lý luận cơ bản về quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Những vấn đề lý luận về

quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hà
Nội

9Lê Thị Tuyết Hoa (2001), “Bàn về quyền công tố”, Nhà nước và pháp luật (10)


quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của cơ quan điều tra; quyết định
truy tố bị can; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Từ những phân tích nêu trên ta có thể rút ra kết luận: Thực hành quyền
công tố trong điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu là việc cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động do Nhà nước qui định nhằm truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người thực hiện một trong các hành vi xâm phạm quyền
sở hữu của cá nhân, tổ chức.
1.1.2. Khái niệm Kiểm sát điều tra
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ
- Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2000, thì "kiểm
sát" có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng Quốc
gia chỉ đạo biên soạn, thì "kiểm sát" là hoạt động của VKSND nhằm kiểm tra,
giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước.
Với cách giải thích khái niệm "kiểm sát" của hai cuốn từ điển nêu trên,
chúng tôi cho rằng, kiểm sát gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: giám sát và
kiểm tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối
tượng bị giám sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện pháp tác động phù hợp để
yêu cầu người, cơ quan bị giám sát có hành vi vi phạm pháp luật sửa chữa vi
phạm đó. Hoạt động kiểm tralà hoạt động xem xét, đánh giá hoạt động của
người, cơ quan bị kiểm tra.
Kiểm sát điều tra nói một cách đầy đủ đó là kiểm sát các hoạt động tư
pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Thuật ngữ "kiểm sát các hoạt động tư pháp" được xuất hiện trong các văn

kiện của Đảng như Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX, Nghị quyết số 08 ngày
02/01/2002 của Bộ chính trị và đặc biệt được quy định tại Điều 107 Hiến pháp
năm 2013 và Luật tổ chức VKSND năm 2014. Tuy nhiên nhà lập pháp nước ta
chưa đưa ra một định nghĩa pháp lý chung nhất của khái niệm "kiểm sát các hoạt
động tư pháp" nên dẫn đến nhiều quan điểm nhận thức khác nhau về khái niệm
này. Một thực tế chúng ta phải thừa nhận rằng trong suốt một thời gian dài
chúng ta chưa quan tâm đúng mực đến lĩnh vực tư pháp, điều đó thể hiện ở việc
trước khi có Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX thuật ngữ quyền tư
pháp ít được sử dụng trong ngôn ngữ chính trị, pháp luật và khoa học. Điều đó
đã không tạo ra được tiền đề cho việc nghiên cứu các vấn đề về tư pháp, trong


đó có vấn đề "kiểm sát các hoạt động tư pháp".10Do vậy, hiện nay xung quanh
khái niệm “kiểm sát các hoạt động tư pháp” đang còn có nhiều quan điểm khác
nhau, tựu chung lại có ba nhóm quan điểm sau:
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng "Kiểm sát các hoạt động tư pháp chỉ
bao gồm nội dung kiểm sát các hoạt động tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án"11
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng "Kiểm sát các hoạt động tư pháp bao
gồm việc kiểm sát hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử (cả các vụ án hình
sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính) và phần "tư
pháp" trong thi hành án"12
Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng hoạt động tư pháp là một dạng hoạt
động thực hiện quyền lực nhà nước và cũng phải chịu sự giám sát từ bên ngoài
cũng như từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát Nhà nước và giám sát
xã hội. Theo nghĩa rộng, kiểm sát tư pháp cũng được hiểu là giám sát tư pháp, là
một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt động giám sát Nhà nước trong lĩnh vực tư
pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm sát tư pháp được hiểu là chức năng của VKS.
Phạm vi kiểm sát tư pháp là việc chấp hành pháp luật trong hoạt động điều tra,
xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình,

hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật.
Mục đích của của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng
thống nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố
tụng mà pháp luật quy định.13
Mỗi quan điểm trên đây đều có những lập luận đúng của mình về khái
niệm "kiểm sát các hoạt động tư pháp". Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả
Luận văn trước hết cần phải khẳng định kiểm sát các hoạt động tư pháp là chức
năng hiến định của VKS. Kiểm sát các hoạt động tư pháp là một dạng giám sát
Nhà nước về tư pháp, đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy
10Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra, Nxb
Tư pháp, Hà Nội.
11Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát ( 2009 ) tập bài giảng đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, tập 3.

12Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát ( 2009 ) tập bài giảng đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, tập 3.

13Trường Đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm sát ( 2009 ) tập bài giảng đào tạo nghiệp vụ kiểm sát, tập 3.


nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các
hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan
tư pháp trong quá trình tố tụng với mục đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật
được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án
và bản chất pháp lý của chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng
hình sự là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp trong hành vi của các chủ thể
bị kiểm sát.
Từ đó, Luật tổ chức VKSND năm 2014 đưa ra định nghĩa về khái niệm
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự như sau:
“Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định
của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực

hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội
phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các
hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật”
Như vậy, khi đã hiểu được như thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp
trong tố tụng hình sự, thì vấn đề đặt ra cho chúng ta cần tiếp tục làm rõ đó là:
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là gì?
Chức năng kiểm sát điều tra vụ án hình sự của VKS thực chất là kiểm sát
việc tuân theo pháp luật các hoạt động tư pháp của CQĐT và các cơ quan khác
được giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự. Hoạt động kiểm sát điều tra với tính chất là một chức năng của VKS thì
hoạt động đó có bản chất pháp lý là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các
hoạt động tố tụng hình sự được thực hiện bởi CQĐT và các cơ quan khác được
giao tiến hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra các vụ án hình
sự nhằm bảo đảm việc khởi tố, điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật,
không để lọt tội phạm đồng thời cũng không làm oan người vô tội.
Từ bản chất pháp lý đó chúng ta cũng cần xem xét đối tượng của hoạt
động kiểm sát điều tra các vụ án hình sự là gì? và phạm vi của nó? Theo tác giả
luận văn, đối tượng của kiểm sát điều tra các vụ án hình sự chính là các hành vi
quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người


tham gia tố tụng trong quá trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự. Khi tiến hành
hoạt động kiểm sát, VKS phải dựa trên các căn cứ pháp lý là Hiến pháp, Luật tổ
chức VKS, Bộ luật hình sự, BLTTHS và các văn bản pháp luật khác có liên
quan để theo dõi, xem xét bảo đảm sự tuân theo pháp luật, cũng như bảo đảm
tính có căn cứ và hợp pháp của các hành vi tố tụng hình sự mà chủ thể bị kiểm
sát thực hiện.

Về phạm vi của kiểm sát điều tra các vụ án hình sự từ trước đến nay đang
là vấn đề còn nhiều quan điểm khác nhau, tuy nhiên về mặt lý luận tác giả cho
rằng phạm vi của quyền công tố bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra, theo đó các
cơ quan tư pháp có thẩm quyền có trách nhiệm khởi động hoạt động công tố để
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội. CQĐT
cũng có quyền phát động công tố nhưng đó là sự phát động nằm trong sự kiểm
sát của VKS nên không mang tính độc lập. Do vậy, khi CQĐT phát động quyền
công tố đồng thời theo đó làm phát sinh các hoạt động tố tụng trong việc thu
thập tài liệu, chứng cứ... để làm cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người thực hiện tội phạm. Nhằm bảo đảm cho các hoạt động tố tụng thực hiện
theo quy định của pháp luật, đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ của VKS thông
qua hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Vì vậy, phạm vi của hoạt động
kiểm sát điều tra các vụ án hình sự được xác định bắt đầu từ khi có tội phạm xảy
ra hoặt phát hiện được dấu hiệu của tội phạm cho tới khi vụ án được kết thúc
điều tra bằng bản kết luận điều tra của cơ quan có thẩm quyền chuyển cho VKS
đề nghị truy tố hoặc khi CQĐT ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án. Việc xác
định phạm vi như vậy là thể hiện tính đầy đủ, toàn diện của công tác kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự của VKS, cũng như thể hiện đầy đủ bản chất pháp lý
của hoạt động kiểm sát việc điều tra các vụ án hình sự đó là kiểm tra tính có căn
cứ và tính hợp pháp trong hoạt động tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Từ những nội dung nêu trên, có thể đưa ra định nghĩa về chức năng kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự như sau:
Kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
làhoạt động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành
vi, quyết định của Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra, được thực hiện
ngay từ khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
và trong suốt quá trình điều tra vụ án hình sự.



Như vậy, kiểm sát điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu chính là hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định của Cơ quan điều tra trong hoạt động điều tra các vụ án xâm phạm sở hữu.
Hoạt động này của Viện kiểm sát được thực hiện từ khi tiếp nhận và giải quyết
tin báo, tố giác về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra.
1.1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
Theo Hiến pháp năm 2013và Luật tổ chức VKS năm 2014, trong lĩnh vực
tư pháp hình sự VKS có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp. Đây là hai chức năng độc lập, nhưng có mối quan hệ mật
thiết với nhau. Trong thực tiễn hoạt động thực hiện chức năng của ngành kiểm
sát trong lĩnh vực tư pháp hình sự, VKS các cấp luôn luôn quán triệt đường lối
công tác kiểm sát là đấu tranh chống tội phạm gắn liền với đấu tranh chống vi
phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhằm
bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và xử lý nghiêm minh
theo quy định của pháp luật; không để lọt tội phạm đồng thời cũng không được
làm oan người vô tội. Nên việc thực hiện đồng thời hai hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong quá trình giải quyết các
vụ án hình sự là mang tính khách quan, do vậy giữa hai hoạt động này luôn có
mối quan hệ với nhau. Mối quan hệ đó được thể hiện ở các phương diện sau:
Khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm, vụ án được khởi tố, tức là quyền
công tố được phát động đã làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong khởi tố vụ án hình sự, hoạt động này được VKS thực hiện để bảo đảm
việc khởi tố đúng với các quy định pháp luật, thông qua hoạt động kiểm sát khởi
tố xét thấy quyết định khởi tố của CQĐT không có căn cứ và hợp pháp, tức là
quyết định đó trái pháp luật thì VKS yêu cầu cơ quan có thẩm quyền chấm dứt
ngay hoạt động điều tra, đồng thời ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố trái
pháp luật, như thế quyền công tố có thể bị triệt tiêu và việc ra quyết định hủy bỏ
tức là VKS đã thực hành quyền công tố. Do vậy, làm tốt chức năng kiểm sát khởi
tố vụ án hình sự sẽ là cơ sở cho việc ra quyết định của VKS được chính xác và
đúng pháp luật nhằm bảo đảm về mặt pháp lý và hạn chế được các vi phạm trong

việc thực hành quyền công tố của VKS. Ngược lại nếu thực hiện kiểm sát khởi tố
không tốt sẽ mất đi tính hiệu quả trong việc thực hành quyền công tố, thậm chí
quyết định pháp lý của VKS là vi phạm pháp luật. Ví dụ, trong trường hợp CQĐT
khởi tố vụ án trái pháp luật, nếu kiểm sát khởi tố không kiểm sát chặt chẽ thì sẽ


không phát hiện được vi phạm trong việc ra quyết định khởi tố của CQĐT thì
VKS sẽ không đưa ra được các yêu cầu và biện pháp khắc phục ngay từ đầu,
chính điều đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều vụ án phải đình chỉ
điều tra.
Khi VKS quyết định phê chuẩn hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, các quyết
định tố tụng khác của CQĐT, tức là VKS trực tiếp sử dụng quyền công tố.
Nhưng hoạt động thực hành quyền công tố của VKS cũng phải tuân theo quy
định của pháp luật, muốn vậy trước khi quyết định các vấn đề trên, VKS phải
tiến hành kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ
các biện pháp ngăn chặn hoặc trong việc khởi tố bị can của CQĐT, tức là VKS
tiến hành thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Để thực hiện tốt quyền công tố, có nghĩa là đảm bảo việc phê chuẩn hoặc
không phê chuẩn việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn các quyết định tố tụng khác của CQĐT được chính
xác, đúng pháp luật thì đòi hỏi phải kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp
pháp của các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự mà CQĐT quyết định áp
dụng, mà hoạt động kiểm tra này chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt
động tư pháp. Trên cơ sở kết quả của hoạt động kiểm sát thấy rằng quyết định áp
dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự là có căn cứ và hợp pháp thì VKS
sẽ quyết định phê chuẩn để thi hành, ngược lại nếu xét thấy quyết định áp dụng
các biện pháp cưỡng chế về tố tụng hình sự của CQĐT là không có căn cứ và
hợp pháp VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết
định tố tụng trái pháp luật của CQĐT, đồng thời yêu cầu CQĐT chấm dứt ngay
các hoạt động tố tụng. Ví dụ, theo quy định mới của BLTTHS năm 2003, quyết

định khởi tố bị can của CQĐT và các cơ quan khác được giao tiến hành một số
hoạt động điều tra phải được VKS cùng cấp phê chuẩn. Do vậy, để phê chuẩn
hay hủy bỏ quyết định khởi tố bị can của CQĐT thì VKS phải tiến hành hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong khởi tố bị can nhằm bảo đảm quyết
định khởi tố bị can là có căn cứ và hợp pháp, nếu qua hoạt động kiểm sát xét
thấy quyết định khởi tố bị can có căn cứ và hợp pháp thì VKS quyết định phê
chuẩn để CQĐT tiến hành hoạt động điều tra, ngược lại quyết định khởi tố bị
can không có căn cứ thì VKS quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố của CQĐT.
Với việc thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp sẽ làm tiền
đề cho hoạt động thực hành quyền công tố được thực hiện một cách chính xác,


×