Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Thực trạng pháp luật về trọng tài thương mại và các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về trọng tài thương mại ở việt nam (luận văn thạc sĩ luật học)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.89 MB, 102 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ THỊ MAI QUÝ

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI
CÓ HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGÔ THỊ MAI QUÝ

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THỰC THI
CÓ HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Ngọc Dũng

HÀ NỘI – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn này chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng, đƣợc trích
dẫn đúng theo quy định.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của luận văn này.
Tác giả luận văn


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

TTDS

Tố tụng Dân sự

GQTC

Giải quyết tranh chấp


HĐTT

Hội đồng trọng tài

TANDTC

Tòa án Nhân dân Tối cao

TCTT

Tổ chức trọng tài

TTTM

Trọng tài Thƣơng mại

TTTT

Thỏa thuận trọng tài

TTV

Trọng tài viên


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................................. 1
1. Giới thiệu khái quát đề tài và tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ............. 1

2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................. 2
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu luận văn ........................................ 4
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn............................ 4
5. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của việc nghiên cứu của luận văn ................ 4
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn .................................................... 5
7. Cơ cấu của luận văn ......................................................................................... 6

CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
.................................................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm, bản chất, đặc điểm của trọng tài thƣơng mại ................................. 7
1.1.1. Định nghĩa trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài thương mại .......... 7
1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại ................................................................ 8
1.2. Ƣu điểm của trọng tài thƣơng mại ..................................................................10
1.3. Hệ thống văn bản pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam ..................12
1.4. Sự hình thành, phát triển và nội dung của pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở
Việt Nam qua các thời kỳ ........................................................................................13
1.4.1. Giai đoạn sơ khai (trước năm 2003) ............................................................... 14
1.4.2. Giai đoạn kể từ khi ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại (2003) đến
trước khi ban hành Luật Trọng tài Thương mại (2010) ........................................... 16
1.4.3.Giai đoạn sau khi Luật Trọng tài thương mại năm 2010 được ban hành đến
nay .............................................................................................................................. 17
1.5. Pháp luật trọng tài thƣơng mại trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam . .23
1.5.1 Pháp luật về trọng tài thương mại trên thế giới............................................... 23
1.5.2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam ............................................................ 26

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIẾN THI HÀNH
PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở VIỆT NAM .......................29


2.1. Thực trạng pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam ........................... 29

2.1.1.Các quy định về thẩm quyền của Trọng tài Thương mại ................................ 29
2.1.2.Quy định về các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại .... 31
2.1.3.Các quy định về thỏa thuận trọng tài ............................................................... 35
2.1.4. Các quy định về tổ chức và hoạt động của trọng tài vụ việc và của các trung
tâm trọng tài ............................................................................................................ 39
2.1.5. Các quy định về phán quyết của trọng tài thương mại................................... 42
2.1.6.Các quy định về sự hỗ trợ của cơ quan thi hành án và Tòa án đối với hoạt động
trọng tài thương mại .................................................................................................................. 42
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam ..................46
2.2.1. Những thuận lợi trong thực tiễn thi hành pháp luật về trọng tài thương mại
ở Việt Nam ............................................................................................................... 47
2.2.2. Những hạn chế trong thực tiễn thi hành các quy định pháp luật của Luật
Trọng tài thương mại (2010) tại Việt Nam. ............................................................... 51
2.2.3.Thực trạng tổ chức và hoạt động của các Trung tâm Trọng tài ở Việt Nam
hiện nay ........................................................................................................................ 65

CHƢƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI Ở
VIỆT NAM ......................................................................................................................72
3.1.Yêu cầu của việc hoàn thiện các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp
thƣơng mại bằng trọng tài tại Việt Nam ............................................................... 72
3.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam .... 73
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung quy định về tiêu chuẩn Trọng tài viên và điều kiện công
nhận Trọng tài viên ..................................................................................................... 73
3.2.2. Bổ sung quy định về nội dung thỏa thuận trọng tài trong Luật Trọng tài
Thương mại (2010) ...................................................................................................... 74
3.2.3. Bổ sung một số quy định liên quan đến tiến hành tố tụng trọng tài trong Luật
Trọng tài Thương mại (2010) ..................................................................................... 74
3.2.4. Sửa đổi các quy định liên quan đến phán quyết trọng tài .............................. 74



3.2.5. Bổ sung nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trong việc quản lý nhà nước về trọng tài thương mại ........................... 76
3.2.6. Sửa đổi, bổ sung một số điều quy định tại Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ... 77
3.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về trọng tài thƣơng
mại ở Việt Nam .................................................................................................. 78
3.3.1. Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về trọng tài thương mại...................... 78
3.3.2. Nâng cao hiệu quả hoạt động hỗ trợ của Tòa án và cơ quan thi hành án đối
với hoạt động trọng tài thương mại ........................................................................... 81
3.3.3.Nâng cao hiệu quả hoạt động của các Trung tâm Trọng tài Thương mại và
năng lực của đội ngũ Trọng tài viên, đẩy mạnh đào tạo pháp luật trọng tài .......... 83
3.3.4.Nâng cao nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp đối với hoạt động giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ............................................................. 86

KẾT LUẬN.....................................................................................................................87


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát đề tài và tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sự hình thành nền kinh tế thị trƣờng ở nƣớc ta trong những năm cuối của thế kỷ
XX đƣợc diễn ra trong bối cảnh các quan hệ kinh tế phát triển nhanh chóng theo cả
chiều rộng và chiều sâu. Tranh chấp trong kinh tế nói chung và trong kinh doanh nói
riêng với tính chất là hệ quả tất yếu của quá trình này cũng trở nên phong phú hơn về
chủng loại và gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và quy mô. Có rất nhiều cách để giải
quyết tranh chấp trong thƣơng mại nhƣng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài ngày
càng thu hút đƣợc sự quan tâm của các doanh nghiệp.
Việc lựa chọn Tòa án hay Trọng tài để giải quyết các tranh chấp phát sinh tùy
thuộc vào sự cân nhắc của các bên. Trên thực tế, qua việc cân nhắc về lợi ích, các

thƣơng nhân thƣờng muốn tìm đến Trọng tài để giải quyết tranh chấp giữa họ trong
hoạt động kinh doanh. Tính ƣu việt của Trọng tài so với Tòa án là: thủ tục trọng tài
đơn giản, nhanh chóng; các bên tranh chấp có quyền lựa chọn đƣợc trọng tài viên
giỏi, nhiều kinh nghiệm, am hiểu sâu sắc về vấn đề đang tranh chấp, để giải quyết
tranh chấp một cách nhanh chóng, chính xác. Nguyên tắc trọng tài là giải quyết tranh
chấp không công khai giúp các bên hạn chế sự tiết lộ bí mật kinh doanh, giữ đƣợc uy
tín của mình trên thƣơng trƣờng. Trọng tài không đại diện cho quyền lực tƣ pháp của
Nhà nƣớc nên rất phù hợp để giải quyết các tranh chấp có yếu tố nƣớc ngoài có giá trị
chung thẩm. Đây là lí do khiến hiện nay càng có nhiều các tổ chức, cá nhân kinh
doanh thƣơng mại lựa chọn phƣơng thức trọng tài khi có tranh chấp phát sinh.
Theo từng thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, pháp luật về trọng tài thƣơng mại
tại Việt Nam đã có những bƣớc tiến trong việc xây dựng một khung pháp lý về hoạt
động trọng tài phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, theo kịp các quốc gia phát triển về
lĩnh vực này trên thế giới. Có thể thấy đến nay, Việt Nam đã có một khung pháp lý về
lĩnh vực trọng tài khá hoàn chỉnh. Cụ thể là ngày 25/02/2003 Ủy ban thƣờng vụ Quốc
hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng mại. Năm 1995, Việt Nam cũng đã tham
gia Công ƣớc New York năm 1958 về công nhận và thi hành phán quyết trọng tài
nƣớc ngoài. Sau một thời gian áp dụng, Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại (2003) đã bộc
lộ những hạn chế và bất cập cho các doanh nghiệp khi sử dụng phƣơng thức giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài. Trƣớc thực trạng đó, trên cơ sở kế thừa những điểm
tiến bộ và khắc phục những điểm hạn chế của Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại (2003),


2
đồng thời vận dụng những bài học kinh nghiệm từ pháp luật trọng tài thƣơng mại trên
trƣờng quốc tế, Luật Trọng tài Thƣơng mại năm 2010 đã đƣợc ban hành với 13
Chƣơng, 82 Điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2011. Đây là một bƣớc tiến rõ
rệt trong tiến trình hoàn thiện pháp luật của Việt Nam về Trọng tài thƣơng mại.
Mặc dù phƣơng thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có nhiều ƣu việt,
nhƣng do nhận thức và nhiều nguyên nhân, cho đến nay, trọng tài vẫn chƣa trở thành

phƣơng thức giải quyết tranh chấp đƣợc áp dụng rộng rãi đối với các doanh nghiệp.
Luật Trọng tài Thƣơng mại (2010) đã đi vào đời sống đƣợc hơn sáu năm, nhƣng bên
cạnh những thành công, ƣu điểm đáng đƣợc ghi nhận, một số quy định của đạo luật
này vẫn gây tranh luận trong giới khoa học pháp lý. Vì vậy, việc tìm hiểu các quy
định pháp luật trọng tài thƣơng mại, việc xây dựng và thực trạng áp dụng pháp luật về
trọng tài thƣơng mại tại Việt Nam, những nguyên nhân khiến hoạt động trọng tài chƣa
thực sự hấp dẫn đối với các bên là vô cùng cần thiết để đƣa ra giải pháp hoàn thiện là
vô cùng cần thiết.
Trong bối cảnh nhƣ vậy, tôi mạnh dạn chọn vấn đề “Thực trạng pháp luật về
trọng tài thương mại và các giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về trọng
tài thương mại ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ Luật học. Lựa chọn đề tài
này, tôi mong muốn nghiên cứu, tìm ra những ƣu điểm, những nhƣợc điểm, bất cập,
những điểm chƣa phù hợp của pháp luật trọng tài thƣơng mại hiện hành và thực tiễn
việc áp dụng các quy định pháp luật về trọng tài thƣơng mại. Trên cơ sở đó tôi sẽ đƣa
ra những giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về trọng tài thƣơng mại
và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về trọng tài thƣơng mại vào thực tế nhằm
nâng cao sức hấp dẫn của cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực trạng pháp luật về Trọng tài thƣơng mại và các giải pháp nhằm thực thi có
hiệu quả pháp luật về Trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam là đề tài đã đƣợc nhiều tác giả
nghiên cứu và công bố những tác phẩm có giá trị: TS. Đỗ Văn Đại và TS. Trần Hoàng
Hải đã công bố cuốn sách “Pháp luật Việt Nam về Trọng tài Thương mại”; Trung
tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam đã phát hành cuốn sách “Trọng tài và các phương
thức giải quyết tranh chấp lựa chọn”; Bộ Tƣ pháp cũng có đăng một số chuyên đề
“Pháp luật về Trọng tài Thương mại” trên tạp chí Dân chủ và pháp luật năm 2010;
TS. Đỗ Văn Đại (Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh) đã công bố bài báo “Giải quyết


3
tranh chấp bằng phương thức trọng tài ở Việt Nam” trên Tạp chí Khoa học pháp lý,

số 6 năm 2007.
Ngoài ra, có rất nhiều tác giả đã chọn đề tài này làm đề tài viết luận án tiến sỹ,
luận văn thạc sỹ, nhƣ: năm 2012, Dƣơng Quỳnh Hoa đã bảo vệ luận án Tiến sĩ Luật
học với đề tài: “Xây dựng và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp thay thế đối với
các quan hệ thương mại trong giai đoạn hiện nay của nước ta” tại Học viện Khoa
học xã hội; năm 2015, Nguyễn Mạnh Linh đã bảo vệ luận văn Thạc sĩ Luật học với đề
tài: “Giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - Thực tiễn hoạt động của các
Trung tâm Trọng tài Thương mại trên địa bàn thành phố Hà Nội” tại Trƣờng Đại học
Luật Hà Nội; năm 2013, Nguyễn Thị Hiền đã bảo vệ luận văn Thạc sĩ luật học với đề
tài “Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại” tại Trƣờng
Đại học Luật Hà Nội. Năm 2011, TS. Đỗ Văn Đại và TS. Trần Hoàng Hải đã cho phát
hành cuốn sách “Pháp luật Việt Nam về trọng tài thương mại”, Nxb Chính trị Quốc
gia. Các quy tắc về tố tụng trọng tài của ICC, UNCITRAL cũng đƣợc phổ biến ngày
càng rộng rãi …Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác cũng
liên quan ít nhiều đến đề tài mà tác giả luận văn đã lựa chọn. Những công trình nghiên
cứu trên là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích và quý báu đối với tác giả luận văn trong
quá trình nghiên cứu đề tài: “Thực trạng pháp luật về trọng tài thương mại và các
giải pháp nhằm thực thi có hiệu quả pháp luật về trọng tài thương mại ở Việt Nam”.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu pháp luật trọng tài thƣơng mại và thực tiễn áp dụng
pháp luật về trọng tài thƣơng mại vẫn còn chƣa đƣợc các học giả nghiên cứu một cách
đầy đủ và toàn diện. Có thể thấy hầu hết các công trình nghiên cứu về trọng tài
thƣơng mại nói chung, trong đó, việc phân tích về các quy định về trọng tài là một
trong những nội dung mà các công trình đề cập.
Có một số bài báo đã đƣợc công bố trên các tạp chí chuyên ngành Luật, nhƣ: Bài
“Về hình thức thỏa thuận trọng tài” của Trần Hoàng Hải, Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp
luật, số 4/2011; Bài “Hoàn thiện Luật Trọng tài thương mại đáp ứng yêu cầu hội
nhập quốc tế hiện nay” của Th.S Nguyễn Thị Diễm Anh, Khoa Luật Trƣờng Đại học
Công đoàn, Tạp chí điện tử Lý luận Chính trị tháng 12/2014; Bài “Những điểm tương
đồng giữa pháp luật trọng tài thương mại Việt Nam và các nước trên thế giới” của
TS. Nguyễn Đình Thơ trên Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 9 (174)-2006… Tuy vậy,

các bài báo này chỉ nghiên cứu về một vài khía cạnh liên quan đến pháp luật về trọng


4
tài thƣơng mại. Do đó, trên cơ sở kế thừa những kết quả trong các công trình nghiên
cứu của các học giả về vấn đề này, tác giả luận văn đã làm rõ hơn, phân tích một cách
tổng quát những quy định pháp luật hiện hành về trọng tài thƣơng mại, những thành
tựu và vƣớng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật trọng tài tại Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu luận văn
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là tất cả những vấn đề liên quan đến phƣơng
thức giải quyết tranh chấp kinh tế bằng trọng tài thƣơng mại. Phạm vi nghiên cứu là
nội dung các quy định pháp luật về trọng tài thƣơng mại của Việt Nam, chủ yếu là các
quy định trong Luật Trọng tài Thƣơng mại (2010).
4. Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Để nghiên cứu đề tài đã chọn, tác giả luận văn sử dụng phƣơng pháp luận biện
chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Đồng thời, tác giả luận văn cũng sử dụng
các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể, thích hợp, nhƣ phƣơng pháp phân tích, phƣơng
pháp tổng hợp và phƣơng pháp so sánh; cụ thể nhƣ sau:
- Phƣơng pháp phân tích – tổng hợp đƣợc sử dụng ở Chƣơng 1 để tìm hiểu chi
tiết các vấn đề, từ đó rút ra kết luận khái quát về các vấn đề nghiên cứu.
- Phƣơng pháp duy vật biện chứng đƣợc sử dụng ở Chƣơng 2 để nghiên cứu các
vấn đề dƣới góc độ hiện thực khách quan trong mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau.
- Phƣơng pháp so sánh đƣợc sử dụng ở các Chƣơng 1, 2, 3 để đối chiếu pháp
luật của Việt Nam và pháp luật quốc tế về từng vấn đề nghiên cứu để tìm ra những ƣu
điểm, thành công cần duy trì, phát triển và những hạn chế, bất cập cần khắc phục, loại
trừ trong xây dựng và áp dụng pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam trong
thời gian tới.
5. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của việc nghiên cứu của luận văn
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là đƣa ra phƣơng hƣớng và các giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật về Trọng tài thƣơng mại đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

của Việt Nam, phục vụ cho việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Đề đạt đƣợc mục đích trên, tác giả luận văn thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản
sau đây:
- Giải quyết một số vấn đề lý luận cơ bản về trọng tài thƣơng mại và pháp luật
về Trọng tài thƣơng mại;


5
- Đánh giá đúng đắn thực trạng pháp luật về trọng tài thƣơng mại cũng nhƣ thực
tiễn áp dụng các quy định về Trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam
- Thông qua việc đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy
định về trọng tài thƣơng mại, đƣa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật về trọng tài thƣơng mại; đồng thời nêu ra các giải pháp khắc phục những nhƣợc
điểm, bất cập trong pháp luật về trọng tài thƣơng mại, chủ động xây dựng những thỏa
thuận trọng tài có tính khả thi cao. Thông qua đó góp phần đƣa trọng tài đến gần hơn
với các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian sắp tới.
- Nghiên cứu làm rõ thực trạng hoạt động của các Trung tâm Trọng tài thƣơng
mại ở nƣớc ta, tìm ra những vƣớng mắc phát sinh từ thực tiễn giải quyết tranh chấp
của các Trung tâm này trong thời gian qua;
- Phát hiện những hạn chế, bất cập trong các quy định pháp luật về Trọng tài
thƣơng mại làm cơ sở để đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này;
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Qua quá trình tìm hiểu pháp luật Việt Nam cũng nhƣ pháp luật quốc tế về trọng
tài thƣơng mại, luận văn góp phần làm rõ thêm, làm phong phú thêm một số nội dung
của pháp luật về trọng tài thƣơng mại nhƣ sau:
- Tác giả luận văn đã trình bày một cách khoa học và có hệ thống những vấn đề
lý luận cơ bản về các quy định của pháp luật trọng tài hiện hành: khái niệm, bản chất,
đặc điểm, hệ thống văn bản pháp luật về trọng tài, sự hình thành và phát triển của
pháp luật về trọng tài, pháp luật trọng tài trên thế giới và bài học cho Việt Nam; các

hình thức trọng tài, các quy định về thẩm quyền, nguyên tắc giải quyết tranh chấp,
thỏa thuận trọng tài, quy định về phán quyết, cơ chế hỗ trợ của Tòa án, …
- Tác giả luận văn đã tham khảo pháp luật về hoạt động trọng tài và thông lệ
quốc tế của các quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia phát triển, trên cơ sở đó
để tìm hiểu, phân tích, đánh giá đúng đắn các ƣu điểm, nhƣợc điểm của pháp luật Việt
Nam về trọng tài;
- Đồng thời, tác giả luận văn trình bày một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về trọng tài của Việt Nam và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về trọng tài ở nƣớc ta, đối với cụ thể từng cơ quan có liên quan đến hoạt
động này;


6
- Tác giả luận văn đã hệ thống hóa những quy định của pháp luật hiện hành về
Trọng tài thƣơng mại, đồng thời có sự so sánh với quy định của Luật Mẫu và pháp
luật của một số nƣớc trên thế giới để thấy đƣợc sự tƣơng thích và sự khác biệt giữa
pháp luật của Việt Nam và pháp luật quốc tế về trọng tài thƣơng mại, nhận định
những điểm còn hạn chế trong các quy định về trọng tài theo Luật Trọng tài Thƣơng
mại (2010).
Từ đó, tác giả luận văn đề ra những giải pháp nhằm hoàn thiện thêm các quy
định về vấn đề này. Ngoài ra, tác giả luận văn còn nhận xét về thực tiễn áp dụng quy
định về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam hiện nay, những thành tựu đạt đƣợc và
những hạn chế còn tồn tại, qua đó tìm ra phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả áp dụng quy định về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam trong thời gian tới.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung
luận văn đƣợc kết cấu thành ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận pháp lý về trọng tài thƣơng mại
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về trọng tài
thƣơng mại ở Việt Nam

Chƣơng 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam


7
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

1.1.

Khái niệm, bản chất, đặc điểm của trọng tài thƣơng mại

1.1.1. Định nghĩa trọng tài thương mại và thỏa thuận trọng tài thương mại
Trọng tài (Arbitration) và cụ thể hơn là trọng tài thƣơng mại (Commercial
Arbitration) là phƣơng thức giải quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận, có thể đƣợc
sử dụng thay thế cho phƣơng thức giải quyết tranh chấp truyền thống bằng Tòa án.
Tranh chấp ở đây là các tranh chấp kinh doanh, thƣơng mại thuộc thẩm quyền giải
quyết bằng trọng tài theo quy định tại Điều 2, Luật Trọng tài Thƣơng mại (2010).
Trong khoa học pháp lý, trọng tài đƣợc nghiên cứu dƣới nhiều bình diện khác
nhau và do đó cũng có nhiều định nghĩa về trọng tài:
Theo HĐTT Mỹ (AAA): “Trọng tài là cách thức giải quyết tranh chấp bằng
cách đệ trình vụ tranh chấp cho một số người khách quan xem xét giải quyết và họ sẽ
đưa ra quyết định cuối cùng, có giá trị bắt buộc các bên tranh chấp phải thi hành”.
Tại Việt Nam, theo quy định của khoản 1, Điều 2, Pháp lệnh Trọng tài Thƣơng
mại năm 2003: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thương mại được các bên thỏa thuận và được tiến hành theo trình tự, thủ
tục do Pháp lệnh này quy định”. Còn theo quy định của khoản 1, Điều 3, Luật Trọng tài
Thƣơng mại năm 2010, thì: “Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp
do các bên thoả thuận và được tiến hành theo quy định của Luật này”.
Theo cuốn Đại từ điển Kinh tế Thị trƣờng, thì: “Trọng tài là một phương thức giải

quyết một cách hòa bình các vụ tranh chấp, là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem
những sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba với tư cách công bằng,
chính trực xét xử, phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên”.
Còn theo định nghĩa của Hiệp hội Trọng tài Hoa Kỳ, thì “Trọng tài là phương thức giải
quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại, được các bên thỏa thuận và
được tiến hành theo trình tự, thủ tục tố tụng do pháp luật giải quyết”.
Có thể thấy, mặc dù có khá nhiều định nghĩa khác nhau về trọng tài, song nhìn
chung hiện nay, trọng tài thƣơng mại đƣợc nhìn nhận dƣới góc độ sau:


8
Trọng tài là phƣơng thức giải quyết tranh chấp có tính chất tài phán phi nhà nƣớc
(phi chính phủ) do các đƣơng sự thỏa thuận lựa chọn để giải quyết các tranh chấp
thƣơng mại. Trọng tài chính là bên trung gian thứ ba đƣợc các bên tranh chấp chọn ra
để giúp các bên giải quyết những xung đột, bất đồng giữa họ trên cơ sở đảm bảo
quyền tự định đoạt của các bên.
Phƣơng thức trọng tài bắt nguồn từ sự thỏa thuận của các bên trên cơ sở tự
nguyện. Để đƣa tranh chấp ra Trọng tài giải quyết, các bên phải có thỏa thuận trọng
tài. Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài khá giống với phƣơng pháp giải quyết tranh
chấp bằng hòa giải. Cả hai phƣơng thức này đều có sự xuất hiện của ngƣời thứ ba.
Tuy nhiên, trong hình thức hòa giải, vai trò của ngƣời thứ ba chỉ mang tính hỗ trợ,
giúp đỡ các bên thỏa thuận với nhau. Còn trong phƣơng thức trọng tài, sau khi xem
xét sự việc, Trọng tài có thể đƣa ra phán quyết có giá trị cƣỡng chế thi hành đối với
các bên.
Để có thể đƣa tranh chấp ra giải quyết trƣớc HĐTT, các bên cần phải có một
thỏa thuận trọng tài. Thỏa thuận trọng tài thể hiện ý chí của các bên rằng họ muốn
tranh chấp đƣợc giải quyết theo phƣơng thức trọng tài. Thỏa thuận trọng tài thƣờng là
một điều khoản trong hợp đồng giao kết giữa các bên, hoặc cũng có thể là một văn
bản độc lập. Thỏa thuận trọng tài có thể có trƣớc hoặc sau khi xảy ra tranh chấp.
1.1.2. Đặc điểm của trọng tài thương mại

Trọng tài là phƣơng thức giải quyết tranh chấp kết hợp đƣợc nhiều ƣu điểm của
các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác, thí dụ nhƣ: Đảm bảo sự tự do thỏa thuận
ý chí, giữ gìn bí mật kinh doanh và uy tín cho các bên, duy trì đƣợc quan hệ giữa các
bên sau khi giải quyết tranh chấp nhƣ phƣơng thức thƣơng lƣợng, hòa giải; đảm bảo
sự chặt chẽ về thủ tục tố tụng và tính tài phán nhƣ hình thức giải quyết tranh chấp tại
Tòa án. Qua việc phân tích những khái niệm trên, có thể thấy TTTM có những đặc
điểm nhƣ sau:
Thứ nhất, trọng tài có tính phi nhà nước. Trọng tài là một loại hình tổ chức phi
chính phủ (tổ chức xã hội-nghề nghiệp), hoạt động theo pháp luật và quy chế trọng
tài. Đây là một cơ quan tài phán, có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong hoạt động thƣơng mại và đƣợc pháp luật các nƣớc cũng nhƣ pháp luật Việt Nam


9
quy định. Trọng tài là cơ quan tài phán bởi lẽ tiến hành thủ tục trọng tài là hoạt động
thƣờng xuyên và chủ yếu của các Trung tâm Trọng tài. Đó là các Trung tâm có tƣ
cách pháp nhân, có con dấu và tài khoản riêng với cơ cấu tổ chức rõ ràng, chặt chẽ.
Cũng nhƣ Tòa án, sau khi tiến hành giải quyết tranh chấp, HĐTT sẽ ban hành phán
quyết trọng tài. Phán quyết này có giá trị pháp lý ràng buộc các bên và đƣợc đảm bảo
cƣỡng chế thi hành dƣới sự hỗ trợ của Cơ quan Thi hành án (khi có yêu cầu).
Thứ hai, cơ chế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là sự kết hợp giữa hai yếu
tố thỏa thuận và tài phán. Cụ thể, thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể
có phán quyết trọng tài thoát ly những yếu tố đã thỏa thuận. Bởi vậy, về nguyên tắc,
thẩm quyền của Trọng tài không bị giới hạn bởi pháp luật; các đƣơng sự có thể lựa
chọn bất kỳ lúc nào, bất kỳ trọng tài vụ việc hoặc trọng tài quy chế nào trên thế giới
để giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, một khi đã đƣợc thỏa thuận thì phán quyết của
trọng tài có tính chất cƣỡng chế và bắt buộc các bên phải thi hành.
Thứ ba, đương sự được tự định đoạt. Phƣơng thức trọng tài bảo đảm quyền tự định
đoạt của các đƣơng sự cao hơn so với phƣơng thức giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Biểu
hiện cơ bản là các đƣơng sự trong tố tụng trọng tài có quyền lựa chọn TTV, địa điểm giải

quyết tranh chấp, quy tắc tố tụng, luật áp dụng để giải quyết tranh chấp…
Thứ tư, phán quyết trọng tài là chung thẩm. Phán quyết trọng tài có giá trị chung
thẩm và không thể kháng cáo, kháng nghị trƣớc bất kỳ cơ quan, tổ chức nào (trừ
trƣờng hợp rất đặc biệt liên quan đến hủy phán quyết trọng tài). Đặc điểm này thể
hiện cơ chế nhanh gọn trong việc giải quyết nhanh chóng, dứt điểm các tranh chấp
thƣơng mại.
Thứ năm, giải quyết tranh chấp bằng trọng tài có sự hỗ trợ của Tòa án. Pháp
luật của các nƣớc (trong đó có Việt Nam), đều quy định cơ chế hỗ trợ từ phía Tòa án
đối với tổ chức và hoạt động của Trọng tài. Thông qua trình tự công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài, Tòa án đảm bảo thực thi trên thực tế những quyết định của
trọng tài, khi một hoặc các bên đƣơng sự không tự nguyện thi hành. Tại Việt Nam,
phán quyết của Trọng tài Việt Nam đƣơng nhiên có hiệu lực thi hành. Ngoài ra, Tòa
án còn có thể hỗ trợ trọng tài ở các công việc khác, nhƣ: xác định giá trị pháp lý của
TTTT; giải quyết khiếu nại về thẩm quyền của HĐTT; ra lệnh áp dụng biện pháp
khẩn cấp tạm thời, kê biên tài sản, bảo toàn chứng cứ, cấm hoặc buộc đƣơng sự thực


10
hiện một số hành vi nhất định; xét đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài; công nhận và
thi hành quyết định trọng tài.
1.2. Ƣu điểm của trọng tài thƣơng mại
Cơ chế giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng TTTM có một loạt các ƣu điểm so
với các phƣơng thức giải quyết tranh chấp khác nhƣ sau:
Thứ nhất, tính chung thẩm và hiệu lực của quyết định trọng tài đối với việc giải
quyết tranh chấp. Việc giải quyết tranh chấp tại Trung tâm Trọng tài Thƣơng mại có
ƣu điểm nổi bật so với việc giải quyết tranh chấp tại Tòa án ở chỗ nhanh gọn, kín đáo
và phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, tức có hiệu lực cuối cùng. Việc giải
quyết tranh chấp tại Tòa án phải theo trình tự từ xét xử từ sơ thẩm đến xét xử phúc
thẩm, xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Còn cách thức giải quyết tranh chấp bằng trọng
tài lại hết sức đơn giản và linh động. Tính chung thẩm của quyết định trọng tài không

chỉ có giá trị bắt buộc đối với các bên đƣơng sự mà nó còn khiến các bên không thể
chống án hay kháng cáo. Xét xử tại Trọng tài chỉ có một cấp xét xử. Khi tuyên phán
quyết xong, HĐTT hoàn thành nhiệm vụ và chấm dứt sự tồn tại của mình. Những ƣu
điểm này đặc biệt quan trọng đối với hoạt động đầu tƣ, thƣơng mại. Chính những ƣu
điểm đó bảo đảm rằng những tranh chấp trong hoạt động đầu tƣ, kinh doanh sẽ đƣợc
giải quyết nhanh gọn, ít tốn kém, tạo thuận lợi cho các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, khi họ
quyết định đầu tƣ , kinh doanh tại Việt Nam.
Thứ hai, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp không công khai. Trọng
tài là một tiến trình GQTC có tính kín đáo, không công khai. Hầu hết pháp luật về
trọng tài của các nƣớc đều thừa nhận nguyên tắc trọng tài xử kín, nếu các bên không
thỏa thuận khác. Tính không công khai thể hiện rõ ở nội dung tranh chấp và danh tính
các bên đƣợc giữ kín, đáp ứng nhu cầu tin cậy trong quan hệ thƣơng mại. Điều đó có
ý nghĩa lớn trong thực tiễn cạnh tranh trong nền kinh tế thị trƣờng nhiều thành phần.
Đây là ƣu điểm đối với những doanh nghiệp không muốn các chi tiết trong vụ tranh
chấp của mình bị đem ra công khai, tiết lộ trƣớc Tòa án (hoặc công chúng), điều mà
các doanh nghiệp luôn coi là tối kỵ trong hoạt động kinh doanh của mình.
Thứ ba, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp liên tục và sử dụng được
kinh nghiệm của các chuyên gia. Các bên đƣơng sự đƣợc tự do lựa chọn TTV. Cách


11
thức lựa chọn Trọng tài và HĐTT phát huy tính dân chủ, khách quan trong quá trình
tố tụng. Hoạt động trọng tài diễn ra liên tục vì HĐTT xét xử vụ kiện đã đƣợc các bên
lựa chọn, hoặc đƣợc chỉ định để giải quyết vụ kiện đó. Khi mang một vụ việc ra xét
xử ở Tòa án, có khả năng thẩm phán đƣợc chỉ định giải quyết vụ việc không có trình
độ chuyên môn cao trong nhiều lĩnh vực, nhƣ: Dầu khí, tài chính, xây dựng, đầu tƣ,
bảo hiểm ... Trong khi đó, trong việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, các bên
hoàn toàn có thể lựa chọn TTV có trình độ chuyên môn phù hợp với đối tƣợng tranh
chấp, góp phần nâng cao hiệu quả, công bằng và chính xác trong GQTC. TTV - ngƣời
chủ trì việc phân xử tranh chấp theo suốt vụ kiện từ đầu đến cuối, vì vậy, họ có cơ hội

tìm hiểu tình tiết vụ việc. Điều này có lợi ngay cả khi các bên muốn hòa giải hoặc
GQTC thông qua đàm phán, Trọng tài có thể hỗ trợ các bên đạt tới một thỏa thuận.
Các bên có thể chọn một HĐTT dựa trên năng lực, sự hiểu biết vững vàng của họ về
luật pháp thƣơng mại quốc tế, về các lĩnh vực chuyên ngành có tính chuyên sâu nhƣ
chứng khoán, licensing, leasing, xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, sở hữu trí tuệ...
Thứ tư, trọng tài là một cơ chế giải quyết tranh chấp mềm dẻo, nhanh chóng và
linh hoạt cho các bên. Khi vụ tranh chấp đƣợc giải quyết tại Tòa án, các bên hoàn
toàn phụ thuộc vào sự chỉ đạo của Tòa án về thủ tục, thời gian, địa điểm, cách thức
xét xử ... đƣợc quy định trong pháp luật tố tụng dân sự. Còn khi vụ tranh chấp đƣợc
giải quyết tại Trọng tài, các bên đƣợc tự do lựa chọn thủ tục, thời gian, địa điểm,
phƣơng thức giải quyết tranh chấp một cách tiện lợi, nhanh chóng, hiệu quả nhất trong
khuôn khổ pháp luật, đồng thời làm giảm chi phí thời gian, tiền bạc, công sức cho quá
trình GQTC.
Thứ năm, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài giúp tiết kiệm thời
gian. Tính liên tục, đặc biệt trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đòi hỏi các bên
không thể lãng phí thời gian, điều mà các Tòa án sẽ rất khó đáp ứng đƣợc do luôn
phải giải quyết vụ tranh chấp theo nhiều cấp khác nhau, giải quyết nhiều tranh chấp
cùng một lúc, gây ra hậu quả chậm chạp và tồn đọng. Việc giải quyết tranh chấp bằng
Tòa án cho phép các bên đƣợc quyền kháng án cũng khiến cho quá trình GQTC bị
kéo dài. Trong thực tế, việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, ví dụ nhƣ GQTC tại
Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam thƣờng kéo dài tối đa là 6 tháng, còn Tòa án có


12
thể kéo dài hàng năm.
Thứ sáu, trọng tài là một cơ chế GQTC duy trì được quan hệ đối tác. Việc thắng,
thua trong tố tụng tại trọng tài vẫn có thể giữ đƣợc mối quan hệ lâu dài giữa các bên
tranh chấp. Đây là điều kiện không làm mất đi quan hệ hợp tác kinh doanh giữa các
đối tác, bởi lẽ tố tụng trọng tài là tự nguyện, xét xử bằng Trọng tài sẽ làm giảm mức
độ xung đột căng thẳng của những bất đồng. Đặc biệt, sự tự nguyện thi hành quyết

định trọng tài của một bên sẽ làm cho bên kia có sự tin tƣởng tốt hơn trong quan hệ
làm ăn trong tƣơng lai.
Thứ bảy, giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài - một tổ chức phi
chính phủ, nhưng được hỗ trợ, bảo đảm về pháp lý của Tòa án. Trong quá trình
GQTC, nếu quyền và lợi ích của một bên bị xâm hại hoặc có nguy cơ bị xâm hại thì
có quyền làm đơn yêu cầu của Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhằm bảo
toàn chứng cứ trong trƣờng hợp chứng cứ bị tiêu hủy hoặc có nguy cơ bị tiêu hủy; kê
biên tài sản tranh chấp, ngăn ngừa việc tẩu tán tài sản; cấm chuyển dịch tài sản tranh
chấp; cấm thay đổi hiện trạng tài sản tranh chấp; kê biên và niêm phong tài sản ở nơi
gửi giữ; phong tỏa tài khoản tại ngân hàng. Ngoài ra, việc đánh giá và sử dụng nguồn
chứng cứ tại các cơ quan trọng tài rộng hơn, tự do hơn, mang tính xã hội hơn, tạo điều
kiện cho các bên làm sáng tỏ những vấn đề nhạy cảm. Trong khi đó, Tòa án áp dụng
các chứng cứ để tố tụng bị ràng buộc hơn về mặt pháp lý, làm cho các bên tham gia tố
tụng không có cơ hội làm sáng tỏ hết đƣợc nhiều vấn đề khúc mắc, không thể hiện
trên các chứng cứ “pháp lý”.
1.3. Hệ thống văn bản pháp luật về trọng tài thƣơng mại ở Việt Nam
Cũng giống nhƣ các quan hệ xã hội khác, các quan hệ phát sinh trong quá trình
giải quyết tranh chấp bằng phƣơng thức trọng tài đƣợc pháp luật quy định và điều
chỉnh. Bằng công cụ pháp luật, Nhà nƣớc đã tạo cơ sở pháp lý để TTTM đƣợc hình
thành và hoạt động trong thực tiễn. Hiện nay, hệ thống các văn bản pháp luật quy định
về TTTM ở Việt Nam ngày càng đƣợc hoàn thiện và có tác dụng rất lớn trong việc
thúc đẩy sự phát triển của hoạt động trọng tài. Ngoài Luật TTTM (2010), các văn bản
pháp luật khác cũng đƣợc quy định cụ thể để hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động trọng tài,
thí dụ nhƣ Bộ luật TTDS (2015), BLDS (2015), Luật Thi hành án dân sự,…


13
Ngoài ra còn có Nghị định số 63/2011/NĐ-CP do Chính phủ ban hành ngày
28/7/2011 hƣớng dẫn thi hành Luật TTTM, quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành
một số điều của Luật TTTM về quản lý nhà nƣớc về trọng tài, thủ tục đăng ký hoạt

động, chấm dứt hoạt động, thu hồi Giấy phép thành lập, Giấy đăng ký hoạt động của
Trung tâm Trọng tài, Chi nhánh Trung tâm Trọng tài... Nghị quyết số 1/2014 của Hội
đồng thẩm phán TANDTC hƣớng dẫn thi hành một số quy định của Luật TTTM đƣợc
thông qua ngày 20/3/2014 và có hiệu lực ngày 1/7/2014 (“Nghị quyết 01/2014”)…
Pháp luật về giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là tổng thể các quy phạm pháp
luật do Nhà nƣớc ban hành trong quá trình giải quyết những tranh chấp thƣơng mại
bằng trọng tài. Đó là những quan hệ phát sinh giữa các bên tranh chấp, những ngƣời
có quyền và nghĩa vụ liên quan trong quá trình giải quyết tranh chấp; quan hệ giữa
Trung tâm trọng tài (bên giải quyết tranh chấp) với các bên tranh chấp; quan hệ trong
việc hỗ trợ của cơ quan nhà nƣớc đối với hoạt động của các Trung tâm Trọng tài
Thƣơng mại …
Pháp luật về giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài bao gồm những nội
dung cơ bản sau đây:
- Các nguyên tắc cơ bản trong giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài;
- Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài;
- Trình tự, thủ tục giải quyết những tranh chấp thƣơng mại bằng trọng tài;
- Sự hỗ trợ của cơ quan tƣ pháp đối với hoạt động giải quyết tranh chấp bằng
Trọng tài thƣơng mại (sự hỗ trợ của Tòa án và Cơ quan Thi hành án).
Có thể nói, thông qua hệ thống các quy phạm pháp luật, Nhà nƣớc tạo hành lang
pháp lý cho hoạt động trọng tài, đồng thời đảm bảo sự hỗ trợ thiết thực mang tính
quyền lực nhà nƣớc của cơ quan tƣ pháp nhằm củng cố, hoàn thiện cho tính hiệu quả
của TTTM. Từ đây, TTTM có điều kiện thuận lợi để trở thành một cơ quan tài phán
mà các thƣơng nhân, doanh nghiệp, các nhà kinh doanh … luôn hƣớng tới.
1.4. Sự hình thành, phát triển và nội dung của pháp luật về trọng tài
thƣơng mại ở Việt Nam qua các thời kỳ
Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, Trọng tài thƣơng mại, với tƣ cách là một cơ chế
GQTC bên ngoài Toà án, đã và đang góp phần không nhỏ vào sự ổn định của hoạt
động thƣơng mại trên thế giới. Ở nƣớc ta, tiến trình hình thành và phát triển của



14
Trọng tài thƣơng mại đƣợc thể hiện qua ba giai đoạn chủ yếu: Giai đoạn sơ khai
(trƣớc năm 2003); Giai đoạn chuyển tiếp (năm 2003 – 2010) và Giai đoạn hội nhập
(từ năm 2010 đến nay).
1.4.1. Giai đoạn sơ khai (trước năm 2003)
Phƣơng thức tố tụng trọng tài đã hình thành và phát triển ở Việt Nam từ lâu,
song chỉ trong thời gian gần đây, Trọng tài Thƣơng mại theo đúng các chuẩn mực trên
thế giới mới đƣợc công nhận rộng rãi và luật hóa.
 Giai đoạn trƣớc những năm 60 của thế kỷ XX: Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX ở nƣớc ta đã có các Tòa án Thƣơng mại và các quy tắc trọng tài trong Luật Tố
tụng Dân sự. Tuy nhiên, do nhiều lý do và hoàn cảnh khác nhau, trọng tài chƣa đƣợc
biết đến và sử dụng một cách phổ biến.
 Giai đoạn từ những năm 60 của thế kỷ XX đến trƣớc khi ban hành Pháp lệnh
TTTM (2003): Ở Việt Nam thời gian này tồn tại hai loại hình trọng tài, một là Trọng
tài Kinh tế Nhà nƣớc và hai là trọng tài phi nhà nƣớc.
- Trọng tài Kinh tế Nhà nƣớc:
Trọng tài Kinh tế Nhà nƣớc là mô hình trọng tài do Nhà nƣớc thành lập ra, có
chức năng giải quyết các tranh chấp phát sinh từ các hợp đồng kinh tế giữa các doanh
nghiệp nhà nƣớc. Mô hình này đƣợc xác lập bằng Nghị định số 20/TTg ngày
14/4/1960, trƣớc khi đƣợc nâng cấp tại Pháp lệnh Trọng tài Kinh tế Nhà nƣớc năm
1990. Theo đó, Trọng tài đƣợc tổ chức ở ba cấp, đó là: Trọng tài Kinh tế Nhà nƣớc,
Trọng tài Kinh tế Tỉnh và Trọng tài Kinh tế huyện. Nhƣ vậy, thực chất, Trọng tài
Kinh tế Nhà nƣớc là cơ quan của Nhà nƣớc, vừa thực hiện chức năng quản lý kinh tế,
vừa thực hiện chức năng xét xử nhằm giải quyết các tranh chấp kinh tế giữa các tổ
chức kinh tế nhà nƣớc, chƣa thể hiện đƣợc vai trò trọng tài.
Trong khi đó Toà án Nhân dân thời kỳ này không có thẩm quyền giải quyết các
loại tranh chấp kinh tế, mà chỉ có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự giữa
các cá nhân với nhau, chủ yếu là các vấn đề hôn nhân và gia đình hoặc tranh chấp liên
quan đến hàng hoá có mục đích để sử dụng cá nhân và tiêu dùng. Mô hình Trọng tài
Kinh tế tồn tại đến năm 1993 và bị thay thế bởi hệ thống Tòa Kinh tế theo Luật Sửa

đổi một số điều của Luật Tổ chức Tòa án năm 1993. Bắt đầu từ thời điểm này, các
Tòa Kinh tế sẽ giải quyết các tranh chấp kinh tế.


15
- Trọng tài Kinh tế phi nhà nước:
Đối với Trọng tài phi nhà nƣớc, ở Việt Nam đã tồn tại hai mô hình khác nhau.
Mô hình thứ nhất ra đời từ năm 1963 bằng Nghị định số 59/CP ngày 30/4/1963 của
Hội đồng Chính phủ về việc thành lập HĐTT Ngoại thƣơng. Tiếp sau đó, ngày
5/10/1964, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 153/CP về việc thành lập
HĐTT Thƣơng mại Hàng hải. Đến ngày 28/4/1993, Thủ tƣớng Chính phủ đã ban
hành Quyết định số 204/TTg về việc thành lập Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam
(VIAC) bên cạnh Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất
HĐTT Ngoại thƣơng và HĐTT Thƣơng mại Hàng hải.
Mô hình trọng tài thứ hai là các Trung tâm Trọng tài Kinh tế đƣợc thành lập theo
Nghị định số 116/CP ngày 5/9/1994 của Chính phủ. Có 5 trung tâm trọng tài đƣợc
thành lập theo Nghị định gồm: 2 trung tâm tại Hà Nội, 1 trung tâm tại thành phố Hồ
Chí Minh, 1 trung tâm tại thành phố Cần Thơ và 1 trung tâm tại tỉnh Bắc Giang.
Nhƣ vậy, tuy mang bản chất phi nhà nƣớc, nhƣng TTTM tại Việt Nam vẫn đƣợc
hình thành chủ yếu từ định hƣớng của Nhà nƣớc và chịu sự điều chỉnh của nhiều quy
định pháp luật khác nhau. Cụ thể, VIAC hoạt động theo Quyết định số 204/TTg ngày
28/4/1993 của Thủ tƣớng Chính phủ, có Điều lệ và Quy tắc tố tụng riêng, không có
bất kỳ liên quan nào đến loại hình trọng tài theo Nghị định số 116/CP.
Ngoài việc thành lập mới các Trung tâm Trọng tài nhƣ trên, năm 1995, Việt
Nam còn gia nhập Công ƣớc New York về việc công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài. Với việc gia nhập Công ƣớc, bất kỳ phán quyết trọng tài nào tại bất kỳ nƣớc
nào là thành viên Công ƣớc mà có một bên của phán quyết ở Việt Nam hoặc tài sản ở
Việt Nam, thì đều có thể đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam công nhận và bảo hộ thi hành.
Ngƣợc lại, bất kỳ phán quyết nào của trọng tài Việt Nam cũng có thể đƣợc công nhận
và cho thi hành ở bất kỳ nƣớc thành viên nào của Công ƣớc. Có thể nói, việc giải thể

Trọng tài Kinh tế Nhà nƣớc, thành lập các Trung tâm trọng tài thƣơng mại độc lập năm
1993, 1994, và tham gia Công ƣớc New York đã đánh dấu một bƣớc ngoặt quan trọng
khi Nhà nƣớc trả TTTM về đúng bản chất và chức năng của nó, đánh dấu sự cải thiện
đáng kể môi trƣờng pháp lý nhằm tạo thuận lợi trong việc thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.


16
Tuy nhiên, bên cạnh những tiến bộ đáng chú ý nêu trên, trong giai đoạn sơ khai
này, ở Việt Nam vẫn không có một đạo luật về trọng tài thống nhất điều chỉnh hệ
thống trọng tài trong nƣớc và trọng tài quốc tế đƣợc ban hành. Thêm vào đó, quyết
định GQTC của Trọng tài không đƣợc bảo đảm thi hành. Vì thế, mô hình TTTM chƣa
thực sự đạt đƣợc những thành tựu đáng kể trên hành trình tiếp cận những chuẩn mực
của TTTM hiện đại.
1.4.2. Giai đoạn kể từ khi ban hành Pháp lệnh Trọng tài Thương mại (2003)
đến trước khi ban hành Luật Trọng tài Thương mại (2010)
Để bảo đảm cơ sở pháp lý cho hoạt động của các Trung tâm Trọng tài thƣơng
mại thay cho hoạt động của các Trọng tài Kinh tế, ngày 25/02/2003, Uỷ ban Thƣờng
vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh Trọng tài thƣơng mại, có hiệu lực thi hành từ
ngày 01/7/2003. Sự ra đời của Pháp lệnh là mốc quan trọng trong lịch sử phát triển
của pháp luật về TTTM của Việt Nam. Đó là nền tảng pháp lý cho TTTM của Việt
Nam tiếp cận, hoà nhập với trọng tài của các nƣớc phát triển. Về cơ bản, Pháp lệnh
phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế trong việc điều chỉnh các vấn đề chủ yếu
của trọng tài, nhƣ quy định về hiệu lực của TTTT, điều kiện trở thành TTV, quy định
về trọng tài vụ việc, xác định rõ những nguyên tắc quan trọng nhất của tố tụng trọng
tài đó là nguyên tắc tôn trọng sự tự định đoạt và bình đẳng của các bên tranh chấp; mở
rộng thẩm quyền chọn TTV, ghi nhận mối quan hệ giữa Trọng tài và Toà án bằng một
loạt các quy định cụ thể, nhƣ: hỗ trợ thi hành thoả thuận trọng tài, chỉ định TTV, giải
quyết khiếu nại về thẩm quyền của HĐTT, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, giải
quyết yêu cầu huỷ quyết định trọng tài, lƣu trữ hồ sơ trọng tài v.v…
Tuy nhiên, qua 6 năm áp dụng cùng với sự xuất hiện của nhiều nhân tố mới nhƣ

Việt Nam đã là thành viên của Tổ chức Thƣơng mại Thế giới, sự xuất hiện của các
đạo luật mới: Luật Thƣơng mại năm 2005, Luật Đầu tƣ năm 2005 v.v... một số quy
định của Pháp lệnh đã bộc lộ bất cập và không còn phù hợp với tình hình mới. Cụ thể
là: Một số quy định về thẩm quyền trong giải quyết tranh chấp trong quá trình thực thi
đã phát sinh nhiều cách hiểu khác nhau dẫn đến tranh cãi về phạm vi áp dụng của
Pháp lệnh; Bỏ sót một chế định rất cơ bản, đó là vấn đề thỏa thuận trọng tài “không
thực hiện được hoặc không thể thực hiện được”; Những khó khăn khi Pháp lệnh chỉ


17
giới hạn thẩm quyền của Tòa án nơi HĐTT thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra
quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; Quy định về huỷ quyết định trọng tài
còn nhiều bất cập (cơ chế hủy quyết định trọng tài quá đơn giản và phạm vi còn quá
rộng); quy định về địa điểm xét xử còn chƣa hợp lý và chặt chẽ; Cách tính thời hiệu
khởi kiện chƣa đƣợc quy định rõ ràng khi theo quy định là 2 năm kể từ ngày xảy ra
tranh chấp nhƣng pháp luật có thiếu sót khi quy định trong một số trƣờng hợp, ví dụ
trong trƣờng hợp phán quyết của HĐTT đã ra nhƣng lại bị Tòa án tuyên hủy thì thời
hiệu khởi kiện sẽ đƣợc tính từ thời điểm nào, thời gian giải quyết tranh chấp tại trọng
tài có đƣợc trừ vào thời hiệu khởi kiện hay không vẫn chƣa đƣợc quy định; Ngoài ra
một số các quy định về trình tự thời gian của Pháp lệnh còn quá chung chung v.v. Vì
vậy, mặc dù đã có những quy định khá tiến bộ so với trƣớc đây, Pháp lệnh TTTM
(2003) vẫn chƣa đủ khả năng tạo ra những cơ sở pháp lý thực hiện chủ trƣơng của
Nhà nƣớc ta khuyến khích các bên sử dụng Trọng tài trong giải quyết tranh chấp
thƣơng mại và các tranh chấp khác.
1.4.3. Giai đoạn sau khi Luật Trọng tài Thương mại năm 2010 được ban hành
đến nay
Trên cơ sở kế thừa những điểm tiến bộ và khắc phục những điểm hạn chế của
Pháp lệnh TTTM (2003), ngày 17/6/2010, Quốc hội nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam
đã thông qua Luật Trọng tài Thƣơng mại năm 2010 gồm 13 chƣơng, 82 điều. Đạo luật
này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2011 và thay thế cho Pháp lệnh TTTM (2003) hết

hiệu lực cùng ngày. Luật TTTM (2010) đã thể hiện sự đột phá của pháp luật trọng tài
thƣơng mại Việt Nam, nhƣ: Đã khắc phục việc phân định không rõ ràng phạm vi thẩm
quyền của trọng tài đối với các tranh chấp thƣơng mại; Giới hạn các tình huống làm
thỏa thuận trọng tài vô hiệu đồng thời quy định hƣớng giải quyết khi TTTT không rõ
ràng; Lần đầu tiên có điều khoản bảo vệ ngƣời tiêu dùng trong việc lựa chọn phƣơng
thức giải quyết tranh chấp; Cho phép TTV là ngƣời nƣớc ngoài cũng nhƣ nội luật hoá
các cam kết quốc tế của Việt Nam về dịch vụ trọng tài. Ngoài ra, đạo luật này cũng
xác định rõ mối quan hệ giữa Trọng tài với Toà án trong quá trình giải quyết tranh
chấp, mở rộng thẩm quyền của HĐTT và tiếp thu nguyên tắc cấm hành vi mâu thuẫn
trong tố tụng. Từ đó, Luật TTTM (2010) bảo đảm sự tƣơng thích giữa các văn bản


18
pháp luật hiện hành, nâng cao tính khả thi trong thực tế và tiến đến gần hơn các tiêu
chuẩn quốc tế. Cụ thể, một số điểm mới cơ bản của Luật TTTM (2010) bao gồm:
1.4.3.1. Phạm vi thẩm quyền
Pháp lệnh TTTM (2003) quy định thẩm quyền trọng tài đối với các vụ việc phát
sinh từ hoạt động thƣơng mại theo phƣơng pháp liệt kê nhóm vụ việc. Do tính chất
quá cụ thể nhƣ vậy nên trong quá trình thi hành Pháp lệnh nảy sinh vấn đề là những
tranh chấp phát sinh từ hoạt động không đƣợc liệt kê trong Pháp lệnh thì không thể
lựa chọn giải quyết bằng thủ tục trọng tài, mặc dù hoạt động đó vẫn có tính chất
thƣơng mại. Mặt khác, khái niệm “hoạt động thương mại” trong Pháp lệnh cũng chƣa
hoàn toàn đồng nhất với quy định của Bộ luật TTDS và Luật Thƣơng mại. Không
những thế, quy định của Pháp lệnh còn hạn chế việc áp dụng thủ tục trọng tài với
những tranh chấp mà theo các luật chuyên ngành khác, nhƣ Luật Đầu tƣ, Bộ luật
Hàng hải v.v. có thể áp dụng thủ tục trọng tài.
Khắc phục hạn chế này, Điều 2 của Luật TTTM (2010) quy định Trọng tài có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp sau: tranh chấp giữa các bên phát sinh từ hoạt
động thƣơng mại; tranh chấp phát sinh giữa các bên trong đó ít nhất một bên có hoạt
động thƣơng mại; tranh chấp khác giữa các bên mà pháp luật quy định đƣợc giải

quyết bằng trọng tài.
Luật TTTM (2010) mở rộng và bảo đảm cho Trọng tài có thẩm quyền giải quyết
hầu hết các tranh chấp phát sinh từ hoạt động thƣơng mại. Thông qua việc để mở khả
năng trọng tài có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp không phát sinh từ hoạt động
thƣơng mại nhƣng đƣợc pháp luật có liên quan quy định, Luật cũng khắc phục việc
phân định không rõ ràng phạm vi thẩm quyền của Trọng tài, trên cơ sở đó bảo đảm sự
tƣơng thích giữa các văn bản pháp luật hiện hành nhƣ BLDS, Bộ luật TTDS, Luật
Thƣơng mại, Luật Đầu tƣ và các đạo luật chuyên ngành khác.
1.4.3.2. Chủ thể tranh chấp
Pháp lệnh TTTM quy định chỉ có tổ chức kinh doanh hoặc cá nhân kinh doanh
mới có quyền lựa chọn trọng tài. Thực tiễn áp dụng cho thấy, việc giới hạn phạm vi
chủ thể tranh chấp chỉ bao gồm “tổ chức kinh doanh” và “cá nhân kinh doanh” khiến
các bên tranh chấp và các Trung tâm Trọng tài gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc.


×